CD MẸ BÌNH AN TRONG TIM

album-art

00:00

TẢI CD: MẸ BÌNH AN TRONG TIM

Mẹ,
Chúng con biết mẹ đã dành cả đời lo âu cho các con, cho gia đình, cho những điều nhỏ bé mà mẹ chưa bao giờ đặt xuống. Nhưng mẹ ơi, bình an không đến từ việc mọi thứ đều hoàn hảo. Bình an đến từ cách mẹ nhìn cuộc đời—từ những điều mẹ chọn giữ lại và những điều mẹ học cách buông bỏ.

Mẹ từng nghĩ rằng hạnh phúc là khi các con của mẹ thành công, gia đình vẹn tròn, khi mọi thứ không còn bộn bề. Nhưng mẹ ơi, hạnh phúc không phải là đích đến xa xôi, mà là những khoảnh khắc mẹ cho phép mình dừng lại, thở sâu, và nhận ra rằng chính giây phút này cũng đã đủ đầy.

Mẹ từng sợ tương lai, lo âu cho các con, cho những điều chưa đến. Nhưng mẹ ơi, ngày mai luôn là một điều bí ẩn, và lo âu của mẹ không làm tương lai dễ dàng hơn. Khi mẹ tin rằng mọi thứ sẽ diễn ra theo cách riêng của nó, mẹ sẽ không còn phải gồng mình chống chọi.

Mẹ từng nghĩ rằng yêu thương là hy sinh, là quên đi bản thân mình. Nhưng mẹ ơi, yêu thương cũng là biết chăm sóc chính mình, biết dành thời gian để sống cho những điều mẹ yêu thích. Khi mẹ yêu chính mình, mẹ sẽ thấy thế giới cũng dịu dàng hơn với mẹ.

Bình an không phải là không có khó khăn, mà là khi mẹ thay đổi cách nhìn về những điều ấy. Khi mẹ chọn chấp nhận thay vì kháng cự, biết ơn thay vì tiếc nuối, buông bỏ thay vì nắm giữ, mẹ sẽ thấy rằng cuộc đời chưa bao giờ thiếu bình yên—chỉ là trước đây mẹ chưa dừng lại để nhận ra mà thôi.

Mẹ ơi, đã đến lúc mẹ cần thảnh thơi. Hãy nhìn cuộc sống bằng một đôi mắt mới, để thấy rằng ngay cả trong những điều giản dị nhất, mẹ cũng có thể tìm thấy bình an.

CD THẬP MỤC NGƯU ĐỒ

album-art

00:00

TẢI CD: THẬP MỤC NGƯU ĐỒ 

10 BỨC TRANH CHĂN TRÂU

Hành trình tìm về chân tâm tựa như cuộc đuổi bắt bóng hình của chính mình Trâu—biểu tượng của tâm—vốn luôn ở đó, nhưng con người lại mãi rong ruổi lạc bước giữa mê vọng. Thập Mục Ngưu Đồ không chỉ là mười bức tranh chăn trâu mà còn là con đường của mỗi chúng ta trên hành trình tỉnh thức. CD này được xây dựng từ những bài kệ sâu sắc đưa người nghe đi qua từng giai đoạn của sự tu tập—từ tìm kiếm thuần phục giác ngộ đến trở về đời thường với nụ cười an nhiên.

Khởi đầu với “Tìm Trâu”, người lữ khách hoang mang giữa đất trời rộng lớn, tưởng rằng trâu đã mất mà không hay chính lòng mình che khuất dấu chân:

“Trâu Kia Vốn Ngoan Lành

Vẫn Luôn Ở Chung Quanh

Nhưng Vì Do Mê Muội

Đuổi Trâu… Lòng Không Đành”

Rồi dần dần qua “Thấy Dấu”, “Thấy Trâu”, tâm bắt đầu hé lộ sự thật: trâu chưa từng đi đâu cả. Nhưng dù thấy trâu người vẫn chưa thể nắm giữ còn mãi đuổi theo không ngơi nghỉ. Đến khi kiệt sức trong “Bắt Trâu” người mới dừng lại và nhận ra rằng, sự tĩnh lặng chính là chìa khóa để tâm hiển lộ:

“Mệt… Ngồi Yên Tĩnh Lặng

Tâm Hiển Hiện… Không Ngờ”

Từ đây sự tu tập bước sang giai đoạn “Chăn Trâu”, nơi tâm dần được thuần phục, trở về với sự trong sáng vốn có. Không còn cố gắng kiểm soátM chỉ cần giữ vững sự tỉnh giácM trâu sẽ tự nhiên hòa vào lòng người. Cuối cùng khi “cưỡi trâu về nhà” hành giả nhận ra chân lý: không có cũng không không, có không vốn thể đồng

“Không Có Cũng Không Không

Có Không Vốn Thể Đồng

Tâm Xưa Nay Như Thế

Ai Hiểu Rõ… Tỏ Thông”

Nhưng giác ngộ không phải là trốn tránh cuộc đời. Trong “Thõng Tay Vào Chợ” người đã đạt đến cảnh giới tự do tuyệt đối—bước vào chợ đời mà tâm vẫn nhẹ như mây, hòa vào thế gian mà không còn vướng bận:

“Tâm Muôn Hình Muôn Dạng

Vẫn Trong Sáng Nhẹ Nhàng

Tùy Duyên Tâm Trú Khứ

Tâm Chưa Hề Ngổn Ngang”

 

CD Thập Mục Ngưu Đồ là một hành trình âm nhạc dẫn dắt người nghe từ mê đến ngộ, từ tìm kiếm đến buông bỏ, từ khổ đau đến tự tại. Mười bài nhạc không chỉ là những  ca khúc, mà còn là mười bậc thang trên con đường quay về bản thể chân thật của mỗi người. Hãy lắng nghe cảm nhận và để lòng mình thong dong cùng những bước chân an nhiên trên con đường về nhà.

CD-TÂM VÔ VI

album-art

00:00

TẢI MP3 CD TÂM VÔ VI:  TÂM VÔ VI mp3

CD- TÂM VÔ VI

Trong cuộc sống đầy biến động và những vội vã, chúng ta không ít lần lạc lối, tìm kiếm một thứ gì đó xa xôi, mà quên rằng chính tâm bình an của chúng mới là điều quý giá nhất. Trong 12 nhạc phẩm gọi là “Tâm vô vi”, là một hành trình âm nhạc đưa bạn quay về với bản thể chân thật, tìm lại sự bình an vốn có trong từng khoảnh khắc hiện tại.

Mỗi bài hát là một câu chuyện, một mảnh ghép nhỏ trong hành trình trở về với chính mình. Từ bài “Tìm Tâm” với sự tìm kiếm đầy mê mờ, đến “Tâm Là Quê Nhà”, một lời nhắc nhở dịu dàng về việc tâm luôn hiện hữu trong chúng ta, mỗi ca khúc đều mang đến những thông điệp sâu sắc về sự tỉnh thức và buông bỏ vọng tưởng.

Bài “Dấu Tâm Chưa Từng Mất” là một dấu ấn trong hành trình nhận ra rằng tâm chưa bao giờ rời xa, mà chỉ bị che lấp bởi vọng niệm. “Tâm Về Ngay Trong Ta” tiếp tục dẫn dắt bạn quay về, nhẹ nhàng với một hơi thở sâu,và bạn nhận ra rằng bình an chính là điều đã có sẵn, thường hằng trong chúng ta, mà chưa hề bao giờ vắng mặt.

Rồi, “Tâm Như Mây Bay” và “Tâm Vẫn Chưa Từng Mất/ Tâm Mình Ở Đâu” nhắc nhở chúng ta về sự tự tại của tâm, nhẹ nhàng như những áng mây trôi tự do giữa bầu trời bao la. Các bài hát như “Tâm Bình An” và “Khỏi Còn Ai Đi Nữa” khơi gợi một trạng thái không lo nghĩ, không sân si, để tâm sống trong sự bình yên tuyệt đối.

Với “Tâm – Giòng Sông Lặng Lẽ”, “Tâm Như Mây Lặng Lẽ” và “Lạc Bước Giữa Mây Ngàn”, bạn sẽ được đắm chìm trong những giai điệu nhẹ nhàng, mượt mà, như những dòng suối chảy, mây bay, đem lại cảm giác an nhiên, tự tại, không cần tìm kiếm, không cần níu giữ.

“Tâm Vô Vi” chính là một hành trình âm nhạc sâu sắc, giúp cho bạn tìm về với chính mình, tìm lại sự bình an và sự tỉnh thức trong cuộc sống. Hãy để những giai điệu này đưa bạn qua từng bước chân nhẹ nhàng, về với tâm thức thanh tịnh và vô vi; và hãy để mọi lo âu, vọng tưởng được buông bỏ, và chỉ còn lại sự an nhiên trong từng nhịp thở, từng bước chân.

HAI “CÁI TÔI” CỦA TÔI

album-art

00:00

TẢI MP3 – MỴ HẰNG

Bạn thân mến,

Thực ra, trong tâm thức của tôi luôn có một “cái tôi” bất biến siêu hình nhìn ngó “cái tôi” hiện thực đang sống hằng ngày hằng giờ.

“Tôi ơi đừng tuyệt vọng” là một cách nói lạ, vì trong ngôn ngữ văn học nói chung, thơ từ nói riêng, chưa có ai tự kêu “tôi” như thế.

Đi tìm “cái tôi” bất biến.

Cũng như bao “cách nói” khác, người ta dễ dàng chấp nhận câu nói đó vì sức thuyết phục một cách linh mẫn trong ngôn ngữ riêng của mình.

Thật ra, trong tâm thức của tôi luôn có một “cái tôi” bất biến siêu hình nhìn ngó “cái tôi” hiện thực đang sống hằng ngày hằng giờ. Và khi tôi gọi “tôi” chính là cái tôi kia đang gọi cái tôi này, giống như một người đang gọi một người, ta đang gọi một kẻ khác.

Trong triết học Ấn Độ có một khái niệm về đại ngã, trong Phật học có một khái niệm về chân thân hay bản lai diện mục. Tiếng gọi tôi của tôi luôn là một cuộc hoài hương tha thiết đêm ngày hòng tìm lại cái tôi đại ngã, cái tôi chân thân, cái tôi bản lai diện mục đó giữa “cõi tạm” trần gian mà tôi đang sống.

Khi ngắm dòng sông chảy, như biểu tượng thời gian trôi đi, tôi cũng thấy: “Một lần bóng núi in bên sông dài một lần thấy bóng tôi”.

Tôi là người, không phải là núi, nhưng thấy núi lại thấy mình, đó là vì có một “cái tôi” khác của tôi mang bản thể núi – vững vàng hơn vô lượng lần cái thân thể vật chất mình đang có, nó như bất động trước dòng chảy của thời gian.

Nhưng nói “thấy được đời tôi” chỉ là một cách tự động viên mình, nhủ mình rằng “tôi ơi đừng tuyệt vọng” đó thôi. Nó chỉ mới là một sự lần ra manh mối đường về chứ chưa “về” thật sự. Nó vẫn còn là một giấc mơ xa vắng và tôi vẫn còn lận đận lắm trong cuộc hồi hương mờ mịt cuối ngõ cuối trời này.

Không tìm thấy được cái tôi đó, mỗi ngày tôi đều buồn bã cảm nhận “Hôm nay thức dậy ôi ngẩn ngơ tôi. Hôm nay thức dậy mê mỏi thân tôi” là vậy.

Cái tôi đó có khi hiện thân là một “Con mắt còn lại” nhìn cái tôi phù trầm này một cách thương cảm: “Con mắt còn lại nhìn cuộc đời tôi. Nhìn tôi lên cao nhìn tôi xuống thấp. Con mắt còn lại là con mắt ai. Con mắt còn lại nhìn tôi thở dài”.

Những tiếng “thở dài” như thế có giá trị như một sự thương cảm, một lời an ủi, một sự khuyến khích, động viên để tôi tiếp tục lên đường tìm về cố quận, dù dâu bể thời gian và cuộc đời có như bão tố điên cuồng phá hủy thân xác lau sậy mình.

Tôi gọi tên tôi khắp chốn non ngàn. Tôi dìu tôi đi giữa trời lên bão tố. Xuân hạ thu đông theo gót chân hờ”. Quả thật, với một người đang mong ngóng tìm về với một tiếng gọi nào đó dành cho riêng mình, thời gian đi theo “nó” chỉ là những “gót chân hờ” mà thôi.

Và tiếng gọi mong ngóng kia chính là một cái tôi trên cao đang ra sức dìu dắt, nâng đỡ cái tôi dưới thấp đi xuyên qua mịt mùng thân phận người.

Nói cách khác, cái tôi trên cao ấy là một tên gọi khác của cái gọi là Cội nguồn, nơi tôi luôn muốn lần về. Vì vậy, đang khi sống, dù là giữa hội hè, tôi vẫn luôn tự nhủ: “Tôi vui chơi giữa đời biết đâu nguồn cội. Cây trưa thu bóng dài và tôi thu bóng tôi. Tôi vui chơi giữa đời biết đâu nguồn cội. Tôi thu tôi nhỏ lại làm mưa tan giữa trời”. Những cái tôi là núi, là bóng cây, là mưa… đó cơ chừng là miên viễn, là “lời thiên thu gọi”, là những hóa thân thăng hoa cho cái tôi thể chất hình hài dễ và chóng tan rã giữa cõi tạm ta bà này.

Trong tiếng ru, chỉ có người này mới ru được người kia. Nhưng tôi, nhờ có hai cái tôi mà tôi đã ru được chính mình.

Còn bạn thì sao? Khi nào thì bạn có thể ru được chính mình?

CUỐN SÁCH VÀ GIỎ ĐỰNG THAN

album-art

00:00

TẢI  MP3 – ÁNH TUYẾT

Bạn thân mến,

Tôi không biết,  bạn có thích đọc sách hay không? Chớ riêng tôi,  thú thật, nhìn thấy những giòng chữ nhảy múa trước mắt, là tôi sợ như  gặp MA vậy.

Ngày còn nhỏ, tôi thường nhìn ông nội tôi, thức dậy rất sớm, để đọc sách. Có những cuốn sách ông đã đọc nhiều lần, đến mức cuốn sách sờn cũ, nhưng lúc nào, ông cũng đọc say mê, và chưa một buổi sáng nào ông quên đọc sách.

Tôi cũng bắt chước ông, cũng cố gắng mỗi ngày, đều ngồi đọc sách, nhưng chẳng hiểu và tiếp nhận được gì từ những cuốn sách mà tôi đọc cả, cho nên, đối với tôi những cuốn sách đó là vô bổ. Rồi một ngày, tôi hỏi ông:

– Ông ơi, cháu cũng thử đọc sách như ông, nhưng cháu không hiểu gì cả. Hoặc là có những đoạn cháu hiểu, nhưng khi gấp sách lại là cháu quên ngay. Thế thì đọc sách có gì tốt đâu mà ông đọc thường xuyên thế.

Ông nội tôi lúc đó đang đổ than vào lò, quay lại nhìn tôi và chỉ nói:

– Cháu hãy đem cái giỏ đựng than này ra sông, và mang về cho ông một giỏ nước nhé!

Tôi liền làm theo lời ông, dù rằng tất cả nước đã chảy ra hết khỏi giỏ, trước khi tôi quay về đến nhà.

Nhìn thấy cái giỏ, ông nội cười và nói:

– Nước chảy hết mất rồi! Có lẽ lần sau cháu sẽ phải đi nhanh hơn nữa!

Rồi ông bảo tôi quay lại sông lấy một giỏ nước khác.

Lần này tôi cố chạy nhanh hơn, nhưng lại một lần nữa, khi tôi về đến nhà thì cái giỏ đã trống rỗng. Thở không ra hơi, tôi nói với ông rằng: “đựng nước vào cái giỏ là điều không thể”, rồi đi lấy cái thùng để múc nước.

Nhưng nội tôi lại ngăn lại:

– Ông không muốn lấy một thùng nước. Ông muốn lấy một giỏ nước thôi! Cháu có thể làm được điều đó, chỉ có điều cháu chưa cố gằng hết sức mà thôi!

Rồi ông lại bảo tôi ra sông lấy nước. Vào lúc này, tôi đã biết rằng không thể đựng nước vào giỏ được, nhưng tôi muốn chứng minh cho ông thấy rằngm cho dù tôi có chạy nhanh đến đâu, nước cũng sẽ chảy hết ra khỏi giỏm trước khi tôi về đến nhà.

Thế là tôi lại đi lấy nước, lại chạy nhanh hết sức, và khi về đến nơi, cái giỏ lại trống rỗng.

– Ông xem này – Tôi hụt hơi nói – Thật là vô ích!

– Cháu nghĩ điều này là vô ích sao? Ông nội nói – Cháu thử nhìn cái giỏ xem!

Tôi nhìn vào cái giỏ và lần đầu tiên, tôi nhận ra rằng cái giỏ trông khác hẳn ban đầu. Nó không còn là cái giỏ than đen dơ bẩn nữa, mà đã được nước rửa sạch sẽ.

– Này cháu! Đó là những gì diễn ra khi cháu đọc sách. Có thể cháu không hiểu hoặc không nhớ được mọi thứ, nhưng khi cháu đọc, sách sẽ thay đổi cháu từ bên trong tâm hồn, như nước đã làm sạch giỏ than kia vậy.

Bạn thân mến,

Hiện tại, một đống giỏ đựng than ngày xưa trong nhà của tôi đã được thay thế bằng một kho sách. Còn nhà của bạn thì sao?

MUỐN VÀ CẦN

album-art

00:00

TẢI MP3 – ÁNH TUYẾT

Bạn Thân Mến,

Ai trong chúng ta, cũng có cái muốn và cái cần trong cuộc sống, nhưng làm sao để đạt được cái muốn, lại là một đề tài khiến chúng ta phải động não. Vì sao?

Vì sức người thì giới hạn mà cái muốn thì lại vô cùng. Đem cái giới hạn của con người, để đuổi theo cái vô hạn của ham muốn, thì quả thật là việc làm vô cùng mệt mỏi, và gần như vô vọng, hay hoang tưởng. Cho dù, chúng ta có cả ngàn kiếp đi chăng nữa, thì chúng ta cũng không thể nào đạt được đến cái vô hạn của muốn cả.

Lá điện thư này, gởi đến cho chúng tôi liên quan đến những thắc mắc về hai chữ muốn và cần như sau:

Chào anh/chị,

Những ngày gần đây, em có tham gia khóa học về luật hấp dẫn (law of attraction), trong đó, diễn giả đã đề cập đến hai chữ muốn và cần.

Theo diễn giả, con người của chúng ta, đều không biết ứng dụng hai chữ muốn và cần đúng cách. Trong một thí dụ về muốn và cần, diễn giả đã đưa ra một câu hỏi là, khi chúng ta đói thì chúng ta sẽ nói thế nào? Chúng ta muốn ăn hay chúng ta cần ăn.

Theo ông, chắc chắn, chúng ta sẽ nói chúng ta cần ăn vì cần là điều kiện bắt buộc phải thực hiện, nếu không chúng ta sẽ chết vì thiếu dinh dưỡng.

Còn cái muốn thì chỉ có 50%, nghĩa là, có cũng được và không có cũng được. Cho nên, nếu chúng ta muốn có tài chánh dồi dào, giầu có, thì chúng ta phải biết dùng đúng ngôn ngữ, đó là, chúng ta phải nói: “chúng ta cần tiền”, chứ không nên nói “chúng ta muốn tiền”.

Theo như diễn giả trình bày, khi sử dụng chữ cần sẽ tạo ra nguồn năng lượng tích cực. Nguồn năng lượng đó, không qua ý thức của chúng ta, mà đi vào trong tiềm thức của chúng ta.

Sau đó, tiềm thức của chúng ta sẽ lắng nghe những cái mong muốn của chúng ta, và sẽ gửi cái thông điệp đó đến vũ trụ, đến với siêu nhiên, để vũ trụ và siêu nhiên chuyển hóa lại, hay tiến hành cái điều mà chúng ta mong muốn, rồi gửi điều đó đến cho chúng ta.

Cũng theo như diễn giả, thì đây chính là những điều bí mật để thu hút tiền bạc, vật chất, tài chính cho mình.

Sau đó, diễn giả trình bầy điều bí mật thứ hai, liên quan đến Phật giáo, và cho rằng, trong đạo Phật, vốn không có cái tôi, cho nên, nếu chúng ta cần tiền, thì chúng ta cần phải loại bỏ chữ tôi và chữ cần, mà chỉ còn lại là có tiền, thí dụ như: “tôi cần có tiền” thành “có tiền”, là đủ.

Trong khi, em đọc bài “Hậu Quả Và Kết Quả” trong Mỗi Ngày Một Chuyện, thì em thấy cách anh chị nói về hai chữ Muốn và Cần lại hoàn toàn khác biệt.

Em thật sự rất hoang mang, không biết đâu mới là đúng sự thật. Chính vì vậy, em mới mạo muội, viết đôi dòng gởi đến anh/chị, mong anh chị có thể nhín chút thời gian quý báu để giải đáp dùm cho em. Em thật sự rất mang ơn anh chị.

Cuối thư, em chúc anh chị có một ngày luôn an bình và hạnh phúc.

Thân kính,

H.S

Chào bạn H.S,

Nói đến luật hấp dẫn thì chúng tôi cũng có nghiên cứu khá sâu, nhưng chưa kiểm nghiệm, thực nghiệm và chứng nghiệm về lĩnh vực tài chính, hay làm ra nhiều tiền của, nên chúng tôi không có thể chia xẻ với bạn là làm như thế nào mới đạt được kết quả.

Nhưng vì chủ đề của bạn có liên quan đến hai chữ muốn và cần, mà chúng tôi đã có trải nghiệm qua, cho nên, chúng tôi chỉ hồi âm lại cho bạn, vấn đề liên quan đến hai chữ này mà thôi.

Nói đến hai chữ “cần” và “muốn” thì rất khó, bởi vì, mỗi chúng ta đều có sự diễn dịch về định nghĩa khác nhau. Có đôi khi, chúng ta diễn dịch hai chữ đó lộn nghĩa với nhau. Thay vì, đó là định nghĩa của cần thì chúng ta lại diễn dịch là của muốn, và ngược lại.

Trong bài Chín Thức, chúng tôi đã phân chia chức năng của mỗi thức khá chi tiết. Cho nên, nếu bạn muốn hiểu đúng định nghĩa của muốn và cần thì bạn nên đọc kỹ lại bài viết đó.

Trong Tâm Lý học, định nghĩa của Cần là nguồn năng lượng diễn đạt cho trạng thái điều kiện phải có, để thực hiện một điều gì đó; và định nghĩa của Muốn cũng là nguồn năng lượng, diễn đạt cho trạng thái khao khát không có không được.

Thí dụ, bạn đi mua sắm và thấy chiếc áo đẹp, bạn muốn chiếc áo đó thì bạn cần phải có đủ tiền để mua chiếc áo đó. Cho nên, cần chỉ xuất hiện khi có mặt của muốn, nếu không có mặt của muốn, thì cần khó mà có thể tự mình vận hành độc lập được.

Trong thí dụ mà diễn giả đưa ra, khi bạn đói bụng thì bạn muốn ăn, hay cần ăn, và diễn giả cho rằng, bạn phải cần ăn, vì đó là điều kiện bắt buộc, nếu không, bạn sẽ chết.

Nhưng nếu bạn quan sát và nhìn sâu hơn, bạn sẽ thấy, trước khi bạn có ý niệm cần ăn, thì bạn đã có cái ý muốn sống khởi động trước đó rồi, nếu như bạn không muốn sống, thì bạn đâu cần ăn để làm gì, có phải không?

Có lẽ, diễn giả khi đưa ra thí dụ này, chỉ nhìn trên góc độ là chúng ta đang muốn sống, nên chúng ta phải cần ăn để sống, nhưng nếu đã bàn đến bí mật của vũ trụ, thì những lý luận của diễn giả, chỉ mới trình bầy được một nửa về bí mật của vũ trụ, còn một nửa kia, thì chưa thấy trình bầy đến.

Có một điều mà hình như diễn giả đã có sự diễn dịch lầm lẫn giữa định nghĩa của chữ Muốn và chữ Thích.

Định nghĩa của chữ Thích là nguồn năng lượng diễn tả trạng thái có cũng được, và không có cũng được.

Thí dụ, bạn đi mua sắm trong một cửa hàng, bạn thấy chiếc áo khá xinh xắn, và bạn thích chiếc áo đó. Sau khi đi dạo một hồi, bạn đi về nhà, và mấy ngày sau, bạn quên hoàn toàn chiếc áo mà bạn thích. Vì đối với bạn, có chiếc áo đó cũng tốt, mà không có chiếc áo đó cũng không sao.

Ngược lại, nếu là bạn muốn chiếc áo đó, bạn sẽ làm đủ mọi cách để bạn có được chiếc áo đó. Nếu như bạn có đủ tiền, bạn sẽ mua ngay chiếc áo đó, mà không cần phải suy nghĩ.

Nếu bạn không có đủ tiền, lúc đó, bạn mới khích hoạt đến cái cần, là những điều kiện nào, giúp cho bạn có tiền để mua chiếc áo đó như: nhịn ăn sáng, nhịn ăn trưa, đập heo tiền tiết kiệm, hay vòi vĩnh người khác mua cho.

Tệ hại hơn, khi sự muốn của bạn dâng trào, mà bạn lại không có tiền, thì bạn cũng có thể ăn cắp chiếc áo đó, mặc dù, ý thức của bạn đã phân tích cho bạn, những hậu quả mà bạn sẽ phải gánh chịu, khi bạn ăn cắp và bị bắt.

Nhưng với sự tác động mạnh mẽ của muốn với tham thì nguồn năng lượng tham muốn này, sẽ khống chế Ngã Thức của bạn, và sử dụng Ý thức để phân tích những thủ thuật ăn cắp tinh vi hơn, hay đưa ra những phỏng đoán như: không ai thấy, không bị bắt, v.v., chứ không bao giờ chọn sự phân tích là bạn bị bắt, và sẽ ảnh hưởng tới cả cuộc đời sau này của bạn.

Rõ ràng, khi bạn thích, thì ở đó không có sự khích hoạt đến yếu tố cần. Nhưng khi bắt đầu bạn khởi ý niệm muốn, thì lúc đó, cần mới trở nên là điều kiện phải có, để đạt được cái muốn.

Điều này thì không có gì mới lạ cả, vì ai trong chúng ta cũng đều có kinh nghiệm hay trải qua, chỉ cần chúng ta chịu khó quan sát và nhìn sâu một chút, thì chúng ta sẽ thấy được điều này rất rõ ràng, mà không cần phải có người dậy dỗ chúng ta mới biết cần và muốn như thế nào.

Chỉ có điều, chúng ta ít sử dụng đến sự quan sát và nhìn sâu, cho nên, chúng ta đã diễn dịch lầm lẫn giữa thích, muốn và cần. Nhất là muốn và cần, cái nào là nhân và cái nào là quả.

Lầm lẫn trong việc nhận qủa làm nhân, và lầm nhân làm qủa, thì chẳng bao giờ chúng ta đạt được những gì chúng ta muốn.

Như vậy, nếu bạn bị eo hẹp về tài chánh, mà muốn có dư dả thì bạn phải muốn chứ bạn không thể cần được. Bạn có thấy ai nói tôi cần dư dả đâu, mà chỉ nói, tôi muốn dư dả thôi. Vì sao?

Vì khi bạn muốn dư dả thì bạn mới cần phải tiết kiệm, làm việc siêng năng, v.v., đó là những điều kiện để hoàn thành cái muốn dư dả, có phải vậy không?

Còn trong đoạn; “… khi sử dụng chữ cần sẽ tạo ra nguồn năng lượng tích cực. Nguồn năng lượng đó, không qua ý thức của chúng ta, mà đi vào trong tiềm thức của chúng ta.

Sau đó, tiềm thức của chúng ta sẽ lắng nghe những cái mong muốn của chúng ta, và sẽ gửi cái thông điệp đó đến vũ trụ,

đến với siêu nhiên, để vũ trụ và siêu nhiên chuyển hóa lại, hay tiến hành cái điều mà chúng ta mong muốn, rồi gửi điều đó đến cho chúng ta.”

Ở đây hình như diễn giả chưa có nhiều kinh nghiệm về các chức năng của các thức nhất là Tiềm Thức, Ý Thức và Ngã Thức. Cho nên, diễn giả đã diễn dịch không chính xác được sự vận hành của vũ trụ.

Trong chín thức thì ngôn ngữ của Ý Thức là lời nói và chữ viết, Tiềm Thức là hình ảnh, và chỉ có Thân Thể Thức và Ngã Thức mới có ngôn ngữ là năng lượng, tương đồng với ngôn ngữ của vũ trụ.

Cho nên, nếu muốn tương thông với vũ trụ thì chỉ có Ngã Thức và Thân Thể Thức mới có cùng ngôn ngữ với vũ trụ. Nhưng vì Thân Thể Thức tạo ra năng lượng để duy trì sự sống cho con người, nên ít khi nào Thân Thể Thức gởi trực tiếp nguồn năng lượng, hay tương tác với vũ trụ, mà thường sẽ tương tác với nguồn năng lượng của Ngã Thức, rồi Ngã Thức mới trực tiếp tương tác với vũ trụ.

Thí dụ, thân thể của bạn đang bị đói nên các bộ phận trong cơ thể mới tác động đến Thân Thể Thức. Thân Thể Thức lúc đó, mới tương tác với Ngã Thức là thân thể cần thức ăn.

Nếu bạn đang sống trong môi trường, mà bạn có những quán ăn, hay có thực phẩm dự trữ, thì Ngã Thức của bạn sẽ ra lệnh cho Ý Thức đi phân tích, so sánh, bạn nên làm gì để giải quyết cơn đói.

Sau khi Ý Thức phân tích là bạn phải đi vo gạo, nấu cơm, làm thịt, làm cá, v.v. thì Ý Thức mới gởi các phương pháp giải quyết về kho Ngã Thức trong Tiềm Thức. Ngã Thức sau khi nhận được những cách thức của Ý Thức, thì mới bắt đầu đưa ra lựa chọn xem Ngã Thức đang muốn gì.

Nếu lúc đó Ngã Thức đang mê coi phim thì Ngã Thức sẽ không cung cấp những dữ liệu phân tích của Ý Thức cho Thân Thể Thức đi giải quyết cái đói, mà sẽ ép Thân Thể Thức tiếp tục ngồi mở mắt ra cho Ngã Thức coi phim.

Thân Thể Thức khi có sự phản hồi từ Ngã Thức, là đói thì mặc đói, cứ ngồi coi phim, thì Thân Thể Thức mới tác động đến não bộ và các cơ quan hoạt động theo chỉ thị của Ngã Thức.

Khi các cơ quan của Thân Thể Thức đã hoạt động qúa tải, thì các cơ quan báo về Thân Thể Thức, và Thân Thể Thức ra lệnh cho các cơ quan ngừng hoạt động.

Lúc đó, Ngã Thức không có mắt mở ra để coi phim, hay vì cái đói, gây ra mờ cả mắt, không xem được phim, thì lúc đó, Ngã Thức mới đưa ra phương pháp đi giải quyết cái đói của thân thể.

Thân Thể Thức sau khi nhận được những cách giải quyết từ Ý Thức xuyên qua Ngã Thức, mới bắt đầu tác động lên não bộ, và hệ thống thần kinh, để điều khiển tay, chân, hay thân thể, đi thực hiện nấu ăn, và ăn thức ăn, sau khi nấu, để giải quyết cái đói của thân thể.

Hay trong phân tích của Ý Thức, thay vì, đi nấu ăn thì có thể ra quán ăn, hay đặt thức ăn mang đến nhà ,v.v. tùy theo tình hình tài chánh lúc đó như thế nào, thì Ngã Thức sẽ lựa chọn giải pháp, rồi gởi lại cho Thân Thể Thức.

Nhưng nếu chẳng may, bạn lại sống trong hoàn cảnh mà không có gì để ăn, và bạn cũng không có thực phẩm dự trữ, thì lúc đó, Ngã Thức của bạn không có điều kiện để giải quyết cái đói của cơ thể. Cho nên, lúc đó Ngã Thức mới gởi nguồn năng lượng đó ra ngoài vũ trụ.

Nghĩa là, Ngã Thức chỉ gởi ra ngoài vũ trụ khi Ngã Thức không có những điều kiện, để thực hiện được cái muốn của Ngã Thức, thì Ngã Thức mới gởi ra cầu xin nơi vũ trụ, chứ nếu Ngã Thức có những điều kiện có thể thực hiện được cái muốn, thì Ngã Thức sẽ tự đi giải quyết mà không cần đến sự tương tác với vũ trụ.

Thí dụ, khi bạn bị cảm cúm và bạn biết, khi bạn uống vài viên thuốc trị cảm cúm, mà bạn hết cảm cúm, thì bạn chẳng phải đi vái tứ phương làm gì, vì bạn có thể tự giải quyết được.

Bạn chỉ van vái tứ phương khi việc xẩy ra cho bạn đã nằm ngoài “tầm với” của bạn, thì bạn mới đi cầu xin nơi những nguồn năng lượng khác hỗ trợ cho bạn.

Trong đoạn văn trên, khi diễn giả cho rằng: “khi chúng ta tạo ra nguồn năng lượng tích cực của cái cần thì sẽ không đi qua Ý Thức mà đi vào tiềm thức rồi tiềm thức mới gởi năng lượng ra ngoài vũ trụ” thì sự diễn dịch này thiếu chính xác.

Vì ngôn ngữ của Tiềm Thức là bằng hình ảnh, và sự hoạt động của Tiềm Thức là nối kết các dữ liệu thu thập, tạo ra những giấc mơ. Cho nên, Tiềm Thức không thể nào có thể tương tác với vũ trụ được.

Điều này, cũng giống như hai người Việt và Mỹ, khi nói chuyện với nhau qua điện thoại, mà người Mỹ thì không biết tiếng Việt, và người Việt thì không biết tiếng Mỹ.

Theo như bạn, hai người Việt và Mỹ này, qua cuộc nói chuyện bằng điện thoại (tần số sóng), họ có thể hiểu được nhau không?

Không cần chúng tôi trả lời thì bạn cũng có câu trả lời chính xác là: Không rồi, phải không?

Điều này cũng giống như Tiềm Thức của bạn và vũ trụ vậy, giống như hai người sử dụng hai ngôn ngữ hoàn toàn khác nhau, và không thể hiểu được nhau, cho nên, giữa tiềm thức và vũ trụ sẽ không thể tương tác được.

Đứng trên căn bản của các thức thì Tiềm Thức là thức khởi sinh ra sự sống của con người, và là nơi lưu giữ nhân tướng bản thể của con người. Nhưng khi con người bắt đầu hình thành Ngã Thức, thì Ngã Thức mới là thức để liên lạc với vũ trụ, chứ không phải Tiềm Thức.

Chính vì Ngã Thức là “trạm thông tin”, nơi tiếp nhận và phát ra nguồn năng lượng, cho nên, khi Ngã Thức của bạn dựa trên niềm tin là cái gì, thì nguồn năng lượng khi gởi ra vũ trụ sẽ là cái đó.

Thí dụ, bạn nói bạn tin là bạn là người giầu hơn cả Bill Gates, nhưng trên thực tế, bạn vẫn phải đi xin ăn từng ngày. Vậy, cho dù bạn có gởi bao nhiêu tín hiệu ra ngoài vũ trụ, bạn vẫn nghèo, vì sao?

Đơn giản, khi bạn nói bạn tin bạn giầu hơn Bill Gates là bạn đang dùng Ý Thức để phân tích và so sánh, bạn có nhiều tiền hơn Bill Gates. Dĩ nhiên, trong so sánh cộng thêm sự tưởng tượng, sau số một (1), bạn có thể thêm mấy chục con số không (0) vào thì rất dễ dàng.

Nhưng trên thực tế, bạn đang đi làm với lương là $250 cho một ngày, nếu bạn muốn thêm một con số không đằng sau thành $2,500 cho một ngày thì không dễ một chút nào cả.

Thế nên, khi bạn dùng Ý Thức để phân tích, và tưởng tưởng, thì bạn tha hồ thêm bao nhiêu con số không cũng không thành vấn đề, vì ngôn ngữ của Ý Thức, là ngôn ngữ của chữ, số, lời nói, nhưng bạn sẽ không thể gởi ra cho vũ trụ được, vì không đồng một ngôn ngữ.

Nếu muốn gởi ra vũ trụ thì Ý Thức sau khi phân tích xong, phải gởi về trung tâm phát nhận sóng là Ngã Thức. Nhưng có một điều là, khi tiếp nhận những dữ liệu từ Ý Thức thì Ngã Thức sẽ “duyệt” bản tin từ Ý Thức.

Khi những sự phân tích từ Ý Thức này, đi ngược lại với niềm tin của Ngã Thức như: Tôi nghèo không đủ ăn, tôi không có khả năng, tôi tự ty, v.v. thì những dữ liệu, hay phân tích từ Ý thức, dù có hay, có đúng bao nhiêu, cũng sẽ bị “bộ lọc” của niềm tin lược giản, từ đó, tạo ra sự nghi ngờ.

Khi sự nghi ngờ có mặt. thì đó là “Bản tin” mà Ngã Thức phát ra ngoài vũ trụ. Khi vũ trụ tiếp nhận làm sóng từ sự nghi ngờ, thì cũng hồi đáp lại bạn bằng nguồn năng lượng nghi ngờ.

Thế là kết qủa mà bạn nhận được là sự nghi ngờ, đúng như Ngã Thức của bạn mong muốn. Đó cũng là lý do tại sao,

các phương pháp như sự xác quyết, xác nhận (affirmation) với những từ ngữ tích cực như: tôi là người tự tin, tôi là người tài năng, tôi là người có lòng yêu thương, tôi luôn sống tích cực giúp đỡ mọi người, v.v, được lập đi lập lại mỗi ngày, vẫn không có tác dụng, hay đưa đến sự thay đổi. Vì sao?

Bởi vì,  những sự lập lại đó là dùng ngôn ngữ của Ý Thức mà không phải là của Ngã Thức. Trong khi, Ngã Thức của bạn lại tin rằng bạn không có tự tin, bạn không có lòng yêu thương, hay bạn không giầu có.

Vì vậy, khi bạn càng lập đi lập lại các điều trên, thì bạn càng khích động sự phản kháng từ niềm tin lại những điều mà cũng chính từ Ngã Thức bạn mong muốn.

Trong Ngã Thức của con người, có một chức năng đạo đức, được phân chia làm ba phần, gồm cặp đối đãi: Thiện-Ác và phần thứ ba là trung tính – không thiện và không ác.

Bình thường, trong cuộc sống của chúng ta, thì hay rơi vào trạng thái trung tính, hơn là thiên về hai cực Thiện và Ác.

Thí dụ, Sáng dậy, sau khi làm vệ sinh, và ăn sáng xong, bạn đi làm. Khi bạn ra đề máy xe để đi làm, mà chiếc xe không có vấn đề gì, thì bạn vẫn ở trong trạng thái của trung tính, nghĩa là không vui và cũng không buồn.

Nhưng nếu chẳng may, sáng nào đó, bạn ra đề máy xe mà máy xe không nổ, thì lúc đó ngã thức của bạn mới bắt đầu khởi sinh ra sự lo âu.

Khi trong ngã thức của bạn có sự lo âu thì ngã thức của bạn mới bắt đầu sử dụng Ý Thức để tìm ra những giải pháp giúp giải quyết sự lo âu đang có mặt.

Khi Ý Thức nhận lệnh từ Ngã Thức thì mới bắt đầu sử dụng kho tiềm thức để lấy các dữ liệu, hay những kinh nghiệm đã có trong qúa khứ để phân tích và so sánh.

Chẳng hạn như, trong qúa khứ, xe bạn đã bị như vậy, và bạn đã gọi cho người thợ máy bạn quen, đến sửa cho bạn; hay bạn gọi xe kéo đến chỗ sửa xe quen thuộc; hay bạn gọi xe taxi, uber để đi làm v.v. sẽ lần lượt được Ý Thức sử dụng để phân tích, xem cách nào hay và tốt nhất; hay có thể dựa trên những cách thức đó tìm ra những cách giải quyết khác.

Sau khi, làm xong phận sự phân tích thì Ý Thức mới gởi về kho của Ngã Thức trong tiềm thức, để cho Ngã Thức sẽ lựa chọn giải pháp nào thích hợp, để giải quyết nguồn năng lượng lo âu đang có mặt.

Khi sự lo âu được giải quyết thì trạng thái trong Ngã Thức sẽ có được an, và sau an, thì lại trở lại trạng thái trung tính – không vui không buồn.

Điều này, được lập đi lập lại liên tục từ ngày này qua ngày khác, hay còn gọi đó là quá trình vận hành của tâm thức hay Ngã Thức.

Nếu có thể phân chia, thì phần đông chúng ta, sống trong sự trung tính – không vui không buồn lên đến 80%, khi không có những sự cố xẩy ra như: giận hờn, bực tức, hay vui sướng v.v. tác động đến Ngã Thức.

Tuy nhiên, với cuộc sống hiện tại thì chúng ta sống qúa hối hả, và có những mong muốn liên tục xẩy ra, cho nên, chúng ta thường rơi vào trạng thái của hai cực.

Dù là thiên về tiêu cực hay tích cực (đa số chúng ta thiên về tiêu cực nhiều hơn), thì chúng ta đã tạo ra sự mất quân bình, hay có sự thiên lệch.

Khi đã có sự thiên lệch, dù về phía nào. thì ở đó đã có sự xáo trộn. Và khi có xáo trộn, có nghĩa là, chúng ta đã tạo ra sự bất an.

Sự bất an mà cứ liên tục xẩy ra trong cuộc sống thì chúng ta gọi đó là khổ, là những cảm giác hay cảm xúc khó chịu.

Khi chúng ta có những cảm xúc/giác khó chịu trong Ngã Thức thì nguồn năng lượng này cũng tác động đến Thân Thể Thức tạo ra những sự xáo trộn các vùng năng lượng trên các cơ quan.

Các nhà tâm lý ngày nay, trong khoa tâm thần, đã cho rằng: một bệnh về thể chất được gây ra hoặc trở nên trầm trọng hơn, phần lớn đều do sự xung đột nội tâm hoặc căng thẳng đến từ yếu tố tinh thần.

Như vậy, chúng ta thấy, Thân Thể Thức, Ngã Thức, và vũ trụ, có cùng chung một ngôn ngữ, nên có thể sinh hoạt hay tương thông với nhau, còn Ý Thức và Tiềm Thức không phải là ngôn ngữ của vũ trụ, cho nên, không thể nào có sự tương thông với nhau được.

Ở đây không biết bạn có diễn tả đúng ngôn ngữ của diễn giả hay không khi bạn viết: “Sau đó, tiềm thức của chúng ta sẽ

lắng nghe những cái mong muốn của chúng ta, và sẽ gửi cái thông điệp đó đến vũ trụ”. Trong khi diễn giả lại cho rằng, chúng ta phải đổi muốn thành cần mới đúng ngôn ngữ của vũ trụ, xem ra có vẻ rất mâu thuẫn.

Mâu thuẫn là, nếu đã là cần thì Tiềm Thức của chúng ta phải gởi cái “cần” đi, chớ sao, lại gởi cái “mong muốn” của chúng ta đi. Như vậy, có phải chăng, chúng ta đã gởi sai tín hiệu đến vũ trụ? Cho nên, cái kết qủa của chúng ta nhận lại được từ vũ trụ, cũng sẽ là kết quả mà chúng ta không mong muốn, hay không phải cái chúng ta đang cần.

Gởi tín hiệu ra ngoài vũ trụ, hay tạo ra sự tương tác năng lượng giữa Ngã Thức và vũ trụ, thì có qúa nhiều thông tin, và mỗi người, lại có những cách diễn giải khác nhau, và đôi khi chống đối lại nhau. Nhưng thực tế thì như thế nào.

Có một câu chuyện liên quan đến người quen của chúng tôi về việc gởi “tín hiệu” đến vũ trụ như sau:

Có một cuối tuần rảnh rang, nên người quen của chúng tôi mới rủ chúng tôi, đi đến hãng bán xe, để xem chiếc Lexus. Sau khi đi dạo một vòng, người quen của chúng tôi đã tỏ ra rất thích chiếc xe mầu vàng, nhưng vì hoàn cảnh tài chánh và điểm tín dụng không tốt, nên anh không thể mua chiếc xe đó.

Mười năm sau, đứa con của người quen của chúng tôi có cho người bạn mượn một số tiền để làm ăn. Người bạn của người quen, vì làm ăn thua lỗ, không có tiền trả lại, nên đã đem chiếc xe dư, trả thay tiền nợ.

Người con lúc đó, nhà đủ xe dùng, nên đem chiếc xe mà người bạn trả nợ, tặng lại cho cha của mình. Lạ thay, đó lại là chiếc xe Lexus mầu vàng, đúng y như chiếc xe mà mười năm trước, người quen của chúng tôi rất thích.

Hôm đó, chúng tôi gặp anh tại chỗ sửa xe, và thấy anh lái chiếc xe Lexus mầu vàng, nên chúng tôi mới ghẹo anh:
“cuối cùng thì anh cũng đạt được cái xe mà mười năm trước anh thích rồi nhỉ.”

Anh nhăn nhó trả lời: đạt gì chứ anh, cái xe này nhận được như của nợ vậy đó, vừa mới sửa cái hộp số hết mấy ngàn, bây giờ lại phải thay đến giàn nhún cũng tốn gần cả ngàn bạc nữa. Biết vậy, ngày xưa tôi đừng thích còn hơn, chứ thích, mà đến không đúng lúc, thì chỉ chuốc thêm khổ chứ ích lợi gì đâu anh”.

Qua câu chuyện của anh, chúng ta có thể thấy được sự khác nhau giữa thích, muốn và cần như thế nào.

Bởi vì, mười năm trước, anh chỉ thích mà không muốn, cho nên, anh không có những động lực mạnh của muốn thúc đẩy anh tìm mọi cách (cần) để mua chiếc xe đó như: mượn người khác đứng tên, bỏ tiền đặt cọc nhiều hơn, đi các hãng xe khác, mà họ có những chương trình đặc biệt cho người bị điểm tín dụng kém, v.v, mà anh chỉ đem sự thích của anh, lập đi lập lại mỗi khi có dịp nói về xe.

Sự thích của anh, nếu nói theo luật hấp dẫn là được Ngã Thức gởi ra vũ trụ, mà không có thời gian cố định là thời điểm nào. Cho nên, đến mãi mười năm sau thì cái thích của anh mới được vũ trụ biến thành hiện thực.

Và hiện thực khi đạt được chiếc xe không đúng thời điểm, không những đã không làm cho anh vui vẻ, hạnh phúc, mà lại là sự khổ đau và phiền não.

Bởi vậy, khi áp dụng luật hấp dẫn chúng ta cần phải rất cẩn thận, chúng ta phải hiểu được rất rõ ràng sự vận hành của các thức, chức năng của các thức, và nhất là ngôn ngữ của các thức. Nếu không, chúng ta không những, không đạt được kết qủa, mà chúng ta sẽ nhận được nhiều hậu quả như câu chuyện tiếp theo như sau:

Một người quen khác cũng chúng tôi cũng rất hứng thứ với luật hấp dẫn và anh muốn có thêm tài chánh nên đã đem điều ham muốn này, gởi ra ngoài vũ trụ.

Anh mong muốn trong vài tháng tới, anh có thêm $20,000. Một tháng sau, những công ty về thẻ tín dụng của anh tự động nâng cấp giá trị tín dụng của anh lên đúng $20,000 như anh muốn.

Cầm những thẻ tín dụng trong tay, anh xài vô tội vạ, giống như tiền từ trên trời rơi xuống vậy. Đến cuối tháng, thì những hóa đơn của thẻ tín dụng gởi về, bắt anh phải trả nợ số tiền mà anh đã xài qua thẻ tín dụng.

Anh không thể trả được hết nguyên số nợ, nên chỉ có thể trả góp giới hạn, và anh phải kép dài đến 8 năm sau, mới có thể trả dứt được $20,000, mà vũ trụ đã gởi cho anh.

Sau này, mỗi khi nghe ai nói đến luật hấp dẫn là anh né tránh, và coi đó như một sự lầm lẫn lớn nhất trong đời anh của anh. Bởi vì đối với anh, khi anh học chưa đến nơi đến chốn mà anh đã sử dụng nó một cách bừa bãi, cẩu thả gây ra biết bao hậu qủa mà anh phải gánh chịu, trong một thời gian khá dài.

Đứng trên luật hấp dẫn thì tiền nào cũng là tiền … nghĩa là, tiền nợ cũng là tiền, chứ không phải chỉ có tiền dư dả mới là tiền. Cho nên, khi bạn gởi nguồn năng lượng ra ngoài vũ trụ thì bạn cần phải chính xác và rõ ràng, nếu không thì bạn sẽ như người quen của chúng tôi, thay vì có tiền dư dả, thì lại trở thành tiền nợ.

Còn về phần bí mật thứ hai khi diễn giả cho rằng: “… trong đạo phật, vốn không có cái tôi, cho nên, nếu chúng ta cần tiền, thì chúng ta cần phải loại bỏ chữ tôi và chữ cần, mà chỉ còn lại là “có tiền”, thí dụ như: “tôi cần có tiền” thành “có tiền”, là đủ.”

Chúng tôi thì chưa bao giờ thấy trong đạo Phật đề cập đến luật hấp dẫn, nên không thể diễn giải theo tinh thần của đạo Phật được. Nhưng nếu diễn giả cho rằng, khi muốn gởi năng lượng ra vũ trụ phải bỏ đi cái tôi và cái cần, thì xem ra không hợp lý cho lắm.

Thí dụ, bạn có một trạm phát thanh và phát sóng ra ngoài, thì những làn sóng đó, phải được phát ra từ đâu, chứ không thể nào, không có trạm phát thanh, mà bạn có thể phát sóng được.

Địa điểm ở đâu, hay dụng cụ phát thanh tạo ra tần số sóng đó, cũng giống như thân thể, hay cái tôi của bạn. Mặc dù, trạm phát thanh hay dụng cụ phát sóng không phải là sóng, nhưng nếu không có trạm phát thanh, và dụng cụ thì không thể có sóng.

Nếu trạm phát thanh và dụng cụ phát sóng, muốn nhận lại sóng, thì cũng phải từ trạm phát thanh và dụng cụ đó nhận sóng, chứ không thể nào, không có trạm phát thanh và dụng cụ, mà bạn có thể nhận được sóng cả.

Cho nên, khi đem đạo Phật vào trong luật hấp dẫn và dùng thuyết vô ngã để giải thích sự tương tác với vũ trụ, hình như diễn giả đang “gượng ép” hai điều không giống nhau vào trong cùng một khuôn mẫu.

Học thuyết vô ngã của đạo Phật dùng để đối trị tâm chấp trước của Ngã Thức, vì cho thân này là tự có, liên quan đến góc độ của tâm lý, chứ không liên quan gì đến sự vận hành của vật chất, theo góc độ của vật lý. Cho nên, ở đây, có một sự nhầm lẫn giữa hai góc độ nhìn, vì thế cách ứng dụng trở nên không đúng cách và không hợp lý.

Thí dụ, bạn đang cần có tiền, mà bạn lại chỉ dùng 2 chữ: “có tiền”, thì bạn không thể “có tiền” được. Vì sao?

Vì hai chữ “có tiền” thuộc về ngôn ngữ của Ý Thức, nơi có sự phân tích, so sánh, mới tạo ra sự phân biệt có-không. Trong khi, ngôn ngữ của vũ trụ là năng lượng, thì ngôn ngữ của Ý Thức lại là lời nói, và chữ viết, cho nên, chẳng hề có sự tương tác nào.

Nếu bạn thật sự cần có tiền, thì chữ cần mới là ngôn ngữ của Ngã Thức, và chỉ có Ngã Thức mới có thể tương tác với vũ trụ. Nếu như ngã thức chỉ gởi ra ngoài vũ trụ “tôi cần” thì vũ trụ chẳng biết bạn cần cái gì để đáp ứng. Thế nên, Ngã Thức mới phải giải thích thêm cho rõ nghĩa cái cần là cần gì.

Chẳng hạn như: cần có tiền, cần có người yêu, hay cần có sức khỏe v.v. Mỗi một cái cần khác nhau sẽ tạo ra những tần số rung động khác nhau. Chính vì, có những tần số rung động khác nhau, nên mới tạo ra những sự giao hưởng trong vụ trụ tương ứng với nhau, và tạo ra những hiện tượng khác nhau, đáp ứng với sự giao hưởng.

Cho nên, nếu bạn bỏ chữ cần, thì bạn bỏ đi sự giao tiếp với vũ trụ, cho dù, bạn có gào khản cổ “có tiền” “có tiền” thì vũ trụ vẫn trơ trơ ra với bạn, vì vũ trụ chẳng hiểu gì cả. Đơn giản chỉ là thế.

Thật ra, nếu muốn dùng đạo Phật để diễn giải luật hấp dẫn thì phải dùng đến “Ái, Thủ, Hữu” trong 12 nhân duyên mới biết được sức mạnh của cái muốn tới đâu.

Trong 12 nhân duyên, sự tái sinh của con người bắt nguồn từ chữ Ái, nghĩa là ham muốn chứ không hề có chữ cần.

Đứng trên góc độ của Ngã Thức, Cần tuy là nguồn năng lượng, nhưng là nguồn năng lượng của sự hỗ trợ, chứ không phải là nguồn năng lượng của tác ý, hay rõ hơn là nguồn năng lượng của ham muốn.

Chỉ khi có sự tác động của ham muốn, thì nguồn năng cần mới được tác động, để hoàn thành cái muốn của Ngã Thức trong điều kiện có thể làm được. Khi không có thể làm được, thì lúc đó, Ngã Thức mới sử dụng đến cái cần của vũ trụ để thay thế cho cái cần của Ngã Thức.

Do đó, không có việc nguồn năng lượng của cần có thể gởi ra ngoài vũ trụ được, mà chỉ có nguồn năng lượng tác động hay nguồn năng lượng của muốn, mới đòi hỏi cái cần của vũ trụ cung ứng.

Thế nên, khi diễn giả cho rằng, thay thế chữ muốn bằng chữ cần, mới là dùng đúng ngôn ngữ của vũ trụ, thì đây chính là chuẩn những cần chỉnh.

Để cho dễ hiểu hơn, chúng ta có thể dùng dụng cụ định vị (Global Positioning System) trong xe hơi, để hiểu rõ hơn về sự tương tác với vũ trụ.

Trên xa lộ cao tốc, có cả chục ngàn chiếc xe, mỗi chiếc đều gởi tín hiệu đến vệ tinh (satellite), và sau đó, vệ tinh mới hướng dẫn mỗi một xe, đi về đúng hướng mà người lái xe muốn. 

Tuy có cả chục ngàn chiếc xe gởi tín hiệu cùng một lúc, nhưng vệ tinh vẫn hướng dẫn chính xác mỗi chiếc xe, mà không có lẫn lộn, đó là vì, mỗi chiếc xe đều có một định vị, và những tần số sóng khác nhau. Chính vì có chiếc xe làm định vị, và nơi đến khác nhau (tần số sóng), nên vệ tinh mới có thể thực hiện được.

Điều này, cũng giống như chúng ta, khi gởi những cái muốn ra ngoài vũ trụ, và cần vũ trụ đáp ứng lại những yêu cầu của chúng ta, nghĩa là, chúng ta phải có cái tôi với Ngã Thức, giống như chiếc xe có định vị và tần số sóng. Sau đó, Ngã Thức muốn gì, thì cũng giống như, nơi nào mà chúng ta muốn lái xe đến, để vệ tinh hướng dẫn cho chúng ta.

Nếu mỗi chiếc xe không có cái định vị riêng thì không thể nào vệ tinh có thể phân biệt được để mà đáp ứng. Cho nên, nếu diễn giả cho rằng, khi chúng ta cần có tiền, thì bỏ đi chữ tôi, và cần, mà chỉ nói có tiền, thì cũng giống như chiếc xe không có hệ thống định vị, và người lái xe, cũng chẳng muốn lái xe đến vị trí nào, thì cho dù, người đó có nói cả triệu lần vị trí đó, người đó cũng không thể nào đến được vị trí đó, trong khi, người đó lại vừa không biết đường đi mà lại cũng không muốn đi.

Như chúng tôi đã trình bầy, tuy là chúng tôi có nghiên cứu về luật hấp dẫn và áp dụng vào những kinh nghiệm khác, ngoài tài chính, nên chúng tôi chưa kiểm nghiệm, thực nghiệm và chứng nghiệm.

Vì vậy, những gì chúng tôi chia xẻ với bạn chỉ là những thông tin, những góc độ nhìn có hợp lý hay không, chứ đó không phải là sự thật.

Nếu bạn muốn biết đúng sự thật thì bạn phải kiểm nghiệm, thực nghiệm và chứng nghiệm trên chính bản thân của bạn. Bạn chỉ nên tin vào kết qủa, do chính những gì bạn đã trải qua, như vậy, mới là đúng với bạn nhất.

Luật hấp dẫn thì rõ ràng có trong vũ trụ, nhưng bạn có biết được sự tương tác với luật này hay không, thì còn tùy thuộc về sự hiểu biết của bạn, về sự vận hành của các thức như thế nào.

Chúng tôi không phải là những diễn giả, và cũng không muốn là diễn giả, cho nên, chúng tôi không tìm cách thuyết phục bạn tin vào những gì chúng tôi trình bầy, mà chúng tôi chỉ chia xẻ lại với bạn, những góc nhìn mà chúng tôi đã trải nghiệm qua, để bạn có chút tài liệu tham khảo.

Đời sống của chúng ta, ai cũng có cái muốn và cái cần cả. Nhưng nếu chúng ta có sự lẫn lần hay diễn dịch định nghĩa của muốn và cần không chính xác, thì những cái muốn hay cần của chúng ta sẽ khó mà có thể đạt được.

Mong thay, những sự chia xẻ này của chúng tôi có thể giúp cho bạn một góc nhìn mới, giúp bạn đạt được những gì bạn mong muốn.

CON TIM ĐỘ LƯỢNG

CON TIM ĐỘ LƯỢNG

NHẠC & LỜI :NGÔ HƯNG

CA SĨ: PHI PHI & GIA MINH – (TẢI -MP3)

HÒA ÂM: ĐỨC MINH

 

 

Từ em tôi biết tôi có biết bao niềm vui
Niềm vui khi biết em có trái tim từ bi
Từ trong tim đó tôi thấy đóa sen hồng xinh
Nở hương thơm ngát độ lượng bao dung

Từ em tôi biết tôi có biết bao niềm vui
Niềm vui khi biết em có trái tim rộng thương
Lòng thương nhân ái thương lớn giống như biển xanh
Biển xanh bát ngát mênh mông vô lượng

Hãy giữ lấy con tim luôn mở rộng
Cho yêu thương đầy ắp tim hồng
Hãy giữ lấy con tim luôn độ lượng
Cho nhân gian vơi bớt khổ đau

Từ em tôi biết tôi có biết bao niềm vui
Niềm vui khi biết vẫn có biết bao lòng thương
Lòng thương bác ái rộng mở vốn không biệt phân
Lòng thương thương mến thương người khốn nguy

Từ em tôi biết tôi có biết bao niềm vui
Niềm vui khi biết không có lẻ riêng mình tôi
Kìa trong nhân thế vẫn có biết bao người thương
Đẹp thay em hỡi con tim độ lượng

 

 

 

 

ỨNG XỬ RA SAO?

album-art

00:00

TẢI MP3 – DIỆU LIÊN

An bước vào nhà với thái độ giận dữ. Quăng chiếc ví và tập hồ sơ lên ghế sofa, An thả mình rơi xuống nặng nề. Bà Thân, mẹ của An ngồi chiếc ghế đối diện, nhìn đứa con gái yêu của mình một cách âu yếm. Để cho An nằm một lúc, Bà Thân đứng dậy bước qua ghế của con, ngồi xuống rồi ôm lấy An.

Bao nhiêu tức tưởi trong công việc của An như chợt vỡ ào trong vòng tay yêu thương của mẹ. An khóc như một đứa trẻ. Bà Thân vẫn ngồi im, ôm con trong lòng không nói một lời nào.

Sau một lúc, An bình tỉnh trở lại, ngừng khóc và bắt đầu nói với mẹ về những khó khăn, tức tưởi, mà mình phải chịu đựng trong công việc làm.

Bà Thân vẫn ngồi im nghe con kể lể về nhưng khó khăn, bị ức hiếp mà An phải đương đầu mỗi ngày. An nói với mẹ, cô không biết sẽ phải tiếp tục như thế nào, và An muốn buông xuôi, vì đã quá mệt mỏi, khi mãi phải đấu tranh với các đồng nghiệp, và ông chủ khó tánh, kỳ thị.

Bà Thân sau khi nghe con nói xong, không an ủi gì An, mà chỉ nắm tay con, rồi dắt An vào bếp. Bà đổ đầy nước vào ba cái nồi, rồi đặt chúng lên trên bếp lửa. Trong chiếc nồi đầu tiên, bà Thân đặt vào những củ cà rốt; trong chiếc thứ hai, bà đặt vào những quả trứng, và trong chiếc thứ ba, bà đặt vào một ít bột cà phê đã xay.

Sau đó, bà tiếp tục nấu sôi ba nồi nước, và không nói một lời nào. Chẳng mấy chốc, cả ba nồi nước đã sôi. Bà tắt lửa.

Bà Thân vớt những củ cà rốt ra và đặt chúng vào một cái chén. Bà lấy những quả trứng ra và đặt vào một cái chén khác. Bà lại lấy môi múc cà phê ra, và chế vào một ly thủy tinh. Quay sang An, bà Thân hỏi:

– An con, con hãy nói cho mẹ biết, con nhìn thấy gì?.

– Dạ, cà rốt, trứng và cà phê. An trả lời mẹ, rồi hỏi:

-Mẹ, điều đó có nghĩa là gì?

Bà Thân khẽ mỉm cười, nhìn con gái một cách âu yếm rồi trả lời:

-An con, nước sôi là biểu hiện của những khó khăn, thách thức, cam go trong cuộc đời mà ai cũng sẽ phải trải qua. Nhưng mỗi người chúng ta, ai cũng có quyền chọn lựa sự ứng xử như thế nào trước những khó khăn, thách thức và cam go.

Con hãy nhìn cả ba thứ: cà rốt, trứng và cà phê đi, tuy chúng cùng chịu chung một hoàn cảnh khó khăn thách thức là nước sôi như nhau, nhưng mỗi thứ lại cho ra những kết quả khác nhau. Con có để ý thấy không?

– Con không hiểu rõ lắm, mẹ có thể giải thích cho con được không?

– An con, nếu con để ý kỹ, con sẽ thấy, cà rốt khi chưa bỏ vào nước thì cứng, rắn và dai. Nhưng, sau khi bị bỏ vào

nước sôi, nó mềm đi và trở nên yếu ớt.

Quả trứng vốn rất dễ vỡ. Lớp vỏ bên ngoài tuy cứng cáp nhưng rất mỏng manh để bảo vệ cho lớp chất lỏng bên trong của nó. Ngược lại, sau khi được đặt vào trong nước sôi, phần bên trong của quả trứng lại cứng, lại khó vỡ.

Còn những hạt cà phê nghiền nát thì khác. Sau khi bỏ vào nước sôi, cà phê không những không biến chất, mà còn có thể biến đổi trạng thái của nước.

Vậy khi một hoàn cảnh khó khăn, thách thức, bất lợi đến gõ cửa nhà con, con sẽ chọn cách ứng xử nào? Con sẽ là củ cà rốt, là quả trứng hay bột cà phê?

– Nếu con chọn “Con là củ cà rốt, thì dường như bên ngoài con rất là mạnh mẽ, nhưng khi phải đối diện với khó khăn, đau khổ hay gặp hoàn cảnh bất lợi, con sẽ yếu mềm và mất đi sức mạnh của mình.

– Nếu con chọn là quả trứng, con sẽ bắt đầu với một trái tim mềm yếu, nhưng qua khó khăn, con lại trở nên cứng cáp và mạnh mẽ hơn. Giống như một người đàn bà Việt Nam nhìn bề ngoài thì như là một người có một tinh thần yếu đuối, nhưng sau những sự chia ly, khó khăn, thách thức, tinh thần của họ sẽ trở nên kiên cường vững chãi hơn như bên trong ruột trứng vậy.

– Còn Nếu như con chọn con là cà phê, thì càng khó khăn thách thức bao nhiêu, cà phê càng nồng và thơm bấy nhiêu. Không những cà phê đã nâng cao phẩm chất của mình mà còn biết biến chất sự khó khăn, thách thức thành lợi điểm cho mình. Nếu con giống như cà phê, con sẽ sống tốt đẹp hơn, và có thể thay đổi tình thế xung quanh con, khi mọi thứ đang trở nên tồi tệ nhất.

Trước những ngày tháng đen tối nhất và trước những thử thách cam go nhất, con sẽ nâng bản thân mình lên một tầm cao mới.

– An con, giá trị của con người không phải là nhà cao cửa rộng, xe đẹp, tiền nhiều, mà chính là sự biết lựa chon cách ứng xử như thế nào trước những hoàn cảnh khó khăn, thách thức cam go.

– Không có gì sai khi con chọn con là củ cà rốt, hay trái trứng, hay cà phê. Con chỉ có sai khi con đã lựa chọn nó, nhưng lại không chấp nhận kết qủa của nó. Đó chính là đầu mối của sự khổ đau con có biết không?

Từ xưa đến giờ An vẫn nghĩ, mẹ mình là “bà già quê” không có học thức, bằng cấp bằng mình. Nhưng hôm nay An mới hiểu thế nào là sự khác biệt giữa “trí thức” và “trí tuệ”.

Vừa hối hận về sự “coi thường” mẹ mình trong những năm qua, vừa hạnh phúc khi An “phát giác” ra mẹ mình chính là người thầy “trí tuệ” An vẫn đang tìm.

Giòng nước mắt tuôn chảy trên má An long lanh như những viên kim cương lấp lánh, qua ánh nắng, chợt chiếu qua khung cửa sổ.

An ôm mẹ mình thật chặt, như chưa bao giờ được ôm…, và trong ánh mắt của bà Thân hiện lên niềm hạnh phúc vô bờ…

TÔ BÚN BÒ HUẾ

album-art

00:00

TẢI MP3 – DIỆU LIÊN

Biết bố mẹ nghèo, khó có thể chu toàn cho mình học chương trình bác sĩ, Quân đã tự ghi danh làm những người bán hàng dạo để kiếm tiền dự trữ.

Trời muà hè, Arizona nắng như đổ lửa. Sáng nay vì quá vội, Quân đã quên mang theo chai nước giải khát hằng ngày.

Mặt Quân nhễ nhoại mồ hôi, và cổ thì khát đến khô và đắng. Vừa khát lại vừa đói, Quân mệt như muốn xỉu. Thò tay vào túi quần, chỉ còn vỏn vẹn có đồng 25 xu (quarter). Quân nghĩ, hay dùng 25 xu này, để mua một ly nước lạnh để giải khát và chống đói.

Quyết định xong, Quân bước đến một căn nhà cũ kỹ bên đường, đưa tay bấm chuông. Bước ra mở cửa là một phụ nữ tuổi trung niên.

Nhìn những giọt mồ hôi nhễ nhoại trên khuôn mặt Quân, người phụ nữ nói:

-Con có phải người Việt không?

-Dạ thưa Bác cháu là người Việt ạ.

Khổ thân con, sao trời nắng thế này, mà lại đi ngoài đường thế con. Hãy mau vào đây, ngồi cho mát tí đi con.

Theo chân người phụ nữ vào nhà, bà dẫn chân Quân đến ngồi trên chiếc sofa cũ kỹ, bạc mầu.

Con hãy ngồi đây nghỉ một chút, rồi Bác rót nước cho con uống giải khát nha. Người phụ nữ nói.

Vừa nói xong thì người phụ nữ đã nhanh chân bước vào nhà sau. Căn nhà khá nhỏ, nên mùi Bún Bò Huế từ phía sau, lan toả khắp cả căn nhà. Mùi Bún bò thơm ngon như khêu dậy cơn đói đang hoằng hành trong Quân tăng năng suất.

Bước ra từ phòng bếp, người phụ nữ bê trên tay một cái khay, với một tô bún bò Huế thật lớn, và một ly nước đá lạnh, với đôi đũa và chiếc muỗng, được xếp ngay ngắn trên mâm. Ngước nhìn người phụ nữ, Quân chạm ngay ánh mắt hiền từ, đầy yêu thương, khiến Quân như muốn rơi nước mắt.

-Này con, con hãy uống chút nước, rồi ăn tô bún bò này đi nhé. Bác còn bận một chút ở nhà sau.

Nói xong, người phụ nữ đặt chiếc khay xuống chiếc bàn trước mặt Quân, rồi chậm rãi bước vào nhà sau. Quân biết, thật ra bà chẳng có việc gì làm, vì Quân thấy bà chỉ ngồi yên trên chiếc ghế trong phòng ăn. Nhưng có lẽ, vì muốn cho Quân được ăn uống tự nhiên, nên bà mượn cớ ra đằng sau. Cách cư xử tế nhị của bà, càng khiến cho Quân thêm cảm động.

Quân vẫn ngồi yên bất động, không dám ăn và uống, bởi vì, Quân biết, mình chỉ đủ tiền để trả cho một ly nước lạnh mà thôi.

Như chợt nghĩ ra điều gì, người phụ nữ buớc ra phòng khách. Nhìn thấy Quân với tô bún bò trước mặt vẫn còn nguyên, Bà lên tiếng:

-Sao con không ăn đi, để nguội mất ngon con ạ.

Vẫn ánh mắt yêu thương và giọng nói nhẹ nhàng, bà khiến Quân không biết phải làm sao. Quân bối rối, móc trong túi ra đồng 25 xu, đặt trên mặt bàn, rồi ấp úng nói:

-Thưa Bác, cháu chỉ còn có 25 xu, đủ để xin mua một ly nước lạnh thôi. Cháu không có đủ tiền để trả cho Bác tô bún bò này ạ.

Vẫn nhìn Quân bằng ánh mắt yêu thương bà nói:

-Con à, Bác đâu có bán cho con đâu, Bác mời con mà. Con hãy ăn đi, đừng có ngại.

Nói xong, bà cầm đôi đũa lên, đặt vào tay Quân, rồi ép tay Quân nhúng vào tô bún. Trước cử chỉ chăm sóc ân cần của bà, Quân chợt thấy hình ảnh của mẹ mình ẩn hiện đâu đây.

Hai mươi năm sau…

“Bác sĩ Quân xin đến ngay phòng cấp cứu.”

Tiếng máy phóng thanh gọi trong bịnh viện đã gọi đến lần thứ hai. Quân rảo bước vào phòng bịnh. Đón nhận tập hồ sơ từ người y tá, Quân đọc qua tình trạng bịnh nhân.

Bà Nguyễn thị Hoa, bị té ngã đập đầu xuống đất, tạo nên máu bầm trong não.

Ồ thì ra bà ấy là người Việt Nam.

Nhìn thấy bà nằm thiếp trên giường, Quân chợt khẽ rung mình. Thì ra, đây chính là người phụ nữ ngày xưa đã từng mời Quân ăn tô bún bò Huế. Khuôn mặt hiền hậu ấy, tuy nay, đã có thêm nhiều nếp nhăn, nhưng khuôn mặt ấy, vẫn in sâu trong tâm trí Quân, không hề quên lãng.

Hai bác sĩ phụ chẩn cũng đã có mặt. Cả hai đều rất lo lắng vì cục máu bầm, nằm kế cạnh khu vực hệ thống điều khiển tay chân, nếu mổ không khéo, thì có thể dẫn đến bịnh nhân bị tê liệt suốt đời.

Sau những bàn luận, cuối cùng, Quân nhất định sẽ thực hiện ca mổ nguy hiểm này cho bà Hoa.

Bốn tiếng đồng hồ trôi qua, cuối cùng thì Quân cũng đã thành công trong ca phẫu thuật.

Ba ngày sau, bà Hoa đã khá tỉnh táo trên giường dưỡng sức, thì Quân bước vào phòng, nhìn bà rồi nói:

-Bác có nhận ra con không?

Bà Hoa như cố vận hết tâm trí của mình để nhớ xem đã gặp người bác sĩ vừa cứu mình là ai không, nhưng hình như, bà chẳng có chút thông tin nào. Nhìn khuôn mặt ngơ ngác của bà, Quân lên tiếng:

-Bác có còn nhớ hai mươi năm trước, bác đã từng cho con ăn bún bò Huế không?

Tuy được Quân nhắc nhở, nhưng hình như bà Hoa cũng chẳng nhớ được rõ ràng. Quân chợt hiểu, thì ra, lúc ấy, khi bà Hoa thi ân cho Quân, bà chẳng mong cầu được đền đáp, nên bà chẳng nhớ gì đến Quân. Ngược lại, Quân là người thọ ân, nên ánh mắt và khuôn mặt hiền từ của bà như in sâu vào trong ký ức.

Một tháng sau ngày bà Hoa xuất viện. Ngồi vào chiếc ghế quen thuộc, bà Hoa bắt đầu đâm lo.

Không biết sao lại xui đến thế. Đang yên đang lành thì bị té ngã, đến vỡ cả đầu khiến cho phải mổ. Khổ thay, bảo hiểm của bà vừa mới hết hạn tháng qua. Thế là số tiền dành dụm của bà bấy lâu nay sẽ không cách mà bay hết.

Nghĩ đến đó, lòng bà buồn vời vợi, nhưng cũng đành chịu thôi, vì bà cũng chẳng còn có cách nào.

Sáng nay, bà nhận được hai lá thư, trong đó, có tấm thiệp của bác sĩ Quân gởi lời vấn an và chúc sức khỏe bà. Đọc những giòng chữ được viết nắn nót từ tay bác sĩ Quân, lòng Bà cảm thấy vui và ấm áp. Lá thư thứ hai, từ bịnh viện. Bà biết, đây chính là hóa đơn viện phí.

Tim bà chợt đập nhanh hơn. Không biết, số tiền sẽ là bao nhiêu, và không biết số tiền dành dụm của mình có đủ để chi trả, hay lại thiếu không chừng. Nếu thiếu thì biết vay mượn ai? và nếu có vay mượn được, thì làm sao mà trả nợ. Càng nghĩ, bà càng buồn. Hai tay của bà đã lấm tấm mồ hôi và lạnh. Mở chiếc phong bì ra, bà run run mở tờ hoá đơn chậm rãi đọc.

“Thưa bà, đây là thông báo từ bịnh viện của chúng tôi. Đính kèm theo đây là hóa đơn cho viện phí. Xin cám ơn bà đã trả đầy đủ, và xin chúc bà có sức khỏe tốt.”

Có thật thế không? ai đã trả tiền cho bà? Bà lật ngay sang trang bên. Chiếc mộc đỏ “PAID IN FULL” bên cạnh có chữ ký của bác sĩ Quân.

Nước mắt nhạt nhòe trên khuôn mặt nhăn nheo của bà. Có lẽ, suốt đời bà, bà cũng không ngờ, chỉ với tấm lòng yêu thương và một tô bún bò ngày đó, mà ngày nay, bà nhân được sự trả ơn to lớn thế này.

Ngoài trời, mây vẫn trắng, trời vẫn xanh. Bà Hoa như cảm thấy cuộc đời tươi đẹp hơn, và nơi bịnh viện kia, lòng Quân cũng cảm thấy nhẹ nhõm, vui vẻ lạ thường.

Bạn thân mến,

Hạt táo tuy nhỏ nhưng khi được chăm bón cẩn thận, kỹ càng, thì lại hiến tặng cho đời những quả ngọt, thơm ngon.

Còn chúng tôi và bạn thì sao? Chúng ta có làm được như hạt táo không? Chúng ta sẽ làm gì để hiến tặng cho cuộc đời đang xáo trộn hôm nay?

Hãy bắt đầu làm từ những việc nhỏ nhất bạn nhé. Và nhớ, hãy làm bằng chất liệu yêu thương.

YÊU THƯƠNG KHÔNG ĐIỀU KIỆN

album-art

00:00

TẢI MP3 – DIỆU LIÊN

Bạn thân mến,

Khi những cơn gió lạnh đã bắt đầu vi vu trên bầu trời của các tiểu bang miền tây, thì ở những tiểu bang miền Đông… đã bắt đầu có những cơn mưa tuyết. Tuyết rơi… rơi… phủ trắng cả phố phường, nhà cửa, núi rừng. Nhìn đâu…bạn cũng thấy một mầu trắng tinh khôi, lạnh lẽo.

Nhưng ẩn sau sự trắng lạnh đó, lại là những lung linh, lấp lánh từ những ánh đèn xanh, đỏ, đang chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, và sự nồng ấm của sự đoàn tụ gia đình. Hay giản dị hơn, khi tuyết bắt đầu rơi… thì đó cũng là sự báo hiệu của một mùa lễ hội mới sắp bắt đầu, và khởi đầu là Lễ Tạ Ơn (Thanksgiving).

Chủ đề hôm nay, chúng tôi muốn chia xẻ lại với bạn về câu chuyện “Yêu Thương không điều kiện”.

Vốn giỏi toán, lý, hóa, Hòa đã chọn nghành kỹ sư phần mềm (software engineering), thay vì chọn nghành bác sĩ như mẹ mong muốn. Mới ngày nào, Hòa còn ngớ ngẩn, loanh quanh đi tìm lớp, mà nay, Hòa đã đứng đọc bài diễn văn tốt nghiệp trước toàn trường.

Vì đỗ thủ khoa, nên ngày Hòa ra trường, những công ty nổi tiếng như Microsoft, Oracle, Sap, Symantec đã tranh nhau dành Hòa về công ty với những đề nghị lương bổng hấp dẫn.

Không như các bạn thích về làm việc cho các công ty lớn, Hòa lại chọn về làm việc cho một công ty “vô danh tiểu tốt”, vừa mới thành lập chưa được một năm. Có lẽ, tính của Hòa thích thử thách. Càng gặp nhiều thử thách chừng nào, thì Hòa lại càng sáng tạo nhiều chừng ấy.

Công việc trong một công ty nhỏ bé luôn đòi hỏi mỗi người làm việc bằng hai, ba người thường. Hòa không những không than van, mà lại cảm thấy rất thích thú. Miệt mài trong công việc, ba tháng sau, Hòa đã được phân công làm dự án quan trọng nhất công ty. John, chủ nhân của công ty, luôn lắng nghe và làm theo những lời đề nghị của Hòa.

Miệt mài không quản ngày đêm, 9 tháng sau, Hòa đã đem về cho John hơn 2 triệu mỹ kim. John đã quyết định chia huê hồng cho Hòa 30%.

Cầm tấm check hơn nửa triệu trao cho mẹ, Hòa cảm nhận được sự tự hào của mẹ về mình.

6 tháng sau, John trong một chuyến đi công tác, vì bất cẩn gây tai nạn đụng xe, bị thương nghiêm trọng.

Một tuần sau, John đột ngột qua đời. Mary, vợ John, là giám đốc tiếp thị cho một công ty lớn, nên không có kinh nghiệm và thời gian cho việc điều hành công ty, vì thế giao toàn quyền quản lý và điều hành cho Hòa.

6 tháng sau, Mary đề nghị bán lại công ty cho Hòa với giá nửa triệu đô.

Lúc này, Hòa đã làm đám cưới với Hiền, người học chung trường đại học với Hòa. Hiền và Hòa quen nhau đã 3 năm, nên khi kết hôn, mẹ Hòa cũng yên lòng. Bất hạnh thay, sau khi đám cưới được một tháng, thì mẹ Hòa mất vì bị trụy tim.

Ngày mẹ mất, Hòa khóc đến khô nước mắt. Bố của Hòa mất khi Hòa mới 10 tuổi. Mẹ của Hòa vẫn không tái giá, ở vậy nuôi con. Nhà chỉ có hai mẹ con, nên Hòa với mẹ rất thân, như hai người bạn thâm giao vậy. Không có chuyện gì Hòa giấu mẹ.

Cho nên, khi mất mẹ, Hòa không chỉ mất đi một người mẹ dịu hiền, mà Hòa còn mất đi một người bạn thâm giao nữa. Niềm đau nỗi khổ ấy, khó mà có thể dùng ngôn từ diễn tả.

Tuân theo di chúc của mẹ, Hòa hoả tang mẹ và đem tro cốt của mẹ lên chùa. Từ đó, mỗi chủ nhật cuối tuần, Hòa hay lên chùa, ngồi một mình, tâm sự với mẹ. Thói quen đó, đã khiến Hiền không hài lòng, vì Hiền vốn không thích đi chùa, nên giữa Hòa và Hiền thường hay to tiếng với nhau.

Vừa buồn vì mất mẹ, lại bực vì cãi cọ với Hiền, thêm vào đó, công việc công ty càng phát triển. Mỗi ngày, Hòa làm việc không ít hơn 12 giờ. Có nhiều hôm, Hòa không về nhà, mà ngủ luôn tại công ty.

Hiền còn trẻ, còn đang khao khát yêu đương. Sự vắng mặt liên tục của Hòa, đã khiến cho đời sống tình cảm của vợ chồng thêm lạnh lẽo. Chuyện phải đến, cuối cùng đã đến. Hiền đã ngoại tình với Khang, người đã từng theo đuổi Hiền, khi Hòa và Hiền còn đang là cặp tình nhân.

Ngày đó, Hòa vô tình về nhà vào buổi trưa để lấy tập hồ sơ bỏ quên, đã chứng kiến cảnh vợ mình đang nằm trong vòng tay người khác. Không nói không rằng, Hòa cắn chặt môi đến rướm máu, đóng mạnh cánh cửa, ra xe, Hòa lái xe nhanh vun vút.

Là một người tự phụ và hiếu thắng, Hòa không thể nào chấp nhận, mình là người thua cuộc. Cho nên, trong cơn giận ngút ngàn, ý định giết chết đôi gian phu, dâm phụ kia đã loé lên trên tâm tưởng.

Trời đang mùa đông… gió lạnh, nhưng Hòa vẫn quay cửa kính xuống cho gió lùa vào trong xe. Hai tay Hòa lạnh cóng, nắm chặt vô lăng, nhấn mạnh ga, Hòa cứ thế, lái xe lao vút trên mặt đường đang băng giá.

Gió lạnh, giúp cho Hòa tỉnh táo. Đêm đó, đến 2 giờ sáng, Hòa mới về đến nhà. Nhà vắng tanh, không một bóng người. Vào phòng ngủ, thấy căn phòng trống vắng. Hiền đã bỏ đi đâu, Hòa không biết.

Ngồi xuống giường, Hòa ôm đầu suy nghĩ một lúc rồi đứng dậy ra bàn viết, lấy giấy, viết một lá thư trao hết tài sản, và cả công ty cho Hiền. Đặt cây bút và chùm chìa khóa nhà và công ty, dằn trên mặt giấy, Hòa lững thững lê những bước chân nặng trịch, với tấm lòng đầy thù hận, bước ra khỏi phòng ngủ, rồi đi ra ngoài cửa, với chiếc áo ấm và chiếc quần Jean.

Đứng trước cửa nhà, Hòa nhìn nó một lần cuối, trước khi quyết định, làm kẻ sống vô gia cư.

Hai năm sau…

Mùa đông năm nay, trời mưa tuyết khá nhiều. Nơi Hòa tạm trú qua đêm là một góc kẹt của một căn tiệm bán chạp phô. Mỗi ngày, Hòa lang thang đi xin tiền khách qua đường. Tới đêm về, khi cửa tiệm đóng cửa, thì Hòa chui vào góc đó để ngủ.

Sáng nay, xin mãi chẳng ai cho đồng nào, khiến bụng Hòa đói cồn cào, khó chịu. Hòa cố bước đi về hướng căn lều tạm bợ. Vừa đói, lại vừa gầy gò, đôi chân run rẫy vì lạnh của Hòa đã không chống nổi cơn gió mạnh thổi qua. Hòa quỵ xuống bên lề đường, toàn thân run rẫy.

Đột nhiên, một chiếc xe hơi dừng lại. Bước xuống xe là một người đàn ông già, tóc đã hoa râm. Ông đi ra sau xe, mở thùng xe, lấy một chiếc chăn, rồi nhanh chân hướng về phía Hòa đang ngã. Nhanh tay, ông chùm chiếc chăn lên người Hòa, rồi mở bóp, rút ra tờ 20 đô, dúi vội vào tay Hòa. Ông không nói một câu, chỉ nhìn Hòa với ánh mắt, hiền từ, đầy thương cảm.

Hòa chưa kịp nói lời cám ơn, thì ông đã lên xe, lái đi. Trước khi đi, ông vẫy tay chào Hòa lần cuối.

Đã hai năm làm kẻ sống vô gia cư, tâm hồn của Hòa đã trở nên chai đá với cách cư xử khinh khỉnh, coi thường của người cho. Nhưng cách cư xử của người đàn ông vô danh này, lại khiến Hòa bật khóc. Hòa khóc, bởi vì hành động của ông, đã đánh thức dậy hình ảnh của bố Hòa.

… Hòa còn nhớ như in, năm đó, vào đúng sáng ngày mồng một Tết, khi Hòa vừa bước vào tuổi thứ chín.

Trời Pleiku, xứ tây nguyên, mà theo như nhà thơ Nhất Tuấn thì “quanh năm muà đông” rất lạnh. Hòa đã thức dậy rất sớm, và mặc bộ quần áo mới, mà mẹ đã chuẩn bị cho Hòa từ tối hôm qua, trước khi Hòa đi ngủ. Co ro ngồi bên cạnh bố, Hòa đang chờ ánh mặt trời lên, để nhận bao lì xì.

Nhà Hòa vốn nghèo, nên ít khi nào bố mẹ Hòa cho Hòa tiền. Vì thế, chỉ có đến tết, thì Hòa mới có cơ hội làm chủ những đồng bạc giấy thơm tho.

Đột nhiên, có tiếng gõ cửa. Đứng dậy, Hòa theo bố ra mở cửa. Đứng trước cửa là một bà lão ăn mày, ăn mặc rách rưới, vá chằng vá chịt, đang đứng run rẫy trong gió buốt đầu năm. Vừa thấy bà cụ, bố của Hòa đã nhanh tay cầm lấy tay bà, dìu bà bước vào nhà, rồi thuận thay đóng lại cánh cửa.

Dẫn bà cụ về chiếc ghế cũ kỹ, mời bà ngồi xuống xong, bố của Hòa đã nhanh tay rót cho bà ly nước trà nóng. Nhìn thấy bà run cầm cập, Bố đã giựt phăng chiếc màn chắn nắng trên cửa sổ xuống, choàng ngay lên người bà cụ. Sự ấm áp của căn phòng được đốt bởi bếp than, thêm chiếc màn treo cửa sổ, và ly trà nóng, đã khiến cho khuôn mặt tái xanh của bà cụ trở nên hồng hào.

Bà cụ đặt ly nước xuống, hai dòng nước mắt cứ tuôn, run run giọng nói:

-Tôi xin cám ơn ông, đã không trách mắng đuổi xua tôi đi, khi ngoài trời gía rét như thế này…

Không đợi bà cụ nói hết câu, bố của Hòa đã lên tiếng:

-Cụ ơi, ơn với nghĩa gì. Nhà con tuy nghèo tiền nghèo bạc, nhưng nhất định không nghèo tình thương.

Nghe xong câu nói của bố Hòa, nước mắt bà cụ lại trào ra. Thấy bà cụ khóc, bố của Hòa bước lại gần bên bà, đặt nhẹ tay lên vai gầy guộc của bà, nhẹ nhàng nói:

-Năm hết Tết đến, vợ chồng con và cháu vui mừng đón bà xông Tết đầu năm. Chúng con không biết có thể làm gì cho bà. Thôi thì bà hãy chung vui với vợ chồng con, dùng tạm miếng bánh chưng, bà nhé.

Không đợi bà cụ có ưng hay không, bố của Hòa đã nhanh chân đến bàn thờ lấy chiếc bánh chưng xuống, mở lạt, bóc lá, cắt bánh mời bà. Bà cụ ngần ngại, ngồi yên không cầm đũa lên, cứ nhướng mắt nhìn bố của Hòa. Như chợt nghĩ ra điều gì, bố của Hòa bước đến cầm đôi đũa lên, rồi đặt vào tay bà cụ nói :

-Cụ cứ tự nhiên dùng đi, Đêm qua cúng giao thừa, vợ chồng con ăn khá nhiều, nên giờ vẫn còn cảm thấy no. Cụ cứ dùng đi cụ nhé.

Nói xong, bố của Hòa đã cầm tay có đôi đũa của bà, đặt vào chiếc bánh chưng.

Biết không thể từ chối, và có lẽ bà đã đói mấy ngày, nên bà đã không còn khách sáo, gắp vội miếng bánh chưng, cắn một miếng thật to. Trong khi bà cụ đang ăn, thì bố của Hòa đã bước vào nhà sau. Khoảng 5 phút sau, thì bố và mẹ của Hòa cùng bước ra phòng khách. Trên tay, mẹ của Hòa còn cầm một bọc ny lông hơi căng.

Đợi cho bà cụ ăn xong, bố của Hòa mới cầm bọc ny lông nơi tay mẹ, đặt xuống bàn rồi nói:

– Cụ ơi, vợ của con đã chọn được hai bộ quần áo khá mới để xin tặng cụ. Nhà chúng con cũng chẳng dư dả gì. Đây là hai bộ quần áo tốt nhất của vợ con đấy. Xin cụ nhận cho, coi như quà tết của vợ chồng con biếu cụ nhé.

Nước mắt của bà cụ lại trào ra như suối. Bà dùng đôi tay nhem nhuốc của mình quẹt đi hai dòng nước mắt, nhưng sao vẫn chẳng thể dừng… Bà run giọng nói:

– Ơn này của cô cậu, tôi xin kết cỏ ngậm vành, chỉ xin đợi đến kiếp sau mới trả.

– Sao cụ lại khách khí thế! Vợ chồng con có làm ơn gì cho cụ đâu, xin cụ chớ phải bận lòng…

Trời đã sáng tỏ, ánh nắng đã xuyên qua khung cửa sổ thiếu tấm màn che, len lỏi vào phòng. Bà cụ đứng dậy, chấp đôi tay gầy guộc, hướng về bố mẹ Hòa, xá một xá. Hòa thấy bố hoảng hốt nhẩy tránh sang một bên, cũng chấp đôi tay, bố của Hòa cũng xá lại bà một xá, rồi nói:

– Cụ ơi! cụ đừng làm thế. Tội cho vợ chồng con lắm. Chúng con không đủ đức để nhận xá của cụ đâu.

Bà cụ nước mắt vẫn lưng tròng, rưng rưng nói:

– Dù vợ chồng cô cậu có nhận hay không, thì ơn đức này sẽ theo tôi mãi mãi.

Tiễn bà cụ ra cửa, khi đi ngang bàn thờ, bố của Hòa đã không quên cầm theo túi lì xì dúi vào tay bà cụ.

Ngồi lặng yên trên chiếc ghế đối diện bàn thờ, nước mắt Hòa chẩy xuống khi nhìn thấy bao lì xì của Hòa, không cánh mà bay.

Đóng cửa lại, thấy Hòa nước mắt ướt má, mặt buồn hiu, bố của Hòa, bước đến bên Hòa, nhẹ nhàng hỏi:

-Sao con lại khóc và buồn thế con?

Hòa hậm hực nói:

-Sao bố lại lấy bao lì xì của con cho bà cụ đó chứ! Vậy là Tết năm nay con sẽ không có lì xì rồi. Con ghét bà ấy lắm!

Nhìn Hòa bằng ánh mắt thương yêu, hơi đượm buồn, bố của Hòa nói:

-Hòa con, sống ở trên đời, có duyên được gặp nhau đã là phước lớn. Chúng ta phải biết yêu thương và giúp đỡ lẫn nhau khi hoạn nạn, khốn cùng. Con có thể mừng, vì có bao lì xì, rồi xài phung phí. Nhưng với cụ bà thì những đồng tiền nhỏ nhoi kia, có thể giúp được bà sinh tồn. Tại sao con chỉ vì chút vui mừng mong đợi nhỏ nhoi của con, khi không được lì xì, mà sinh lòng oán hận cụ bà vậy hả con? Hòa con, sự ganh ghét tỵ hiềm, thù hận đã hủy diệt đi hạt giống yêu thương trong lòng con, con có biết không?

Con người hôm nay, sở dĩ có quá nhiều khổ đau, là vì họ đã đánh mất đi hạt giống yêu thương trong họ.

Con ơi, mai sau, con khôn lớn nên người, con phải nhớ, tưới tẩm và nuôi dưỡng hạt giống yêu thương trong con, con nhé.

-Thưa bố, không phải con không thương bà cụ đó, nhưng khi con thương ai, thì con phải có điều kiện thì con mới thương được.

-Hòa con, nếu khi con yêu thương ai, mà có điều kiện, thì bố xin con, con đừng thương yêu ai hết, con nhé. Vì thương yêu có điều kiện thì còn tệ hại hơn cả ghét ganh, thù hận, tỵ hiềm. Nó không chỉ làm cho con khổ đau hơn, mà nó còn là ngục tù được ngụy trang bởi vẻ đẹp bên ngoài hào nhoáng, danh thơm, nó sẽ nhốt con vĩnh viễn trong ngục tù đen tối…

Ngoài trời, tuyết đã ngừng rơi. Ánh sáng đêm trăng rằm, chiếu trên mặt tuyết, phản chiếu lunh linh, tuyệt đẹp. Ngồi lặng yên trong căn lều dựng bằng carton, hình ảnh Hiền hiện về chiếm trọn tâm trí của Hòa, cùng câu nói của bố.

Nước mắt Hòa cứ vậy chảy tuôn. Sâu thẳm trong tâm trí của Hòa, chợt bỗng nổi lên cơn sóng hối hận, ăn năn. Có lẽ, đến lúc này, hơn hai mươi năm sau, Hòa mới có thể hiểu được hết tai hại từ “câu yêu thương có điều kiện” mà bố đã dậy dỗ năm nào.

Không phải, khi Hòa yêu Hiền, thì Hòa đang yêu có điều kiện hay sao? Hòa đã bắt Hiền phải nghỉ việc ở nhà, vì sợ Hiền quen với người khác. Hòa để Hiền cô quạnh một mình, trong khi Hòa lại ngụy trang bao biện cho sự làm việc quên thời gian, là vì lo cho hạnh phúc gia đình.

Không phải là Hòa đã quá tàn nhẫn, cay độc, trả thù Hiền, khi đã để lại tất cả gia sản cho Hiền, và chọn làm kẻ vô gia cư; bởi vì Hòa đã biết “khuyết điểm” của Hiền, là người luôn bị sự ăn năn, hối hận dày vò, trong nhiều tháng, nhiều năm, vì những chuyện lỗi lầm nhỏ nhặt trong quá khứ hay sao?

Thế mà, lúc nào Hòa cũng nói là yêu thương Hiền hết mực. Yêu thương thế này, thì đúng như lời bố dậy, thà đừng yêu thương còn hơn. Không những đã không đem lại hạnh phúc cho nhau, mà còn khiến cho cả hai chìm sâu trong thù hận, ăn năn, đau khổ, dầy vò.

Mặt trời đã ló dạng, ánh nắng bình minh đã xua tan đi màn đêm tăm tối. Nắm chặt 20 đô của người đàn ông tốt bụng trên tay, hình như, trong Hòa đã có một sự quyết định.

Thu dọn lại căn lều giấy carton và mới quần áo dơ bẩn, Hòa bỏ vào cái bao rác mầu đen, rồi đem tất cả, bỏ vào thùng rác lớn, phía sau căn tiệm chạp phô.

…Tiếng vỗ tay vang dội, khi tên Hòa được xứng lên trên máy vi âm, là một doanh nhân thành công nhất trong năm.

Bước lên nhận phần thưởng xong, ban tổ chức đã yêu cầu Hòa phát biểu.

Các bạn thân mến,

Có thể nói, tất cả vinh quang mà hôm nay tôi có được, đều bắt đầu từ người đàn ông tốt bụng vô danh đã giúp đỡ tôi trong ngày giá lạnh cách đây 5 năm. Tôi không biết tên ông là gì và ở đâu? Ông có còn sống hay đã chết?

Nhưng tôi có thể khẳng định với các bạn rằng, sự thành công có được hôm nay của tôi, chính là từ tấm lòng “yêu thương không điều kiện” của ông đã hiến tặng cho tôi. Tôi xin hiến tặng tất cả những phần thưởng quý giá hôm nay tới ông – người đàn ông tốt bụng vô danh.

Đối với tôi, chỉ có ông, mới xứng đáng nhận được phần thưởng cao quý này.

Bạn thân mến, nếu bạn muốn thành công hay thành nhân trong cuộc đời của bạn, thì bạn hãy bắt đầu sống bằng sự yêu thương không điều kiện, bạn nhé.

Nhìn xuống bên dưới khán đài, Hòa bắt gặp ánh mắt của Hiền, đang ngồi ở dẫy ghế thứ hai, với hai giòng lệ  chẩy dài trên má.

Trong lòng Hòa tự nhiên thấy thương Hiền nhiều hơn là hận. Bởi vì, tất cả những lỗi lầm, mà ngày xưa, Hòa đã đổ lên đầu Hiền, thì hôm nay Hòa mới biết, Hiền là người vô tội. Người mà đã gây nên mọi sự khổ đau, thù hận trong tâm hồn của hai người, đó chính là Hòa.

Những tràng vỗ tay vang lên không ngớt trong hội trường, như tiếng pháo nổ của mùa xuân.

Mùa xuân vừa đến, ngự trị trong lòng Hòa, khi bóng đêm thù hận, đã bị xua tan đi bởi nắng ấm của hiểu biết và yêu thương.

THƯƠNG MÀ KHÔNG HIỂU

THƯƠNG MÀ KHÔNG HIỂU

NHẠC & LỜI :NGÔ HƯNG

CA SĨ: PHI PHI & GIA MINH – (TẢI -MP3)

HÒA ÂM: ĐỨC MINH

 

Thương mà không hiểu sao thương

Thương mà không hiểu đoạn trường khổ nhau

Thương mà không hiểu lòng đau

Thương mà không hiểu trước sau mất người

Thương mà không hiểu biếng cười

Thương mà không hiểu chỉ khơi thêm sầu

Thương mà không hiểu thêm rầu

Thương mà không hiểu hố sâu ý ý nghìn trùng

Thương mà không hiểu đến cùng

Thương mà không hiểu lạnh lùng cách xa

Thương mà không hiểu lệ nhòa

Thương mà không hiểu sao mà bảo thương

 

BẠN ĐỪNG LO, TÔI CHÍNH LÀ HY VỌNG

album-art

00:00

TẢI MP3 – MỴ HẰNG

Bạn thân mến,

Hy vọng, vốn chỉ là cụm từ đơn thuần, vô nghĩa, mà thông thường mọi người trong chúng ta, đều không muốn tìm hiểu, nhưng nó lại là động lực mạnh mẽ giúp chúng ta thành công trong cuộc đời.

Trên đường đời, chưa ai trong chúng ta không một lần vấp ngã. Hy vọng như một ngọn hải đăng giữa trùng khơi vạn lý, sẽ giúp chúng ta vực dậy trong những lúc tuyệt vọng nhất của bóng tối cuộc đời.

Xin mời bạn lắng nghe đôi lời thì thầm của các ngọn nến giữa màn đêm u tịch.

Trong một căn phòng vắng lặng. Nó im lặng đến nỗi, chúng ta có thể nghe thấy những lời trò chuyện của các ngọn nến. Có tất cả bốn ngọn nến đang cháy và chúng tâm sự với nhau.

Ngọn nến thứ nhất nói: “Ta là ngọn lửa biểu tượng cho sự Hoà Thuận. Thế nhưng ở thời điểm này, ta thật bất hạnh. Mọi người luôn gây chiến tranh và thù hận với nhau, vì thế ta có nên tồn tại nữa hay không? “. Nói xong ngọn nến từ từ mờ dần, rồi lịm tắt hẵn.

Ngọn nến thứ hai tiếp lời: “Còn ta, là biểu tượng của tình Yêu Thương. Nhưng thật trớ trêu thay, ngày nay con người gần như quên hẳn ta. Mọi người ghen ghét, đố kỵ lẫn nhau. Thậm chí ngay cả anh em trong một nhà cũng vậy. Ta chán quá”. Nói xong, ngọn nến cũng phụt tắt.

Tiếp theo, ngọn nến thứ ba lên tiếng: “Ta chính là Niềm Tin. Nhưng cuộc sống bây giờ có ai còn cần ta nữa. Ta trở nên một kẻ thừa thãi và xa xỉ. Con người bây giờ, chỉ chạy theo những thực dụng, và không bao giờ còn tin vào chính mình. Ta đi đây.” Nói xong nó cũng từ từ tắt, và toả ra một làn khói trắng.

Căn phòng lúc đó, trở nên tối tăm và lạnh lẽo. Chỉ còn một ngọn nến cuối cùng đang cháy, như một vì sao lẻ loi cuối chân Trời.

Thình lình, một cậu bé bước vào, và nói: “Tại sao các bạn không cháy nữa. Thế Giới này vẫn cần đến các bạn mà”.

Lúc đó, ngọn nến thứ tư lến tiếng: “Bạn đừng lo. Tôi chính là Hy Vọng. Nếu tôi vẫn còn cháy, cho dù ngọn lửa có mong manh thì chúng ta vẫn có thể thắp sáng lại Hoà Bình – Tình Yêu và Niềm Tin”.

Đôi mắt cậu bé sáng lên, và cậu bé đã dùng ngọn nến thứ tư – ngọn nến Hy Vọng, để thắp sáng lại những ngọn nến đã tắt.

Cậu bé đã dùng ngọn nến thứ tư để thắp sáng lại những ngọn nến: Hoà Bình, Tình Yêu và Niềm Tin trong cậu. Còn bạn thì sao?

KHÔNG AI NỢ AI

KHÔNG AI NỢ AI

NHẠC & LỜI :NGÔ HƯNG

CA SĨ: GIA MINH – (TẢI -MP3)

HÒA ÂM : ĐỨC MINH

Không ai nợ ai – dù chỉ một ngày

tình đến tình cờ – rồi tình lại đi

Không ai nợ ai – dù chỉ một lần

tình đến thật gần – rồi tình xa xăm

Không ai nợ ai – dù đó nợ tình

tình đó nụ quỳnh – vừa tàn hôm mai

Không ai nợ ai – dù đó nợ người

tình nhuốm hồng đời – rồi tình thiên thu

Không ai nợ ai – không ai nợ tình

tình đó một mình – ngồi khóc giữa khuya

Không ai nợ ai – dù chỉ một lần

tình đó mộ phần – nghìn trùng xa nhau

Không ai nợ ai – dù đó nợ người

ai nợ ai người – từng lời thề bay

Không ai nợ ai – chẳng có nợ đời

chỉ có một đời – này cứ rong chơi

MƠ NGƯỜI YÊU THƯƠNG

MƠ NGƯỜI YÊU THƯƠNG 

Nhạc & Lời: Ngô Hưng


Ca Sĩ: PHI PHI
(TẢI – MP3)

HÒA ÂM : ĐỨC MINH

 

Người già bơ vơ 

nằm trơ thân gầy

mắt lệ đong đầy

thương phận bơ vơ

thương phận bơ vơ

Người già đêm mơ

nằm mơ thấy người

Tim người mở rộng

ân cần thương trao

ân cần thương trao

Người già chiêm bao

tim ấm ngọt ngào

trong vòng tay người

trong vòng tay yêu

Người già cô liêu

sáng tối sớm chiều

nay người có người

có người yêu thương

có người yêu thương

Người già đếm sương

Nằm trên hè đường

Mơ người … thương người

Mơ người yêu thương

TRÁI TIM – BỘ ÓC VÀ CÁI LƯỠI

album-art

00:00

TẢI MP3 – MỴ HẰNG

Bạn thân mến,

Có bao giờ trong một lúc an nhàn, ngồi suy tư trong khoảng không gian yên tịnh, bạn hình dung và suy ngẫm vể sự liên kết kỳ thú giữa TRÁI TIM – BỘ ÓC VÀ CÁI LƯỠI chưa?

Nếu bạn chưa có cơ hội này, thì xin mời bạn hãy cùng chúng tôi trải nghiệm và cảm nhận giá trị của 3 “Nhân vật” đặc biệt này nhé!

Một ngày nọ, trái tim, bộ óc và cái lưỡi đồng ý với nhau sẽ không bao giờ nói những lời đơn giản, quê mùa nữa.

  • Trái tim: “Những lời nói đơn giản, quê mùa chỉ làm bận rộn ta thôi. Chúng làm tự cho mình trở nên yếu đuối. Sống trong thời buổi này, trái tim phải trở nên cứng rắn, cương quyết chứ không thể mềm nhũn dễ bị xúc động được.”
  • Bộ óc đồng tình: “Đúng thế, thời buổi này chỉ có những tư tưởng cao siêu, những công thức tuyệt vời, những công trình vĩ đại mới đáng cho bộ óc suy nghĩ tới. Những lời nói đơn giản, quê mùa chỉ làm mất thời gian, mà thời gian là vàng bạc.”
  • Cái lưỡi nghe trái tim và bộ óc nói thế không khỏi hãnh diện và tự cảm thấy mình trở nên rất quan trọng, mặc dù cái lưỡi chỉ là bộ phận nhỏ bé của thân thể. Vì thế lưỡi cũng đồng tình: “Hai anh quả thật đã đạt được tột đỉnh của sự khôn ngoan. Nếu hai anh nghĩ thế thì kể từ nay tôi sẽ chỉ nói những từ cao siêu, những lời văn hoa mỹ, những bài diễn văn sâu sắc hùng hồn.”

Kể từ dạo ấy, trái tim chỉ gửi đến lưỡi những lời nói cứng cỏi, bộ óc chỉ hình thành và gửi xuống lưỡi những tư tưởng cao siêu và lưỡi không còn nói những lời đơn giản, quê mùa nữa.

Thời gian trôi đi. Mặt đất trở nên tẻ nhạt như vạn vật mùa đông. Không một chiếc lá xanh, không một cánh hoa đồng nội và lòng người cũng trở nên chai đá như những tháng hè oi bức.

Nhưng những vị cao niên vẫn còn nhớ những lời nói đơn giản, quê mùa đó. Đôi lúc miệng họ vô tình bật ra những lời nói quê mùa chơn chất.

Lúc đầu họ sợ bị bọn trẻ chê cười. Nhưng kìa, thay vì chê cười, những lời nói quê mùa chơn chất đó lại được truyền từ miệng này sang miệng khác, từ bộ óc này sang bộ óc khác, từ trái tim này qua trái tim nọ. Cuối cùng chúng xuất hiện như những đóa hoa phá tan lớp băng tuyết giá lạnh để vươn cao làm đẹp cho đời.

 

GÓC NHÌN VÀ CẢM NHẬN

album-art

00:00

TẢI MP3 – BÍCH HÀ

Bạn thân mến,

Bốn chữ “góc nhìn” và “cảm nhận” thì chúng ta thường thấy nhan nhãn mỗi ngày trên các trang sách, báo, hay tin tức, nhưng góc nhìn là gì, và cảm nhận là gì, chính là chủ đề mà chúng tôi muốn chia xẻ với bạn hôm nay.

Thế nào là “Góc Nhìn”?

Khi bạn cầm một ly café Starbucks đi trên phố. Một người đi từ phía ngược lại, ánh mắt bỗng toát lên sự  đố kỵ, ganh ghét. Khi  hình ảnh của bạn tiếp xúc với ánh mắt đố kỵ, ganh ghét đó, ý thức của người đó sẽ diễn dịch như sau:

Ồ! Con người hôm nay sao mà sống ảo quá, cứ tưởng là cầm một ly café Starbucks thì cho là mình sang lắm. Không biết có biết thưởng thức café hay không, hay chỉ làm mầu, muốn cho thiên hạ biết mình đang uống café Starbucks, chứ có biết café là cái quái gì.

Sau đó, bạn tiếp tục đi về phía trước, gặp được một người bạn thương gia mà bạn đã hẹn. Anh ta trông thấy bạn cầm ly café Starbucks, tỏ vẻ rất khinh thường, nhưng cũng không nói gì.

Nhưng trong Ý thức của thương gia đó sẽ diễn dịch như sau:

Ồ! Người này kể ra cũng tiết kiệm lắm, thời thế bây giờ, mà vẫn còn uống café Starbucks ư! Người ta sớm đã đổi sang uống café cao cấp từ lâu lắm rồi, vậy mà vẫn còn uống loại café đại chúng này, thì ra địa vị cũng không quyết định được “cái gu” ẩm thực.

Cùng cầm một ly café Starbucks, nhưng qua hai đối tượng khác nhau, và qua hai ánh mắt khác nhau, mà ý thức của mỗi người lại có thể diễn dịch ra những góc độ nhìn khác nhau, dựa trên những quan điểm về kinh nghiệm, hay hoàn cảnh của đối tượng, đang hướng về góc nào.

Hướng về một góc nào đó, theo ngôn ngữ phổ thông thì chúng ta gọi đó là góc nhìn.

Đối với người thứ nhất, anh ta đố kỵ. Vì anh ta cho rằng người bình thường uống café Starbucks trông rất giả tạo, là mầu, khoe khoang.

Đối với người thứ hai, anh ta khinh thường. Vì anh ta cảm thấy những người có quyền lực, mà vẫn uống café Starbucks thì thật là tầm thường.

Vậy còn góc độ nhìn thật sự của tôi là gì? Rất đơn giản, vì “tôi thích uống thì tôi uống”.

Cái chữ “thích” của tôi, đối với người thứ nhất, được diễn dịch thành giả tạo, nhưng đối với người thứ hai, thì lại được diễn dịch thành tầm thường.

Vì vậy, chúng ta đừng nên tùy tiện dùng góc nhìn của mình để phán đoán cuộc sống của người khác, đặc biệt là với cái nhìn đầu tiên. Vì sao?

Vì nếu góc nhìn của bạn:

  • Xa quá thì thành “xem thường”,
  • Gần quá thì thành “phóng đại”, và
  • Hẹp quá thì sẽ thành “hẹp hòi”.

Đáng tiếc là, người có tầm nhìn hạn hẹp, thì rất khó thoát ra khỏi góc nhìn giới hạn của mình, họ sẽ không đứng từ lập trường hay góc nhìn của người khác để nhìn nhận vấn đề, đặc biệt là, họ không có một nhận định rõ ràng về đúng – sai, và hay phát ngôn bừa bãi.

Vậy còn “Cảm Nhận” thì thế nào?

Cảm nhận là sự diễn đạt những suy nghĩ, cảm xúc, nhận xét , đánh giá của cá nhân, về cái hay, cái đẹp của một sự việc, vật, hay một ai đó.

Thí dụ như: Một số người hay thích nói kiểu: Con người của tôi hơi “thẳng tính”, có gì nói nấy, mọi người đừng để bụng.

Khi nói ra câu này, không phải người đó đang nói về tính tình thật của người đó, mà người đó, đang nói về sự “vô trách nhiệm” của người đó, rằng, “tôi nói thật, mà bạn không thích nghe, đó là lỗi của bạn, vì lòng dạ của bạn hẹp hòi”.

Thật ra, nếu bạn là người có sự quan tâm, để ý tới cảm xúc của người khác, bạn sẽ biết cách “lựa lời mà nói”, chứ bạn không thể vin vào cái cớ là bạn thẳng tính, và bắt người khác, khi nghe bạn nói, phải chấp nhận những “vết thương” do bạn gây ra, mà bạn lại không muốn gánh chịu.

Hay khi con cái của bạn học hành kém, bạn sẽ nói: “Mẹ nói thật, sao con vô dụng thế hả con, hết thuốc chữa rồi con ạ!”

Bạn sẽ nói như vậy ư?

Xin Đừng! mà bạn nên nói:

“Lần này, làm bài không tốt cũng không sao, lần sau con hãy cố gắng, xem lại lần trước mình sai ở đâu rồi sửa, chỉ cần tiến bộ, kết quả sẽ khả quan hơn.”

Vì sao bạn lại nói như vậy?

Bởi vì, bạn nhìn trên góc độ con của bạn, bạn đang để ý tới cảm xúc của con bạn, và bạn đồng cảm với con của bạn.

Bạn bè lâu ngày không gặp, cũng chẳng phải bạn bè thân thiết gì, câu đầu tiên bạn thốt ra khi gặp lại họ là: “Ôi trời ơi! Lâu ngày không gặp, sao bây giờ trông mày phát tướng ra, xấu thế!”

Ranh giới giữa đùa vui và nghiêm túc trong câu nói này, quả thực rất mong manh, trong khi, họ thậm chí còn không phải là bạn thân của bạn, dù có là bạn thân, thì bạn cũng nên lựa chọn những từ ngữ tế nhị hơn.

Bạn cho rằng, đó là thẳng thắn, là nói ra để họ biết mình đang trong trạng thái nào, có gì, nếu muốn thay đổi thì còn kịp. Trong khi, chính bạn còn không buồn để ý đến người đối diện, xem họ cảm nhận ra sao, khi nghe câu nói đó của bạn, trước mặt bàng quan thiên hạ.

Bạn cho rằng đó là chân thành, là thẳng thắn góp ý?

Không, đó chính là tầm nhìn hạn hẹp đó bạn ạ!

“Tính… thẳng thì ai ai cũng biết rồi đó”, khi nói ra những câu như thế này, là bạn đang tự tay vứt bỏ đi hai chữ “Tôn Nghiêm”, và tự tay nói “Không” với cảm nhận của người khác.

Giáo sư Tâm lý học tại Trường Đại học London, Tomas Chamorro-Premuzic và Nhà tâm lý học Michael J. Sandel, trong một bài báo trên tạp chí “Harvard Business Review” đã chia xẻ 5 bước chính để phát triển cảm xúc của một người như sau:

Bước 1: Nhìn Nhận Rõ Bản Thân

Thực sự hiểu rõ bản thân là có thể nhận ra điểm mạnh và điểm yếu của bản thân, biết điểm mạnh và điểm yếu này so với người khác như thế nào.

Bước 2: Quan Tâm

Từ quan tâm bản thân của mình đến quan tâm người khác, bắt đầu bằng việc đánh giá cao, và công nhận điểm mạnh, điểm yếu và giá trị của các thành viên khác trong nhóm.

Bước 3. Hỗ Tương Hợp Tác

Trở thành một tương tác qua lại có lợi. Tích cực chia xẻ những kinh nghiệm và kiến ​​thức với nhau, điều này sẽ mang lại lợi ích rất nhiều cho bạn.

Bước 4. Kiểm soát cảm xúc của bản thân

Nếu bạn quá nhạy cảm, dễ xúc động và hay nóng giận, thì bạn hãy suy ngẫm về điều gì khiến bạn tức giận hoặc thất vọng, đồng thời quan sát xu hướng tiêu cực của bản thân khi gặp thất bại.

Không phải chỉ cần biết bạn sẽ có những cảm xúc gì trong các tình huống thực tế, mà quan trọng hơn là phải biết rõ điều gì đã gây ra những cảm xúc đó.

Bước 5. Khiêm tốn

Những người có kỹ năng lãnh đạo thường không quan tâm nhiều đến chức danh của mình vì họ luôn luôn khiêm tốn.

Khả năng duy trì sự cân bằng giữa tự tin và khiêm tốn, không thiên vị, sẵn sàng tiếp nhận ý kiến ​​và thẳng thắn thừa nhận sai lầm của mình là những năng lực rất đáng quý.

Như vậy, qua góc nhìn khác nhau đưa đến những cảm xúc/ giác khác nhau.

Với những góc độ nhìn” hạn hẹp” sẽ đưa chúng ta đến những cảm xúc/ giác cực đoan tiêu cực, và sẽ khiến cuộc sống của chúng ta trầm luân trong đau khổ.

Với những góc độ nhìn “phóng đại” sẽ đưa chúng ta đến sự sống ảo, không thật, xa rời sự thật. Những cảm xúc/giác trồi sụt bất thường bay bổng, sẽ khiến cho cuộc đời của chúng ta luôn chất chứa đầy những phong ba bão táp, ba chìm, bẩy nổi, chín lênh đênh.

Với những góc độ “nhìn xa qúa thành xem thường”, thì chỉ nâng cao thêm những cảm xúc/giác của sự tự kiêu, tự mãn, những nguồn cảm xúc mãnh liệt, sẽ giam hãm tâm tư của chúng ta trong sự kiêu ngạo khôn lường, để rồi, giống như, khi cơn sóng cao qua đi, và rơi xuống, thì sự chìm sâu trong đáy biển tối đen, không biết bao giờ mới có thể trồi lên trên được.

Cho nên, trước khi bạn muốn diễn đạt hay trình bày góc độ nhìn của bạn với bất cứ một ai, hay ngay cả với chính bạn, thì bạn nên để ý đến cảm xúc, hay cảm giác, hay cảm nhận của đối tượng, hay chính bạn, trước khi bạn trình bày hay diễn đạt ý của bạn.

Nếu sự diễn đạt về góc độ nhìn có thể đem đến cảm giác về hạnh phúc và an lạc cho người, và cho mình, thì bạn nên làm, còn nếu như, đem đến cảm giác khổ đau hay phiền muộn cho người, thì bạn nên thay đổi lại góc độ nhìn.

Bạn đừng qúa quan tâm đến góc độ nhìn ra sao, mà bạn nên quan tâm nhiều đến cảm nhận ra sao, vì chúng ta sống với sự cảm nhận nhiều hơn góc độ nhìn. Bạn nhé!

ÁM THỊ

album-art

00:00

TẢI MP3 – ÁNH TUYẾT
TẢI MP3 – HỒNG TRẦN

Bạn Thân Mến,

Mỗi một ngày, không ít thì nhiều, chúng ta đều sử dụng đến sự ám thị, mà ngay cả chính chúng ta cũng không biết, hay không để ý đến. Vậy ám thí là gì? và công dụng của ám thị như thế nào, chính là chủ đề hôm nay chúng tôi muốn mời bạn cùng quan sát và nhìn sâu.

Theo định nghĩa, Ám Thị là dùng phương pháp gián tiếp, hàm súc để biểu đạt ý tứ; hay theo tâm lý học là dùng ngôn ngữ, khiến cho Ý Thức không còn biết suy xét mà tiếp nhận ý kiến, hoặc làm việc gì từ một ai đó.

Thí dụ, khi chúng tôi còn nhỏ, chưa hề biết ma là gì, nên chúng tôi không hề sợ ma. Có những lần, người hàng xóm họ đem những câu chuyện về ma và kể cho chúng tôi nghe.

Hình ảnh của những con ma được họ “vẽ” trong tiềm thức của chúng tôi bắt đầu có mặt, và bắt đầu được đưa vào trong kho của Ngã Thức. Ma thì luôn được “đánh đồng” với những gì u ám, đen tối, nên màn đêm trở thành thế giới sinh hoạt của ma.

Thế là từ ngày có những hình ảnh ma trong tiềm thức, và Ngã Thức, thì chúng tôi bắt đầu sợ ma. Không những chúng tôi sợ ma, mà chúng tôi còn sợ cả bóng đêm.

Vì thế, cứ mỗi đêm đi ngủ, thì chúng tôi tìm mọi cách để nằm ngủ chung với các chị em, và thường hay chọn nằm chính giữa.

Hình ảnh những con ma này, đeo bám chúng tôi “dai dẳng”, cho đến khi, chúng tôi rơi vào thế, không còn sự lựa chọn, phải nằm trên những ngôi mộ để ngủ thì mới chấm dứt.

Sau này, khi có dịp nghiên cứu về lĩnh vực ám thị thì chúng tôi mới biết, thì ra chúng tôi đã bị người hàng xóm ám thị chúng tôi mà chúng tôi chẳng hề hay biết gì cả.

Người hàng xóm của chúng tôi không phải là người xấu, muốn đi hại chúng tôi, nhưng vì người hàng xóm đó, không biết ám thị là gì, nên đã vô tình sử dụng ám thị trên chúng tôi mà không hề hay biết.

Ngày nay, nếu nói đến Google thì không ai trong chúng ta xa lạ cả. Google ban đầu chỉ là tên gọi cho một công ty, nhưng nay, Google đã có riêng cho mình một định nghĩa là công cụ tìm kiếm thông tin về ai đó hoặc điều gì đó trên internet.

Có nhiều người ở Việt Nam lại còn ví von cho rằng, “muốn biết gì thì cứ lên hỏi bác Google thì biết”. Nói như vậy, để thấy, Google đã trở thành một thư viện mở, mà khi chúng ta muốn biết gì thì cứ lên thư viện đó để kiếm tìm.

Thư viện của Google, nếu đem so với tất cả các thư viện khác, thì không có thư viện nào có thể sánh được. Vì trên Google, chúng ta có thể có rất nhiều thông tin, thật có, giả có, trên mọi góc độ, mà chúng ta muốn tham khảo hay kiểm chứng.

Cái hay của Google ở chỗ đó, và cái dở của Google cũng ở chỗ đó. Nếu chúng ta là người thích quan sát và nhìn sâu nhiều góc độ, thì Google đúng là một công cụ hữu ích, giúp cho chúng ta có nhiều thông tin để có thể kiểm nghiệm, thực nghiệm và chứng nghiệm.

Nhưng cái dở của Google là, những thông tin thật giả lẫn lộn với nhau, mà không hề có sự sắp xếp, đâu là tốt, là đúng, đâu là sai, là xấu, lại khiến cuộc đời của chúng ta thêm đau khổ. Vì sao?

Vì những thông tin đó, sẽ tạo ra những kiến chấp khi chúng ta sử dụng Google bằng Trí, nghĩa là, khi chúng ta nhìn nông, chúng ta không đi kiểm nghiệm, thực nghiệm, mà lại tin ngay vào những thông tin đó, và coi đó là sự thật.

Sở dĩ, chúng tôi phải dài dòng một chút về Google, vì trong Google có một chức năng gọi là “Auto-Suggest” tạm dịch là gợi ý tự động hay đúng hơn là ám thị, có nghĩa là, khi bạn bắt đầu đánh chữ bạn muốn tìm, thì Google sẽ gợi ý cho bạn thêm những chủ đề khác.

Có đôi khi, thay vì chúng ta chú tâm vào việc tìm đúng chủ đề chúng ta muốn tìm, thì chúng ta lại theo những sự gợi ý hay ám thị của Google, và phiêu lưu và trong chủ đề gợi ý, mà quên mất đi chủ đề mà chúng ta đang muốn kiếm tìm.

Cho nên, khi chúng ta sử dụng Google để tìm kiếm các thông tin, thì chúng ta nên cẩn thận, và phải rất ý thức vào những chủ đề, mà chúng ta muốn kiếm tìm, nếu không, chúng ta sẽ bị Google “ám thị” chúng ta, và có thể dẫn chúng ta xa rời mục đích của chúng ta, lúc nào không biết.

Một người quen của bạn có những đau khổ trong cuộc đời, và có những suy nghĩ tiêu cực, muốn tìm đến cái chết, để giải quyết những cảm xúc tiêu cực.

Khi tiếp xúc với bạn, bạn gợi ý, và hướng dẫn cho người đó giải quyết những khổ đau của người đó, và người đó làm theo sự gợi ý của bạn, thì bạn đang sử dụng ám thị với người quen của bạn.

Trong cuộc sống hôm nay của chúng ta, chúng ta đã và đang sử dựng ám thị, và bị ám thị bởi người khác, một cách trực tiếp hay gián tiếp, mỗi ngày. Nếu chúng ta không cẩn thận, hay bị người khác ám thị, thì chúng ta sẽ trở thành con rối lúc nào không hay.

Vậy thì làm sao chúng ta có thể tránh trở thành con rối của người khác, hay do tự chính những nguồn năng lượng tiêu cực, khi sử dụng Ý Thức để dẫn chúng ta đến những nhận thức sai lầm.

Muốn làm được điều này thì chúng ta cần phải hiểu rõ về sự vận hành của các thức. Trong chín thức có ba thức liên quan đến ám thị và cách thức sử dụng ám thị, gồm: Ý Thức, Ngã Thức và Tiềm Thức.

Chức năng của Ý Thức là khả năng: quan sát, phân tích, so sánh, nhận dạng, tổng hợp, phỏng đoán, tưởng tượng theo chiều nông và sâu.

Chức năng của Tiềm Thức là bộ nhớ lâu dài, là kho chứa những thông tin, dữ liệu, có khả năng nối kết các thông tin và dữ liệu lại với nhau.

Chức năng của Ngã Thức là nơi dung chứa những cảm xúc giác, đạo đức, niềm tin, v.v.

Như vậy, khi chúng ta có một ý niệm khởi sinh từ Ngã Thức, thì Ngã Thức sẽ sử dụng Ý Thức để phân tích, so sánh ý niệm đó.

Muốn phân tích và so sánh thì Ý Thức phải dùng đến kho dữ liệu của Tiềm Thức để lấy những thông tin, hay dữ liệu cần thiết cho việc so sánh, quan sát, phân tích theo chiều nông hay sâu. Chiều nông hay sâu sẽ do Ngã Thức muốn chọn chiều nào.

Nếu Ngã Thức muốn đốt giai đoạn, mà nhìn theo chiều nông, thì Ý Thức sẽ sử dụng thêm chức năng phỏng đoán hay tưởng tượng vào để đưa ra kết quả.

Nếu Ngã thức muốn theo chiều sâu thì Ý Thức sẽ ứng dụng sự kiểm nghiệm, thực nghiệm và chứng nghiệm để tìm ra kết quả.

Như vậy, nếu muốn ám thị một người, hay tự ám thị chính chúng ta, thì chúng ta phải tìm cách ngăn chặn sự có mặt của Ý Thức.

Nếu chúng ta không thể ngăn chặn được Ý Thức, thì Ý thức với khả năng phân tích, so sánh, v.v. sẽ không để cho những gợi ý hay những ý kiến của người khác tác động, trừ khi, lúc đó, Ngã Thức đã chấp nhận hay tin tưởng người kia, thì Ngã Thức mới ra lệnh cho Ý Thức vắng mặt, và để cho Ý Thức của người kia có mặt, để phân tích hay so sánh dùm cho chúng ta.

Nếu như Ngã Thức của chúng ta không chấp nhận hay không tin người kia thì Ngã thức sẽ ra lệnh cho Ý Thức tìm mọi cách để chống trả lại những sự gợi ý hay ám thị của người khác.

Thí dụ, chúng ta tin là nếu trong ba ngày tết mà chúng ta quét nhà, thì chúng ta sẽ quét hết tiền bạc của chúng ta trong một năm ra bên ngoài, và cả năm chúng ta sẽ gặp khó khăn về tài chính, hay mất mát về tiền bạc.

Mặc dù, chúng ta đã có rất nhiều những chúng minh rằng, chẳng có chứng cứ nào cho việc quét nhà trong ba ngày tết, sẽ ảnh hưởng đến tài chính của chúng ta cả.

Nhưng đó là niềm tin nơi ngã thức đã dựa trên đó, nên tuy có những chứng minh theo khoa học, nhưng Ngã Thức của chúng ta sẽ ra lệnh cho Ý Thức của chúng ta, đi tìm những lý lẽ, để củng cố cho niềm tin của Ngã Thức thêm vững chắc, và Ngã Thức không chịu thay đổi.

Như vậy, nếu muốn thay đổi sự lựa chọn từ Ngã Thức thì chúng ta có thể sử dụng ám thị để thay đổi niềm tin nơi Ngã Thức.

Muốn thực hiện được sự ám thị có hiệu quả cao thì người thực hành ám thị phải biết cách đánh lừa Ý Thức của người bị ám thị.

Với những người có kinh nghiệm về ám thị, thì họ sẽ lựa chọn vào lúc ban đêm. Vì sao? Vì lúc đó, Ý Thức và Ngã Thức đã tạm ngưng hoạt động thì mới dùng những lời ám thị, đưa vào trong tiềm thức, và lợi dụng chức năng nối kết của tiềm thức để thay đổi niềm tin.

Thí dụ, nếu chúng ta có đứa con thích quậy phá, và không nghe lời, và chúng ta muốn thay đổi đứa con đó thành đưa trẻ ngoan và dễ bảo, thì chúng ta phải đợi khi đứa con đó ngủ, và bắt đầu ám thị những gì chúng ta muốn đứa con sẽ trở thành.

Chẳng hạn như: “Con là đứa con ngoan, hiếu thảo, có đạo đức, và biết thương người. Mỗi ngày, lòng thương yêu của con sẽ phát triển và hoàn thiện hơn.”

Ngôn ngữ sử dụng trong cách ám thị phải dùng, đó là, những ngôn ngữ không theo dạng phủ định, gồm những chữ như: không, đừng, dừng, phải v.v, mà nên lựa chọn những từ ngữ đúng như chúng ta mong muốn, mang chiều hướng tích cực hơn tiêu cực.

Tiếc thay, phần đông những người thực hành phương pháp ám thị, vì thiếu kinh nghiệm, nên hay dùng sai cách. Vì vậy, nên thường không ra kết qủa, mà lại ra hậu quả, đơn giản là, họ không hiểu được sự vận hành của các thức một cách rõ ràng.

Thay vì, dùng những ngôn ngữ như thí dụ trên, thì chúng ta lại ám thị như sau:

“Con là đứa con quậy phá và không nghe lời, mẹ muốn con từ nay sẽ không quậy phá nữa, và phải biết nghe lời. Khi mẹ nói thì con phải làm theo, nếu không con là đứa trẻ hư.”

Nếu đứa con “được” người mẹ ám thị với những lời này, thì đứa con sẽ trở nên càng quậy phá, càng không nghe lời, không những chống đối lại người mẹ, mà còn trở thành đứa con hư như bà mẹ đã ám thị. Vì sao?

Đơn giản, vì trong tiềm thức vốn không có so sánh, hay phân tích, nên trong đó, không có thể phủ định, bắt đầu bằng những chữ như: không, đừng, phải, dừng v.v.

Cho nên, khi bà mẹ ám thị đứa con, mà dùng những từ như: không đừng, phải, v.v, trước những từ ngữ tiêu cực, thì Tiềm Thức sẽ chọn những từ ngữ tiêu cực, và tiếp tục phát triển thành thói quen trên đó.

Bạn thấy đứa con nhỏ của bạn đang đưa bàn tay nhỏ bé của nó vào ngọn lửa nóng, và bạn quát lên:

“Đừng đưa tay vào lửa”.

Khi bạn chưa kịp phản ứng để giúp con của bạn, thì đứa con của bạn, đã đưa tay vào lửa rồi, vì Tiềm Thức của con bạn, không biết gì về “đừng” cả, mà chỉ biết lấy hành động theo sau chữ “đừng” để khích động.

Cho nên, Tiềm Thức con của bạn sẽ diễn giải câu mệnh lệnh của bạn như sau: “đưa tay vào lửa”. Thế là, đứa con trẻ của bạn, đưa tay vào lửa, là chuyện tất nhiên.

Nếu bạn không biết về sự vận hành của các thức, và bạn cũng không biết về sự hoạt động của ám thị, thì bạn sẽ cáu, giận, tức, tại sao con của bạn lại “ngu” như vậy, vì bạn đã bảo nó “đừng”, mà nó cứ tiếp tục làm.

Bạn có biết không, khi một người cha hay người mẹ mắng đứa con là đồ ngu, đồ vô dụng, hay quân phá hoại, không biết nghe lời, thì chính người cha hay người mẹ đang trực tiếp ám thị đứa con của mình, và “bắt” nó trở thành người ngu hay người vô dụng.

Khi đứa con của bạn đã trở thành người ngu, hay vô dụng, như lời ám thị của bạn, thì bạn trách móc, ghét bỏ đứa con, mà bạn lại không biết rằng, bạn mới chính là tác nhân gây ra hậu quả mà đứa con phải gánh chịu, chứ không phải tự đứa con tạo ra.

Thật đáng buồn thay, chúng ta ám thị con của chúng ta mỗi ngày, bằng những ý niệm tiêu cực, sai trái, mà ngay cả chúng ta cũng không biết; và khi chúng ta không biết, hay không thể giải thích được, thì chúng ta lại có thói quen đổ lỗi cho người, hay tin vào những lời ngụy biện, để chứng minh rằng, đó không phải lỗi của chúng ta.

Trong Văn hóa Việt, có một đức tính mà chúng ta hay sử dụng đó là sự khiên tốn, thí dụ:

Một người khác thấy con của bạn giỏi và khen con bạn, cách đáp trả của bạn thông thường sẽ là:

Ôi, cái thằng con của tôi nó có làm được gì đâu, tối ngày cứ cắm đầu vào học, chẳng biết cái gì cả. Hay, nó thì có giỏi gì, ngoài chuyện học ra, thì việc gì làm cũng hư hỏng, lười biếng vô cùng, v.v.

Hay, ôi nó làm sao mà so với thằng B con của ông A, thằng B mới là giỏi, cái gì cũng làm được, chứ con của tôi, có đi xách dép cho thằng B cũng không xứng.

Chúng ta cứ nghĩ, khi chúng ta đang “hạ bệ” con của chúng ta xuống, là chúng ta đang thể hiện sự khiêm tốn, nhưng chúng ta không biết rằng, chúng ta đang ám thị xấu cho con của chúng ta, chúng ta đang gieo và tưới tẩm những hạt giống xấu đó tiếp tục phát triển.

Khi những sự ám thị xấu đó được chúng ta lập đi lập lại nhiều lần, thì nó trở thành thói quen, và đứa con của chúng ta sẽ bị những thói quen đó khống chế, và hành xử trên thói quen đó, thì chúng ta trách móc, giận hờn, tức giận đứa con của chúng ta, vì nó làm cho chúng ta xấu hổ, mất mặt.

Nhưng “thủ phạm” làm cho chúng ta “mất mặt” không phải là đứa con của chúng ta, mà chính là chúng ta đã ám thị nó mỗi ngày.

Định nghĩa của khiêm tốn là nhún nhường, hạ mình xuống, có nghĩa là dậy chúng ta cách để “khống chế” sự tự tôn của chúng ta, chứ không phải để chúng ta đi hạ bệ người khác, và lý luận rằng chúng ta đang thực hành khiêm tốn. Trong khi, hạ mình xuống thì chỉ liên quan đến mình mà thôi.

Thí dụ, nếu người ta khen chúng ta giỏi, thì chúng ta có quyền dùng sự khiêm tốn, để “dằn” sự tự tôn của chúng ta xuống. Chúng ta có thể đáp lại như:

Ai trong chúng ta mà không giỏi, tôi thì chỉ biết hơn một chút về vấn đề đó, vì tôi có hứng thú và thích nghiên cứu về nó, còn bạn thì chưa có nhiều thời gian đầu tư vào đó thôi.

Chứ không phải chúng ta trả lời là: tôi thì chẳng có gì, cái mà anh cho tôi giỏi đó, chỉ là may mắn tôi học được từ thầy của tôi, chứ tôi chẳng có khả năng để làm được như anh nghĩ đâu.

Qua hai câu trả lời trên, chúng ta thấy, câu trả lời một, đáp ứng đúng theo định nghĩa là “hạ mình xuống” nhưng không có nghĩa là không công nhận kết quả.

Còn câu thứ hai, đó không phải là sự khiêm tốn, mà đó là sự tự ty, chúng ta tự ty vì không tin vào khả năng của chúng ta có. Tiếc thay, chúng ta lại hay diễn giải định nghĩa của sự khiêm tốn thành sự tự ty.

Như vậy, ám thị không phải là “trò đùa” mà chúng ta có thể bỏ qua, vì ám thị không có ảnh hưởng gì đến cuộc đời của chúng ta cả, mà thật ra ám thị có ảnh hưởng rất quan trọng đến cuộc sống của chúng ta. Vì sao?

Vì chúng ta không những bị ám thị bởi người khác, mà chính những nguồn năng lượng tiêu cực “không tên” của chúng ta, cũng luôn sử dụng sự ám thị trên Ngã Thức mỗi khi chúng có mặt.

Có một câu chuyện của người quen của chúng tôi khá lý thú như thế này:

Anh là một kỹ sư khá giỏi trong công ty, cứ mỗi lần trong công ty có thăng chức thì tên của anh luôn có trong danh sách, nhưng cứ mỗi lần phỏng vấn thì anh lại bị trượt. Anh không phục vì anh biết những người được thăng chức không giỏi bằng anh.

Anh nhiều lần tâm sự với chúng tôi, anh rất buồn, nhưng không hiểu tại sao, anh cứ bị trượt mãi. Cho đến một lần, anh mời chúng tôi đến nhà anh dùng bữa tối, vì cũng khá thân, nên vợ của anh cũng không còn giữ ý tứ như với những người khách khác.

Khi anh đi lấy đá bỏ vào ly nước ngọt, vì bất cẩn, anh để những viên đá rơi xuống sàn nhà. Vợ của anh hơi to giọng nói:

Anh thật là vô dụng cả một việc nhỏ như lấy đá, cũng không làm xong, hèn gì công ty anh không cho anh thăng chức cũng phải.

Chúng tôi ngồi yên nghe chị vợ cằn nhằn anh, mới biết được nguyên nhân tại sao anh cứ bị trượt những kỳ thăng chức. Vì anh đã bị vợ anh ám thị.

Để kiểm nghiệm việc đó, chúng tôi mới kéo anh ra ngoài sân để ngồi tâm sự. Chúng tôi hỏi anh về câu: anh “vô dụng” được vợ anh sử dụng bao giờ. Anh cho biết gần như mỗi tuần, chỉ cần anh làm cái gì không vừa ý với vợ của anh, thì anh trở thành người vô dụng.

Sau đó, chúng tôi mới lấy hẹn với vợ của anh để gặp riêng chị. Chúng tôi chia xẻ với chị về ám thị và sức ảnh hưởng của sự ám thị. Chị nghe xong, rất hối hận, và đề nghị chúng tôi hướng dẫn cho chị thay đổi cách ám thị.

Sau hai tháng thực hành cách ám thị mới, may sao, công ty của anh lại có một người cấp cao nghỉ hưu, nên anh lại có trong danh sách được đề cử. Lần này thì anh được thăng chức.

Hai vợ chồng anh mới quyết định tổ chức một bữa ăn để cám ơn chúng tôi. Sau khi ăn uống xong, chúng tôi mới hỏi anh tại sao lần này, anh lại được thăng chức? Anh trả lời:

Anh không biết tại sao, nhưng lần này, so với những lần trước thì anh tự tin hơn. Chính vì sự tự tin này đã giúp anh được thăng chức. Dĩ nhiên, chúng tôi không dừng lại ở đó, mà tiếp tục đặt câu hỏi với anh.

Vậy so với những lần phỏng vấn trước có khác nhau không?

Anh trả lời: Không có khác, chỉ khác là anh không thấy anh vô dụng, nên anh tự tin hơn thế thôi.

Có thể anh không biết sự tự tin của anh từ đâu đến, nhưng chị vợ và chúng tôi biết, sự tự tin của anh từ đâu đến, và đến từ ai.

Hướng mắt về vợ của anh, chúng tôi thấy vợ anh mỉm cười trên khuôn mặt rạng rỡ vui mừng của chị. Chị chấp hai tay trước mặt khẽ cúi đầu khi chạm ánh mắt của chúng tôi, và chúng tôi cũng đáp lễ lại chị những hành động tương tự.

Câu chuyện thứ hai, xẩy ra với một chị làm thợ nail trong tiệm của một người quen của chúng tôi.

Không biết lúc xưa, khi ở Việt Nam chị sống ở đâu, nhưng mỗi khi chị bực tức ai, thì chị hay dùng từ “đao to búa lớn”: “đập chết cha nó đi”, giống như kiểu nói đệm thêm mắm dặm muối, cho câu nói thêm mặn mà, mạnh mẽ.

“Đập chết cha ai” thì chưa biết, nhưng có một ngày, hai cha con chị cãi nhau, trong tay chị đang cầm cái chầy giã tỏi, và chị cầm cái chầy, đập vào đầu ông cha thật.

Ông cha bị một cú đập qúa mạng của chị, lăn quay ra xỉu. Mẹ của chị sợ hãi, nên gọi xe cứu thương đưa chồng vô nhà thương.

Cũng may cho chị, khi bị cảnh sát thẩm vấn thì mẹ của chị đã khai man là cha của chị bị vấp té đập đầu vào cái chầy.

Nếu không thì chắc cuộc đời của chị cũng rất rắc rối với chính quyền.

Cái may thứ hai cho chị là, cha của chị chỉ bị khâu hai ba  mũi, nhưng không bị nức xương sọ. Khi rước ông cha về, chị vô cùng ăn năn, hối lỗi, chị vô cùng đau khổ, và không tha thứ cho lỗi của chị, vì dám đánh cha mình, dù ông đã nói tha lỗi cho chị.

Khi chị ngồi kể lại câu chuyện với chúng tôi, chị khóc và nói rằng, không biết chị bị “ma xui qủy khiến” gì mà chị lại có một hành động cực kỳ ngu xuẩn như vậy.

Chị thì không biết nguyên do, nhưng chúng tôi biết, chị đã tự ám thị chị những khi bực tức, và khi nguồn năng lượng không tên trỗi dậy, cộng với sự tức giận, và ám thị của chị, thì tiềm thức của chị đã khích động hành động đập cha của chị, mà không hề có Ý Thức của chị tham gia.

Nếu cần bàn rộng về sức ảnh hưởng của ám thị thì thật vô cùng, và sự ám thị ngày nay đã được sử dụng một cách cực kỳ tinh vi, đến độ ngay cả chính quyền cũng phải e sợ.

Theo thống kê thì chúng ta “bị tiếp nhận” những mẫu quảng cáo hay tiếp thị đến hơn 3,500 lần, mỗi ngày. Trong những mẫu quảng cáo hay tiếp thị, ngoài một số tữ ngữ khích thích sự ham muốn, thì thường, tiếp thị hay quảng cáo sẽ sử dụng những hình ảnh khiến chúng ta “nhập tâm” lúc nào không hay biết.

Thí dụ, khi bạn xem một quảng cáo của Coca-Cola cho thấy những người đang vui vẻ uống cạn ly Coke với đá lạnh, thì những hình ảnh đó, được tiềm thức của bạn diễn dịch thành uống Coke là những khoảnh khắc hạnh phúc trong cuộc sống.

Hay khi bạn xem quảng của Advil, cho bạn biết rằng, thuốc advil sẽ loại bỏ đi nỗi đau, thì tiềm thức của bạn sẽ diễn dịch khi dùng advil sẽ loại bỏ đi nỗi đau để làm những gì bạn yêu thích.

Cho nên, khi bạn muốn có những khoảng khắc hạnh phúc thì bạn sẽ tự động chọn dùng coke với đá lạnh. Hay khi bạn yêu thích điều gì đó, thì điều yêu thích đó sẽ làm bạn đau và bạn sẽ sử dụng Advil.

Trong bài “Một Vốn Bốn Lời” có đoạn nghiên cứu của ODI (Overseas Development Institute) như sau:

“Theo nghiên cứu của Robert Wood Johnson Foundation, 99% quảng cáo từ McDonald’s cho đến Burger King, nhắm đến trẻ em.

Dù các nhà quảng cáo ngày nay, dưới áp lực của xã hội, cũng đã tung ra những quảng cáo “lành mạnh hơn”, nhưng điều quan trọng, không phải là nội dung quảng cáo, mà là những hình ảnh này càng khiến trẻ nhỏ, đặc biệt, những em vốn đã thừa cân, hay béo phì, càng nhớ lâu những cái tên như McDonald’s, Burger King, KFC… và vòi vĩnh cha mẹ dẫn đến những địa điểm này.

Quả thực, theo báo cáo của Ủy ban Thương mại Hoa Kỳ, 45% trẻ em tiếp xúc với những quảng cáo này, tiêu thụ nhiều thức ăn hơn so với những em không xem.

Thậm chí, 5 năm sau, khi được tiếp xúc với chương trình khuyến mãi của các loại thực phẩm không lành mạnh, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng, trẻ em tiếp tục mua ít trái cây, rau và ngũ cốc nguyên hạt hơn, song lại gia tăng lượng tiêu thụ về thức ăn nhanh, thức ăn chiên xào và thức uống ngọt.”

Rõ ràng, những hình thức ám thị trong quảng cáo ngày nay, nhất là qua sự tiếp tay của điện ảnh thì sự ám thị càng một tinh vi hơn, và ảnh hưởng đến đời sống của chúng ta mạnh mẽ hơn.

Nếu đem so với cách dùng ngôn ngữ của ngày xưa, thì phương pháp dùng hình ảnh của ngày nay, lợi hại hơn nhiều. Vì sao? Đơn giản, vì ngôn ngữ của tiềm thức là ngôn ngữ của hình ảnh.

Hay nói một cách rõ ràng hơn, là các nhà quảng cáo đang dùng hình ảnh “trực tiếp nói chuyện” với Tiềm thức của chúng ta, và họ đã vượt qua được “rào cản” Ý Thức của chúng ta.

Cho nên, những gì chúng ta tiếp xúc hôm nay sẽ ám thị chúng ta ngay khi chúng ta đang “mở mắt”, mà không cần phải chờ đến khi chúng ta gần rơi vào trạng thái ngủ mới ám thị.

Những khám phá mới của các nhà tâm lý cho rằng, cứ trong một giây thì tiềm thức của chúng ta tiếp nhận khoảng 11 triệu thông tin, trong khi, Ý Thức của chúng ta chỉ có thể nhận dạng và xử lý được có 40 thông tin.

Hay có thể nói, chỉ trong một giây, chúng ta có thể bị ám thị đến cả triệu lần, tùy theo thông tin đó là gì.

Như vậy, làm sao chúng ta có thể “chống chọi” lại các sự ám thị luôn đang vây quanh chúng ta mỗi ngày?

Câu trả lời là rất khó, vì chúng ta không thể lúc nào
cũng dùng đến Ý Thức để nhận dạng và phân loại xem, cái nào là tốt, là đúng, hay cái nào là xấu, là sai.

Như vậy, có nghĩa là chúng ta sẽ bó tay sao? Dĩ nhiên, chúng ta sẽ không bó tay, vì chúng ta đang sống trong thế giới của tương đối.

Nghĩa là, nếu ám thị của người khác dùng để khống chế, hay thay đổi nhận thức của chúng ta, bằng cách dùng hình ảnh để tác động, thì khi chúng ta có cảm xúc/giác bị khích động, chúng ta sẽ chú ý đến cảm xúc/ giác, và giải quyết cảm xúc/giác đó một cách trực tiếp.

Hay chúng ta cũng có thể sử dụng tự kỷ ám thị, nghĩa là, chúng ta lựa chọn những hình ảnh đẹp, và liên tục ám thị chúng ta về những hình ảnh đó.

Với kinh nghiệm của những người làm chủ được cảm xúc/giác thì sự ám thị không ảnh hưởng nhiều đến họ. Tại sao?

Bởi vì những hình ảnh bị ám thị, muốn được thực hiện bằng hành động, thì phải đi qua vùng cảm xúc/giác. Nếu không có sự khích hoạt của vùng cảm xúc/giác thì sẽ không có hành động theo sau.

Cho nên, khi tiềm thức sắp xếp hay nối kết những hình ảnh trong giấc mơ, sẽ khích hoạt lên những vùng cảm xúc/giác, và vì quen giải quyết những cảm xúc/giác một cách rốt ráo,

nên khi những hình ảnh có khích hoạt thì những thói quen giải quyết vấn đề của Ngã Thức được khích hoạt, và tự động giải quyết, mà không cần đến sự có mặt của Ý Thức.

Ngược lại, với những người chưa có kinh nghiệm làm chủ cảm xúc/giác, thì họ không thiết lập được hệ thống tự động giải quyết vấn đề rốt ráo.

Cho nên, họ chỉ còn lại một cách duy nhất, đó là, sử dụng sự tự kỷ ám thị, hay tự mình ám thị mình, bằng những hình ảnh mà mình lựa chọn.

Phần đông chúng ta, khi dùng phương pháp tự kỷ ám thị, thường không biết dùng hình ảnh để ám thị, mà hay dùng ngôn ngữ để ám thị. Cho nên, thường chúng ta không đủ kiên nhẫn để chờ đợi kết quả, mà hay bỏ cuộc nửa chừng.

Dĩ nhiên, dùng ngôn ngữ để ám thị cũng có hiệu quả, nhưng thời gian sẽ lâu hơn và còn tùy thuộc vào cách dùng ngôn ngữ của chúng ta.

Thí dụ: Nếu chúng ta muốn ám thị chúng ta có hạnh phúc, mà chúng ta không kèm theo một hình ảnh, để diễn tả hạnh phúc là gì, thì Tiềm Thức của chúng ta sẽ không thể hiểu và thi hành được.

Việc này, cũng giống như chúng ta không biết tiếng Mỹ, nhưng muốn bán một ổ bánh mì cho người Mỹ. Nếu chúng ta cứ chào: “mua bánh mì đi”, thì người khách Mỹ sẽ không hiểu chúng ta nói gì, và người khách đó, cũng chẳng biết họ sẽ làm gì, vì họ không hiểu chúng ta nói gì.

Nhưng nếu chúng ta nói bánh mì, và đưa ra hình ảnh bánh mì, thì người khách Mỹ kia sẽ hiểu ngay ra là, chúng ta đang muốn họ mua bánh mì.

Cho nên, khi chúng ta muốn tự ám thị mình cho có hiệu quả, thì việc đầu tiên chúng ta cần phải làm là, chọn lựa những hình ảnh, nhất là những hình ảnh liên quan đến cảm xúc/giác, rồi dựa vào hình ảnh đó, mới thêm vào phần diễn dịch, thì Tiềm Thức của chúng ta mới biết là chúng ta muốn gì.

Thí dụ, chúng ta cầm một tấm hình chụp của chúng ta đang vui vẻ với con của chúng ta, rồi chúng ta nhìn vào hình ảnh đó, và diễn dịch thêm vào những gì chúng ta muốn.

Chẳng hạn như, tôi muốn cảm giác hạnh phúc và vui vẻ như khi đang ôm con của tôi, và tôi cũng muốn có sự hạnh phúc và vui vẻ này khi tiếp xúc với mọi người.

Việc thêm vào sau khi có hình ảnh và diễn dịch “dùm” cho Tiềm Thức thì Tiềm Thức lúc đó sẽ dựa vào sự diễn dịch đó để khích hoạt hay thi hành.

Nếu mỗi một ngày, trước khi đi ngủ chúng ta đem những hình ảnh mà chúng ta đã lựa chọn diễn tả về cảm xúc/giác, và để chung vào một cuốn album, rồi lật xem từng hình, và diễn dịch thêm vào sau những hình ảnh cảm xúc/giác này, thì chúng ta có thể thay thế được những sự diễn dịch của tiềm thức dưới dạng vô Ý Thức thành có Ý Thức.

Dĩ nhiên, bất cứ sự thực hành nào cũng có những khó khăn của nó lúc ban đầu, nhưng nếu chúng ta chỉ cần kiên trì thực tập liên tục trong vòng 30 đến 60 ngày, thì chúng ta sẽ biến thành thói quen và lúc đó tiềm thức của chúng ta sẽ đưa đến những hành động theo sự diễn dịch có Ý Thức chủ đạo.

Theo kinh nghiệm của chúng tôi thì chúng ta đừng nên đi lên trên internet để kiếm những hình ảnh diễn tả về cảm xúc/giác của chúng ta, mà chúng ta nên dùng những hình ảnh của những người thân, như vậy, sẽ khiến chúng ta cảm thấy gần gũi hơn, và cảm xúc/giác mạnh hơn.

Điểm lợi khi dùng hình ảnh của những người thân so với những người xa lạ là, chúng ta đang tiếp tục nuôi dưỡng cảm xúc/giác với những người thân của chúng ta, và phát triển những cảm xúc/giác đó.

Nếu như, khi chúng ta có những xung đột với người thân thì những cảm xúc/giác của người thân cũng được khơi dậy, có thể giúp cho Ngã Thức của chúng ta không bị những nguồn năng lượng không tên khống chế.

Dĩ nhiên, nếu chúng ta không có những hình ảnh của người thân thì việc dùng hình ảnh của người xa lạ cũng tốt. Chỉ khác là, những vùng cảm xúc/giác sẽ không thể lớn mạnh, nên đôi khi, chúng ta có xung đột với người thân, thì chúng ta không có hình ảnh của người thân trong đó, nên không thể khơi nguồn được sự yêu thương hay vui vẻ hạnh phúc.

Thí dụ, một người mẹ nhìn hình một em bé của ai đó đang cười, và hình ảnh đứa con của mình cười, thì cảm xúc/giác của người mẹ như thế nào, chắc chúng ta không cần phải giải thích có phải không?

Hay như trường hợp, gặp một cô gái vui vẻ, và hình ảnh người yêu đang vui vẻ, chắc chắc cảm xúc/giác sẽ hoàn toàn khác nhau.

Cho nên, khi ứng dụng phương pháp ám thị, bạn cần phải thông minh, tùy nghi mà ứng dụng. Bởi vì, khi đã thành một phương pháp thì luôn có những giới hạn.

Nguyên do của sự giới hạn, là vì, mỗi người chúng ta có sự diễn dịch định nghĩa khác nhau, và niềm tin khác nhau. Cho nên, không có phương pháp nào hoàn hảo cả.

Nếu có chăng, thì sự hoàn hảo chỉ có thể xuất hiện duy nhất trong bạn, khi bạn đã thỏa mãn được những gì đúng như bạn muốn.

Bạn muốn tự bạn ám thị theo Ý thức của bạn, hay bạn muốn bị ám thị của người khác khống chế qua sự diễn dịch của tiềm thức theo vô Ý Thức, thì bạn có toàn quyền lựa chọn.

Bạn chọn như thế nào thì cuộc đời của bạn sẽ như thế đấy, và bạn chỉ cần nhớ, bạn phải gánh chịu trách nhiệm với sự lựa chọn của bạn, là được.

AI CẦN AI?

album-art

00:00

TẢI MP3 – THẢO MY

Bạn Thân Mến,

Chủ đề hôm nay chúng tôi muốn chia xẻ với bạn cũng hơi lạ đó là ai cần ai?

Nếu nhìn về thưở hồng hoang của con người thì con người có thể là loại động vật yếu đuối nhất, nếu đem so với những chú khủng long, hay những con voi, tê giác khổng lồ.

Còn nếu đem so khả năng của con người với các loài động vật khác, thì mũi của con người không thính hơn mũi của con chó. Hay mắt của con người thì không tinh bằng mắt con chim đại bàng từ trên không cách cả cây số, vẫn có thể nhìn thấy rõ con mồi, và có thể lao nhanh xuống đất để bắt con mồi.

Thậm chí, nếu đem so con người với con kiến bé li ti thì con người cũng thua luôn con kiến, vì con kiến có khả năng nâng được một vật nặng hơn cả chục lần so với cơ thể của kiến, còn con người thì lại không.

Cho nên, vì sự sinh tồn, con người của ngày xưa đã biết sống theo bầy đàn, để hỗ trợ lẫn nhau, chống lại những loài động vật khác. Tinh thần bầy đàn này, vẫn được tiếp tục trao truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác và vẫn còn tồn tại đến ngày nay.

Vì vậy, là con người, chúng ta luôn sống và cần đến những người khác. Cho nên, ai cần ai cũng là một đề tài khá thú vị

mà chúng ta ít khi để ý đến.

Trong sinh hoạt về tâm linh, có một chị, nhà của chị có rất nhiều vấn đề, nên đến nhờ chúng tôi giúp cho chị cách giải quyết vấn đề, mà chị đang bất an.

Chị than thở đủ điều, từ đứa con lớn của chị đã làm dược sĩ, đến đứa con nhỏ của chị, đã tốt nghiệp đại học, nhưng vẫn lông bông chưa thích đi làm.

Chúng tôi vẫn ngồi yên lặng và lắng nghe những tiếng thở dài và than thở của chị. Sau khoảng bốn tiếng thở than thì chị bắt đầu ra điều kiện cho chúng tôi nếu muốn giúp chị giải quyết sự bất an của chị.

Điều kiện của chị là chúng tôi phải bảo đảm sẽ giải quyết sự bất an của chị một cách rốt ráo nếu không chúng tôi phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về sự bất an của chị.

Nghe xong những điều kiện của chị chúng tôi chỉ cười vì không biết phải nói gì với chị. Hình như chị đang quên mất là ai cần ai?

Chị đến sinh hoạt tâm linh với chúng tôi thì hoàn toàn miễn phí, ngay cả những khi chúng tôi đóng vai trò cố vấn, thì cũng không tính tiền, vậy thì, tại sao chúng tôi lại phải chịu trách nhiệm cho việc giải quyết sự bất an của chị và phải bảo đảm là chị có an.

Sự thật thì, chị đang cần chúng tôi giúp chị có những góc độ nhìn mới, để giải quyết vấn đề của chị, nhưng hành động của chị, lại biến chúng tôi thành người cần sự bất an của chị để giải quyết. Cho nên, chúng tôi phải bảo đảm với chị là giải quyết được vấn đề của chị, nếu không, chị sẽ không đưa

sự bất an của chị cho chúng tôi giải quyết.

Mặc dù nhân sinh quan sống của chúng tôi là làm Lợi cho người khác Dụng, nhưng không có nghĩa là chúng tôi có thể làm bất cứ gì ngoài tầm với của chúng tôi.

Chị bất an thì có vô vàn nguyên nhân, mà ngay cả chính chị còn không biết rõ thì làm sao chúng tôi có thể làm được chuyện “phi thường” này. Thế mà, chị lại bắt chúng tôi phải thực hiện nếu muốn giúp chị.

Chúng tôi thật sự đâu có muốn giúp chị vì đâu phải chỉ có chị mới có bất an không đâu mà chúng tôi cũng có và vẫn đang nỗ lực giải quyết từng ngày.

Cho nên, chúng tôi không cần thêm sự bất an của chị. Điều mà chúng tôi có thể làm cho chị là, chia xẻ lại những phương pháp mà chúng tôi qua ứng dụng đã rút tỉa lại để sử dụng cho chúng tôi, và chị phải là người đích thân đi giải quyết vấn đề bất an của chị chứ không phải là chúng tôi .

Chị phải ý thức được ai cần ai? Nếu chị không hiểu được rõ ràng điều này, thì cuộc đời của chị sẽ kéo dài trong bất an và trong đau khổ. Vì sự thật, sự đòi hỏi của chị là không tưởng, và không ai có thể làm được cho chị, trừ chính chị.

Tiếc thay, chị lại không muốn gánh trách nhiệm về sự bất an của chị, mà chị lại đi bắt người khác phải gánh lấy sự bất an của chị, và phải chịu trách nhiệm về sự bất an của chị nếu như không giải quyết được.

Lại là một câu chuyện khác về ai cần ai?

Có một cặp vợ chồng, không biết là ai giới thiệu, nên biết

nơi sinh hoạt tâm linh của chúng tôi và đã đến thăm. Khi vợ chồng nhấn chuông, chúng tôi đang bận việc nên không ra mở cửa.

Anh chị tiếp tục nhấn chuông liên tục, cho đến khi chúng tôi giải quyết xong việc mới ra mở cửa . Vừa gặp mặt chúng tôi anh chi đã lớn giọng nói:

“Sao nơi sinh hoạt về tâm linh mà cửa lại đóng và khi chúng tôi đã nhấn chuông nhiều lần thì mới ra mở cửa. Có biết thời gian của chúng tôi thật qúy lắm không?”

Chúng tôi nghe xong chỉ mỉm cười vì chúng tôi biết anh chị này chưa biết gì về nơi sinh hoạt tâm linh của chúng tôi. Nơi sinh hoạt này, ban đầu, do chúng tôi lập ra như một phương tiện cho chúng tôi thực hành trong đời sống hàng ngày.

Sau đó, những thân hữu của chúng tôi thấy được giá trị từ sự bình an nơi sinh hoạt của chúng tôi, nên mới xin chúng tôi đến sinh hoạt cùng. Chúng tôi chưa hề công bố, đó là nơi phục vụ cho công cộng, cho nên chúng tôi không nhất thiết phải đáp ứng mở cửa cho anh chị vào.

Điều thứ hai, anh chị biết thời gian của anh chị quý chẳng lẽ thời gian của chúng tôi không quý sao. Trong khi, anh chị đang cần đến nơi sinh hoạt của chúng tôi để giải quyết chuyện gì của anh chị nhưng anh chị lại biến chúng tôi trở thành đang cần anh chị nên phải phục vụ cho anh chị.

Cho nên, sau khi chào hỏi anh chị xong, chúng tôi cũng cho anh chị biết nơi sinh hoạt tâm linh của chúng tôi không phải là nơi công cộng và là chốn riêng tư, vì vậy, chúng tôi không nhất thiết phải mở cửa cho anh vào vào và cũng yêu cầu anh chị nếu anh chị có việc muốn đến chỗ sinh hoạt tâm linh của chúng tôi thì làm ơn phải lấy hẹn trước chứ không phải cứ tự động đến là chúng tôi sẽ mở cửa đón tiếp và phải phục vụ cho anh chị.

Anh chị có vẻ không hài lòng với câu trả lời của chúng tôi, rồi nói:

“Chúng tôi không phải chỉ đến để xin giải quyết vấn đề mà không có trả lễ chúng tôi sẽ cúng dường số tiền lớn.”

Nghe anh chị nói xong chúng tôi mỉm cười rồi đáp:

Cơ sở sinh hoạt tâm linh của chúng tôi vốn không hề nhận bất cứ một sự cúng dường nào cho dù là một xu hay một cắc. Cho dù anh chị có cúng dường cả triệu đô đối với chúng tôi cũng vô nghĩa vì chúng tôi không cần đến.

Anh chị nghe xong không vui ra về, không biết, khi anh chị về, anh chị có nghĩ đến ai cần ai không?

Đời sống của chúng ta, không ít thì nhiều, chúng ta luôn cần đến người khác. Chúng ta có thể cần đến sự giúp đỡ của họ trong vấn đề này hay trong vấn đề khác.

Có đôi khi, chúng ta không cần đến sự giúp đỡ chúng ta mà chúng ta chỉ cần sự có mặt của họ cũng đem đến cho chúng ta sự bình an.

Vì vậy, khi chúng ta cần một ai đó thì chúng ta phải xác định rõ ràng chúng ta là người đang cần người khác giúp và chúng ta đừng nên đặt những điều kiện với người chúng ta cần họ giúp, vì họ không có bổn phận hay trách nhiệm phải giúp chúng ta. Nếu chúng ta muốn là theo cách của chúng ta thì chúng ta nên tự mình làm lấy vì chỉ có chúng ta mới

biết chúng ta cần gì nhất và chính xác nhất. Chúng ta đừng cho chúng ta có cái quyền là muốn giúp chúng ta thì phải theo nhưng điều kiện của chúng ta.

Đây không phải là cách ứng xử của người đi cần người khác giúp, mà chúng ta đang là người ban phát sự giúp cho người khác.

Lầm lẫn trong việc đi nhờ người khác, thành người ban phát cho người khác, thì sự thiệt thòi chắc chắn sẽ thuộc về bạn.

THIỆN – ÁC CHỈ KHÁC NHAU TRONG MỘT NIỆM

album-art

00:00

TẢI MP3 – BICH HÀ (ĐỌC VÀ NGÂM THƠ)
TẢI MP3 – QUẢNG BẢO TÂM
TẢI MP3 – TÂM TỪ
TẢI MP3 – MỴ HẰNG

Bạn thân mến,

Nói đến thiện ác thì có phải là qúa nhàm không, vì ai trong chúng ta cũng biết thiện và ác, nhưng như thế nào mới là Thiện và như thế nào mới là ác?

Đơn giản!

  • Việc làm lợi cho người trong hiện tại và vị lai, lấy đại chúng làm tiền đề là thiện.
  • Việc làm chỉ nhằm vào lợi ích cho chính mình hiện tại, lấy tổn hại người làm tiền đề là ác.

Qua phần giải thích trên, chúng ta tương đối đã hình dung ra được THIỆN và ÁC.

Nhưng còn niềm vui khi chúng ta làm việc THIỆN và nỗi ray rức khi chúng ta làm điều sai trái sẽ như thế nào?

Mời các bạn cùng với chúng tôi bước vào hành trình THIỆN – ÁC qua câu chuyện ngắn dưới đây.

Trong một ngôi làng nọ, có một gia đình nghèo khó bần cùng, người cha vì không có tiền, thường lợi dụng ban đêm lẻn vào vườn rau nhà hàng xóm hái trộm.

Hôm đó, anh ta đưa cậu con trai đi cùng.

Khi người cha vừa mới hái một trái ngô, đứa con bỗng nhiên ở sau lưng khẽ kêu:

Cha ơi, có người nhìn thấy kìa!

Cha của cậu kinh hãi, ngó nhìn bốn phía, hoảng hốt hỏi:

Người đó ở chỗ nào?

Đứa trẻ vừa chỉ tay lên trời, vừa trả lời: Cha xem kìa, là mặt trăng đang nhìn cha đó!

Người cha nghe con trai nói vậy, anh sững sờ, cảm thấy hối hận vì hành vi của mình.

Có chút hụt hẫng, nhưng lại có chút vui mừng.

Anh lặng lẽ dắt tay con trai đi về nhà.

Dọc đường về, anh thầm nghĩ: “Trộm cắp là gây nghiệp rất lớn, có lẽ là ông trời từ bi, mượn miệng con trai để giúp mình tỉnh ngộ, từ nay phải sửa sai hướng thiện”.

Về phía chủ nhân của vườn rau, vì thường bị mất trộm, anh ta vô cùng tức giận, đêm hôm đó đã sớm núp ở phía sau để rình bắt kẻ trộm.

Anh ta nghĩ thầm: “Đêm nay, nhất định phải tóm gọn tên trộm này”.

Khi anh ta nhìn thấy có kẻ trộm lẻn vào, đang định hô hoán bắt trộm thì nghe được câu nói của đứa trẻ, anh sững người.

Dưới ánh trăng, người chủ vườn rau nhìn thấy được mặt của tên trộm, biết gia đình anh ta là gia đình nghèo khó trong thôn.

Nhìn thấy hai cha con lặng lẽ dắt nhau rời đi, anh ta cũng bất giác ngẩng đầu nhìn ánh trăng, im lặng không nói gì.

Về đến nhà, anh ta đem chuyện này kể lại với vợ.

Vợ anh nói: Mặt trăng kia chẳng phải cũng đang nhìn anh sao?

Cả đêm hôm đó, người chủ vườn rau trằn trọc không sao ngủ được.

Đến trưa hôm sau, anh ta đi tìm hai cha con người ăn trộm kia và nói:

Chào anh, nhà tôi hiện đang cần tìm thêm người làm, anh có thể nhận làm được không? Ngoài tiền công, tôi còn có thể biếu anh một ít đồ ăn để mang về nhà.

Đêm hôm đó, người cha nghèo kia nắm tay con trai, lặng lẽ ngồi ngắm trăng, bỗng đứa trẻ nói:

Cha ơi, cha nhìn xem… Là trăng đang cười kìa.

Trong lúc này ở nhà, người chủ vườn rau cũng đang cùng vợ ngồi ngắm trăng, anh mỉm cười:

Ánh trăng đêm nay thật đẹp. Mình có cảm thấy, Trăng đang cười với chúng ta không?

Ngạn ngữ có câu:

“NGƯỜI ĐANG LÀM, TRỜI ĐANG NHÌN.

THIỆN – ÁC CHỈ KHÁC NHAU TRONG MỘT NIỆM.”

BÀI THƠ:

CHA VÀ CON

Gia đình nọ rất bần hàn khốn khó

Một đêm kia, dắt con nhỏ đi cùng

Lén vào vườn trộm ngô, mãi tay run

Bỗng đứa bé nhẹ nhàng lên tiếng nói

Kìa cha ơi, có người đang nhìn đó.

Tít trên cao ông trăng cứ soi vào

Cả người cha lộng sáng dưới ánh sao…

Trời đất biết, cha và con cùng thấy…”

Cha kinh hãi, giật thót người. Phải vậy không?

Sẽ gây ra nghiệp lớn, khởi từ đây

Ngộ tính “KHÔNG”, “TÂM” thiện tỏ bày

Từ nay cố sửa sai mà hướng thiện…

CHỦ VƯỜN

Lành làm gáo, vỡ làm muôi, quyết liệt

Truy cho ra ai là kẻ trộm đồ

Khổ rồi nhé! Tên trộm ngô không may mắn

Chợt sững lại… “Có ai nhìn ta vậy?”

Trời trên cao cũng đang nhìn ta đó

Bởi từ bi tự sẵn có ở lòng ta

Rộng vòng tay quyện sáng với trăng ngà

Mời họ đến việc nhà ta chia xẻ.

HỌ VỚI NHAU

Thượng tuần đêm, con nhìn cha khẽ nói:

Có ông trăng đang cong khóe miệng cười

Và chủ vườn cùng mĩm cười ngắm nguyệt

Trăng tủm tỉm sáng ngời đôi mắt vợ.

6 GIAI ĐOẠN TỈNH THỨC

album-art

00:00

TẢI MP3 – VIÊN NGUYỆT
TẢI MP3 – DIỆU LIÊN

Bạn Thân Mến,

Trong những ngày qua, chúng tôi có nhận một số điện thư của một số độc giả, sau khi đọc qua những tập Mỗi Ngày Một Chuyện, có những thắc mắc gởi về. Chủ đề hôm nay chúng tôi muốn chia xẻ với bạn về những câu hỏi qua điện thư như sau:

Chào Anh,

Không biết vì nhân duyên nào đó đẩy đưa, mà em được đọc những tập Mỗi Ngày Một Chuyện của anh và chị chia xẻ. Càng đọc thì em lại thấy sao quen quen, mà cũng rất xa lạ.

Quen vì nó gần gủi như hình với bóng, nó thật như những gì đang xẩy ra trong cuộc sống hiện tại, nhưng cũng rất xa lạ, vì những gì anh chị chia xẻ, thì hoàn toàn mới lạ, hoàn toàn khác với những gì em đã học trước đây.

Em cảm thấy rất phân vân, không biết đâu mới là sự thật. Chẳng hạn như, khi em học về tỉnh thức thì có 6 giai đoạn như:

  1. Lập trình
  2. Giác ngộ ban đầu
  3. Tỉnh thức – sáng suốt
  4. Gỡ nghiệp
  5. Sụp đổ
  6. An Lạc và thấm nhuần An Lạc

Nhưng trong Mỗi Ngày Một Chuyện, em chưa thấy anh hay chị chia xẻ về từng giai đoạn, nên em không biết đâu mới là đúng để thực hành.

Nếu anh hay chị có chút thời gian, xin vui lòng chỉ dẫn cho em, để em có thể hiểu rõ, và thực hành trong đời sống hàng ngày.

Rất cám ơn anh chị đã chia xẻ những kinh nghiệm quý báu của anh chị, và xin chúc anh chị một ngày an lành.

Thân Kính

K.

Chào Bạn K,

Rất cám ơn bạn đã bỏ thời gian để đọc những chia xẻ của chúng tôi. Qua thư của bạn, chúng tôi cũng xin hồi đáp lại bạn một số kinh nghiệm của chúng tôi trong qúa trình tĩnh thức và tỉnh thức.

Chúng tôi thì chưa nghe qua về 6 bước tỉnh thức này, nên không biết nội dung như thế nào. Nếu đứng trên góc độ của kiến thức thì sự phân chia đó cũng rất chuẩn.

Bởi vì, nếu muốn hướng dẫn cho người khác, thì chúng ta phải có phương pháp, nghĩa là, phải phân chia ra từng phần một thì người thực tập mới biết để làm theo.

Nhưng đứng trên góc độ của nhận thức hay trải nghiệm của một cá thể, đi từ bản ngã về bản thể, thì có thể sẽ tạo ra vấn đề. Vấn đề gì đây? Vấn đề là, chúng ta sẽ chấp vào những bước, sẽ thỏa mãn với những tầng lớp, hay phương pháp mà chúng ta đặt ra.

Thí dụ, trong phương pháp của bạn có 6 bước, thì bước đầu tiên là lập trình, bước thứ hai là giác ngộ ban đầu, v.v.

Chúng tôi không biết diễn giả dùng từ “lập trình” ở đây là gì, có thể, đó là những niềm tin mà chúng ta đã tích lũy bấy lâu, mà chưa được kiểm chứng. Chính những niềm tin này là chỗ dựa của Ngã Thức để hành xử trong cuộc đời.

Vì niềm tin chưa được kiểm chứng, đa phần đều là những sản phẩm từ sự phỏng đoán hay tưởng tượng của Ý Thức. Cho nên, niềm tin của chúng ta mới không nhìn đúng với sự thật. Vì vậy, khi chúng ta dựa trên niềm tin đó, chúng ta hay rơi vào những quyết định sai lầm, và từ đó tạo ra những khổ đau trong cuộc sống.

Nếu chúng ta khi tiếp nhận những sự khổ đau, và biết cách đi giải quyết những sự khổ đau đó, một cách rốt ráo, thì chúng ta sẽ có được sự bình an. Sự bình an này có thể dài bao nhiêu, thì tùy thuộc vào mỗi chúng ta có đặt bình an là mục đích sống của chúng ta hay không?

Nếu chúng ta không đặt an làm mục đích sống của chúng ta, thì sau khi chúng ta giải quyết được một vấn đề xong, và có an, thì khi vấn đề khác đến, mà chúng ta lại trốn chạy, hay đè nén, thì cho dù, chúng ta có giải quyết vấn đề kia một cách rốt ráo, cũng không đem đến cho chúng ta được an lâu dài như chúng ta nghĩ.

Sự thật, trong cuộc sống của chúng ta, có muôn ngàn vấn đề mà chúng ta phải đương đầu liên tục, chứ không phải chúng ta chỉ có một vấn đề.

Dĩ nhiên, nếu chúng ta chỉ có một vấn đề để giải quyết, thì khi giải quyết vấn đề đó một cách triệt để, chúng ta sẽ có an liên tục hay an tuyệt đối là chuyện đương nhiên.

Vì vậy, nên diễn giả mới cho rằng, có bước giác ngộ ban đầu. Có nghĩa là, khi chúng ta chấp nhận chúng ta có vấn đề, thì chúng ta mới bắt đầu đặt những câu hỏi để tìm lại chính mình.

Có thể, đối với diễn giả, khi đang sống quay cuồng trong đau khổ, nhưng đột nhiên, chúng ta dừng lại, và sau đó, đặt câu hỏi cho chính chúng ta, khiến chúng ta phải suy nghĩ đến những nhận thức sai lầm của chúng ta.

Chúng tôi thật không hiểu rõ định nghĩa của bốn chữ “Giác Ngộ ban đầu” ở đây là gì, nếu dựa trên qúa trình, thì chúng tôi tạm diễn dịch là qúa trình nhận dạng.

Quá trình nhận dạng là quá trình qua sự trải nghiệm của khổ đau, mới phát hiện ra sự khổ đau đang có mặt, và đang tàn phá cuộc đời của chúng ta, và chúng ta không muốn điều đó xẩy ra cho chúng ta nữa, nên chúng ta muốn đi tìm ra phương pháp để giải thoát.

Chính vì, có quyết tâm đi tìm con đường giải thoát, cho nên, chúng ta, thay vì, cứ quay cuồng theo khổ đau, thì chúng ta dừng lại, và bắt đầu tập quan sát và nhìn sâu vào vấn đề. Chính vì có quan sát và nhìn sâu, nên chúng ta có thể biết được nguyên nhân tạo ra vấn đề.

Bốn chữ “tỉnh thức – sáng suốt” của diễn giả ở đây, có thể đang muốn diễn đạt cách tìm ra gốc rễ của vấn đề, và sau đó, đi giải quyết vấn đề qua hai chữ “gỡ nghiệp”.

Chúng tôi thật sự cũng không hiểu được định nghĩa chữ “nghiệp” của diễn giả là gì, nên không thể diễn giải được.

Sau khi đã “gỡ nghiệp” rồi, thì đến “sụp đổ”. Chúng tôi cũng không biết sẽ “sụp đổ” cái gì. Có thể là, sự sụp đổ những nhận thức sai lầm trong qúa khứ, mà chúng ta đã tin theo, mà không qua kiểm chứng.

Nhưng vì, nay qua quá trình kiểm chứng, thực chứng, thì chúng ta biết được niềm tin đó hoàn toàn sai sự thật. Cho nên, niềm tin đó sụp đổ, và được thay thế bằng một niềm tin mới chăng?

Dĩ nhiên, khi chúng ta đã giải quyết vấn đề một cách rốt ráo, và trong Ngã Thức của chúng ta không còn bất cứ một sự lo âu, phiền não, hay khổ đau nào, thì chúng ta có được an và sau an là lạc.

Còn việc, “thấm nhuần An Lạc” thì chúng tôi cũng không hiểu định nghĩa hai chữ “thấm nhuần” là gì, nên không biết diễn giả đang muốn diễn đạt vào phần nào.

Nếu đứng trên góc độ đi từ bản ngã về bản thể thì 6 bước mà bạn học, cũng có thể gọi là những phương pháp để giúp cho bạn nhận ra được lộ trình của bạn đang đi. Đó gọi là cái lợi, nhưng cái hại là, nếu bạn dựa vào lộ trình này mà tu tập hay để nâng cấp trình độ, thì bạn sẽ không có khả năng để tiếp cận với bản thể.

Một cá nhân thật sự muốn đi từ bản ngã đến bản thể, thì phải tự trải nghiệm, chứ không thể nương tựa trên bất cứ phương pháp nào. Đây là sự khác biệt đầu tiên giữa kiến thức và nhận thức.

Đứng trên góc độ của kiến thức, thì chúng ta phải phân chia thành từng giai đoạn, bởi vì, giai đoạn này là nền tảng căn bản cho giai đoạn kia.

Thí dụ, bạn muốn giải được phương trình bậc hai thì bạn phải có căn bản về bốn phép tính: cộng trừ, nhân, chia. Nếu bạn không có căn bản, và không thật sự hiểu rõ về bốn phép tính trên, thì bạn không thể nào học được cách giải phương trình bậc hai.

Cho nên, khi đứng trên góc độ về kiến thức, sự phân chia giai đoạn, hay những phương pháp từ cơ bản đến cao cấp, là việc làm rất cần thiết. Bởi vì, nếu không có sự phân chia này, chúng ta sẽ bị choáng ngợp trước một rừng kiến thức trộn lộn vào nhau.

Nhưng đứng trên góc độ về nhận thức, thì sự phân chia giai đoạn, hay nâng cấp trình độ, lại hoàn toàn không thể áp dụng.

Thí dụ, khi bạn nhìn con chó và chúng tôi hỏi bạn, bạn đang nhìn con gì đó? Bạn chỉ có thể trả lời là bạn đang nhìn con chó, chứ bạn không thể trả lời là, tôi đang nhìn con gì đó, mà có tai giống con chó, vì tôi chỉ mới học để nhận dạng được đó là tai con chó.

Trong nhận thức thì rất đơn giản và rõ ràng, một là bạn nhận ra sự thật, hai là bạn không nhận ra sự thật, chứ không có giai đoạn trung trung ở chính giữa, là tôi nhìn được một nửa sự thật, hay hai phần ba sự thật.

Cho nên, trong nhận thức, nhất là nhận thức về sự thật của một cá thể, đi từ bản ngã đến bản thể, người đó không thể nương tựa trên bất cứ phương pháp nào, hay của bất cứ một người trải nghiệm nào, mà cá thể đó, phải tự chính mình đi kiểm nghiệm và thực nghiệm trên chính bản thân mình.

Chúng ta, chỉ nên dùng những phương pháp hay kinh nghiệm, trải nghiệm của người khác để chứng nghiệm khi chúng ta đã tiếp xúc được với sự thật.

Mỗi Ngày Một Chuyện không phải là những chia xẻ về quá trình đi từ bản ngã về bản thể, vì chúng tôi biết được rằng, mỗi cá nhân đều có những kinh nghiệm, và cách diễn dịch định nghĩa riêng.

Cho nên, chỉ có chính người đó, mới tìm ra phương pháp thích hợp nhất cho người đó. Ngoài người đó ra, không ai có thể có phương pháp nào đúng nhất cho người đó.

Dĩ nhiên, chúng ta có quyền tham khảo những kinh nghiệm hay trải nghiệm của người khác, nhưng đó, chỉ là những thông tin, mà không phải niềm tin, hay sự thật, mà chúng ta đặt vào.

Phần lớn ngày nay, khi chúng ta học một điều gì từ ai đó, thì chúng ta hay sử dụng những phương pháp được phân chia theo kiến thức, mà không phải là nhận thức.

Cho nên, chúng ta phí rất nhiều thời gian để trải qua nhiều giai đoạn. Mỗi một giai đoạn chúng ta trải qua, chúng ta đặt cho nó một giá trị, và chúng ta tự hào về những giá trị mà chúng ta đã trải qua.

Chúng ta không biết được rằng, khi chúng ta chấp vào những giai đoạn chúng ta đã trải qua, thì chúng ta đang tạo ra những rào cản, không cho chúng ta tiếp xúc với sự thật.

Không ít những người trong chúng ta, thay vì, đi tiếp tới sự thật, thì chúng ta dừng lại nơi những thành quả đó, và phóng tưởng đó chính là sự thật.

Chúng ta càng học nhiều bao nhiêu thì ý thức của chúng ta càng phân tích rộng bấy nhiêu, và Ngã Thức của chúng ta càng trở nên tinh vi bấy nhiêu.

Khi Ngã Thức trở nên tinh vi bao nhiêu thì Ngã Thức của chúng ta sẽ tiếp tục củng cố thành trì của Ngã Thức thêm kiên cố bấy nhiêu.

Cho nên, khi ngã thức của chúng ta đã xây vững thành trì, thì cuộc đời của chúng ta sẽ bị giam cầm trong thành trì đó suốt đời, khó mà thoát ra được.

Trong Mỗi Ngày Một Chuyện, sở dĩ, chúng tôi không đưa ra những phương pháp hướng dẫn bạn đi từ bản ngã về bản thể, có vài lý do, như sau:

  • Mỗi người trong chúng ta, nếu muốn đi đến bản thể của mình, thì phải tự đi bằng chính đôi chân của mình, mà không thể sử dụng đôi chân của người khác.
  • Chỉ khi, đi bằng chính đôi chân của chúng ta, chúng ta mới biết đích chúng ta muốn tới là gì, và chỉ như thế, chúng ta mới kiên trì để đi đến cùng, mà không bỏ cuộc nửa chừng.
  • Đã có quá nhiều diễn giả chia xẻ kinh nghiệm, hay trải nghiệm, trên qúa trình đi từ bản ngã về bản thể, cho nên nếu có thêm phần chia xẻ của chúng tôi hay không thì cũng không cần thiết.
  • Trong khi, qúa trình ứng dụng của dụng nghiệm (đi từ bản thể về lại bản ngã) thì lại có rất ít diễn giả chia xẻ.

Cho nên, Mỗi Ngày Một Chuyện chỉ tập trung chia xẻ với bạn, những gì chúng tôi đang học và hành trong đời sống hàng ngày, để kéo dài An, hơn là, chia xẻ những phương pháp giúp bạn tiếp xúc với bản thể của bạn.

Đi tìm về bản thể của chính mình, là một hành trình dài hay ngắn, tùy theo kinh nghiệm tích lũy của mỗi người. Nói đến việc đi từ bản ngã tới bản thể, thì Thiền là một trong những phương pháp khá độc đáo.

Đây là câu chuyện đã xẩy ra với chúng tôi khoảng hơn ba mươi năm về trước, khi có một bậc thức giả đến để tham vấn về Thiền.

Khi vị thức giả đến gặp chúng tôi hỏi “Tâm là gì?” chúng tôi nói: Xin ngài đặt câu hỏi, rồi tự trả lời. Sau đó, chúng tôi xin góp ý.

Thức giả: Tâm?

Thức giả trả lời: Âm

Góp ý: Trầm

Thức giả: Tâm?

Thức giả trả lời: Lâm

Góp ý: Lầm

Thức giả: Tâm?

Thức giả trả lời: Câm

Góp ý: Cầm

Một người khách khác ngồi ngoài, nghe đối thoại bổng thốt:

HÂM

Nếu chúng tôi dừng lại câu chuyện ở đây, thì sẽ khiến cho rất nhiều bạn sẽ “điên đầu” để hiểu cuộc đối thoại của chúng tôi với vị thức giả kia là gì.

Nhưng nếu bạn đọc tiếp những lời giải thích của chúng tôi thì bạn sẽ thấy, cũng không có gì là “bí hiểm” lắm.

Ngày xưa, những người khao khát học đạo, đến gặp thiền sư, chỉ mong duy nhất có một điều, đó là, được thiền sư điểm đạo.

Khi họ đến, họ mang theo những kiến thức, những tư tưởng, suy nghĩ, so sánh của riêng mình, và cho đó là đúng nhất.

Nên trong sách thiền, gọi họ là thức giả, nghĩa là, những người chỉ biết lý thuyết, mà không bao giờ biết thực hành. Trái với thức giả, là Tuệ giả, người giỏi cả lý thuyết lẫn thực hành.

Câu chuyện bắt đầu khi vị thức giả hỏi tâm là gì, và ông thao thao bất tuyệt, chứng minh hết sách này đến sách kia, để chứng minh là ông biết thế nào là Tâm. Ông dùng âm thanh để diễn tả nên có chữ “Âm”.

Sau khi, nghe xong vị thức giả trình bầy, chúng tôi mới góp ý bằng chữ “Trầm”, có nghĩa là, hôn trầm = u mê.

Vị thức giả, sau khi nghe, và biết mình chưa chuẩn, nên tiếp tục lý luận.

Nếu không thể dùng âm để giải được tâm thì người tu đạo phải lên rừng (Lâm) để tu tập. Vì thế gian này, ô trọc qúa, không xứng đáng để ở lại, tìm tâm.

Nghe xong, chúng tôi mới góp ý, bằng chữ “Lầm”, vì Tâm vốn ở khắp mọi nơi, chứ chẳng phải cứ lên rừng ở, mới có Tâm, còn ở giữa chợ thì không có Tâm.

Sau khi nghe chúng tôi góp ý, vị thức giả cũng hỏi Tâm là gì? nhưng không dùng kiến thức để lý luận so đo nữa, ông Câm = im lặng, và nhìn sâu vào trong tâm thức của mình, và nhận diện được Tâm ở khắp nơi.

Trạng thái im lặng và nhìn sâu vào nội tâm của người thức giả này, đã tự mình trả lời được câu hỏi tâm là gì, nên chúng tôi mới góp ý bằng chữ “Cầm”.

Chữ “Cầm” ở đây, có nghĩa là, chúng tôi đã trao cho người thức giả chiếc chià khoá, để mở ra cánh cửa Tâm. Trong Thiền học, gọi đó là “trao truyền tâm ấn”.

Có một người khách khác, mà người này không bao giờ khát khao tìm đạo, nên khi chứng kiến hành động đối đáp của vị thức giả với chúng tôi, thì cho là Hâm = khùng.

Chúng tôi ghi lại bài thơ này để diễn tả về các trạng thái tâm lý của ba nhân vật thức giả, chúng tôi và người khách khác.

Cùng một vấn đề, mà 3 người suy nghĩ khác nhau, và đều đưa ra ba trạng thái kết quả khác nhau.

Tuy cả ba đều là Tâm, nhưng Tâm bất tận không cùng. Khi tâm ở người thì là tâm người. Khi Tâm ở thú thì thành tâm thú, và khi ở hoa thì thành tâm hoa.

Nên mới có câu: “một là tất cả – tất cả là một” là vậy. Người thức giả thì phân chia tâm ra có cao, có thấp, có tử, có sinh, rồi đắm chìm trong so đo, mà bó tâm lại cho riêng mình. Nên khi thấy mất đi thì tiếc, lấy được thì mừng.

Ngược lại, người thực nghiệm và dụng nghiệm vì bìết tâm ở khắp mọi nơi, nên sống hay chết, mất hay được, cũng là chuyện tự nhiên, như hoa và rác.

Phân rác không vì mình có mùi hôi mà coi thường mình, ngược lại, vẫn toàn tâm toàn ý, biến thành những chất dinh dưỡng để nuôi hoa.

Hoa cũng không vì mình có hương sắc mà dám coi thường phân rác, vì hoa biết, ngày mai kia, mình cũng sẽ là phân rác, để tiếp tục cống hiến dinh dưỡng cho những bông hoa kế tiếp.

Thiền là thế. Không phải dùng kiến thức để tranh luận, so đo để nhận ra thực tại, mà dùng sự nhìn sâu để biết được mình.

Nhưng với ngày nay, Thiền lại khác. Có muôn ngàn cách trình bầy, hướng dẫn. Mục đích cuối cùng thì cũng giống nhau, nghĩa là tiếp cận được với bản thể.

Cho nên, nếu bạn cần một lời góp ý, thì chúng tôi chỉ xin góp ý với bạn là, bạn hãy tự mình thắp đuốc mà đi. Vậy bạn sẽ thắp đuốc như thế nào?

Có vài điều bạn có thể suy ngẫm:

  • Hãy tìm hiểu kỹ càng về định nghĩa của bạn, nhất là những định nghĩa liên quan đến cảm xúc/giác
  • Hãy xác định lại mục đích sống của bạn có phải là an lạc và hạnh phúc không, và nếu bạn có mục đích an thì mục đích đó là dài hạn hay ngắn hạn?
  • Dù bạn lựa chọn phương pháp nào để đi theo, thì bạn phải đem điều bạn học, áp dụng vào trong thực hành, chứ đừng có học, hay ôm đồm cả đống phương pháp, mà bạn không thực hành gì cả.
  • Khi học bất cứ một phương pháp nào thì bạn chỉ xem những bài học đó là những thông tin, và bạn cần phải đi kiểm nghiệm, thực nghiệm và chứng nghiệm.
  • Sau khi, trải qua ba qúa trình trên, mà kết quả ra đúng với những bài học mà bạn học, thì lúc đó bạn mới tin. Bạn chỉ nên tin vào kết quả, qua sự kiểm nghiệm, thực nghiệm và chứng nghiệm trên bản thân của bạn.
  • Sau đó, bạn phải thực tập liên tục phương pháp mà bạn đã trải nghiệm để trở thành một thói quen, và bạn sẽ sử dụng thói quen này, trong sự sinh hoạt của bạn với những người chung quanh bạn.

Nếu bạn có thể làm được những điều nêu trên, thì bạn có thể tiếp xúc với bản thể, hay sự thật, cũng không có gì là khó khăn lắm.

Đuốc thì đã có trong tay của bạn, mồi lửa thì cũng có sẵn trong tay của bạn, bạn có muốn thắp đuốc cho bạn đi hay không thì chỉ có bạn mới biết, bạn thật sự cần hay không cần ánh sáng mà thôi.

Mong thay, với sự thực hành nghiêm túc của bạn, bạn sẽ sớm tiếp xúc được với bản thể của bạn.

Thật mong lắm thay.

TIÊU CHUẨN KÉP

album-art

00:00

TẢI MP3 – QUẢNG BẢO TÂM (HUẾ)
TẢI MP3 – MỴ HẰNG

Bạn Thân Mến,

Chắc không ai trong chúng ta lạ gì ba chữ “tiêu chuẩn kép”, Vì sao? Bởi vì, chúng ta sử dụng ba chữ này, quá nhiều lần trong cuộc đời. Nhưng tại sao chúng ta lại thích dùng tiêu chuẩn kép hơn tiêu chuẩn đơn, là chủ đề hôm nay chúng tôi muốn chia xẻ với bạn.

Định nghĩa của hai chữ tiêu chuẩn là căn cứ, đúng, hay mẫu dùng để đo lường, cân nhắc sự vật, hay việc; và kép là đôi, cặp, hay ghép vào.

Như vậy, tiêu chuẩn kép là một mẫu mực đúng được ghép vào với một tiêu chuẩn khác, mà tiêu chuẩn thứ hai lại thường khác với tiêu chuẩn đầu tiên.

Một người vợ đi mua sắm, thấy chiếc ví đắt tiền rất thích, nên quyết định mua chiếc ví đó. Người chồng đi kế bên, thấy vợ mua chiếc ví, nên cũng chọn cho mình một chiếc cà vạt. Nhưng khi ra trả tiền, người vợ lại lấy chiếc cà vạt của chồng bỏ ra, và chỉ trả tiền chiếc ví mà người vợ chọn.

Trên đường lái xe về nhà, người chồng bất mãn lên tiếng:

“Sao lúc nẫy em không mua luôn cái cà vạt cho anh.”

Người vợ trả lời: Anh còn có cả đống cà vạt ở nhà, sao không đeo, mà mua chi cho tốn tiền, trong khi tài chánh của chúng ta cũng đang eo hẹp.

Người chồng nghe xong ấm ức, nhưng không nói. Anh không phục, vì vợ của anh cũng có cả đống ví, đang để trong tủ quần áo, mà vợ anh có dùng đâu, sao lại đi mua cái mới.

Hơn nữa, giá tiền của cái ví, đắt hơn gấp chục lần cái ca vạt, nếu là tài chính eo hẹp, thì vợ của anh nên mua cái cà vạt, ít tiền hơn để tiết kiệm, chứ sao lại mua chiếc ví đắt tiền hơn, rồi lại cho rằng, vì tài chính eo hẹp, nên không thể mua cái cà vạt cho anh.

Cách ứng xử của người vợ với người chồng trong câu chuyện trên, chúng ta gọi là tiêu chuẩn kép. Có nghĩa là, khi chị mua sắm thì được, nhưng khi chồng chị mua sắm thì không được.

Hay qua quan sát và nhìn sâu, chúng ta thấy, tuy cùng làm một việc, nhưng với mình thì đó là đúng, còn với người khác thì lại là sai.

Trong khi tiêu chuẩn đơn, có nghĩa là, nếu đúng với mình thì đúng với người, mà hễ sai với mình thì sai với người. Trong tiêu chuẩn đơn không có sự tham gia của ngụy biện, bào chữa, mà chỉ có một nguyên tắc để tuân theo làm chuẩn mực.

Vậy tại sao chúng ta lại thích sử dụng tiêu chuẩn kép? Bởi vì, khi sử dụng tiêu chuẩn kép chúng ta có thể thõa mãn cho sự ham muốn của chúng ta một cách dễ dàng.

Như câu chuyện nêu trên, nếu người vợ sử dụng tiêu chuẩn đơn, nghĩa là, chị có quyền mua sắm, thì chồng chị cũng có quyền mua sắm.

Nếu chị cảm thấy tài chính gia đình của chị bị eo hẹp thì chị

cũng không nên mua chiếc ví đắt tiền để làm gì, mà chị nên sử dụng những chiếc ví mà chị đã mua và cất trong tủ quần áo ra để xài. Như vậy mới là tiết kiệm.

Nhưng ở đây, chị lại cho chị cái quyền, mua những gì chị thích. Chị muốn thỏa mãn cho Ngã Thức của chị, mà không hề quan tâm đến sự thỏa mãn về Ngã Thức của chồng chị.

Chị đã không ý thức được rằng, khi chị bắt đầu sử dụng tiêu chuẩn kép, cũng có nghĩa là, chị đang “rước” khổ đau vào trong gia đình của chị.

Sự ấm ức và không phục của chồng chị, có thể tùy theo định nghĩa mà anh diễn dịch về sự chịu đựng, yêu thương, như thế nào.

Nếu chỉ một lần thì không sao, vì nguồn năng lượng bất mãn còn nhỏ, nhưng nếu cứ tiếp tục lập đi lập lại, thì nguồn năng lượng kia sẽ được tích tụ lại, và khi nguồn năng lượng đó kết hợp với những nguồn năng lượng khác như: giận, tức, bực, và trở thành nguồn năng lượng không tên, khống chế Ngã Thức, thì lúc đó sự bùng nổ, tan vỡ, sẽ trở nên tàn bạo và khốc liệt hơn.

Một đám cháy rừng, không phải bắt đầu bằng một sự đốm lửa lớn, mà bắt đầu sự nhem nhúm từ một mồi thuốc lá vô tình.

Phần đông chúng ta cứ qúa ỷ y là chúng ta hiểu người kia rất rõ ràng, cho nên, chúng ta cho phép chúng ta sử dụng tiêu chuẩn kép, mà bắt người kia phải sử dụng tiêu chuẩn đơn.

Nếu có ai đụng chạm đến tiêu chuẩn kép của chúng ta thì

chúng ta sẽ “xù lông” như con nhím, để sẵn sàng làm tổn thương đối phương. Nhưng cũng thật là lạ, nếu ai đó dùng tiêu chuẩn kép, và ép chúng ta phải dùng tiêu chuẩn đơn, thì chúng ta cũng “xù lông” chống trả không kém.

Nghĩa là, chúng ta không chấp nhận chúng ta bị người khác ép chúng ta dùng tiêu chuẩn đơn, nhưng chúng ta lại muốn dùng tiêu chuẩn kép với mình, và bắt người khác phải dùng tiêu chuẩn đơn, và người đó không có quyền phản kháng hay “xù lông” chống lại mình.

Chúng ta đang sống trong thế giới của tương đối, nhưng cách hành xử của chúng ta ứng dụng lại là tuyệt đối. Chính vì vậy, chúng ta không những đã tạo ra khổ đau cho chính chúng ta, mà chúng ta cũng đang tạo ra biết bao khổ đau cho những người chung quanh chúng ta.

Chúng ta thích nói về lòng từ bi, lòng yêu thương, lòng lân mẫn, nhưng trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, chúng ta lại luôn sử dụng tiêu chuẩn kép, chúng ta luôn tạo ra những khổ đau cho mình và cho người.

Vậy thì, những chất liệu như từ bi, yêu thương kia có “đất” đâu mà lớn mạnh, trong khi, những chất liệu khổ đau do chính chúng ta, cứ tiếp tục tích lũy, qua cách ứng xử tiêu chuẩn kép của chúng ta mỗi ngày; và tệ hại hơn, những khổ đau mà chúng ta trao tặng cho người khác, họ cũng “đáp lễ” lại cho chúng ta, đâu có kém hơn chút nào.

Chính vì vậy, cuộc sống của chúng ta luôn “đón nhận” hai nguồn năng lượng của khổ đau. Một do chính chúng ta tạo ra, và hai, khổ đau của người khác vẫn tiếp tục hiến tặng chúng ta mỗi ngày.

Khi sự khổ đau trong chúng ta được tích tụ và lớn mạnh, chúng ta không thể đối đầu, thì chúng ta lại tìm cách trốn chạy, hay tìm cách đè nén, và một trong những cách chúng ta hay sử dụng nhiều nhất, đó là: đổ lỗi cho người.

Cuộc đời của chúng ta, nếu cứ tiếp tục vướng vào sự trốn chạy, đè nén, và đổ lỗi cho người, thì chúng ta sẽ sống trong khổ đau phiền não triền miên, đâu có gì là lạ.

Có một chị, trước những ngày bầu cử của tổng thống Mỹ, chị chọn lựa vị tổng thống đương nhiệm, và cho rằng, vị ứng cử viên tổng thống không xứng đáng.

Thế nên, chị đã cùng với nhóm của chị tuần hành mỗi cuối tuần để đi vận động cho vị tổng thống, mà đối với chị là vĩ đại nhất.

Dĩ nhiên, chúng ta đang sống trong thế giới của tương đối, nếu chị ủng hộ người này, thì cũng có những người khác ủng hộ người kia. Thế là đôi bên biến thành hai chiến tuyến, đi công kích và nói xấu lẫn nhau. Họ bàn luận sôi nổi, và tin tưởng rằng, vị tổng thống đương nhiệm nhất định sẽ thắng cử.

Không may cho vị tổng thống đương nhiệm là, trong lúc ông đang điều hành quốc gia, thì nước Mỹ lại rơi vào trận đại dịch lớn trên toàn cầu.

Có lẽ, vì thiếu kinh nghiệm đương đầu với đại dịch, cho nên, vị tổng thống đương nhiệm đã đưa ra những nhận xét thiếu chính xác về đại dịch, nên đã khiến cho rất nhiều con dân của ông đã chết trong cơn đại dịch.

Khi được phỏng vấn trên các đài ti-vi và báo chí, người ta hỏi ông, tại sao lại đưa ra những thông tin hay nhận xét không đúng với sự thật về đại dịch.

Ông đã trả lời: vì ông không muốn quần chúng lo sợ về dịch nên ông đã dùng những thông tin trên để “trấn an” quần chúng. Đối với ông, ông không tin có con vi khuẩn tạo ra đại dịch.

Không may cho ông, sau đó, chính ông lại là người bị con vi khuẩn mà ông không tin đó “thâm nhập” vào trong cơ thể của ông. Với một đội ngũ Y khoa giỏi, chuyện ông vượt qua sinh tử cũng khá dễ dàng.

Chỉ khoảng hai tuần chữa trị, thì ông đã bình phục, và tiếp tục cuộc vận động tranh cử cho chức vụ tổng thống nhiệm kỳ hai của ông.

Mặc dù, ông được sự ủng hộ khá đông của quần chúng, nhưng vì số người chết vì đại dịch qúa nhiều, nên kết quả cuối cùng, ông thất cử, và vị ứng cử viên thổng thống, chính thức trở thành tổng thống.

Khi vị tổng thống mà chị yêu quý và kính phục bị thất cử thì chị rất đau buồn, nên chị cùng nhóm của chị quyết định, chống lại vị tổng thống mới đến cùng.

Khi vừa nắm quyền tổng thống, thì vị tổng thống mới đã dồn mọi nguồn năng lực của quốc gia cho việc chống dịch. May cho ông, lúc đó, đã có những viện bào chế tìm ra được vắc xin (vaccine) chống dịch.

Tuy vị tổng thống mà chị yêu quý không kêu gọi trực tiếp, là không nên chích vắc xin, nhưng trong những thông điệp

của ông thì gián tiếp nhắc đến điều đó. Cho nên, phần lớn những người ủng hộ vị cựu tổng thống, nhất định không chịu chích vắc xin (vaccine), mặc dù, chích ngừa hoàn toàn miễn phí.

Cũng xui cho chị, là chị bị trúng dịch, cho nên, cả chị và gia đình chị phải đi chích ngừa. Tuy vậy, chị vẫn không tin là con vi khuẩn có thật, mà chỉ do chính quyền đặt ra để khống chế quần chúng.

Vài tháng sau, đứa con của chị sống ở tiểu bang khác gọi cho chị, và báo sẽ về thăm chị, vì tiểu bang nơi con chị sinh sống, là tiểu bang ủng hộ vì cựu tổng thống, nên không chịu chích ngừa. Vì thế, nên anh và vợ của anh, không thể đi làm được.

Khi gọi điện thoại cho chúng tôi, chị lên án những người không chịu chích ngừa, nên mới ảnh hưởng đến sự nghiệp con và dâu của chị. Chị gọi những người không đi chích ngừa, tin vào vị cựu tổng thống, là nhưng kẻ “cực đoan”, trong khi, ngày xưa, khi đối lập với nhóm khác, họ gọi chị là “cực đoan”, thì chị lại cho chị là chính nghĩa.

Nhưng lạ thay, nay, cũng với những người “trung thành” với vị cựu tổng thống như chị lúc xưa, khi ảnh hưởng đến gia đình của chị, lại biến thành kẻ “cực đoan” trong suy nghĩ của chị.

Những câu chuyện về tiêu chuẩn kép chúng ta gặp trong đời, nếu có thể ghi chép lại, có thể thành một thư viện khổng lồ, vì ai trong chúng ta, không ít thì nhiều, cũng đều sử dụng tiêu chuẩn kép trong cuộc đời của mình.

Chúng tôi cũng như bạn cũng đã từng sử dụng tiêu chuẩn kép trong cuộc đời của chúng tôi. Nhưng từ ngày chúng tôi bắt đầu sử dụng sự quan sát và nhìn sâu, để thấy được những hậu quả mà tiêu chuẩn kép đã để lại cho chúng tôi, thì chúng tôi bắt đầu chấm dứt sử dụng tiêu chuẩn kép.

Còn bạn thì sao, bạn vẫn tiếp tục sử dụng tiêu chuẩn kép trong cuộc đời của bạn, và bạn tiếp tục tích lũy khổ đau cho bạn, và những người chung quanh bạn, hay bạn lựa chọn, cách đem đến hạnh phúc và an lạc cho bạn và cho người, qua cách sử dụng tiêu chuẩn đơn?

Dĩ nhiên, chỉ có bạn mới có thể đưa ra quyết định cuối cùng là gì. Nhưng có một điều bạn luôn ghi nhớ, nếu bạn đã đưa ra quyết định lựa chọn nào, thì bạn phải chịu trách nhiệm với quyết định đó.

Bạn đừng đòi hỏi có quyền quyết định, nhưng khi xẩy ra hậu quả, thì bạn lại bắt người khác phải gánh chịu hậu quả do bạn gây ra, và coi đó là chuyện tất nhiên.

Trên đời này, khó có ai có thể chấp nhận cách sống đó của bạn, và nói chi xa, chính bạn, bạn cũng sẽ không chấp nhận một người nào đó, sống với bạn, mà họ ra quyết định, còn bạn thì đi gánh hậu quả cả.

CHIẾC LÁ CUỘC ĐỜI

album-art

00:00

TẢI MP3 – MỴ HẰNG
TẢI MP3- QUẢNG BẢO TÂM (HUẾ)
TẢI MP3 – DAVID NGÔ

Bạn thân mến,

Nếu bạn nhìn vào một cây ăn trái thì bạn sẽ thấy gì? Dĩ nhiên, bạn sẽ thấy có thân cây, rồi từ thân cây có cành nhánh, và trên cành nhánh thì có lá,  đến mùa thì đơm hoa, và cuối cùng là trái.

Thân và cành là những lá chắn, và nơi cung cấp những chất dinh dưỡng cho lá có cơ hội đơm chồi nẩy lộc trước khi ra hoa và kết trái.

Theo thư viện mở: “lá cây có vai trò quan trọng trong đời sống sinh lý của cây. Lá cây là cơ quan chủ yếu biến năng lượng mặt trời thành năng lượng hóa học (với đa số loài thực vật bậc cao). Trong quan hệ tương tác với các loài sinh vật khác, lá cây là điểm đầu của các chuỗi thức ăn (là thức ăn chủ yếu của đa số các loài sinh vật tiêu thụ bậc 1). Lá cây có vai trò chủ đạo trong đời sống của các sinh giới.”

Lá có trước hoa và trái, nhưng lá lại nhường vinh dự cho hoa và trái. Người ta chờ hoa đợi trái để ngắm, để trưng bày, để ăn và để bán.

Sự thường, hoa và trái có giá hơn lá. Dù vậy, lá vẫn vui vì được là vật che chắn, làm chất xúc tác, làm đồ trang điểm cho hoa trái. Đó là niềm vui phục vụ, không tranh giành mà lặng lẽ, chỉ âm thầm mà mạnh mẽ. Chẳng buồn, chẳng ghét, chẳng ganh, chẳng giận.

Lá xanh tươi và óng mượt là dấu của cây tốt, cây đẹp, cây khỏe. Lá vàng úa và khô héo là dấu của cây bệnh, cây khô và cây chết. Lá trở thành dấu hiệu để biết cây.

Lá rụng chẳng ai thương. Lá rơi chẳng ai tiếc. Hoa rơi lắm người tiếc nuối. Trái rụng lắm kẻ tiếc thương. Còn riêng lá thì đa phần coi như phân rác. Thế mà lá, cứ bình thản vô tư, chẳng hề than vãn vẫn vui đùa với cơn gió vi vu.

Lá xanh, lá tươi, lá vàng, lá già, lá khô rồi lá rụng. Thế mà lá cứ hồn nhiên đơn sơ, tung tăng giữa trời và đất. Vui với nắng, đùa với gió, nghịch với mưa. Lá tàn nhưng không phế. Lá rụng nhưng vẫn hữu dụng.

Lá chấp nhận hy sinh, nhưng vẫn vui, khi bị tuốt trụi cho những cánh mai vàng nở rộ khoe sắc xuân. Bởi lá biết, mình khi rụng xuống là trở về với cội nguồn mẹ đất.

Trên cây, lá giữ cho hoa trái tươi lâu, làm bóng mát cho người và vạn vật nghỉ chân. Dưới đất, lá làm cho đất ẩm, che phủ cho gốc cây mát. Lá khô tan vỡ dưới bàn chân người và vật, rồi dần tan vữa ra khi mưa xuống, đất lại càng thêm màu mỡ.

Lá khô được người nghèo dùng để nấu bếp, được nông dân đốt thành tro bụi để vun bón cho cây. Thật kỳ lạ, lúc lá tan biến, nó lại gặp được hoa và trái. Cuộc giao duyên kỳ diệu, cuộc hội ngộ ngỡ ngàng trong hành trình cuộc đời của lá.

Có chiếc lá rơi xuống dòng suối, lặng lẽ trôi lững lờ. Một con sâu sắp chết đuối được cứu sống. Nó bám vào lá. Lá chẳng xua đuổi, dù đó là kẻ thù của nó khi còn ở trên cây. Lá dạt vào bờ. Con sâu bò lên. Rồi dông tuốt! Chiếc lá dần tan rữa ra, làm thức ăn cho những sinh vật li ti dưới nước.

Ở bất kỳ vị trí nào, trong bất cứ hoàn cảnh và giai đoạn nào, lá vẫn luôn hữu ích cho vạn vật. Nó có giá trị, nhưng lại ít được biết đến, nhớ đến và nhìn nhận. Dù vậy, đời lá vẫn an, lòng lá vẫn vui.

Bởi vì lá biết, lá là ai và sẽ đi về đâu. Lá luôn khiêm tốn và can đảm chấp nhận thực tại, và vị trí đời lá trong cuộc hành trình phục vụ và cho đi, trong tiến trình trở về và gặp gỡ đầy ngỡ ngàng và kỳ diệu.

Ước mong, mỗi người trong chúng ta sẽ có được một cuộc sống an lạc, hạnh phúc và làm chiếc lá trong vườn hoa muôn sắc, hay trong vườn trái cây xanh tươi của nhân loại, lặng lẽ nhưng mạnh mẽ, góp phần làm nở rộ hoa, trái yêu thương.

 

MẸ… CON…

album-art

00:00

TẢI MP3 – ÁNH LINH (NGÂM DIỄN)

Mẹ là nắng hồng
Cho con ấm áp
Con là bạch lạp
Cho mẹ lạnh căm
Mẹ là trăng rằm
Cho con vui hát
Con là sao nhạt
Cho mẹ buồn thương
Mẹ là trầm hương
Cho con thanh thoát
Con là khói ngạt
Cho mẹ trầm luân
Mẹ là bạch vân
Cho con bóng mát
Con là nước tát
Cho mẹ sầu khô

 

 

GẶP NHAU

album-art

00:00

TẢI MP3 – ÁNH LINH (NGÂM DIỄN)

Em gặp tôi một lần
Tuy lạ mà như thân
Gặp tôi nghẹn ngào kể
Chuyện em … chuyện phong trần
Chuyện kể … từ hôm đó
Từ cái ngày song thân
Mỗi người đi mỗi ngã
Bỏ em lại đơn thân
Em cô đơn lạnh lẽo
Thèm … chăm sóc … ân cần
Nhưng … cha lo … kiếm vợ!
Mẹ bận kiếm … phu quân!
Nên cũng từ ngày ấy
Em mới sống bất cần
Và cũng từ ngày ấy
Em chẳng tiếc chi thân
Ôi đời em đau khổ
Khi đã mất người thân
Nhìn em buồn … muốn nói
Nhưng … lòng lại phân vân
Biết nói gì ..? thôi chỉ
Mở lòng thương … ân cần

CŨNG VÌ…

album-art

00:00

TẢI MP3 – KIM THÚY (NGÂM THƠ)

Cũng vì không hiểu …. cảm thông
Mà con …. cha mẹ … mới không thuận hòa
Cũng vì không hiểu … biết mà
Mẹ cha … con cái … một nhà phân ly
Cũng vì không hiểu … thiếu tri
Mà con … cha mẹ … sân si … buồn phiền
Cũng vì không hiểu … căn nguyên
Mà con … cha mẹ … trách nguyền lẫn nhau
Cũng vì không hiểu … trước sau
Mà con … cha mẹ … khổ đau một đời
Cũng vì không hiểu… ý lời
Mà con … cha mẹ xa rời mất nhau
Cũng vì …. Thôi đủ … lòng đau …

NGHÌN TRÙNG… CON ƠI…

album-art

00:00

TẢI MP3 – DIỆU LIÊN

Lo cho chồng vượt biên đi trước
Vợ và con lần lượt qua sau
Đến khi biết được lòng đau
Người xưa nay đã phụ nhau qua cầu
Rồi con biết con không tha thứ
Nên một ngày tự tử … nhưng may
Cứu được… nhưng cũng khổ thay
Từ ngày hôm ấy con đầy đọa thân
Mẹ buồn khổ … ân cần khuyên bảo
Con hân đời … trân tráo ngược ngang
Trả thù? Con sống hoang đàng
Giết người … cướp của chẳng màng chi thân
Mẹ biết được … bao lần van lậy
Con chẳng nghe … càng quậy … càng hung
Một hôm … tiếng súng … nổ đùng
Thân con … ngã gục nghìn trùng … con ơi …

LÒNG CHA

album-art

00:00

TẢI MP3 – ANH LINH (NGÂM DIỄN)
TẢI MP3 – DIỆU LIÊN

Con cũng biết xưa cha là lính
Chẳng giỏi giang toan tính như người
Nên đến khi xoay vận đổi đời
Quê người … sống tả tơi một kiếp
Khổ … tuổi cao … tay không nghề nghiệp
Tiếng chẳng thông … kiếm việc khó khăn
Cũng vì thế … cha biếng nói năng
Luôn suy nghĩ…. đầu căng buốt óc
Có những đêm… cha nằm trằn trọc
Lo cho con … ăn học thành tài
Biết phận cha … đã chẳng hơn ai
Không muốn trẻ … may mai cũng thế
Nên cha già đã không câu nệ
Người mắng cha …. mặc kệ cúi đầu
Chỉ nhủ lòng … an ủi đôi câu
Mai con trẻ … học sâu hiểu rộng
Đấy đời cha.. khổ đời kiếp sống
Nhưng vẫn nuôi … nuôi mộng … con sao
Học cho giỏi … đỗ đạt cho cao
Để ngửa mặt … tự hào con trẻ

TƯỞNG…

album-art

00:00

TẢI MP3 – KIM THÚY (DIỄN NGÂM)

Biết bao gian khó nhọc nhằn
Hai ta mới vượt hết ngăn cản đà
Hai bên cha mẹ hai nhà
Nên duyên chồng vợ tưởng là trăm năm
Ngờ đâu chưa được một năm
Thì tình đã vỡ… ăn nằm chẳng chung
Gặp nhau… lạnh nhạt nghìn trùng
Vậy mà xưa nghĩ… anh hùng thuyền quyên
Giờ đây… tan vỡ tình duyên
Hai người hai ngã… buồn phiền cả hai
Trách mình? hay lại trách ai?
Để cho duyên phận u hoài… lòng đau

TU HỌC VÀ TU HÀNH

album-art

00:00

TẢI MP3 – BÍCH HÀ

Bạn Thân Mến,

Tu học và tu hành là bốn chữ mà chúng ta nghe rất nhiều lần trong cuộc đời, nhưng tu học là gì và tu hành là gì? Chính là chủ đề của hôm nay, mà chúng tôi muốn mời bạn, hãy cùng chúng tôi quan sát và nhìn sâu.

Theo định nghĩa, Tu có nghĩa là: sửa, sửa chữa, trau giồi; Học là: nhận sự dậy dỗ của người khác; và Hành có nghĩa là: làm, việc làm, trải qua, di chuyển, v.v.

Như vậy, Tu Học có nghĩa là, nhận sự dậy dỗ của người khác để trau giồi, hay sửa chữa lại những cái chưa hay, chưa đúng của mình; và Tu Hành là sửa chữa lại những việc làm, nhưng hành động đã trải qua, mà chưa được đúng, hay chưa được đẹp.

Nếu chúng ta tách riêng bốn chữ tu học và tu hành ra, thì chúng ta còn lại ba chữ là: tu, học và hành.

Học thì ai trong chúng ta cũng phải học. Nếu nói rộng nghĩa hơn, thì không phải chúng ta chỉ học bằng sự dậy dỗ của người khác, mà đôi khi, chúng ta cũng chẳng cần ai dậy dỗ, chúng ta cũng học được qua sự quan sát và nhìn sâu.

Chẳng hạn, khi chúng ta nhìn một chiếc lá vàng rơi vào mùa thu, qua sự quan sát và nhìn sâu, chúng ta cũng có thể học được tính vô thường của vạn pháp. Chiếc lá không hề có ý định dậy dỗ chúng ta. Chiếc lá chỉ đang làm đúng bổn phận,

theo đúng quy luật của tự nhiên.

Nhưng qua chiếc lá vàng rơi, dưới sự quan sát và nhìn sâu, chúng ta lại học được bài học về tính vô thường, để khi, chúng ta có những niềm đau nỗi khổ, chúng ta có thể dùng bài học vô thường này, để giải quyết những khổ đau, và đạt được An.

Nếu chúng ta chỉ “cắm đầu” vào học không thôi, mà khi chúng ta có khổ đau, lại không ứng dụng được bài học đó, thì giá trị của bài học đó, chỉ là con số không, tròn trĩnh.

Cho nên, cái quan trọng không phải là chúng ta học được gì, hay học có thâm sâu không, mà quan trọng là, khi chúng ta ứng dụng qua hành, có đem đến đúng như kết quả chúng ta muốn hay không?

Nếu như, qua phần thực hành, mà không đem đến cho chúng ta kết quả nhưng lại đem đến cho chúng ta những hậu quả, thì chúng ta phải “tỉnh táo” để chỉnh sửa lại cái học của chúng ta.

Nói đến học thì có nhiều cách học. Phần đông chúng ta, thường dựa vào định nghĩa của chữ học, là phải có người dậy dỗ chúng ta, thì chúng ta mới gọi đó là học.

Cho nên, chúng ta nghĩ, muốn học thì phải đến trường, đến lớp, có thầy, có cô có bằng cấp để dậy dỗ cho chúng ta. Khi vào trường để học, thì chúng ta lại lệ thuộc vào sự phân chia thứ tự trước sau, để đánh giá trình độ học của một người.

Thí dụ, với trẻ năm sáu tuổi, thì bắt đầu từ lớp mẫu giáo, rồi lên lớp một, lớp hai, tiểu học, trung học, rồi đại học.

Người có bằng đại học thì trình độ học của họ cao hơn người trung học, và người có trình độ trung học thì cao hơn tiểu học v.v.

Từ đó, đưa chúng ta đến suy luận và tin rằng, nếu muốn giỏi thì phải học, mà muốn học thì phải có lớp, có trường. Nếu nơi nào, không có trường, có lớp, thì nơi đó, chúng ta sẽ không có gì để học.

Quan niệm này, đã khiến cho biết bao sinh viên, sau khi tốt nghiệp ra trường, rơi vào thế “lao đao”, khi tiếp xúc với những công việc trong trường đời.

Vì trong trường đời, thì học không phải chỉ thu gọn trong lớp, có thầy, có cô có bằng cấp dậy dỗ, mà trong trường đời, thì không có lớp, và ai cũng có thể là thầy cô, mà không cần bằng cấp.

Không những, chỉ có con người, mà ngay cả động vật, thực vật, hay những sự vận hành tự nhiên của trời đất, cũng trở thành thầy cô để dậy cho chúng ta những bài học, đáng giá nghìn vàng.

Không ít những nhà tiến sĩ (cấp cao nhất trong hệ thống giáo dục), khi ra trường đời, mới “bé cái lầm” rằng, thì ra, còn có muôn ngàn điều ở trường đời, mà họ vẫn còn chưa học được trong trường học.

Như vậy, không phải cứ tốt nghiệp trong trường học thì sẽ có đủ mọi kiến thức và cách ứng xử trong trường đời. Sự thật là, trường đời mới là trường mà con người phải học suốt cả một đời, mà vẫn không thể tốt nghiệp.

Cho nên, trong trường đời, đòi hỏi người học phải có sự

quan sát và nhìn sâu, để tiếp cận được với sự thật, nếu không, sẽ gây ra khổ đau cho người và cho mình, chứ không như trường học, là học để mở mang kiến thức.

Với một người nông dân, việc các nhà khoa học, du hành đến sao hỏa, hay sao kim, cũng chẳng có gì là quan trọng. Bởi vì, đối với người nông dân, bài học quan trọng nhất với họ, đó chính là đồng ruộng: lúa, đất, nước, phân.

Thiếu những bài học này, thì khổ đau sẽ có mặt ngay trong gia đình của họ. Con cái họ sẽ đói ăn, và tài chánh gia đình của họ sẽ trở nên “giật gấu vá vai”.

Có nhiều bạn sẽ cho rằng, nếu không có trường học thì làm sao có những kỹ sư để chế ra những máy móc, hay phân bón, để làm ra lúa gạo nhanh hơn.

Đồng ý với bạn là, với những máy móc và phân bón vô cơ mới, sẽ giúp cho quá trình phát triển của cây lúa nhanh hơn, và khi cầy cấy, hay thu hoạch, thì đỡ tốn công hơn. Nhưng sự thật cũng đã chúng minh rằng, chính những phân bón mới, giúp cây lúa trổ nhanh hơn, lại tạo ra những gen (gene) đột biến có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của con người.

Các nhà khoa học có tự trọng, khi nghiên cứu qua lâm sàng đã đưa ra những chứng minh về sự tai hại khi tạo ra gen (gene) đột biến, và tiếng nói cảnh tỉnh của họ đã có không ít người hưởng ứng.

Những người tiêu thụ trong thời đại mới (new age), họ đòi hỏi những thực phẩm cung cấp cho họ, phải được trồng theo phương pháp hữu cơ (organic), và giá cả của thực phẩm hữu cơ thì cao gần gấp đôi so với giá do máy móc và những phát minh đột biến tạo ra, nhưng họ vẫn vui lòng tiêu thụ.

Như vậy, với nhà khoa học thì họ thích nghiên cứu học hỏi về không gian vũ trụ, nhưng ngược lại, người nông dân lại thích học về: lúa, đất, nước, phân.

Vậy thì cái học nào cao hơn cái học nào? Vốn dĩ, chẳng có sự học nào cao hơn sự học nào cả, mà là, sự học đó có giá trị hay không, mới là quan trọng. Nếu điều học đó, mà không thể đem ứng dụng được, thì điều học đó, trở nên vô dụng.

Bắt một khoa học gia xuống làm ruộng thì không khác gì, chúng ta đang bắt bỏ tù họ vậy, hay ngược lại, bắt bác nông dân lên điều khiển chiếc tầu vũ trụ thì lại khiến bác chết, không toàn thây.

Cho nên, trước khi học, chúng ta cần phải xác định rõ ràng chúng ta học gì, và chúng ta phải học như thế nào cho đúng cách.

Nếu không, chúng ta chỉ phí thời gian vào hý luận, mà khi gặp sự cố, thì chúng ta lại chẳng ứng dụng được gì cho việc chúng ta giải quyết vấn đề, hay sự cố, một cách chuẩn không cần chỉnh.

Sự thật đã chứng minh rất rõ ràng, cái chúng ta cần học thì vô hạn, nhưng sức học của chúng ta thì lại hữu hạn, chúng ta không thể đem cái hữu hạn để “đuổi theo” cái vô hạn được.

Chính vì vậy, chúng ta cần phải có sự lựa chọn trong cái vô hạn kia, xem cái học nào có thể giúp cho chúng ta giải quyết những vấn đề trong cuộc sống của chúng ta một cách toàn vẹn, không để lại những di chứng về sau.

Nếu chúng ta không cẩn thận lựa chọn, chúng ta không có mục đích rõ ràng, thì chúng ta sẽ học miên man, học lang bang, học trường kỳ, rồi cuối cùng, chúng ta chỉ ôm một mớ kiến thức vụn vặt, không đâu vào đâu cả.

Chúng ta vừa tốn tiền, vừa tốn thời gian, mà còn tạo ra biết bao cảm xúc/giác tiêu cực, khi không thể sử dụng mớ kiến thức đó vào đâu cho hợp lý.

Cho nên, khi học, chúng ta nên đặt cho chúng ta những câu
hỏi chính xác như:

  • Chúng ta học để làm gì?
  • Có đúng với mục đích của chúng ta không?
  • Có giúp cho chúng ta giải quyết vấn đề của chúng ta một cách trọn vẹn không?
  • Có đem đến an vui và hạnh phúc cho người và cho chúng ta không?
  • Có giúp cho chúng ta tiếp xúc được với sự thật không v.v.

Dĩ nhiên, chúng ta có thể đặt ra muôn ngàn câu hỏi, nhưng chỉ cần chúng ta hỏi chúng ta những câu hỏi như trên, cũng đủ giúp cho chúng ta xác định được, chúng ta nên học gì, và học ra làm sao cho có kết quả.

Khi đã lựa chọn xong những gì chúng ta muốn học, thì chúng ta đừng tin ngay vào những trải nghiệm, hay kinh nghiệm của những người đi trước, hay tiền nhân, mà chúng ta chỉ xem đó như là những thông tin, và bắt đầu từ những thông tin đó, chúng ta đi kiểm nghiệm, thực nghiệm và chứng nghiệm, qua sự quan sát nhìn sâu vào bản thân của chúng ta, hay qua đối tượng, hay những hiện tượng.

Sau khi chúng ta đã trải qua những quá trình đó, và quá trình đó giúp chúng ta tiếp cận được với đúng sự thật, thì lúc đó chúng ta mới tin. Chúng ta chỉ nên tin vào kết quả, chứ không tin vào sự trải nghiệm hay kinh nghiệm của bất cứ một ai.

Nếu chúng ta làm được như vậy, thì những gì chúng ta học mới có giá trị, mới có chiều sâu, mới có sự tinh tế. Chính nhờ sự tinh tế và có chiều sâu này, mới giúp chúng ta giải quyết được những vấn đề của chúng ta một cách trọn vẹn.

Như vậy, khi thêm chữ tu vào trước chữ học, thành tu học, thì chúng ta mới biết, chúng ta cần sửa, hay sửa chữa cái gì trong qúa trình chúng ta học.

Nếu không thì chữ tu đặt vào đầu câu, cũng trở nên vô nghĩa, vì chính cái chúng ta học, chúng ta còn không hiểu chúng ta đang học gì, thì chúng ta làm sao biết chỗ nào sai đâu mà tu với sửa. Vậy nên, khi chúng ta sử dụng hai từ tu học chúng ta phải rất cẩn thận.

Ngày xưa, ở miền nam Việt Nam, những người kỹ sư cơ khí, muốn nâng cao trình độ về kỹ thuật máy móc, thì thường đi tu học tại các quốc gia tiên tiến về kỹ thuật như Mỹ, Anh hay Đức, v.v.

Có nghĩa là, họ đã học và biết về máy móc và kỹ thuật rồi, nhưng với những phát minh, hay những sự bổ sung trong kỹ thuật sửa chữa mới, họ chưa được cập nhật, cho nên, họ cần phải đến các quốc gia tiên tiến, học tiếp, để sửa chữa hay trau giồi thêm những kinh nghiệm trong ứng dụng.

Nhưng ngày nay, hai chữ tu học thường được gắn liền với tôn giáo. Mỗi tháng, ít nhất chúng tôi cũng nhận được hai ba lá thư gởi về, kêu gọi chúng tôi, ghi danh đi tham dự khóa tu, hay tu học, được tổ chức khắp mọi nơi, không những trong nước Mỹ, mà có khi, tới tận cả trời Âu.

Tu học về vật chất thì còn đỡ, vì chúng ta còn có vật để sờ, để mó, để chạm. Nhưng tu học về tâm linh, thuộc về vô hình, vô ảnh. Chúng ta không thể sờ hay mó vào được, mà chỉ nương tựa vào nhận thức và niềm tin của chúng ta.

Nếu như, những nhận thức hay niềm tin của chúng ta không may bị lệch lạc, mê mờ, thì chắc chắn, con đường tu học của chúng ta sẽ dần dần dẫn về ngõ cụt.

Cho nên, trước khi chúng ta muốn Tu thì chúng ta phải biết rất rõ mục đích của chúng ta học để làm gì. Chúng ta đã nắm rõ được những gì chúng ta học chưa? Nhận thức của chúng ta đã rõ ràng chưa?, và sự rõ ràng đó, chúng ta dựa trên tiêu chuẩn nào để đáng giá.

Đó chính là những nét căn bản của việc học. Sau đó, chúng ta mới dựa trên những căn bản đó, để tiếp tục trau giồi hay tu sửa lại những chỗ chưa đúng hay chưa chính xác.

Trong qúa trình tu sửa việc học này, chúng ta không phải chỉ dùng sư tư duy không mà thôi, mà chúng ta phải đem những điều chúng ta đang tu học ứng dụng trong thực hành. Chúng ta phải thực hành không những trên một góc độ, mà chúng ta còn phải thực hành trên nhiều góc độ.

Như vậy, bắt đầu từ học đến tu, rồi từ tu qua hành, và từ hành tiếp tục tu, rồi từ tu lại bắt đầu học. Qúa trình này gọi là quá trình tu học và tu hành.

Nếu muốn dễ hiểu hơn thì chúng ta sẽ đặt lại theo thứ tự

như sau: học, tu, hành, tu, học, v.v. Trong qúa trình tu hành và tu học này, chúng ta phải cần đến thêm ba yếu tố hỗ trợ khác, bao gồm: kiểm nghiệm, thực nghiệm và chứng nghiệm.

Thiếu ba yếu tố này, thì chúng ta sẽ dễ phiêu lưu trong thế giới của suy luận, phỏng đoán, và tưởng tượng.

Khi mà chúng ta để nhận thức, hay niềm tin của chúng ta “dính” đến phỏng đoán hay tưởng tượng, thì nhận thức hay niềm tin của chúng ta sẽ không còn gần với sự thật, mà chúng ta đang bắt đầu rời xa sự thật.

Cho nên, trong qúa trình học hay hành thì chúng ta cũng phải luôn sử dụng ba yếu tố này. Được như vậy, thì việc chúng ta tu học hay tu hành mới có kết quả.

Còn nếu không, thì chúng ta chỉ phí thời gian cho cái học vô bổ, không những đã không giúp ích gì cho chúng ta trong việc tiếp cận sự thật, mà cái học đó, đôi khi lại trở thành một rào cản, một “nhà tù”, nhốt chúng ta vào trong những cuộc tranh luận, hay tranh cãi, gây nên sự thù hận, oán ghét, lẫn nhau.

Tệ hại hơn là, chúng ta tiếp tục “nâng cấp” sự tự tôn của chúng ta lên tận mây xanh, và xem như đó là một thành quả mà chúng ta đáng tự hào. Nhưng khi, có những vấn đề của chúng ta cần phải giải quyết tận gốc rễ, thì chúng ta lại trốn chạy, hay đè nén vấn đề đó xuống.

Tu học hay tu hành là một việc vô cùng cần thiết cho tất cả những ai muốn thăng tiến, muốn đạt được thành công hơn thất bại, dù trong cuộc đời hay đời sống tâm linh. Nhưng nếu chúng ta không cẩn thận trong việc tu học và tu hành thì chúng ta sẽ tạo ra những kiến chấp (chấp vào những kiến thức mà mình học được), những nhận thức sai lầm, sẽ gây ra khổ đau cho người và cho mình.

Có một người quen, anh rất tự hào về kiến thức mà anh học được trong kinh điển của đạo Phật, và anh thường cho rằng anh đã hiểu đúng với những gì đức Phật dậy, vì anh đã đi tu học với biết bao vị cao tăng. Cho nên, mỗi khi gặp anh, anh luôn dậy chúng tôi làm sao phát triển lòng từ bi và trí tuệ.

Theo lời anh “học lại” thì các vị cao tăng đã dậy:

“Từ bi là thương cao thượng bất vụ lợi, thương tất cả mọi loài không vì bản ngã của mình.

Còn trí tuệ được phân ra làm hai loại: Trí thế gian và trí xuất thế gian. Trí thế gian là thấy biết đúng tinh thần nhân quả, và Trí xuất thế gian là người biết rõ mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý nghĩ, là cái nhân đưa tới đau khổ, thì tránh không làm, không nói, và không nghĩ.

Như vậy, từ bi và trí tuệ đi đôi và gắn liền với nhau, vì từ nguồn trí tuệ mà suối từ bi tuôn chẩy, nhờ suối từ bi cho nên cây trí tuệ trổ hoa.”

Khi nghe lời anh dậy cho chúng tôi, chúng tôi mới hỏi anh, thương cao thượng là gì, và thương bất vụ lợi ra sao, thì anh lại không giải thích được.

Nếu nói từ bi là thương cao thượng thì thương thế nào mới là thương cao thượng, và thương thế nào mới là không cao thượng. Quả thật, chúng tôi nghe xong, cũng không thể nào hiểu được, mà nếu chúng tôi không hiểu được thì làm sao chúng tôi hành.

Nếu chúng tôi không thể hành, thì có phải, những gì chúng tôi học, chỉ là một mớ kiến thức vô bổ, vì khi chúng tôi muốn phát khởi lòng từ bi, thì chúng tôi biết dựa vào đâu để thực hành.

Còn câu: “từ bi và trí tuệ đi đôi và gắn liền với nhau, vì từ nguồn trí tuệ mà suối từ bi tuôn chảy, nhờ suối từ bi cho nên cây trí tuệ trổ hoa.” Có nghĩa là gì?

Nếu chúng tôi không biết được lòng từ bi, thì chúng tôi không thể có trí tuệ, đúng không? Bởi vì, từ bi là gốc rễ, nên mới có thể sinh ra hoa trái là trí tuệ. Nếu không có lòng từ bi thì sẽ không có trí tuệ.

Trong khi, qua thực nghiệm, kiểm nghiệm, và chứng nghiệm thì tuệ giác mới là gốc rễ để sinh ra hoa trái là từ bi. Nếu không có Tuệ Giác thì từ bi có thể sẽ dẫn đến khổ đau như thường.

Dĩ nhiên, ở đây chúng tôi không đem ra xét nét sự tu học hay tu hành của anh là đúng hay sai, mà chúng tôi chỉ muốn chia xẻ lại với bạn, khi chúng ta học một điều gì, thì chúng ta phải đem điều chúng ta học và thực hành ngay với sự kiểm nghiệm, thực nghiệm và chứng nghiệm trên bản thân của chúng ta.

Chỉ khi, trải qua ba yếu tố đó, và kết quả ra đúng với định nghĩa đó, thì chúng ta mới tin vào định nghĩa đó, chứ không nên đi học thì nhiều, nhưng hành lại chẳng bao nhiêu. Đến khi có chuyện cần giải quyết thì chúng ta lại không hề sử dụng đến những gì chúng ta đã học.

CHO VÀ NHẬN

album-art

00:00

TẢI MP3 – ÁNH TUYẾT
TẢI MP3 – VIÊN NGUYỆT
TẢI MP3 – DAVID NGÔ

Bạn thân mến,

Thế nào là cho và nhận?

Cho ở đây mang nghĩa bao quát. Khi chúng ta yêu thương mọi người, giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn hơn mình, cho đi tình cảm, tấm lòng, sẵn sàng vì người khác để khiến cho xã hội này tốt hơn.

Còn nhận ở đây là sự an lạc, hạnh phúc. Khi chúng ta cho đi, giúp đỡ, yêu thương người khác.

Cho và nhận là hai khái niệm tưởng chừng như đối lập nhau, vừa là vô hình vừa là hữu hình nhưng lại song hành với nhau trở thành những bài học quý giá cho mọi người.

Người sẵn sàng cho đi với mong muốn xã hội tốt hơn, mong cuộc sống của người bất hạnh tốt đẹp hơn mà không hề toan tính thiệt hơn hay mong được tư lợi.

Tuy nhiên, trong cuộc sống không phải ai cũng sống với tình thương, sẵn sàng cho đi. Ngoài kia vẫn còn có nhiều người lạnh lùng, vô cảm trước nỗi đau khổ và sự bất hạnh của người khác, chỉ biết sống cho bản thân mình.

Mỗi ngày khi ta sống có ích, biết cách lắng nghe quan tâm người khác một chút thì chúng ta cũng sẽ cảm thấy cuộc sống có ý nghĩa hơn bao giờ hết.

Xin mời các bạn nghe mẩu chuyện ngắn sau đây, hầu có thể cảm nhận được sự cho đi là gốc rễ của hạnh phúc.Với một trái tim rộng mở, bạn mới có thể đón nhận được yêu thương, và bạn có mỉm cười, bạn mới nhận được nụ cười đáp lễ.

Anna, 9 tuổi, là cô bé gầy gò đến từ một ngôi làng nhỏ. Em đã học đến năm lớp 4 tại làng của mình. Khi lên lớp 5, Anna đã chuyển sang học tại một ngôi trường ở thành phố lớn gần đó. Cô bé đã vô cùng hạnh phúc khi biết mình được nhận vào một ngôi trường khá danh tiếng trong vùng.

Ngày đầu tiên đi học. Anna đã đứng chờ từ rất sớm ở trạm xe buýt và lên ngay chuyến xe đầu tiên để di chuyển đến thành phố. Trên xe đến trường, em đã gặp rất nhiều bạn học, trông ai cũng gọn gàng, sáng sủa. Sau khi hỏi thăm đường đến lớp, cuối cùng cô bé cũng đã có mặt tại chỗ ngồi của mình trong niềm háo hức rộn ràng.

Tuy nhiên, đó không phải là một buổi học đầu tiên tuyệt vời như trong tưởng tượng của Anna. Khi vừa nhìn thấy em bước vào lớp, rất nhiều bạn học đã lập tức tỏ ý chế giễu, sau khi biết Anna đến từ một ngôi làng nghèo, và càng tỏ thái độ xem thường hơn, với bộ đồ cũ kỹ mà em đang mặc.

Sự ồn ào bàn tán chỉ kết thúc khi giáo viên chủ nhiệm đến, và yêu cầu cả lớp im lặng. Cô giới thiệu Anna và cho biết em sẽ bắt đầu học tại lớp này kể từ hôm nay.

Mọi chuyện bắt đầu khi cả lớp được yêu cầu làm một bài kiểm tra đột xuất. Với câu hỏi “Em hãy liệt kê ra 7 kỳ quan của thế giới”. Cả lớp đã nhanh chóng hoàn tất bài kiểm tra, ngoại trừ Anna.

Tất cả các học sinh khác đã có câu trả lời của mình một cách nhanh chóng, còn Anna thì không.

“Có chuyện gì vậy em. Đừng lo, chỉ cần viết những gì em biết, các bạn khác cũng chỉ vừa mới học cách đây vài ngày thôi.” – Cô giáo lo lắng hỏi Anna.

Anna trả lời:

“Cô ơi, em đang nghĩ về rất nhiều thứ và không biết mình phải chọn 7 nơi nào để viết cả…”

Chần chừ một hồi, Anna cũng hoàn thành đáp án của mình. Để kết thúc giờ kiểm tra, cô giáo chủ nhiệm đã công bố đáp án chính xác cho câu hỏi về 7 kỳ quan, đó chính là:

  1. Vạn lý trường thành,
  2. Đấu trường La Mã,
  3. Tháp nghiêng Pisa,
  4. Kim tự tháp Giza,
  5. Lăng Tajmahal,
  6. Vườn treo Babylon
  7. Bãi đá cổ Stonehedge.

Cô giáo chủ nhiệm rất hài lòng khi ai cũng dễ dàng vượt qua bài kiểm tra đơn giản này, cho đến khi chấm đến bài của Anna. Với riêng phần trả lời của Anna, cô đã ngạc nhiên và đọc lớn bài kiểm tra của Anna cho cả lớp cùng nghe.

Câu trả lời như sau: 7 kỳ quan của thế giới:

Kỳ quan thứ nhất: Có thể thấy

Kỳ quan thứ hai: Có thể nghe

Kỳ quan thứ ba: Có thể cảm nhận

Kỳ quan thứ tư: Có thể cười

Kỳ quan thứ năm: Có thể suy nghĩ

Kỳ quan thứ sáu: Có thể tử tế

Kỳ quan thứ bẩy: Có thể yêu thương

Từng chữ một trong câu trả lời thật thà của cô bé xuất thân từ ngôi làng bé nhỏ đã khiến toàn bộ học sinh trong lớp không nói lên lời.

Hôm nay, chính cô bé từng bị chế giễu hết lời đã mang đến cho các bạn đồng môn một bài học vô cùng quý giá về kỳ quan thật sự của cuộc sống.

Bạn thân mến,

Khi ta trao yêu thương cũng là lúc ta nhận lại hạnh phúc, xây dựng và nuôi dưỡng cho tâm hồn giàu đẹp. Cuộc sống chỉ thật sự có ý nghĩa khi có sự chia xẻ, kết nối giữa con người với con người.

Đã bao giờ bạn tự hỏi rằng mình đã làm được gì cho người khác? Mình đã thực sự cho đi hay chỉ mong nhận về?

Xin hãy sống vì mọi người để cuộc sống này không đơn điệu và để trái tim có những nhịp đập yêu thương.

SO Ư…

album-art

00:00

TẢI MP3 – KIM THÚY (DIỄN NGÂM)

Đem so nắng ấm ngoài trời
Với vòng tay mẹ … người ơi sao bằng
Đem so hiền dịu ánh trăng
Với long của mẹ trăng bằng được sao
Đem so biển rộng non cao
Với tình của mẹ biển nào rộng hơn
Thế nên công mẹ công ơn
Trời … Trăng … Biển Núi không hơn công người
Ngày nào còn sống trên đời
Nhớ hoài người nhé xin người đừng quên

GIA ĐÌNH LÀ GÌ?

album-art

00:00

TẢI MP3 – BÍCH HÀ
TẢI MP3 – QUẢNG BẢO TÂM
TẢI MP3 – DAVID NGÔ

Bạn thân mến,

Người Mỹ đã dùng danh từ FAMILY, còn người Việt chúng ta thì gọi là GIA ĐÌNH.

Xin mời bạn đọc mẩu chuyện ngắn dưới đây để tìm hiểu giá trị của Family như thế nào nhé ! FAMILY là gì?

Một buổi sáng nọ, tôi đang đi bộ trên đường phố, và đụng phải một người lạ trên phố khi người này đi qua.

“Ồ ! Cho tôi xin lỗi”, tôi nói.

Người kia trả lời: “Cũng xin thứ lỗi cho tôi, tôi đã không nhìn cô”.

Chúng tôi rất lịch sự với nhau.

Nhưng ở nhà thì mọi chuyện lại khác. Tối nọ, lúc tôi đang nấu bếp thì cậu con trai đến đứng sau lưng. Tôi quay người và đụng vào thằng bé, làm nó ngã chúi xuống sàn nhà.

“Tránh ra chỗ khác”- tôi cau mày nói.

Con trai tôi bước đi, trái tim bé nhỏ của nó vỡ tan. Tôi đã không nhận ra là mình đã quá nóng nảy.

Buổi tối, đang mơ màng giấc điệp, tôi bổng nghe một giọng nói thì thầm:

“Khi đối xử với người lạ, con rất lịch sự. Nhưng với con của mình, con đã không làm như vậy.

Hãy đến tìm trên sàn nhà bếp, có những bông hoa đang nằm ở cửa. Đó là những bông hoa mà con trai con đã mang đến cho con. Tự nó hái lấy những bông hoa này: nào hoa hồng, màu vàng và cả màu xanh. Nó đã yên lặng đứng đó để mang lại cho con điều ngạc nhiên, còn con thì không bao giờ thấy những giọt nước mắt đã chảy đẫm lên trái tim bé nhỏ của nó”.

Lúc này thì tôi bật khóc. Tôi lặng lẽ đến bên giường con trai và quỳ xuống: “Dậy đi, con trai bé nhỏ, dậy đi. Có phải những bông hoa này con hái cho mẹ không?”.

Thằng bé mỉm cười: “Con tìm thấy chúng ở trên cây hồng ngoài kia. Con hái cho mẹ vì chúng đẹp như mẹ. Con biết là mẹ thích lắm, đặc biệt là bông hoa màu xanh”.

Bạn cảm thấy thế nào khi đọc xong mẩu chuyện ngắn này?

Giận dữ và yêu thương vốn không có giới hạn, hãy chọn YÊU THƯƠNG để có một cuộc sống của chúng ta được an lạc và hạnh phúc. Đồ vật được làm ra là để SỬ DỤNG và con người sinh ra là để YÊU THƯƠNG…. Vấn nạn của thế giới hôm nay thì ngược lại…. Con người bị SỬ DỤNG, còn đồ vật thì được YÊU THƯƠNG!!!

Thế bạn có biết từ family có nghĩa là gì không?

FAMILY = Father And Mother, I Love You

Xin chúc bạn cùng gia đình một ngày mới nhiều an lạc và hạnh phúc.

BA ĐỨA CON

album-art

00:00

TẢI MP3 – DIỆU LIÊN

Mẹ có ba đứa con
Đứa thứ nhất thiệt ngon
Làm tới ông quản lý
Đứa thứ hai có chí
Học ra đến kỹ sư
Đứa thứ ba mới cừ
Học thành bà bác sĩ
Ba đứa con mẹ quý
Mới bảo lãnh mẹ sang
Ngày thứ nhất huy hoàng
Ba đứa giành nuôi mẹ
Thấy thế mẹ phân lẽ
Đứa nào cũng tốt thôi
Và cứ thế … lần hồi
Chuyện xẩy ra … ngày nọ
Vợ thằng hai … cau có
Trách me … mắng xỏ xiên
Bảo sống … ôi thật phiền
Sáng chiều … them tức tối
Rồi … đuổi … mẹ… một tối
Mẹ về với thằng ba
Được dăm tháng gọi là
Sống yên thân … yên chỗ
Nhưng đời mẹ … rõ khổ
Một hôm ba nói rằng
Mẹ không biết nói năng
Làm cho con mất mặt
Áo quần lại cũ … rách
Bẩn thỉu quá … eo ôi
Thôi mẹ… hãy đi thôi
Qua con tư mà ở
Mẹ buồn … không than thở
Qua ở với con tư
Dăm bữa … còn hiền từ
Sau khinh khi … ra mặt
Cấm … mẹ … ra phòng khách
Sợ người biết khinh chê
Bảo rằng … có mẹ … quê
Thì hết sang … hết quí
Mẹ buồn lòng … uất khí
Nên thổ huyết một ngày
Ba đưa biết … bảo hay
Chết đi cho rảnh nợ
Mẹ ơi … buồn không hở ?

CƠ HỘI VÀ SỰ CHỜ ĐỢI

album-art

00:00

TẢI MP3 – MỴ HẰNG 
TẢI MP3 – HỒNG TRẦN
TẢI MP3 – DAVID NGÔ

Bạn thân mến,

Nói đến cơ hội. Ông bà xưa thường dạy bảo con, cháu rằng: “Có ba điểm chủ yếu trong một đời người, nếu để vuột khỏi tầm tay thì sẽ không bao giờ lấy lại được: “THỜI GIAN – LỜI NÓI – CƠ HỘI”, đủ cho chúng ta thấy vai trò của cơ hội trong cuộc sống thường nhật.

Cơ hội là sự xuất hiện những khả năng cho phép người ta làm một điều gì đó. Đó là thời điểm hội tụ một số điều kiện thuận lợi. Đồng thời những gì chúng ta có thể nắm bắt được nhằm làm thay đổi cuộc sống của chúng ta trong mai hậu.

Trong cuộc sống, con người có nhiều cơ hội để nắm bắt nhằm thực hiện một kế hoạch, một mục đích làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, không phải ai cũng phát hiện cơ hội và nắm bắt cơ hội cho chính mình. Nhìn ra cơ hội đã là việc khó nhưng tận dụng được nó còn khó hơn nhiều.

Giáo sư vật lý nổi tiếng George Gate muốn tìm một phụ tá cho mình khi nghiên cứu về lĩnh vực truyền điện tín. Ông đăng báo tuyển phụ tá.

Ngày hôm ấy, căn phòng chờ đợi rất nhiều ứng viên đến dự tuyển. Mọi người đều chọn cho mình những bộ quần áo sang trọng bậc nhất, nghiên cứu hàng chục cuốn sách về MORSE code trước khi đến phỏng vấn. Họ đều phải chờ ở phòng chờ đợi cho đến khi được vị giáo sư mời vào phỏng vấn.

Trong khi chờ đợi, họ tán gẫu và cố gắng phô trương những kiến thức của mình. Chỉ có một chàng trai trẻ ngồi yên lặng chú tâm quan sát phòng làm việc của George Gate. Anh đã theo dõi từng chi tiết những công trình nghiên cứu trước đó của vị giáo sư này và rất muốn góp sức với ông.

Nhiều giờ trôi qua, cửa phòng thí nghiệm vẫn đóng im lìm. Phòng chờ đợi vẫn ồn ào những tiếng bàn cãi sôi nổi. Bỗng nhiên, chàng trai vẫn ngồi im lặng từ đầu đến giờ, khẽ mỉm cười. Đứng dậy và bước vào phòng thí nghiệm của giáo sư.

Cánh cửa không hề khóa. Thoạt đầu họ nhìn chàng trai với ánh mắt thương hại vì cho rằng anh ta không đủ kiên nhẫn chờ đợi và định xin bỏ cuộc. Nhưng không lâu sau, tất cả mọi người đều bất ngờ khi thấy giáo sư George từ phòng thí nghiệm bước ra cùng chàng trai trẻ.

– Xin cảm ơn mọi người đã đến đây, nhưng tôi đã tìm được người trợ lý thực sự có năng lực cho mình rồi. – Vị giáo sư chỉ vào chàng trai.

Mọi người hết sức ngỡ ngàng trước quyết định của vị giáo sư. Họ đã phải chờ đợi rất lâu, vậy mà thậm chí không có cả một cơ hội để chứng tỏ khả năng của mình.

Giáo sư chậm rãi giải thích:

– Các bạn đã không để ý nhưng ngay từ khi mọi người bước vào đây, máy điện tín của tôi đã liên tục đánh một dòng thông báo bằng tín hiệu như thế này: “Nếu bạn giải mã được lời nhắn này, hãy bước vào gặp tôi”.

Tôi biết mọi người ở đây đều rất giỏi nhưng chỉ có một cơ hội và người biết tập trung vào mục tiêu chính khi đến đây đã giành được cơ hội đó.

Chàng phụ tá trẻ đó chính là Thomas Edison, người đã góp phần làm thay đổi thời đại của chúng ta. Cơ hội dành cho tất cả mọi người. Nhưng chỉ những người có đủ sự tập trung và nhạy bén mới đọc và hiểu được thông điệp của nó.

Bạn thân mến !

Cuộc đời thì hạn hữu, còn thời gian thì vô hạn, khi dừng lại chúng ta sẽ bị bỏ lại phía sau. Thời gian không chờ đợi một ai, thời gian trôi qua không bao giờ trở lại, chính vì vậy chúng ta đừng nên chờ đợi.

Cuộc đời của chúng ta là do chúng ta quyết định. Mỗi người đều có ưu điểm và lợi thế của riêng mình, điều quan trọng là chúng ta phải vận dụng ưu điểm và thời gian của mình để tạo thành cơ hội cho chính mình.

Vậy, bạn còn chần chờ gì nữa. Đừng chờ đợi, hãy nắm lấy cơ hội cho chính mình.

LẬP PHÁP VÀ HÀNH PHÁP

album-art

00:00

TẢI MP3 – THẢO MY

Bạn Thân Mến,

Bạn đừng thấy, chủ đề hôm nay của chúng tôi có những chữ như: lập pháp và hành pháp, thì bạn nghĩ, chúng tôi sẽ chia xẻ với bạn về chủ đề liên quan đến chính trị nhé.

Không đâu, chúng tôi chỉ là những người rất bình thường. Chúng tôi thích sống với sự quan sát và nhìn sâu vào trong cuộc sống, thích học và hành qua thực nghiệm, và trải nghiệm, để kéo dài cái An trong cuộc sống của chúng tôi, hơn là làm chuyện quốc gia đại sự.

Ông bà xưa có dậy rằng: “Tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, chúng tôi thấy, nội việc “tề gia” mỗi ngày, chúng tôi đều phải: vừa học, vừa hành, vừa chỉnh sửa liên tục, còn chưa xong, thì làm sao có đủ hùng tâm tráng trí, mà trị quốc hay bình thiên hạ được.

Cho nên, tuy chủ đề là lập pháp và hành pháp, nhưng câu chuyện của chúng tôi muốn chia xẻ với bạn hôm nay, liên quan đến một người quen, khi anh đến thăm nơi sinh hoạt về tâm linh của chúng tôi, và bốn chữ lập pháp và hành pháp từ đây mà có.

Anh tự giới thiệu, anh là một trong năm đại đệ tử của một vị cao tăng, rất nổi tiếng, của Phật giáo. Trong năm người, vì anh có trí nhớ tốt, nên thường được đi theo vị cao tăng thuyết pháp, ghi nhớ lại, và sau đó, viết và ấn bản thành kinh sách.

Thế nên, khi nói về kinh điển của Phật giáo, thì kinh điển nào anh cũng làu thông, và ghi nhớ rất rõ ràng. Những người quen biết anh, đặt cho anh một biệt danh là “tàng kinh các”, nghĩa là, nơi lưu giữ những kinh điển của Phật giáo, hay có thể gọi là, thư viện kinh điển của Phật giáo.

Ngày anh gặp chúng tôi, thì anh đã sử dụng ngay “sở trường” của anh để thuyết cho chúng tôi nghe về tính vô thường, vô ngã của đạo Phật. Chúng tôi vẫn im lặng ngồi nghe anh, thao thao bất tuyệt, trong hai tiếng đồng hồ.

Cuối cùng, anh hỏi chúng tôi, có hiểu được sự mầu nhiệm của ý kinh, không thể nghĩ bàn của đức Phật, không?

Lúc đó, chúng tôi mới lên tiếng, trả lời anh:

Thưa anh, anh thì đang “lập pháp”, còn chúng tôi thì đang “hành pháp”, cho nên, chúng tôi không hiểu gì cả.

Anh nghe câu trả lời “trật bàn đạp” của chúng tôi, anh không vui mấy, vì không vô đúng chủ đề của anh muốn, là phải thán phục sự làu thông kinh điển của anh. Cho nên, anh quyết định “bắt bẻ” chúng tôi đến cùng. Anh nhìn chúng tôi một lúc, rồi nói:

“Chúng ta đang nói về kinh điển của một bậc Y Vương, thị hiện xuống cõi trần, để cứu độ muôn loài, mà sao bạn lại lái qua đề tài chính trị.”

-Thưa anh, chúng tôi đâu có đổi chủ đề, chúng tôi cũng đang nói về chủ đề tôn giáo đấy chứ. Chúng tôi đáp.

“Sao, đề tài về tôn giáo ư, tôi thì chỉ thấy liên quan đến chính trị, nếu không thì lôi lập pháp và hành pháp vào làm gì.” Anh nói.

– Thưa anh, không phải trong đạo Phật, khi nói về vô thường hay vô ngã thì đó gọi là pháp sao. Anh thì cứ lập đi lập lại những phương pháp của đức Phật, nhưng anh lại không chia xẻ về cách anh thực hành, cách anh trải nghiệm, cách anh thực nghiệm như thế nào.

Cho nên, chúng tôi mới gọi anh là “lập pháp”, nghĩa là, anh chỉ lập đi lập lại những kinh nghiệm, những trải nghiệm hay những phương pháp của người khác, mà không phải là của chính anh.

Còn chúng tôi, gọi chúng tôi là hành pháp, bởi vì, khi chúng tôi học được điều gì, hay phương pháp nào, thì chúng tôi sẽ bắt đầu thực hành ngay điều đó, qua sự kiểm nghiệm, thực nghiệm, và chứng nghiệm.

Sau đó, chúng tôi đúc kết lại thành những kinh nghiệm riêng cho chúng tôi dùng trong cuộc sống, và chia xẻ lại phương pháp này với những ai, khi họ cần đến, để ứng dụng trong cuộc sống của họ.

Khi hướng dẫn hay chia xẻ cho họ, chúng tôi luôn nhấn mạnh đến yếu tố, đừng tin vào phương pháp của chúng tôi, mà chỉ nên tin vào kết quả mà họ đạt được, khi đã trải qua sự kiểm nghiệm, thực nghiệm và chứng nghiệm của chính họ.

Với chúng tôi, chân lý chỉ thật sự là chân lý, khi có mặt của sự kiểm nghiệm, thực nghiệm và chứng nghiệm, giúp cho chúng tôi tiếp xúc được đúng với sự thật.

Cho nên, với chúng tôi, người nào mà có những trải nghiệm này, thì chúng tôi gọi người đó là người “hành pháp – thực hành các phương pháp”, còn người nào, mà chưa trải qua, nhưng lại hay nói về những phương pháp, thì chúng tôi gọi là người “lập pháp – lập đi lập lại những phương pháp nhưng chưa bao giờ thực hành”.

Anh nghe xong biến sắc một chút, rồi nói:

“Thật lòng mà nói, nếu bạn có thể làm được như vậy, thì ngay cả các bậc cao tăng cũng ít có vị làm được.”

Sau đó, anh kiếu từ ra về. Tiễn anh về xong, chúng tôi mới nghĩ, công việc mà chúng tôi đang học và đang hành thì đâu có gì là khó đâu. Ai cũng có thể làm được, sao các bậc cao tăng lại không làm được.

Với chúng tôi, dù là người thường, hay cao tăng, thì ai tu, nấy hưởng. Các vị cao tăng tu thì các vị đạt được sự giải thoát và có được sự An Lạc cho các vị, còn chúng tôi tu thì chúng tôi cũng đạt được sự giải thoát và bình an như các vị, cũng là việc rất bình thường.

Bởi vì, sự An Lạc và giải thoát đều có sẵn nơi mỗi người, không phải do bất cứ ai ban tặng, hay thần linh nào ban bố, mà chỉ khác nhau là trong phương pháp học và hành mà thôi.

Nếu như khi học mà học cho nghiêm túc, học cho đến nơi đến chốn, học không câu chấp, học hiểu ý quên lời. Nhất là đi tìm định nghĩa cho rõ ràng.

Sau đó, thì đem những điều học đó vào thực hành ngay trong cuộc sống mỗi ngày. Trong quá trình thực hành, thì bắt đầu bằng cách, đem những điều học hỏi được để kiểm nghiệm lại, nghĩa là, kiểm nghiệm lại xem, từ lý thuyết đến thực hành có đúng không, hay có sự sai biệt nào không. Nếu có, thì sai biệt thế nào, và nếu không, thì có thể ứng dụng trên góc độ nào, và không thể ứng dụng trên góc độ nào.

Kế tiếp, là qua qúa trình thực nghiệm. Qúa trình thực nghiệm là quá trình đem những điều học, sau khi qua sự kiểm nghiệm, ứng dụng vào trong những môi trường và hoàn cảnh, hay cuộc sống, dưới sự quan sát và nhìn sâu của từng góc độ.

Trong qúa trình này, thì phải liên tục chỉnh sửa lại những điều thiếu sót, hay bổ sung thêm vào lý thuyết những điều chưa có, để tránh gây ra sự lầm lẫn, hay hiểu lầm.

Cuối cùng là chứng nghiệm. Qúa trình chứng nghiệm là qúa trình đem những kết quả của thực nghiệm, bổ sung hay sửa sai, đi so sánh lại với những kinh nghiệm của những người trải nghiệm khác, xem có những sự tương đồng hay dị biệt nào.

Nếu là tương đồng không có dị biệt, thì giữ lại để sử dụng, và khi sử dụng, thì biến thành thói quen, để có thể dễ dàng ứng phó, khi có những sự cố xẩy ra qúa nhanh, đến độ Ý Thức chưa kịp tìm ra cách giải quyết.

Nếu có dị biệt, thì dị biệt trên góc độ nào, và dị biệt đó có còn thích hợp, và đúng với môi trường hay hoàn cảnh trong hiện tại hay không? Nếu những dị biệt, mà không còn thích hợp thì loại những dị biệt đó ra, mà không cần quan tâm đến.

Thí dụ như, trong kinh điển nguyên thủy của Phật giáo, hoặc Ma Ha Bà La Đa thứ 12 do hòa thượng Thích Quảng Độ dịch, cho rằng:

“Đao Diệp Lâm Địa Ngục, là nơi đi đến của những người bỏ kinh Vệ Đà để chạy theo những đạo khác, và những người này gọi là kẻ mê tín dị đoan”

Tuy điều này, được ghi lại trong kinh điển có cả ngàn năm của Ấn Độ giáo, cũng như của Phật giáo, nhưng không có nghĩa là, kinh điển đã hợp lý.

Trong khi ngày nay, giáo dân của Thiên Chúa giáo đã có hơn cả tỷ người, mà những giáo dân của Thiên Chúa giáo, không hề biết, hay tin, vào kinh Vệ Đà, vậy họ đều bị đọa vào địa ngục “Đao Diệp Lâm” sao?

Như vậy, cho dù, đó là điểm khác biệt so với quá trình chứng nghiệm, nhưng dị biệt này không còn thích hợp, và cũng không đúng với sự thật, nên dù, có viết trong kinh điển ngàn năm, chúng tôi vẫn loại bỏ như thường.

Với chúng tôi, không phải, cứ có trong kinh điển ngàn năm là có giá trị, mà phương pháp chỉ có giá trị khi đem ứng dụng, hay khi thực hành, phải đem đến sự giải thoát hay đạt được An kéo dài. Nếu không thì cũng không ích lợi gì.

Còn với những dị biệt, mà sau khi qua kiểm nghiệm, và thực nghiệm lại, thấy hợp lý, hay đúng hơn, thì chúng tôi lại tiếp tục sửa sai, rồi thực hành lại, cho đến khi ra kết quả, mà không phải là hậu quả.

Khi đã chứng thực được, qua cách ứng dụng trên những góc độ khác nhau, mà đều đưa những kết quả giống nhau, thì mới tổng hợp lại, và lập thành một phương pháp để ứng dụng, cũng như, chia xẻ phương pháp này với những người khác, khi họ cần đến sự giúp đỡ.

Đây chính là chỗ khác biệt giữa người “lập pháp” và “hành pháp”. Trong khi, người lập pháp thì chỉ thích lập đi lập lại những phương pháp mỗi ngày, nhưng không thực hành phương pháp đó.

Còn người “hành pháp” thì không lập đi lập lại những phương pháp đó, mỗi ngày, mà họ chỉ sử dụng những phương pháp đó, trong qúa trình thứ ba là chứng nghiệm, để so sánh và rút ra những sự tương đồng hay dị biệt qua qúa trình trải nghiệm của họ.

Về niềm tin, thì người “lập pháp” có thể tin vào những kinh nghiệm của những người đã trải nghiệm qua, mà không cần qua qúa trình kiểm nghiệm, thực nghiệm và chứng nghiệm của bản thân.

Nhưng với người “hành pháp” thì những phương pháp của những người trải nghiệm khác, chỉ là những thông tin, và cần qua qúa trình kiểm nghiệm, thực nghiệm và chứng nghiệm của bản thân, khi tiếp xúc được với sự thật.

Với những người “hành pháp”, họ chỉ tin, khi họ tiếp xúc được với sự thật, và họ chỉ tin vào sự thật, chứ họ không tin vào những thông tin, hay kinh nghiệm của người khác. Tại sao?

Vì, kinh nghiệm của mỗi cá thể trước khi tiếp xúc với sự thật đều khác nhau, cho nên, không thể lấy kinh nghiệm của người đã trải nghiệm, làm kinh nghiệm chuẩn, dùng chung cho tất cả mọi người được.

Hãy lấy một thí dụ làm minh họa.

Huế là một địa danh có những thắng cảnh đẹp, có một người đang sinh sống ở miền Bắc, và người đó đi từ Bắc vào Huế (từ trên đi xuống, theo địa lý). Sau khi đến Huế về, người đó đem kinh nghiệm của anh, vẽ thành lộ trình để hướng dẫn cho những ai, muốn thưởng thức cảnh đẹp của Huế, có thể đến Huế để thưởng thức.

Dĩ nhiên, nếu bạn là người đang sống ở miền Bắc thì bạn có thể ứng dụng theo lộ trình này. Nhưng nếu bạn đang sinh sống trong miền Nam, mà bạn ứng dụng lộ trình này, thì bạn không thể nào đến được Huế, mà bạn lại có thể đến Thái Lan không chừng.

Thái Lan thì chắc chắn không phải là Huế rồi, và đó là sự thật. Nhưng vì bạn qúa tin tưởng vào kinh nghiệm của người ở miền Bắc, Bạn tin rằng. người đó đúng là người trải nghiệm, không phải là người giả mạo. Nhưng bạn lại quên mất một điều vô cùng quan trọng, đó là bạn đang ở đâu.

Không sai, người trải nghiệm ở miền Bắc chỉ dẫn rất cặn kẽ, rất rõ ràng, nhưng những sự trải nghiệm đó, chỉ có giá trị khi bạn biết rất rõ ràng, là bạn đang ở miền Bắc, chứ không phải bạn đang ở miền Nam.

Nếu bạn thật sự đang ở miền Nam, mà lại tin theo sự hướng dẫn đó, và kiên trì đi theo lộ trình đó, thì bạn sẽ chẳng bao giờ đến đúng được địa danh mà bạn muốn đến.

Tệ hại hơn là, khi bạn đến được Thái Lan, mà bạn lại cứ khăng khăng khẳng định, đó là Huế, vì bạn đã đi, và làm đúng với lộ trình mà người trải nghiệm kia đã chia xẻ lại, và bạn đã tin là đúng.

Trong khi, Huế đích thực, thì càng xa bạn hơn, vì bạn đã đi chệch hướng, lộn đường.

Còn một người có kinh nghiệm về địa lý , thì họ biết, họ đang ở đâu, và Huế đang ở đâu, so với chỗ của họ. Tuy họ chưa đến Huế, chưa biết phong cảnh của Huế đẹp như thế nào? Nhưng có một điều, họ biết chắc chắn, là họ không thể dựa vào lộ trình của người trải nghiệm ở miền bắc để đi theo.

Họ phải đi theo lộ trình do chính họ tìm ra (từ dưới đi lên, theo địa lý), và họ chỉ sử dụng sự trải nghiệm của người miền Bắc, khi cần phải xác định địa điểm họ đến, có giống như người trải nghiệm đã tả về phong cảnh của Huế hay không?

Khi họ đã tiếp xúc và đến được Huế, đúng như những gì mà người từng trải ở miền Bắc đã diễn tả, thì họ mới tin là họ đã tìm đúng địa danh, mà không có sự tưởng tượng hay phỏng đoán nào cả.

Câu chuyện này, ai nghe xong cũng biết được, ai đi đúng hướng, ai đi chệch đường. Nhưng trên thực tế, chúng ta đang là người ở miền nam, nhưng vẫn đang kiên trì đi theo lộ trình do người miền bắc hướng dẫn.

Chúng ta càng đi, thì chúng ta càng xa rời sự thật, nếu chúng ta chỉ thích “lập pháp” hơn là “hành pháp”.

XIN MẸ HIỂU CHO

00:00


TẢI MP3 – DIỆU LIÊN

 

Mẹ cứ muốn con dâu hiếu thảo
Phải công dung … trọn đạo dâu con
Nhưng mẹ ơi .. xin hiểu cho con
Sao cư xử vuông tròn tình … hiếu
Con vẫn biết … xa quê … mẹ thiếu
Tình quê hương… làm điệu dân ca
Nhưng mẹ ơi … Đây chẳng quê nhà
Hai văn hóa … thật ra … có khác
Thưa mẹ : vợ con đâu khinh bạc
Dám luận bàn … bác ý … mẹ khuyên
Nhưng chỉ vì … hấp thụ .. học chuyên
Theo phong cách “tự nhiên” Âu Mỹ
Hễ nói ra mà không có lý
Dẫu mẹ cha… chẳng kỵ luận bàn
Khác quê ta là phải thuận ngoan
Không nghịch ý … ngược ngang … bàn cãi
Chuyện xẩy ra … mẹ buồn tê tái
Lòng con đau … Nhưng ngại bẩm thưa
Sợ mẹ buồn … mẹ bảo : khổ chưa
Nuôi cho lớn … nay thưa … bênh vợ
Mẹ ơi … con dám đâu quên … nợ
Ơn dưỡng sinh nặng tựa thái sơn
Mẹ … mẹ ơi xin chớ giận hờn
Lòng con vẫn nhớ ơn mẹ mãi
Con cúi đầu … cúi xin con vái
Mẹ hiểu cho … dâu dại … mẹ thương
Mẹ bỏ qua … ý chẳng cùng đường
Cho con trọn … yêu thương … Mẹ … vợ

ÍCH CHI

album-art

00:00

TẢI MP3 – DIỆU LIÊN

Mẹ nuôi em biết bao khổ cực
Em nuôi mẹ em tức giận hờn
Kể ra ai khổ cực hơn
Là em hay mẹ? thiệt hơn rõ ràng
Một công mẹ nuôi sanh khổ cực
Năm canh dài thức đủ năm căn
Nuôi em bú mớm mẹ chăm
Chén cơn manh áo giường nằm ấm êm
Khi nóng bức đêm dài mẹ quạt
Để cho em gió mát ngủ yên
Lạnh thì tay ấm mẹ hiền
Ô mem sưởi ấm chẳng phiền hà chi
Hai.. ba.. kể đến khi mãn kiếp
Cũng không sao kể hết công ơn
Giờ em nuôi mẹ thiệt hơn
Chi ly từng tí giận hờn oán than
Sao em lại ngược ngang đến thế !
Mẹ nuôi em nào kể chi đâu
Mẹ già sống được bao lâu
Đến khi mất mẹ… hối sầu ích chi.

NHẬN LỖI

album-art

00:00

TẢI MP3 – TRẦN THIỆN TÍCH 
TẢI MP3 – TÂM TỪ
TẢI MP3 – CHÂN TRÚ LẠC
TẢI MP3 – DIỆU LIÊN

Bạn Thân Mến,

Nói đến hai chữ nhận lỗi là nói đến một việc gì đó, mà chúng ta đã nói hay làm, nhưng không đúng với một ai đó, hay với chính mình, khi đã vượt qúa những ranh giới mà chúng ta đã quy định.

Nhận lỗi là một chủ đề lớn, mà rất nhiều các nhà hiền triết trên thế giới, đã cố gắng trao truyền và giảng giải cho con người, từ xưa cho đến nay. Các Ngài đang cố gắng tận hết sức mình để giúp người, giúp đời. Nhưng cho đến nay, muốn nói đến hai chữ “nhận lỗi” thì không ít người trong chúng ta vẫn cảm thấy đó là việc vô cùng khó khăn để thực hiện. Vì sao?

Vì, khi chúng ta nhận lỗi với một ai đó, cũng đồng nghĩa với việc, chúng ta đã làm sai điều gì, hay chúng ta đã tin sai, nên mới đưa đến hành động hay lời nói sai.

Nói sai hay làm sai thì cũng chẳng có gì là to tát cả, nhưng điều đó sẽ trở nên to lớn, khi lời nói, hay hành động sai, trong Ngã Thức của chúng ta, bắt đầu khích hoạt những vùng cảm xúc/giác như: xấu hổ, mất mặt, tự ty, tự tôn, v.v.

Khi những nguồn cảm xúc/giác này bắt đầu “khống chế” Ngã Thức của chúng ta, và sử dụng Ý Thức để làm công cụ “biện minh” cho lời nói, hay hành động sai, thì lúc đó, cho dù, qua sự phân tích của Ý Thức, có biết là chúng ta sai, nhưng nguồn năng lượng tiêu cực nêu trên, nhất là nguồn năng lượng của tự tôn sẽ không bao giờ cho Ngã Thức của chúng ta chấp nhận, chúng ta sai.

Chính vì vậy, tuy học thuyết “nhận lỗi” rút gọn từ “Tiên trách kỷ, hậu trách nhân” đã có cả ngàn năm, nhưng có bao nhiêu người trong chúng ta chịu thực tập.

Chúng ta chỉ thích ca tụng, tán thưởng, những câu danh ngôn như trên; chúng ta chỉ thích lý luận để phô trương kiến thức và sự hiểu của mình, nhưng tai hại nhất là, chúng ta lại không chịu thực hành.

Các nhà hiền triết đã bỏ ra bao tâm huyết, bao trải nghiệm, để rút tỉa ra phương pháp cho chúng ta thực hành, chứ không phải, để “tô hồng” thêm cho kiến thức của chúng ta.

Nếu chúng ta khi học những câu danh ngôn này, mà chỉ học để “tô hồng” thêm cho kiến thức của chúng ta, thì há chẳng phải là, chúng ta đang lãng phí đi những tinh hoa mà cha ông của chúng ta đã tích lũy hay sao.

Danh ngôn ngày nay thì lan tràn trên internet. Đâu đâu cũng thấy nhan nhãn nhưng câu danh ngôn, được trang hoàng lộng lẫy trên những nền rất đẹp, và đăng đầy rẫy trên những diễn đàn, hay mạng xã hội.

Người đăng có khi bỏ công ra trang trí những câu danh ngôn, hay đi sưu tầm những câu của người khác làm, rồi đăng lên trên mạng xã hội, mỗi ngày, mỗi giờ. Nhưng nếu chúng ta hỏi người đăng, có Biết những gì họ vừa đăng, và có thực hành theo những điều đó không, thì chắc chắc, câu trả lời là: Không.

Vậy thì, cho dù những câu danh ngôn có hay bao nhiêu, có

nhiều bao nhiêu, thì có ích lợi gì. Hay, cho dù, kiến thức của chúng ta có cao bao nhiêu, có thuộc lòng bao nhiêu, thì cũng thành vô dụng. Vì sao?

Vì khi chúng ta gặp vấn đề cần phải giải quyết, thì chúng ta chẳng có chút xíu kinh nghiệm nào để sử dụng cả.

Mớ kiến thức mà chúng ta tự hào, huyên thuyên, khi chưa có vấn đề kia, chẳng giúp ích gì cho chúng ta trong việc giải quyết vấn đề của chúng ta một cách rốt ráo; và khi giải quyết vấn đề, thì chúng ta cũng chẳng sử dụng đến những câu danh ngôn mà chúng ta đã tán tụng, ngợi khen.

Sự thật là, nếu chúng ta nghiêm túc thực hành, thì đôi khi, chỉ một câu danh ngôn, cũng khiến chúng ta phải dành cả một đời mới thực hiện được.

Cho nên, chúng ta không cần thiết phải đi sưu tầm cả ngàn câu danh ngôn để làm gì. Chỉ cần, chúng ta chọn một câu mà chúng ta tâm đắc nhất, và đi thực hành câu đó, cho đến khi đạt được kết quả mới thôi. Như vậy, xem ra có lợi ích cho chúng ta nhiều hơn là, hiểu cả ngàn câu, nhưng không biết câu nào cho ra hồn.

Trở lại chủ đề “Nhận Lỗi” hay “tiên trách kỷ, hậu trách nhân”. Tiên trách Kỷ, có nghĩa là, trước tiên hãy trách mình (kỷ), còn Hậu trách Nhân, nghĩa là, sau đó (hậu) mới trách người (nhân).

Trách mình thì trách gì đây? Chữ Trách là động từ, theo định nghĩa là: vạch ra và tỏ ý chê bai, bắt lỗi, đổ thừa chỗ sơ hở của người khác.

Khi học định nghĩa này trong cuốn Việt Nam Tự Điển của

tác giả Lê Văn Đức, chúng tôi thấy có chỗ không ổn, thí dụ như: “đổ thừa chỗ sơ hở của người khác” chẳng hạn. Nếu dùng định nghĩa vào câu, “tiên trách kỷ”, có nghĩa là, trước tiên, chúng ta nên đi đổ thừa chỗ sơ hở của người khác, trước khi nói về lỗi của mình.

Nếu định nghĩa là như vậy thì đây không thể nào là câu danh ngôn được, vì hành động đó, không được đẹp chút xíu nào, mà còn dậy chúng ta nên trốn tránh trách nhiệm, không cần gánh lấy hậu quả do chính chúng ta gây ra.

Cho nên, ngay cả khi học trực tiếp từ trong tự điển thì chúng ta cũng phải rất cẩn thận khi xem phần giải nghĩa có đúng không.

Chẳng hạn định nghĩa chữ trách như trên, nhưng khi chúng ta nói hai từ: trách nhiệm (cũng là động từ) thì lại mang một ý nghĩa khác, là gách vác công việc (nhiệm) và nhận mọi hậu quả hay kết quả từ công việc ấy.

Như vậy, chữ trách trong trách nhiệm, lại mang một ý nghĩa hoàn toàn trái ngược với định nghĩa của chữ trách là đổ thừa lỗi sơ hở của người khác.

Thế nên, khi chọn lựa câu danh ngôn này để thực tập trong đời sống hàng ngày, chúng tôi lại diễn dịch chữ “trách” thành nhận lỗi và xét lỗi.

Qua sự diễn dịch này, chúng tôi thấy định nghĩa của chữ “trách”, có thể ứng dụng được cho câu danh ngôn “tiên trách kỷ, hậu trách nhân”, và hai chữ trách nhiệm khá chính xác, có nghĩa là, trước tiên nhận lỗi về mình, rồi sau đó mới đi xét lỗi người.

Chữ xét ở đây có nghĩa là nghiệm lại, suy nghĩ lại, tìm ra lẽ phải. Và với hai từ “trách nhiệm” thì nhờ chúng ta nhận ra lỗi gây ra hậu quả, nên chúng ta mới gánh chịu hậu quả.

Khi diễn dịch lại định nghĩa xong, chúng tôi mới đem câu danh ngôn thực tập vào trong đời sống hàng ngày. Trong qúa trình ứng dụng này, chúng tôi lại thấy, khi chúng tôi đã nhận lỗi về mình, thì chúng tôi cũng chẳng cần phải suy xét về lỗi của người kia để làm gì.

Vì trong cách ứng xử của hai người, nếu như một người đã có lỗi và nhận lỗi thì người kia đương nhiên trở thành vô tôi hay không có lỗi.

Cho nên, chúng tôi rút gọn cả câu danh ngôn “Tiên trách kỷ, hậu trách nhân” lại, chỉ còn hai chữ “nhận lỗi” là vậy.

Vậy thì, khi chúng ta nhận lỗi về chúng ta, thì chúng ta sẽ có được những lợi ích gì?

Khi chúng ta biết nhận lỗi về chúng ta, thì chúng ta có được ít nhất 8 điều lợi lớn như sau:

Thứ nhất: Chúng ta sẽ sửa sai và ít khi tái phạm vào những sai lầm đó thêm lần nữa.

Thứ hai: Chúng ta sẽ không phải chịu sự khổ đau lâu dài, vì chờ đợi người kia nhận lỗi hay tha thứ cho chúng ta.

Thứ ba: Chúng ta có nhiều cơ hội hơn để hiểu về chính chúng ta.

Thứ tư: Chúng ta dễ dàng tha thứ cho chính chúng ta.

Thứ năm: Chúng ta luôn được người khác quý mến hơn, vì chúng ta luôn là người chấp nhận lỗi về chúng ta.

Thứ sáu: Chúng ta sống có tự chủ hơn, có thể tự giải quyết vấn đề hay khổ đau của chúng ta mà không lệ thuộc vào ai.

Thứ bẩy: Chúng ta là người có dũng khí và đảm lược nên chúng ta sẽ dễ thành công hơn.

Thứ tám: Nơi nào có mặt của chúng ta là nơi đó có hạnh phúc, bình an.

Thứ nhất: Chúng ta sẽ sửa sai và ít khi tái phạm vào những sai lầm đó thêm lần nữa.

Không cần phải bàn rộng về việc này, vì ai trong chúng ta, khi chịu nhận lỗi và chịu sửa sai lỗi của mình, thì chúng ta sẽ ít tái phạm vào cùng một lỗi, hay những lỗi tương tự.

Dĩ nhiên, cũng có nhiều khi chúng ta lại tái phạm, và những lần tái phạm như thế, thường lương tâm của chúng ta sẽ khiển trách chúng ta, và chúng ta cũng biết được, chúng ta đã làm sai và có lỗi, chứ không như trường hợp, chúng ta không nhận sai, hay thấy không có lỗi. Vì sao?

Vì lúc đó, Ngã Thức của chúng ta sẽ “chống đối kích liệt” và sẽ loại bỏ những phân tích của Ý thức, khi cho rằng, chúng ta sai hay Ngã Thức sai.

Cho nên, nếu chúng ta cần bàn, thì chúng ta nên bàn xem, cách thức nào, để chúng ta sẽ không thể tái phạm thì hay hơn.

Vậy làm sao chúng ta có thể đạt được sửa sai một lần mà dùng cả đời?

Muốn làm được điều này, thì chúng ta phải biết được, gốc rễ của lỗi lầm mà chúng ta gây ra từ đâu? Nếu chúng ta không thể biết được gốc rễ, mà chỉ nhận lỗi “trên ngọn”, thì khi gốc rễ phát triển, hoa trái của lỗi lầm mà chúng ta không muốn thấy, hay có, sẽ tiếp tục trổ ra.

Cho nên, việc đi tìm ra gốc rễ của vấn đề là quan trọng nhất, và phương pháp cũng như cách ứng dụng của việc tìm ra gốc rễ của vấn đề, đã được chúng tôi trình bầy trong rất nhiều bài viết.

Nếu cần tóm gọn thì đây là bốn bước:

  1. Xác định mình có lỗi
  2. Nguyên nhân tạo ra lỗi
  3. Phương pháp giải quyết lỗi
  4. Thời gian giải quyết lỗi

Chỉ cần chúng ta thực tập phương pháp bốn bước này, chúng ta có thể giải quyết được lỗi của mình, và làm sao sửa sai cho đúng cách, mà không bao giờ tái phạm.

Thứ hai: Chúng ta sẽ không phải chịu sự khổ đau lâu dài, vì chờ đợi người kia nhận lỗi, hay tha thứ cho chúng ta.

Khổ đau trong cuộc sống của con người thì vô vàn không sao kể xiết, nếu chúng ta không nhận lỗi, và cứ lại chất chứa thêm những khổ đau từng ngày, thì cuộc sống của chúng ta rơi vào khổ đau triền mien, cũng đâu có gì là lạ.

Rõ ràng, chẳng phải từ kiếp trước hay nghiệp lực nào, đem đến cho chúng ta khổ đau, mà nếu chúng ta chịu khó quan sát và nhìn sâu, chúng ta thấy, chính vì chúng ta không học cách nhận lỗi về chúng ta, đã chiếm hơn 80% những khổ đau trong cuộc sống của chúng ta rồi.

Trong sự khổ đau này, cái đau nhất, chính là thời gian chờ đợi. Thời gian chờ đợi càng dài bao nhiêu thì chúng ta càng đau khổ nhiều bấy nhiêu.

Có nhiều khi, chúng ta chờ đợi đến ngày chúng ta chết đi, mà người kia cũng không chịu nhận lỗi về phần họ, hay họ sẽ không tha thứ cho chúng ta, khi họ đã “quyết định” đó là lỗi của chúng ta.

Chính vì vậy, thay vì chúng ta hoàn toàn bị lệ thuộc, bị bị động, rơi vào thế đợi chờ, thì chúng ta có thể biến thế bị động đợi chờ người kia tha thứ cho chúng ta, thành thế chủ động: chúng ta tự nhận lỗi về mình.

Với thế chủ động này, chúng ta bắt đầu áp dụng phương pháp bốn bước để đi giải quyết tận gốc rễ. Khi chúng ta đã giải quyết xong thì sự khổ đau của chúng ta chấm dứt, mà không cần phải chờ đến chết mới được người khác thứ tha hay nhận lỗi.

Thứ ba: Chúng ta có nhiều cơ hội hơn để hiểu về chính chúng ta.

Khi nhận lỗi về phần chúng ta, và chúng ta đi tìm phương pháp để giải quyết cái lỗi đó, nếu chúng ta dùng đúng cách, thì chắc chắn chúng ta sẽ có cơ hội hiểu sâu hơn về chúng ta.

Chúng ta có thể hiểu được sự vận hành của Ngã Thức. Chúng ta có thể hiểu được tại sao cảm xúc/giác lại có mặt trên Ngã Thức, và cảm xúc/giác khích hoạt hay sử dụng Ý Thức như thế nào.

Chúng ta cũng có thể suy xét những niềm tin mà chúng ta đã thâu thập và tích lũy trong qúa khứ, nhưng chưa từng qua kiểm chứng, và thực chứng.

Chúng ta cũng có thể quan sát và nhìn sâu vào những niềm tin đó, đã ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng ta như thế nào, khi chúng ta sử dụng trong cách ứng xử với người, và với chính mình.

Như vậy, qua việc chúng ta nhận lỗi về chúng ta thì chúng ta đang cho chính chúng ta những cơ hội để hoàn thiện, chỉnh sửa lại chính mình.

Thứ tư: Chúng ta dễ dàng tha thứ cho chính chúng ta.

Tha thứ là hai chữ mà chúng ta đã nghe, thấy, và cũng đã sử dụng rất nhiều lần trong cuộc sống. Thông thường, khi chúng ta nghe, thấy, hai chữ tha thứ, thì chúng ta liên tưởng ngay đến việc, đối tượng nào đó đang bỏ qua một điều gì đó, mà chúng ta đã làm sai với đối tượng, và đối tượng đã không còn chấp nhất, hay bắt lỗi về việc làm sai của chúng ta nữa.

Như vậy, định nghĩa của hai chữ tha thứ là: bỏ qua, không bắt lỗi. Nhưng trên thực tế, thì có sự tha thứ của người nào đó cho chúng ta, mà sự tha thứ đó, có thật sự là tha thứ không?

Hay đó, chỉ là “tạm tha” trong giai đoạn, và khi chúng ta có một lỗi nào khác nữa, thì cái lỗi mà đã được gọi là tha thứ đó, lại quay về cộng chung vào cái lỗi mới.

Người vợ đang nấu phở, nhưng thiếu củ hành tây bỏ vào cho ngọt nước, nên sai người chồng, đi chợ mua một củ hành tây.

Người chồng lái xe ra chợ, thấy hành tây đang giảm giá bán $1/cho ba củ hành, trong khi, một củ bán lẻ giá 50 xu. Người chồng, thay vì, mua một củ hành như người vợ dặn, thì anh lại bị hấp dẫn bởi quảng cáo hạ giá, cho nên, anh đã mua ba củ hành.

Người chồng, sau khi trả tiền và lái xe về nhà, hí hửng vào khoe với vợ, về sự “khéo tính” của mình. Người vợ, không những không khen người chồng, mà còn quay sang quạt cho anh một trận, vì tội không biết tiết kiệm và hoang phí, trong khi, vợ chồng lại ít ăn hành tây, và chỉ dùng hành tây cho nấu phở.

Người chồng khi bị vợ mắng thì tiu nghỉu đi ra phòng khách, ngồi mặt bí xị. Khi người chồng bước đi thì người vợ nói với theo sau:

-Lần này tôi “tha” cho ông, lần sau, ông không được xài hoang phí như thế nữa.

Nửa tháng sau, người vợ nấu bún riêu, nhưng lại thiếu cà chua, nên sai người chồng, đi chợ mua thêm 5 trái cà chua. Người chồng lần này ra chợ, lại bị bảng hạ giá $1/ 10 trái hấp dẫn, nên anh lại mua một đồng cà chua đem về cho vợ.

Nhìn thấy gói cà chua có hơn năm quả, người vợ quát thật to:

“Tôi đã dặn ông, đi mua 5 trái, sao ông lại mua 10 trái, tôi càng tiết kiệm bao nhiêu, thì ông càng phá của bấy nhiêu. Lần trước, tôi nói ông đi mua một củ hành, thì ông lại vác về 3 củ hành; lần này, tôi kêu ông đi mua 5 trái cà chua thì ông đi vác về 10 trái, bộ ông tính chọc cho tôi tức chết ông mới vừa lòng sao.”

Nửa tháng trước, người vợ đã dõng dạc tuyên bố “tha cho ông”, nhưng hai tuần sau, thì cái lỗi của ông không những không được tha, mà còn được cộng thêm với cái lỗi mới.

Cho nên, khi mà chúng ta đã bị ghi vào sổ “bìa đen” là có lỗi, tuy người kia đã nói tha lỗi cho chúng ta, cái tha đó không phải là “tha thứ”, không còn nghĩ đến nữa, hay bỏ qua, mà chỉ là “tạm tha” trong giai đoạn mà thôi. Hiếm khi nào có sự tha thứ, đúng như định nghĩa.

Ngược lại, khi chúng ta nhận lỗi về chúng ta, thông thường, chúng ta hay sử dụng sự tha thứ cho chúng ta rất đúng với định nghĩa của tha thứ, đôi khi còn “qúa lố” nữa là khác.

Nửa tháng trước, khi đi khám bác sĩ về gan, bác sĩ cho anh biết, anh đã sử dụng rượu qúa nhiều, cho nên, gan của anh bắt đầu có triệu chứng bị sơ.

Nghe bị sơ gan, anh rất sợ, và thấy đó là lỗi của anh, khi đã uống rượu khá nhiều. Anh quyết định cai rượu để chuộc lại lỗi lầm của mình.

Gìn giữ được mươi ngày, thì người bạn thân, lại rủ anh đến ăn tiệc thôi nôi con của người bạn. Lúc đầu, anh còn giữ được kỷ luật, nên không uống, nhưng qua vài tua khích bác, thì anh đã say bí tỉ đêm hôm đó.

Anh không những, không giữ được kỷ luật do anh đặt ra, mà anh còn tha thứ “trọn vẹn” cho cái lỗi ham uống rượu, mà bác sĩ đã cảnh cáo anh, nếu anh không bỏ uống rượu, thì cơ hội gan của anh bị sơ là rất lớn.

Qua hai câu chuyện trên, chúng ta thấy, ít ai trong chúng ta có thể tha thứ cho người khác một cách trọn vẹn, nếu có chăng, thì đó chỉ là “tam tha” để mai kia tính lại, chứ không phải bỏ qua, không bao giờ nghĩ đến lỗi đó nữa.

Ngược lại tha thứ khi dùng cho chúng ta, thì mới có tha thứ một cách trọn vẹn và đúng nghĩa nhất.

Thứ năm: Chúng ta luôn được người khác quý mến hơn, vì chúng ta luôn là người chấp nhận lỗi về chúng ta.

Không cần nói, thì ai trong chúng ta, cũng nhận thấy được lợi ích này, bởi vì, khi chơi với ai, mà người đó luôn chịu gánh lỗi, và chúng ta là người vô tội, thì ai mà chẳng muốn chơi với người đó, và ai mà chẳng yêu mến người đó chứ.

Dĩ nhiên, chúng ta yêu mến người đó vì lợi ích của chúng ta đã có người sẵn sàng chịu lỗi cho chúng ta. Nhưng chắc chắn người biết nhận lỗi kia, cũng có những lợi ích như: vừa học hoàn chỉnh họ, vừa tạo được môi trường sống không có thù hận, khổ đau. Không cần phải sống giả dối, lừa gạt nhau.

Thứ sáu: Chúng ta sống có tự chủ hơn, có thể tự giải quyết vấn đề hay khổ đau của chúng ta mà không lệ thuộc vào ai.

Đây có thể nói là lợi ích vô cùng quan trọng với chúng ta vì chính nhờ lợi ích này, mà chúng ta có thể quyết định cuộc đời của chúng ta như thế nào?

Cho dù, chúng ta có vấn đề từ nội tâm hay do ngoại cảnh, khi chúng ta có sự tự chủ, thì chúng ta có thể thay đổi hậu quả thành kết quả. Chúng ta có thể sống ít lầm lỗi và nhiều hạnh phúc an lạc hơn.

Thứ bẩy: Chúng ta là người có dũng khí và đảm lược nên chúng ta sẽ dễ thành công hơn.

Biết nhận lỗi với người, và dám gánh những hậu quả do mình gây ra, đó không phải là việc bình thường, ai cũng có thể làm được.

Muốn làm được điều đó, đòi hỏi chúng ta phải có sự quan sát và nhìn sâu rất vững chãi, mới có thể làm được. Khi đã có sự nhìn sâu vững chãi, và tiếp xúc được với sự thật, thì đạo giáo gọi đó là người có dũng khí và đảm lược.

Định nghĩa của hai chữ dũng khí là: nguồn năng lực (khí) mạnh mẽ (dũng), hay lòng can đảm. Hai chữ: can là gan, và đảm hay đởm là mật, là hai cơ quan, gánh những nhiệm vụ nặng nề trong việc bài tiết cholesterol và các chất độc thải ra ngoài cơ thể. Còn hai chữ: đảm lược, có nghĩa là, không biết sợ hãi, giỏi tính toán sắp đặt.

Như vậy, khi chúng ta nhận lỗi về chúng ta, và chúng ta biến đó thành thói quen, thì bất cứ làm việc gì, chúng ta cũng dùng sự quan sát và nhìn sâu, để tìm ra gốc rễ của vấn đề, và đi giải quyết nó, thì không những, chúng ta có thể đem an lạc và hạnh phúc cho chúng ta, mà yếu tố quan sát và nhìn sâu khi ứng dụng trong tất cả mọi nghành nghề, vẫn luôn là hai chất liệu quan trọng nhất để đưa đến thành công.

Vấn đề là, chúng ta phải tập thành thói quen sử dụng quan sát và nhìn sâu liên tục, nếu không, chúng ta sẽ rơi vào tình trạng lúc nhớ lúc quên, và hiển nhiên, quên nhiều hơn nhớ, khi va chạm với vấn đề.

Thứ tám: Nơi nào có mặt của chúng ta là nơi đó có hạnh phúc, bình an.

Lợi ích này thì không cần phải bàn rộng ra, vì ai trong chúng ta cũng hiểu, khi chúng ta đã nhận lỗi, tìm ra nguyên nhân lỗi, và đi giải quyết cái lỗi, thì chúng ta sẽ không còn khổ đau do những lỗi mà chúng ta gây ra. Cho nên, chúng ta có bình an và hạnh phúc là chuyện tất nhiên.

Là con người, nếu chúng ta sống hướng ngoại, và đi tìm bình an và hạnh phúc từ bên ngoài, thì chúng ta thường thiếu bình an và hạnh phúc. Cho nên, nếu chúng ta là người có bình an và hạnh phúc kéo dài, thì chúng ta có thể đem những bình an và hạnh phúc mà chúng ta có, để chia xẻ với những người đang thiếu.

Như vậy, chúng ta đang tạo ra một môi trường sống lành mạnh, môi trường mà, con người có thể sống với nhau có bình an và hạnh phúc, hiến tặng cho nhau.

Như vậy, qua tám lợi ích kể trên, chúng ta không những làm lợi cho người, mà chúng ta cũng đang làm lợi cho mình. Lợi cho người thì không biết là bao nhiêu, nhưng khẳng định, ít nhất chúng ta cũng đã có 8 điều lợi.

Chúng tôi thì vẫn đang học và hành nhận lỗi mỗi ngày, còn bạn, bạn có “dám” nhận lỗi về phần mình hay không?

TẠI SAO VIẾT CHÌ CÓ CỤC TẨY?

album-art

00:00

TẢI MP3 – TÂM TỪ

Bạn thân mến.

Có người hỏi: Tại sao viết chì có cục tẩy? Chẳng phải câu trả lời đã quá rõ ràng rồi sao.

Đó là để xóa đi những chữ viết sai, viết chưa đẹp, hoặc để xóa hoàn toàn một đoạn văn nào đó…

Vậy, có bao giờ bạn tự hỏi mình: Phải chăng trong cuộc sống này, chúng ta cũng cần có một cục tẩy cho riêng mình? để xóa đi những sai lầm của người khác và của chính bản thân ta.

Có lúc, chúng ta keo kiệt, không dùng đến cục tẩy đó, khiến cho những trang giấy của “cuộc đời” đầy những nhem nhuốc, những dòng gạch,  xóa!

Ai trong chúng ta, cũng có lúc gặp phải sai lầm, và chúng ta, cũng gây ra những lỗi lầm khắc sâu trong lòng người khác.

Có người ghi nhớ để rồi mãi mãi khắc khoải vì vết thương đó! Có người đi giải quyết, và tạo lên trang giấy trống trơn, phẳng lặng, để viết lên những bài viết về cuộc đời, đặc sắc hơn, ý nghĩa hơn.

Người ta nói rằng, cuộc đời là một trang giấy trắng, và chính chúng ta sẽ quyết định viết nó như thế nào.

Khi một đứa trẻ mới vào lớp một, cô giáo không cho chúng viết bằng viết nguyên tử mà viết bằng viết chì! Vì sao?

Bởi vì, bàn tay yếu ớt của các em bé nhất định sẽ có lúc, viết những nét nguệch ngoạc, sai từ này, từ khác… Và khi đó, các em bé phải cần dùng đến cục tẩy, để tẩy đi những chữ viết chưa đúng, chưa đẹp của mình.

Chúng ta cũng vậy, không ai sinh ra, đã có thể viết lên được những bài ca về cuộc đời của chúng ta một cách chuẩn không cần chỉnh.

Có lúc, chúng ta vì vội vã mà đi sai phương hướng, dẫn đến những hậu quả khôn lường, có lúc vì chủ quan mà mắc sai lầm không thể sửa chữa.

Vậy khi mắc phải những sai lầm, thì chúng ta phải làm sao? Chúng ta ngồi trách móc bản thân, hay hứng chịu những lời trách móc của người khác? Như vậy, có giải quyết được gì không?

Lúc ấy, nếu chúng ta biết dùng cục tẩy “bốn bước”để xóa đi những sai lầm mắc phải, và làm lại từ đầu, với những bước đi thận trọng hơn. Như thế không phải là tốt hơn sao.

Bạn nên nhớ, không ai có thể trưởng thành, mà chưa một lần vấp ngã hay mắc sai lầm!

Mỗi em bé trước khi biết đi, cũng trải qua quá trình chập chững, với không ít lần vấp ngã… Đừng tự trách bản thân mình quá nhiều bạn nhé!

Cũng đừng trách móc những người khác, khiến họ cảm thấy họ kém cỏi, mất hết niềm tin vào chính bản thân họ.

Hãy biết chấp nhận sai lầm như một điều tự nhiên trong cuộc sống, để đối mặt với sai lầm và thất bại một cách nhẹ nhàng hơn.

Bạn biết đấy, cục tẩy sinh ra để xóa đi những chữ viết chưa được tròn trịa, chưa được chính xác, thì chúng ta cũng hãy dùng cục tẩy “bốn bước” của mình, để tẩy đi những sai lầm của mình và người khác mắc phải.

Đừng quá khắt khe với người khác, cũng đừng chỉ nhìn vào những sai lầm của họ mà đánh giá con người họ!

Bất kỳ ai cũng có lúc mắc phải sai lầm, quan trọng là họ biết họ sai để sửa! Còn chúng ta, đừng chỉ biết nhìn vào những sai lầm đó, mà hãy nhìn và nghĩ đến những gì họ đã cố gắng, đã nỗ lực để làm tốt công việc của họ.

Có câu chuyện về chiếc bánh bị cháy, bạn đã nghe bao giờ chưa?

Một người phụ nữ phải làm việc 8 giờ một ngày, lại còn chăm sóc gia đình, và làm hết mọi công việc của một người nội trợ.

Một ngày nọ, cô mệt nhoài với hàng tá công việc ở văn phòng, khiến cô có cảm giác như kiệt sức. Về nhà, cô còn phải dọn dẹp nhà cửa và nấu ăn cho chồng và con của cô.

Khi người chồng đón con từ trường về, cũng là lúc chị nướng xong mẻ bánh quy trong lò. Thế nhưng, vì quá mệt, nên cô đã để quên nó một lúc, khiến cho một vài cái bị cháy!

Lúc ăn tối, đứa con quan sát xem có ai nói gì về những chiếc bánh cháy đó không, nhưng chẳng có ai lên tiếng cả!

Khi dọn bát đĩa, người vợ ngỏ ý xin lỗi về những cái bánh cháy, nhưng người chồng dịu dàng nói:

Có gì mà em phải xin lỗi chứ, hơn nữa mùi vị nhưng chiếc bánh ấy rất ngon.

Người vợ mỉm cười hạnh phúc…

Khi đứa con đi ngủ, nó thì thầm hỏi cha nó: Có thật ba thích ăn bánh quy cháy không?

Người cha trả lời: Không con ạ. Nhưng hôm nay, mẹ con rất mệt, mà vẫn phải chuẩn bị bữa ăn cho cha con chúng ta. Cho nên, chúng ta không nên làm mẹ buồn. Mà con này, một vài chiếc bánh cháy, có ảnh hưởng đến ai đâu chứ! 

Thế đấy! Có bao nhiêu người, không để ý đến một vài chiếc bánh cháy trên đĩa bánh? Không nhiều lắm phải không bạn?

Cũng như vết mực đen trên tờ giấy trắng. Có lúc, chúng ta chỉ biết nhìn vào những sai lầm, khuyết điểm của người khác, để rồi lên tiếng chỉ trích, mà quên rằng họ đã cố gắng rất nhiều.

Hãy sống bao dung hơn bạn nhé! Để cục tẩy của bạn mòn dần theo năm tháng, đừng bao giờ để cục tẩy của bạn mãi mãi như mới xuất xưởng!

Bởi vì, nếu không sử dụng đến cục tẩy, cuộc đời của chúng ta, sẽ chi chít những vết gạch xóa, sau những lần mắc sai lầm.

Một tờ giấy như vậy, có đẹp đẽ gì không bạn? Hãy để nó là một tờ giấy được viết nên bởi những trãi nghiệm, những thử thách, quyết tâm và cả sự tha thứ và bao dung nữa, bạn nhé!

CỔ – KIM HOÀ ĐIỆU

album-art

00:00

TẢI MP3 – QUẢNG BẢO TÂM (HUẾ)
TẢI MP3 – DAVID NGÔ

Bạn thân mến,

Chủ đề liên quan đến con cái và cha mẹ là chủ đề bất tận, nói hoài, không bao giờ dứt. Câu chuyện hôm nay chúng tôi muốn chia xẻ với bạn, là câu chuyện về một người bạn thân của chúng tôi, khi chúng tôi có cơ hội được sống chung với gia đình của anh, và đã học hỏi được những gì.

Chúng tôi quen biết nhau khi còn rất trẻ. Anh và chúng tôi lúc đó, có cùng chung một mục đích muốn giữ gìn và phát huy nền văn hóa Việt. Cũng như, đem áp dụng đạo Phật vào trong đời sống hàng ngày.

Cuộc đời của anh, nếu muốn viết thành một phim truyện, hay một cuốn tự truyện, thì chắc sẽ hấp dẫn với người xem, và người đọc. Bởi vì, trong cách ứng xử của anh vừa khôi hài lại vừa gây cấn.

Không biết có phải vì cuộc đời của anh đã sớm học ở trường đời hơn trường học hay không, nhưng nhân sinh quan sống của anh thì rất khác lạ so với người bình thường. Anh chỉ sống với hiện tại, mà không sống với quá khứ và tương lai.

Chúng tôi với anh thì như những con chim cánh cụt, nên cứ “lông bông”, hết chỗ này đến chỗ khác. Cho nên, có những khoảng thời gian, chúng tôi không sinh hoạt chung với nhau, nhưng tình nghĩa giữa chúng tôi với anh, chưa bao giờ bị đứt đoạn.

Thế nên, khi chúng tôi có cơ hội về sống chung với gia đình của anh thì chúng tôi có nhiều thời gian hơn để ngồi hàn huyên, tâm sự.

Cái lạ trong gia đình của anh, đó là, cách anh cư xử với những đứa con của anh. Hễ nơi nào có anh ngồi, là những đứa con của anh, bu quanh anh như “ruồi gặp mật” vậy.

Chúng tíu tít đùa vui, nói cười cùng anh, giữa anh và các con của anh, hình như, không có khoảng cách giữa cha và con, mà ở đó, chỉ là những người bạn thân, luôn chia xẻ với nhau những buồn vui trong cuộc sống.

Mỗi khi cha con anh ngồi nói chuyện với nhau, thì anh thường kể cho các con của anh nghe về tuổi thơ, đi quậy làng, quậy lớp của anh. Nếu một tháng có 31 ngày, thì ba má của anh đã nhận đến 32 lời “mắng vốn” gay gắt từ xóm giềng và của các thầy cô.

Câu chuyện mà các con anh, rất “tâm đắc” hay đem ra chọc anh là “trẻ hư – bad boy” liên quan đến câu ca dao, tục ngữ, mà ai trong chúng ta cũng biết, “nhất qủy, nhì ma, thứ ba học trò” như sau:

Vì không ưa cô giáo ngoài miền bắc đã bắt phạt anh vô cớ hôm trước, cho nên, anh nhất định “trả thù” cho bằng được. Thế là ngày hôm sau, anh đã mang trái mắt mèo vào lớp, trây lên bàn và ghế của giáo viên này.

Kết quả thế nào thì chắc bạn cũng có thể hình dung ra được. Khoảng 3 phút, sau khi ngồi vào bàn để điểm danh sĩ số của học sinh, cô giáo đã gãi lia lịa ở hai cườm tay nghe sột sột. 

Ở đời, đúng là gieo nhân nào thì gặt quả đó. Cuối cùng, anh bị đuổi học, và “hân hạnh” được ngồi lại lớp sáu thêm một năm nữa.

Cái lạ là, tuy anh đem những chuyện quậy phá xóm làng, phá trường, phá lớp, hay những thói xấu của anh khi còn nhỏ, kể lại cho các con của anh nghe, thì chúng  chỉ phá ra cười. Nhưng những đứa con của anh, thì bao giờ cũng “chê” anh là “trẻ hư – bad boy”, mà chẳng bao giờ học theo những gì anh đã làm. Ngược lại, qua những câu chuyện kể xấu về anh, thì con của anh lại học được rất nhiều điều từ điều xấu ấy.

Trong khi, không ít những bậc phụ huynh khác thường “lên lớp” dạy anh rằng: anh không nên làm như vậy, vì sẽ khiến cho con cái của anh không còn kính trọng anh,  sẽ xem thường anh, và không chịu làm theo những gì anh dạy dỗ.

Anh nghe xong chỉ cười, không đáp trả. Vì, với anh, ai cũng có quyền lựa chọn cách sống của mình. Riêng anh, anh quan niệm rằng, học tốt thì dễ. Nhưng học từ những điều xấu để có thể nhận ra đó là xấu và không bao giờ làm theo điều đó, mới là khó.

Cho nên, khi anh đem những kinh nghiệm xấu của anh khi còn trẻ kể cho các con nghe, với anh, đó là cách giáo dục tốt nhất.

Bởi vì, con của anh có thể hiểu về anh nhiều hơn, gần gũi với anh hơn; và cũng qua sự gần gũi và những câu chuyện xấu đó, mà anh mới hiểu được con anh sâu sắc, nên anh có thể hướng dẫn cho con của anh những góc độ nhìn khác nhau, mà con anh chưa có kinh nghiệm.

Chinh vì quan niệm như vậy, cho nên, anh không bao giờ kể cho các con của anh nghe về những việc làm tốt của anh trong xã hội.

Mặc dù, có rất nhiều lần, chỉ vì đi giúp cho những người con lai mới qua, không biết tiếng Anh, bị ăn hiếp, mà anh đang đi làm, cũng bỏ về, để đi giúp họ, khiến anh bị khiển trách và bị đuổi việc bao lần. Nhưng hễ nơi nào, những người Việt bị ức hiếp mà cần đến anh giúp, thì dù ngày hay đêm, anh cũng đều có mặt.

Có nhiều người, cho rằng anh dễ bị lợi dụng, nhưng với anh, có lẽ, anh cũng quan niệm như chúng tôi, “Hãy làm Lợi cho người khác dụng” và anh luôn vui vẻ, khi đã giúp họ xong, thì chẳng bao giờ thấy anh phàn nàn hay than thở gì cả.

Gia đình anh thì khá đông con, nhất là trên xứ Mỹ. Anh có năm đứa con, bốn trai và một gái. Đứa lớn nhất đã gần tốt nghiệp đại học. Đứa thứ hai thì mới vào đại học, còn hai đứa thì cũng sắp sửa tốt nghiệp trung học.

Cái lạ trong gia đình của anh đó là, các con của anh lúc nhỏ, chỉ ở trong nhà, anh em chơi với nhau, mà không ra ngoài giao du với các bạn khác.

Tuy rằng, anh đã khuyến khích và tạo điều kiện cho con của anh, đi giao du với bạn bè bên ngoài, nhưng các con của anh đều cho rằng, chơi với anh em trong nhà, vui hơn là chơi với bạn khác. Cho nên, cứ đi học về là anh em lại quây quần chơi đùa với nhau.

Mặc dù, đó là lựa chọn của con anh, và anh tôn trọng điều đó, nhưng làm cha mẹ, anh vẫn cảm thấy như các con của anh đang sống “thiếu tự do”, cả ngày các con của anh chỉ quây quần bên trong bốn bức tường.

Vì vậy, những buổi chiều, lúc anh cần ngủ để lấy sức làm việc cho ca ba của anh, thì cũng là lúc mà sinh hoạt trong nhà của anh sôi động nhất.

Những tiếng cười to, hét lớn, tranh đuổi nhau, vẫn vang lên mỗi ngày. Nếu là những bậc cha mẹ khác, chắc phải “tức điên lên” và dùng quyền làm cha mẹ, để bắt chúng ngồi yên, không gây ra tiếng động.

Nhưng với anh lại khác, anh ngủ ngon lành, như đang ngủ trong thiền phòng, nơi âm thanh chỉ là những tiếng chim hót, suối reo.

Có nhiều người rất ngạc nhiên về cách anh ứng xử này, họ cho rằng, chắc anh đã đạt đến trình độ “Thỏng tay vào chợ” như 10 bức tranh chăn trâu, nhưng anh chỉ cười rồi nói:

“Làm gì có thỏng tay hay thỏng chân, chỉ vì, thấy tội nghiệp mấy đứa con, cả ngày học tập ở trường đã quá mệt mỏi rồi, nên khi về nhà, cho tụi nhỏ giảm stress một tí. Chỉ cần nghĩ như vậy là ngủ ngon lành thôi, chứ đâu có gì “đao to búa lớn” thỏng tay hay thỏng chân vào chợ”.

Có một lần, anh dành dụm được tiền, để mua cái ti-vi 55” về để hát karaoke mỗi cuối tuần với bạn bè, và cũng để cho các con của anh giải trí trong những ngày thường.

Khi đi học về, những đứa con của anh, sau khi làm bài tập xong thì chia phe đá banh trong phòng khách. Chúng hăng say tranh giành banh và đá vào cái ti-vi mới mua được vài ngày.

Cái ti-vi ngã xuống đất, vỡ toang màn ảnh. Những đứa con của anh cũng hơi sợ, nên dọn dẹp lại phòng khách, và đi vào phòng. Khi anh thức dậy chuẩn bị đi làm thì những đứa con của anh chạy ra, thấy anh đang đứng trong phòng khách, chúng xin lỗi anh, nhưng anh chỉ cười rồi nói:

Các con đâu có lỗi gì, ba mua ti-vi về, để cho các con giải khuây khi bị căng thẳng. Nay các con đã vui chơi không căng thẳng, thì đâu cần ti-vi để làm gì.

Sau đó, mấy cha con vui vẻ phụ nhau khiêng cái ti-vi bỏ ra ngoài thùng rác, mà xem như, chưa có chuyện gì xảy ra.

Vì nhà khá đông con, nên nhà anh có đến 3 chiếc xe. Cứ cuối tuần, anh lại đảo vòng vòng xem chiếc xe nào cần sửa chữa hay bảo trì. Thông thường, anh hay tự một mình làm, trừ khi xe bị hư nặng, thì anh mới cần đến con anh giúp.

Nhưng cách thức anh nhờ con anh giúp cũng rất lạ, đó là, anh chỉ nhỏ nhẹ nói với con anh, là anh cần nó giúp. Nếu con của anh tự nguyện vui vẻ ra giúp thì ra, nhưng nếu chúng không tự nguyện, không vui vẻ, và không ra giúp, thì anh cũng không bao giờ mắng hay chửi cả, anh vẫn vui vẻ ra làm tất cả những gì trong sức của anh có thể làm được.

Theo quan niệm của anh, giáo dục con cái thời nay, không phải là la hét, hay đòn, roi như ngày xưa nữa. Nhất là ở xã hội Tây phương, nơi trẻ em được giáo dục bằng phương pháp suy luận, bằng sự tự do phản biện theo chính quan điểm riêng của mình (mặc dù, chưa biết là quan điểm đó đúng hay sai?).

Nhưng sự thật đã chứng minh, trong qúa trình tiến hóa của đời sống và xã hội, thì mỗi thời đại, đều có những nét riêng và chung, những nét tương đồng và dị biệt, với những thời đại khác.

Từ thời cha mẹ cho đến thời con cái thì sự tương đồng hay dị biệt cũng đã khác nhau khá nhiều, huống hồ chi, nói đến thời ông bà và thế hệ cháu nội, hay ngoại. Rõ ràng, sự dị biệt lại “nâng cấp” hơn nhiều.

Vậy mà, ba thế hệ này, có nhiều lúc, vẫn phải sống chung trong một gia đình, và lại bắt buộc phải sống theo phong tục tập quán của người Á Đông, như thế, tránh sao khỏi những va chạm và bất đồng quan điểm.

Chẳng hạn như, nếu đứng tên góc độ của tuổi trẻ thời nay, khi đọc thơ “Lục Vân Tiên” của cụ Nguyễn Đình Chiểu, đoạn Vân Tiên cản ngăn không cho Nguyệt Nga vén rèm kiệu bước ra tạ ơn cứu nạn:

” Khoan khoan ngồi đó chớ ra,
Nàng là phận gái, ta là phận trai.”

thì tuổi trẻ bây giờ, không khỏi ôm bụng cười lăn trước cách cư xử của người xưa. Nhưng vào thời xưa, thuyết “nam nữ thọ thọ bất tương thân” là biểu hiện của sự giữ Giới của con nhà nho giáo, đáng quý trọng. Bởi vì, chính nhờ sự giữ giới này, mà xã hội ngày xưa, lại sống ít có bạo hành, tội ác hơn ngày nay.

Nhưng cái giới đó, nếu đem ứng dụng trong ngày nay thì không còn thích hợp. Vì xã hội ngày nay, đòi hỏi sự giao tiếp trực diện giữa nam và nữ, nếu không có sự giao tiếp trực diện này thì chẳng đạt được sự thành công.

Cho nên, cái đúng của thời xưa, chưa chắc đã đúng với thời nay, vì thế, đối với anh, vấn đề không phải là ai đúng hay sai, mà là, anh có biết cách giải quyết vấn đề một cách trọn vẹn hay không, mới là quan trọng nhất? Nếu chỉ vì đúng, mà gia đình tan nát, cha con xa lìa, thì đúng để làm gì?

Chính vì hiểu được điều đó, cho nên, mỗi khi cần giải quyết một vấn đề với con của anh, anh thường lắng nghe tâm tư, và diễn đạt tư tưởng của các con anh, hầu có thể tìm ra phương pháp để giải quyết vấn đề cho vẹn toàn.

Thế nên, mỗi ngày, khi gia đình ngồi quây quần ăn uống, trò chuyện, tâm tình, chia xẻ và học hỏi lẫn nhau thì các con, cháu, được phép tranh luận với cha mẹ, ông bà, nhưng cách nói phải ôn tồn lễ độ, và phải biết lắng nghe suy gẫm từ mọi phía, tìm ra chỗ đúng sai cho thật chính xác để cùng nhau học hỏi và sửa sai.

Khi đã biết thương yêu nhau đúng cách, thì sự chăm sóc, nhường nhịn sẽ có mặt, và tự nhiên mang đến hạnh phúc và an lạc trong gia đình.

Biết rằng, dù rất khó để dung hoà giữa ba thế hệ, nhưng nếu chúng ta là “bậc bề trên” mà chỉ cần chúng ta chịu “lùi bước”, bằng cách: lắng nghe, quan sát, nhìn sâu, để giảm tối đa giai cấp “gia trưởng”, và hòa đồng cùng con cháu, và nếu chúng ta có thể dung hoà được ba thế hệ, theo phương pháp “Cổ không phụ, Kim không chê” thì tự nhiên “Cổ – Kim sẽ hoà điệu”.

SỢ CON

album-art

00:00

TẢI MP3 – MỸ LINH
TẢI MP3- DIỆU LIÊN

Bạn Thân Mến,

Là cha mẹ, khi nghe đến hai chữ như “sợ con” thì không ít bạn sẽ cho là chúng tôi qúa “hèn nhát”, vì theo quan niệm phổ thông, thì làm cha mẹ, chúng ta có “quyền” “khống chế” và “điều khiển” con của chúng ta theo ý chúng ta muốn, mà con cái của chúng ta không thể không làm theo.

Khi những đứa con của bạn còn trẻ thơ thì chúng tôi hoàn toàn đồng ý với bạn, là bạn có “quyền”, vì khi đó, những đứa con của bạn vẫn còn đang chịu “lệ thuộc” vào cơm ăn áo mặc do bạn cung cấp.

Nhưng khi những đứa con của bạn bước vào tuổi thiếu niên, nếu bạn không biết trao “quyền” lại cho những đứa con của bạn, và không chấp nhận đóng vai trò “cố vấn”, thì cuộc đời của bạn sẽ gắn liền với đau khổ vì con.

Là một người thích tiếp xúc với sự thật, chúng tôi không để cho những cảm giác như: mất mặt, xấu hổ, che lấp đi sự thật, đó là, làm cha mẹ mà lại “sợ con” thay vì “sợ cha” như thuở nhỏ.

Đơn giản, bởi vì khi chúng ta là con, chúng ta không sợ cha của chúng ta sẽ lầm đường lạc lối. Chúng ta biết, dù ít hay nhiều gì, thì cha của chúng ta cũng có kinh nghiệm sống, ông biết phải làm sao để có thể sống tốt và có an lạc hạnh phúc hơn.

Dĩ nhiên, ở đây, chúng tôi đang nói đến đa số những người cha tốt, những người cha có tinh thần trách nhiệm, chứ không hề đề cập đến những người cha vô trách nhiệm, sống ích kỷ, hành hạ vợ con, vẫn đang có mặt trên cuộc đời.

Nhưng với con của chúng ta thì lại khác, bởi vì, nó chưa có đủ kinh nghiệm sống, nó chưa từng trải, nó lại có bầu nhiệt huyết, và háo thắng, thì khi nó ra đời, chắc chắn nó sẽ bị đời quật cho tơi tả.

Chúng ta trước khi làm cha me, chúng ta cũng có tuổi trẻ, chúng ta cũng có những suy nghĩ giống như con cái của chúng ta, và chúng ta cũng đã “thấm đòn” với những sự háo thắng, hay nông nỗi trong tư duy và ứng xử.

Chính vì, chúng ta đã trải qua, nên khi chúng ta thấy con của chúng ta có những suy nghĩ, có những cách ứng xử tương tự như chúng ta, thì chúng ta biết, con cái của chúng ta, sẽ gặp rất nhiều khổ đau, nếu tiếp tục đi trên con đường đó.

Biết con mình sẽ vấp ngã, nhưng lại không thể cản ngăn con mình, cho nên, chúng ta lại càng “lạm quyền”, thay vì chia xẻ, khuyên răn, thì chúng ta lại “cưỡng ép” hay “bắt buộc”, và cuộcc “chiến” giữa cha mẹ và con cái đã bắt đầu.

Khi đã bắt đầu có sự xung đột giữa con cái của chúng ta và chúng ta, thì cũng là lúc, Ngã Thức của chúng ta khơi mào bằng nỗi sợ. Chúng ta bắt đầu sợ, vì chúng ta không biết được kết quả, con cái của chúng ta sẽ đi về đâu? Nó sẽ ra sao, và sau này, nó sẽ khổ đau hay hạnh phúc.

Và chắc chắc, nỗi lo sợ của chúng ta sẽ gia tang, nếu chúng ta lại sử dụng Trí, chúng ta quan sát, phân tích theo dạng nông. Nhưng khổ hơn là, khi Trí lại cộng thêm tưởng tượng ,và phỏng đoán, thì nỗi khổ vì con, không còn là lo sợ nữa, mà lại nâng cấp lên thành sợ hãi.

Khi sự sợ hãi có mặt thì cơ thể của chúng ta chững lại, cứng lại, chúng ta rơi vào thế bị động, và chúng ta tiếp tục bị con cái của chúng ta “dắt” chúng ta đi trên những con đường đầy chông gai, đau buốt.

Cho nên, làm cha mẹ mà sợ con là chuyện “thiên kinh địa nghĩa” chẳng có gì gọi là hèn nhát hay xấu hổ, hay mất mặt cả.

Chúng tôi còn nhớ, khi đứa con gái thứ hai của chúng tôi rơi vào tuổi thiếu niên (teenager). Đây có thể nói, là lứa tuổi, mà làm đau đầu những nhà tâm lý nhất; vì với họ, đây là tuổi của “nổi loạn”, tuổi của chống đối, tuổi “coi trời bằng vung”.

Với những gia đình, mà cha mẹ và con cái có thể san bằng khoảng cách gia cấp, giữa con cái và cha mẹ, thì còn đỡ một chút. Nhưng nếu gia đình, mà cha mẹ đã “lạm quyền” khi con cái còn ấu thơ, thì những phản ứng của con cái với cha mẹ sẽ thật là “khốc liệt”.

Đứa con gái thứ hai của chúng tôi tuy không rơi vào trường hợp chúng tôi “lạm quyền”, nhưng nó lại có tính giống chúng tôi, là thích tự mình học trải nghiệm, hơn là học từ kinh nghiệm chia xẻ của chúng tôi. Cho nên, khi chia xẻ và khuyên răn nó, chúng tôi cũng gặp những sự chống đối.

Để giải quyết sự chống đồi này, chúng tôi chấp nhận cho con của chúng tôi tự trải nghiệm khi con của chúng tôi vừa tròn 18 tuổi, và luôn mở rộng vòng tay, chào đón nó trở về, sau khi trải nghiệm.

Trong những ngày tháng con bé trải nghiệm, nếu bạn hỏi chúng tôi có sợ không, câu trả lời chắc chắn là sợ. Nhưng nỗi lo sợ của chúng tôi, không phải sợ là con của chúng tôi sẽ học hư, hay trở thành người xấu, mà chúng tôi chỉ sợ, con bé nghĩ không thông, thấy xấu hổ, mất mặt, sau khi trải nghiệm, nên không dám về nhà.

Và để giải quyết nỗi lo sợ này, thay vì, ngồi chờ đợi trong thế bị động, “cắt đứt dây chuông” như lan và điệp, thì chúng tôi chủ động liên lạc với cháu thường hằng.

Chính vì thiết lập được “cầu nối” với con của chúng tôi, cho nên, nỗi lo sợ của chúng tôi không còn tồn tại, mà ở đó, chúng tôi lại trở thành nhà “cố vấn” cho con của chúng tôi khi nó gặp những rắc rối, trong quá trình tự trải nghiệm của nó.

Có một lần, nó muốn trải nghiệm về uống rượu, nên quán bar nào nó cũng đến, mỗi đêm. Khi chúng tôi liên lạc với con của chúng tôi, chúng tôi chỉ nói với cháu một câu như sau:

Trải nghiệm để học hỏi và tiếp xúc với sự thật là một việc nên làm, nhưng trước khi thực nghiệm, thì phải nên biết mình là ai. Nếu mình là rượu thì càng để lâu càng thơm ngon, nhưng nếu mình là sữa, thì càng để lâu càng chua, và sinh hôi thối.

Câu nói nhắc nhở này, đã thay đổi con của chúng tôi, và nó quyết định không trải nghiệm về rượu nữa. Cho đến tận bây giờ, tuy năm nào vợ chồng nó cũng đi dự hội tiệc bia tại Đức, tổ chức mỗi năm một lần, vào tháng 10, nhưng nó chẳng bao giờ uống một giọt bia nào.

Có những lúc, khi mẹ con ngồi tâm sự, nó nói, cho đến bây giờ, câu nói đó vẫn còn như in trong đầu, nhờ câu nói đó ma nó biết nó là ai, và không cần phải trải nghiệm qua những việc không cần thiết.

Câu chuyện thứ hai là câu chuyện về người hàng xóm sống cạnh nhà của chúng tôi. Chị có cô con gái 17 tuổi, vừa xinh đẹp, học hành cũng khá. Nhưng cô bé này, chỉ có một tội, là thích cặp bồ.

Lúc đó, chị lo sợ con của chị sẽ bị kẻ xấu lợi dụng, nên chị tìm mọi cách để nhốt cô con gái của chị trong nhà.

Chị càng “lạm quyền” làm cha mẹ bao nhiêu thì sự phản kháng của cô bé càng mạnh bấy nhiêu.Để cấm con gái của chị đi chơi khuya, ngoài khóa chặt các cửa, ngay cả cửa sổ phòng của cô bé, chị cũng đóng những cây chắn lại, để cho cô bé không thể leo ra ngoài, đi chơi, vào ban đêm.

Dĩ nhiên, cô bé đâu có chịu thua mẹ, chỉ chờ chị đi ngủ, là cô bé gọi cho bạn trai, đem đồ đến tháo những cây chắn xuống, và đi chơi đến hai ba giờ sáng mới về.

Xui cho cô bé là, có một tối, chị giật mình thức giấc, nên chị mới phát giác ra, những cây chắn ngang nơi cửa sổ của cô bé, đã nằm gọn dưới đất. Khi vào phòng cô bé, chị mới hỡi ôi, con của chị, không có mặt trong phòng.

Thế là chị lo sốt vó, chị ngồi trên chiếc ghế sofa, mà giống như, chị như đang ngồi trên đống lửa. Ngồi một mình trong bóng đêm, nước mắt chị rơi lã chã. Đến hơn 2 giờ sáng thì cô bé mới về nhà.

Như thường lệ, cô bé leo cửa sổ vào, và leo lên giường nằm, mà không biết, bên ngoài phòng khách, mẹ của cô đang ngồi đợi cô. Cô bé yên trí là mẹ của mình không biết, nên nhắm mắt ngủ.

Đột nhiên, phòng của cô bé đèn sáng lên, và khuôn mặt mẹ  của cô bé đầy nước mắt. Mở mắt ra nhìn thấy mẹ, cô bé đã đoán ra được, việc cô trốn đi chơi đã bị “lộ tẩy”. Cô bé lộ một chút hoảng sợ, nhưng khi chị đến, nắm cổ áo cô bé lôi cô bé ngồi dậy, thì cô bé bắt đầu hết hoảng sợ, và bắt đầu phản kháng lại.

Cuộc “khẩu chiến” của hai mẹ con, không những làm mọi người trong nhà thức dậy, mà ngay cả chúng tôi ở sát vách nhà chị (duplex), cũng thức giấc luôn.

Khi cơn giận của chị đã lên đến cao trào, chị đã thốt lên những lời như sau:

“Thứ của mày thì chỉ có đi làm gái đứng đường, chứ có làm được gì, mau hãy cút khỏi nhà tao”.

Sau đó, chị gom một mớ đồ của cô con gái vào chiếc vali, và chị đẩy con chị ra khỏi nhà, và đóng cửa lại.

Nằm ở trên giường trong nhà, khi nghe chị nói với con của chị xong, chúng tôi mới bước xuống giường, và ra mở cửa xem sao. Khi thấy cô bé đi ra, chúng tôi đã kéo tay cô bé lại, dẫn vào nhà của chúng tôi, và sắp xếp cho cô bé ngủ chung phòng với mấy đứa con của chúng tôi.

Sáng hôm sau, khi chị phát giác ra, con gái của chị đang sống tạm trong nhà chúng tôi, thì chị mới tạm yên tâm, nhưng vẫn tỏ thái độ như “bất cần”.

Lúc đó, chúng tôi phải “bắt cầu” cho chị đi xuống khi chúng tôi nói với chị:

“Chị đã đuổi nó đi, thì em nhận nó là con nuôi, và em nuôi nó. Chuyện của nó sống thế nào là trách nhiệm của em, chị không cần bận tâm đến”.

Sống gần với chúng tôi một khoảng thời gian khá dài, chị biết, khi chúng tôi đã nói thì chúng tôi sẽ làm đến nơi đến chốn. Cho nên, khuôn mặt của chị thư giản hơn nhiều.

Sau ba bốn ngày, đợi cho chị bình tâm, chúng tôi mới sang nhà của chị để nói chuyện. Chị rất hối hận, vì lúc đó chị qúa nóng giận, nên không thể kiềm chế được, vì thế, chị đã đuổi con của chị ra khỏi nhà giữa đêm khuya.

Chị xin lỗi chúng tôi, vì chuyện gia đình của chị đã lôi kéo gia đình của chúng tôi vào cuộc, và chị xin chúng tôi cho con của chị về lại nhà.

Chuyện trả lại con cho chị là chuyện tất nhiên, nhưng trong câu chuyện của chị nói với chúng tôi, chúng tôi chỉ thấy, chị nhận ra sự lo sợ con gái của chị học hư, và muốn răn đe cô bé, nên chị mới đuổi con chị ra khỏi nhà, giữa đêm khuya, nhưng chị lại không nhận ra, trong lúc chị nóng giận, chính chị, lại là người đang “vẽ đường cho hươu chạy”.

Con của chị có hư trong tương lai hay không thì chưa biết, nhưng chính chị lại đang “ám thị” hay đang “cố vấn” cho con chị, làm gái đứng đường.

Với một cô gái, vừa có nhan sắc xinh xắn, bị mẹ đuổi ra khỏi nhà trong đêm, trong tay không một đồng bạc, vậy thì cô bé sẽ đi đâu và làm sao để sống.

Cô bé chỉ vì tuổi trẻ ham chơi, chứ chắc gì, cô bé đã có ý nghĩ đi làm gái đứng đường để mưu sinh. Vậy mà, vì sự lo sợ con gái của mình học hư, chị lại “vẽ đường cho hươu chạy”.

Thật lòng, thì chị chỉ muốn răn đe cô bé, nhưng chị không ý thức được rằng, chị đang “mở rộng” con đường cho con gái của chị, thành gái đứng đường.

Rồi đến khi, vì hoàn cảnh để sinh tồn, cô bé phải làm gái đứng đường như chị “gợi ý”, thì chị lại “tự hào” về kinh nghiệm sống của chị rất dồi dào, đến độ nói đâu trúng đó.

Nhưng chị không biết rằng chị mới là người “đầu nêu” cho con chị thực hiện cũng như chị “tiếp tay” tạo duyên cho con của chị trở thành gái đứng đường.

Một câu chuyện với người quen khác của chúng tôi, về sự lo sợ của người mẹ với đứa con.

Chị mở ví ra, và lấy một xấp tiền năm đồng, để bỏ vào bao lì xì. Thấy chị ngồi xếp tiền bỏ vào bao, chúng tôi cũng hơi lạ, vì chỉ mới là tháng bẩy, đã đến tết đâu, mà chị lại chuẩn bị xa đến thế. Nên chúng tôi mới hỏi chị:

Còn lâu mới tới tết, sao chị lại chuẩn bị tiền lì xì sớm thế.

– Chị trả lời: Không phải tiền lì xì dành cho tết đâu chị, mà đây là tiền em chuẩn bị để khi đi đường, khi thấy người vô gia cư (homeless) thì em cho.

Nếu chúng tôi chỉ dừng lại ở đây, thì hành động của chị rất là đẹp, đầy tính nhân văn. Nhưng vì đã sinh hoạt chung với chị một thời gian dài, chúng tôi biết, đằng sau việc làm đó của chị, chắc còn một “ẩn ý” gì nữa, nên chúng tôi lại hỏi tiếp:

Tại sao chị lại phải cho tiền những người vô gia cư?

Tại vì, em sợ, mai lỡ con của em có chuyện gì, mà trở thành người vô gia cư, thì con của em, cũng gặp được những người như em, cho tiền con em. Hơn nữa, em cũng đang thực tập phương pháp “bố thí ba la mật”.

Nghe xong câu trả lời của chị, chúng tôi ngạc nhiên vô cùng, không hiểu tại sao, chị lại có ý nghĩ “kỳ lạ” này. Cho nên, chúng tôi mới chia xẻ lại với chị.

Này chị, chị thương con và lo cho con là đúng, nhưng tại sao chị lại mong cho con của chị sau này, trở thành người vô gia cư, trong khi, con của chị bây giờ đang có công ăn việc làm đàng hoàng, cháu vẫn đang cố gắng làm việc để tiếp tục thăng tiến.

Tương lai con của chị như thế nào thì chưa biết, nhưng nếu chị cứ tiếp tục “ám thị” chị, là sau này, con của chị sẽ trở thành người vô gia cư; và nếu chị cứ tiếp tục làm việc này, và biến trở thành thói quen, thì chị đang tạo ra một nguồn năng lượng tiêu cực, gởi ra ngoài không gian, và nguồn năng lượng này, sẽ ảnh hưởng đến con của chị có thể là trực tiếp hay gián tiếp.

Giúp đỡ người hoạn nạn là việc làm tốt, nhưng khi giúp người mà có điều kiện thì chỉ có hại mà không có lợi. Chị giúp đỡ người vô gia cư thì hoàn toàn đúng, nhưng khi chị kèm theo vào, lỡ như mai sau con của chị là người vô gia cư để chờ người khác giúp, là điều mà chị nên chỉnh lại.

Hơn nữa 5 chữ “bố thí ba la mật” không phải có ý nghĩa như vậy. Đức phật khi nói về bố thí ba la mật, Ngài đã dậy rằng: khi chúng ta hiến tặng hay cho (bố thí) người nào đó, dù là  về vật chất hay tinh thần, thì chúng ta nên hiến tặng hay cho với tâm không điều kiện.

Khi mà tâm của chúng ta đã có điều kiện, thì cho dù, điều kiện đó là, tích tụ công đức, hay làm phước, thì sự hiến tặng, hay cho đó, cũng trở thành vô nghĩa, không còn giá trị.

Ông bà ta cũng dậy rằng “thi ân bất cầu báo” có nghĩa là, khi hiến tặng hay cho ai vật gì, hay điều gì, thì chẳng cần phải có sự báo đáp, hay trả lại. Hay nói gọn hơn là, cho, hay hiến tặng không điều kiện.

Qua ba câu chuyện kể trên, chúng ta thấy, cả ba bà mẹ đều lo và sợ cho con, nhưng mỗi người lại có cách hành xử khác nhau.

Lo và sợ cho con là việc làm chính đáng của bất cứ bậc cha mẹ nào có trách nhiệm. Đó không phải là việc làm hổ thẹn, hay xấu hổ, khi chúng ta là những bậc cha mẹ, nói mình “sợ con”. Bởi vì đó là sự thật.

Luân lý và đạo đức được đặt ra cho con người, không phải giúp chúng ta dựa vào đó để ngụy biện, sống xa rời sự thật, hay không sống đúng với sự thật, mà luân lý và đạo đức được lập ra, để giúp chúng ta sống hoàn thiện, và sống đúng với sự thật hơn.

Ngày nào chúng ta là những bậc cha mẹ, còn cảm thấy xấu hổ, hay mất mặt, khi nghe người khác nói chúng ta “sợ con”, thì ngày đó chúng ta đang sống xa rời sự thật.

Vậy khi chúng ta “sợ con” thì chúng ta nên ứng xử như thế nào cho có lợi nhất?

Có vài điều mà chúng ta có thể suy ngẫm và lựa chọn để ứng dụng như sau:

Thứ nhất: Trao quyền. Trao quyền là biết nhường lại quyền quyết định cho con của mình, khi nó đủ khả năng phân tích, so sánh lợi hại cho mỗi việc làm, và có khả năng giải quyết vấn đề một cách rốt ráo, để có thể kéo dài được an trong cuộc sống.

Muốn làm được điều này thì ngay khi đứa con của chúng ta bắt đầu phát triển ý thức (từ 5 đến 7 tuổi), chúng ta phải tập cho con của chúng ta áp dụng phương pháp bốn bước để giải quyết vấn đề.

Khi con của chúng ta thực tập giải quyết vấn đề, chúng ta không nên dùng quyền làm cha mẹ để bắt ép con của mình phải làm theo ý mình, mà chỉ nên đóng vai trò cố vấn, đặt ra những câu hỏi, hướng về sự thật, để cho con của chúng ta học và quen với cách đặt câu hỏi sao cho đúng trọng tâm.

Khi con trẻ đã biết ứng dụng, và biến trở thành thói quen tốt rồi, thì tiếp tục giúp con kiện toàn những góc độ nhìn và cách ứng xử. Đến khi con có thể tự lập thì trao quyền quyết định cuộc đời của con mình cho nó.

Thứ hai: Làm gương. Có thể nói, trong tất cả các phương pháp dậy con thì phương pháp làm gương là tốt nhất. Không những vừa dậy cho con, mà ngay cả bản thân chúng ta cũng phải liên tục học hỏi và sửa sai để hoàn thiện.

Chính vì, đặt mục đích làm gương cho con, mà chúng ta tạo ra cho chúng ta một kỷ luật vững chãi, giúp cho chúng ta, khi gặp những vấn đề, không trốn chạy, hay tìm cách đè nén chúng, mà đi giải quyết chúng một cách triệt để.

Nếu con của chúng ta nhìn thấy cha mẹ nó hành xử như thế, để đem lại sự an lạc và hạnh phúc, khi chung sống với nhau, thì nó cũng sẽ học cách giải quyết vấn đề, khi nó gặp, một cách triệt để. Nó Biết phân tích rõ ràng, đâu là lợi, và đâu là hại, nó biết làm sao giải quyết khổ đau của nó, khi nó phải gặp phải vấn đề.

Thứ ba: Chủ động. Nắm lấy quyền chủ động là việc làm vô cùng quan trọng khi làm cha mẹ. Thông thường, chúng ta nghĩ rằng, mình làm cha mẹ thì mình luôn nắm quyền chủ động, vì con cái của mình, vẫn còn đang lệ thuộc vào mình.

Nhưng sự thật thì không phải vậy; ngay cả khi, con cái của chúng ta đang lệ thuộc vào chúng ta, thì chúng ta, nhiều lúc cũng rơi vào thế bị động như thường.

Nếu chúng ta không biết dùng sự quan sát và nhìn sâu, thì chúng ta, nhiều khi đang ở trong thế bị động, mà lại tưởng rằng, chúng ta đang nắm thế chủ động.

Thí dụ, đứa con nhỏ của bạn bị dị ứng khi ăn kem, và bạn dẫn con của bạn đi chợ. Đứa bé vừa nhìn thấy cây kem thì nằng nặc đòi mua, mà nó quên là nó bị dị ứng. Bạn biết con của bạn dị ứng nên bạn không mua. Nhưng con của bạn bắt đầu sử dụng vũ khí duy nhất của nó là, gào khóc thét lên. Những người đi chợ nhìn bạn với ánh mắt tò mò soi mói, và bạn cảm thấy xấu hổ, khi con của bạn cứ gào thét to.

Cuối cùng, vì muốn tránh những ánh mắt soi mói của người khác, bạn đã mua cây kem cho con của bạn ăn, và nó bị dị ứng nổi ngứa cả ngày.

Ban đầu, rõ ràng, bạn ở thế chủ động, vì bạn biết, con của bạn bị dị ứng với kem, nên bạn đã không mua. Nhưng vì sự xấu hổ, mất mặt, hay muốn tránh những ánh mắt soi mói, khó chịu của người khác, mà bạn đã từ chủ động biến thành thụ động.

Nghĩa là, đứa con của bạn ban đầu đang ở thế bị động, nay con của bạn, biến thành thế chủ động, để đạt được ý muốn ăn kem của nó.

Cho nên, khi nói về chủ động và bị động thì rất dài, vì giữa chủ động và bị động, đôi khi, chỉ khác nhau trong vài giây. Nếu chúng ta không cẩn thận, không sử dụng sự quan sát và nhìn sâu liên tục, chúng ta sẽ rơi vào thế bị động liên tục trong một ngày.

Dĩ nhiên, chúng ta có muôn ngàn cách để giải quyết, và mỗi người trong chúng ta, ai cũng có quyền, chọn cách nào tốt nhất và thích hợp nhất với mình.

Nhưng, cho dù chúng ta chọn cách nào, thì chúng ta cũng phải có những chuẩn, để dựa vào những chuẩn đó, mà kiện toàn hay sửa sai. Vậy cái chuẩn đó là gì?

Đó là An kéo dài, chứ không phải An ngắn hạn.

Nếu phương pháp ứng dụng nào, mà không đem đến cho chúng ta An kéo dài, hay khi ứng dụng, mà sinh ra nhiều hậu quả, thì chúng ta biết, chúng ta phải bắt đầu chỉnh sửa lại.

Nếu chúng ta không chịu chỉnh sửa ngay, mà cứ thoái thác, trốn chạy, thì chúng ta đang bắt đầu nhận chìm cuộc đời của chúng ta, và những người thân của chúng ta, trong khổ đau, phiền muộn.

Chúng tôi thì rất tự hào khi nói rằng, chúng tôi đang rất “sợ con”, còn bạn thì sao? Bạn có “sợ con” không? và bạn có tự hào về việc bạn “sợ con” không? Hay bạn đang xấu hổ và mất mặt vì bạn đang “sợ con”.

NÉT ĐẸP CỦA SỰ BẤT TOÀN

album-art

00:00

TẢI MP3 – DAVID NGÔ

Bạn thân mến,

Người xưa có một triết lý sống rất hay. Đó là triết lý về việc đề cao sự không hoàn mỹ, tìm thú vui và sự an nhiên trong tình trạng không hoàn hảo, hay là, khái niệm về sự bất đối xứng, sự đơn giản hoá, sự khiêm nhường, sự thân thiện, và sự am tường tính nguyên vẹn đơn sơ. Vì sao?

Vì đó chính là tính cách tự nhiên mà vạn vật vận hành. Đó là triết lý để đi tìm nét đẹp (Mỹ) trong sự không hoàn hảo (Bất toàn).

Thí dụ, việc họ không vứt bỏ một cái bát bị vỡ, mà họ gắn những mảnh vỡ lại, tạo thành một chiếc bát mới có những vết nứt, có một nét đẹp riêng mà những cái bát khác không thể có được.

Một sự tốt đẹp hoàn toàn, không một chút khiếm khuyết nào, dù là nhỏ nhất, theo định nghĩa chúng ta gọi là Hoàn Hảo.

Nhưng trên thực tế, trong thế giới của nhị nguyên đối đãi: có trước, có sau, có sáng có tối, có xấu, có đẹp, thì không hề có tồn tại của sự hoàn hảo.

Tất nhiên, có thể Bạn không nghĩ thế. Nếu được, bạn thử kể một vài sự hoàn hảo, mà bạn từng trải nghiệm, để chúng ta cùng khảo nghiệm xem.

Có một sự thật là, vạn vật, kể cả con người, dù có đang ở trạng thái tốt nhất, thì cũng đang “hư” dần, và “cũ” dần theo thời gian.

Vật dụng cũ đi, sự sắc nét, phai nhạt dần. Con người già đi, nhan sắc, thanh xuân cũng mất dần.

Đó là quy luật của tự nhiên: Sinh – Lão – Bệnh – Tử, Thành – Trụ – Hoại – Không.

Nếu bạn còn vướng chấp vào sự hoàn hảo, vào một sắc đẹp “trẻ mãi không già”, thì bạn sẽ không thể chịu được sự lão hóa bạn đang có, và tâm của bạn sẽ bị giày vò trong đau khổ. Bạn sợ hãi không muốn soi gương, bạn trốn tránh hay xa lánh mọi người vì sợ bị chê là xấu xí.

Tiền nhân đã dạy “nhân vô thập toàn, vật bất toàn mỹ”. Nhưng chúng ta không cam tâm chấp nhận, vẫn đi tìm sự Hoàn Mỹ cho mình.

Thế nên, chúng ta mới phát sinh ra một tâm lý cầu toàn, và cũng chính vì vậy, mà lòng của chúng ta chưa bao giờ được thảnh thơi, an lạc.

Tóm lại, chúng ta không nên xem sự hoàn hảo là chân lý. Nếu biết đủ, biết vừa thì bạn sẽ hạnh phúc và an lạc hơn, vì không bao giờ bạn sẽ phải phiền lòng về những gì xẩy ra, không đúng như ý muốn của bạn.

Mỗi người chúng ta, ai cũng không hoàn hảo, và vạn vật cũng vậy. Đẹp ở mức cao nhất, trên thực tế, có lẽ là một cái đẹp, mà chỉ thiếu chút nữa là đạt đến sự toàn bích, hoàn hảo sẽ không bao giờ hiện hữu. Mãi mãi không có tuyệt đối trong thế giới tương đối này.

Nếu bạn đã “thẩm thấu” được chân lý này, thì thân tâm của bạn sẽ có an lạc.

Như Trong bài kinh “Người Biết sống một mình” đức Phật đã dạy:

“Đừng tìm về quá khứ

Đừng tưởng tới tương lai

Quá khứ đã không còn

Tương lai thì chưa tới

Hãy quán chiếu sự sống

Trong giờ phút hiện tại

Giờ phút đẹp tuyệt vời”

Hay như Lão Tử nói: “Cố tri túc chi túc, hằng túc hĩ”, nghĩa là, người biết đủ thì sẽ vĩnh viễn không thấy thiếu thứ gì.

Chúng tôi thì đã và đang thực tập “biết đủ từng ngày”, còn bạn thì sao?

TỪ BI – TUỆ GIÁC

album-art

00:00

TẢI MP3 – MỸ LINH 
TẢI MP3 – TÂM TỪ 
TẢI MP3 – TÂM QUANG ĐẠO

Bạn Thân Mến,

Chủ đề hôm nay chúng tôi muốn chia xẻ với bạn, làm sao có thể sử dụng phòng ăn hay bếp của bạn, để thắp sáng Từ Bi và Tuệ Giác đang có sẵn trong bạn, được phát huy một cách rực rỡ nhất.

Từ, Bi và Tuệ, Giác là bốn chất liệu vô cùng quan trọng trong việc đem đến sự Bình An, Hạnh Phúc, Vui Tươi trong cuộc sống của con người.

Định nghĩa của Từ là đem niềm vui đến cho người khác; Bi là lấy ra, hay làm vơi đi, niềm đau nỗi khổ cho người khác. Tuệ là khả năng quan sát, phân tích, tổng hợp theo chiều sâu; và Giác là nhận ra, biết ra.

Bốn chữ Từ, Bi, Tuệ, Giác thường được sử dụng trong kinh điển của Phật Giáo. Nhưng thật ra, đó không phải là “bản quyền – copyright” của Phật giáo, mà đó là Bản Tính sẵn có nơi mỗi con người.

Nhưng vì chúng ta không hiểu được giá trị và định nghĩa đúng đắn của 4 từ trên; cho nên, chúng ta không biết cách ứng dụng làm sao để đem đến sự Bình An, Hạnh Phúc cho mình và cho người.

Chính vì vậy, bài viết này, chúng tôi muốn chia xẻ với bạn một góc nhìn mới. Một góc nhìn, mà bạn đã có sẵn, nhưng không biết làm sao để phát huy hết giá trị đích thực của Từ, Bi và Tuệ, Giác đang có trong bạn.

Hãy tưởng tượng, khi người thân của bạn bị cảm cúm, bạn vào bếp, và nấu cho người thân của bạn một chén cháo, ăn để giải cảm, có phải bạn đang thực hiện lòng từ bi không?

Chắc chắn rồi. Vì sao? Vì bạn đang tìm cách làm vơi bớt đi sự đau đớn mà người thân của bạn đang gánh chịu, và bạn cũng đang mong muốn chén cháo giảm cảm của bạn, sẽ giúp cho người thân của bạn sớm hồi phục, mạnh khỏe và vui tươi.

Lấy đi niềm đau ra khỏi người thân, đó là lòng Bi, và đem lại sự vui, mạnh khỏe, cho người thân, đó chính là lòng Từ.

Như vậy, bạn đâu cần phải đi làm biết bao việc thiện, bạn phải tu tập khổ nhọc, bạn phải ăn chay trường, mới có thể phát huy hay phát triển được lòng Từ Bi đâu.

Mà chỉ cần, khi bạn chú tâm, để ý vào làm một việc gì cho một ai đó, mà việc làm của bạn, có khả năng lấy ra, hay làm vơi đi sự khổ đau cho người khác thì lòng Bi trong bạn đang được thắp sáng. Và khi bạn, cũng để hết tâm ý, quan sát tỉ mỉ, để đem đến niềm vui và sự an lạc cho người khác, thì bạn đang thể hiện lòng Từ.

Như vậy, lòng Từ Bi không phải là một điều gì “xa tầm với”, ở tận cõi nào, mà nằm ngay trong chính bạn.

Chỉ cần bạn hiểu rõ được định nghĩa một cách đúng đắn, thì bạn không cần mong cầu, hay phải lặn lội đi khắp mọi nơi, để tìm cầu lòng Từ Bi, mà bạn có thể thực hiện ngay với những người thân, đang sống chung quanh bạn.

Bạn hãy thực tập thể hiện lòng Từ Bi mỗi ngày trong cuộc sống, và biến thành thói quen, thì đời sống của bạn sẽ luôn có hạnh phúc và bình An. Vì sao?

Vì Từ và Bi chính là hai trong bốn chất liệu quan trọng để tạo ra Bình An và Hạnh phúc. Không có lòng Từ Bi thì cuộc sống của bạn sẽ chìm trong đau khổ và vô vị.

Tương tự như Từ Bi, Tuệ và Giác cũng là hai chất liệu quan trọng khác. Nhưng Tuệ và Giác nếu đem so với Từ Bi, thì Tuệ và Giác quan trọng hơn, bởi vì, nếu không có Tuệ và Giác, thì lòng Từ Bi khó có thể thể hiện được sự tinh tế nhất.

Thí dụ: Khi người thân của bạn bị cảm, và bạn đi nấu cháo giải cảm cho người thân của bạn. Tại sao bạn lại làm vậy? Vì bạn muốn người thân của bạn sớm được khỏe mạnh.

Nhưng nếu trong suốt qúa trình bạn nấu cháo, mà bạn lại bận, suy tư, lo âu về những chuyện khác, hay bạn cảm thấy bực dọc, khó chịu, hay bạn cảm thấy phiền toái, thì những nguồn năng lượng tiêu cực đó sẽ được “thẩm thấu” vào chén cháo mà bạn đang nấu.

Và khi người thân của bạn ăn phải chén cháo với nguồn năng lượng tiêu cực đó, thay vì, họ sẽ sẽ hưởng được lòng Từ Bi của bạn, thì họ sẽ nhận được những “độc dược” từ những tư duy tiêu cực của bạn.

Chính vì vậy, sự có mặt của Tuệ (khả năng quan sát, phân tích, tổng hợp theo chiều sâu) và Giác (nhận ra, biết ra) sẽ giúp cho Lòng Từ Bi ban đầu của bạn, được duy trì và “gởi gấm” vào trong chén cháo một cách dồi dào và trọn vẹn.

Phương pháp nấu ăn có Tuệ Giác là phương pháp quan sát tâm ý của bạn trong qúa trình nấu ăn, để nhận ra những trạng thái tâm lý của bạn trong lúc đang nấu ăn là trạng thái gì.  

Nếu trạng thái tâm lý đang nấu ăn là lòng Thương, lòng Từ, Lòng Bi, Bình An, Vui Vẻ thì bạn hãy tiếp tục tập trung vào lòng yêu thương, hay lòng Từ Bi đó, bằng cách, gia tăng sự suy nghĩ đến những việc đẹp, tốt, đáng yêu mà người thân đã làm cho bạn, mà không để bất cứ ý niệm tiêu cực như: lo âu, phiền toại, buồn bực, sợ hãi v.v. nào chen vào.

Nếu chẳng may, bạn không có thể duy trì lòng thương, lòng Từ hay lòng Bi, mà trong lòng bạn bắt đầu “nổi sóng”, thì bạn nên dừng lại việc nấu ăn, hay bạn đã nấu xong, thì bạn cũng đừng cho người thân của bạn ăn.

Bởi vì, Bạn đã nhận ra (Giác) thức ăn bạn nấu với nguồn năng lượng tiêu cực sẽ trở thành “độc dược” đối với người thân của bạn.

Thay vì, người thân của bạn sẽ sớm hồi phục, khỏe mạnh và sống vui tươi, thì bịnh của họ sẽ trở nên nặng hơn khi tinh thần của họ đã thấm những độc tố: buồn phiền, lo âu, phiền toái từ bạn, và cuối cùng, họ sẽ đem những phiền não, khổ đau của họ, trao tặng lại bạn.

Như vậy, nhờ có Tuệ, giúp cho bạn có thể tập trung sâu hơn để nghĩ về những điều tốt đẹp, và duy trì sự tốt đẹp đó, trong suốt qúa trình nấu; và Giác, giúp cho bạn nhìn sâu hơn để hiểu được tại sao người thân của bạn, sau khi ăn những thức ăn của bạn nấu xong, lại trở nên dễ, cáu gắt, bực bội, bất mãn, khổ đau hay trở nên vui tươi, mạnh khỏe yêu đời.

Con người của chúng ta cần ăn để sống, nhưng nếu những thực phẩm mà chúng ta ăn, đều được “tẩm” bằng những chất liệu độc hại như: lo âu, phiền não, căng thẳng, phiền muộn, bực tức, thù hận, ganh ghét v.v. thì chẳng trách sao, cuộc đời của chúng ta luôn chìm trong khổ đau, và bịnh tật.

Hãy biến nhà bếp của bạn thành nơi để thắp sáng lòng Từ Bi và Tuệ Giác của bạn. Bạn hãy bắt đầu bằng việc thực tập thành những thói quen như:

  • Nhất định không nấu ăn khi lòng bạn đang lo âu phiền não, buồn bực hay có những suy nghĩ tiêu cực
  • Không nghe bất cứ loại nhạc, âm thanh nào để bạn có được sự tập trung cao nhất
  • Bạn chỉ nấu ăn khi bạn có được sự Bình An, Vui Vẻ, Yêu Thương, Hạnh Phúc
  • Khi nấu ăn, bạn luôn nghĩ đến những điều tốt lành, và gởi tình yêu thương của bạn qua thực phẩm, món ăn, thay vì dùng lời nói

Chỉ cần bạn duy trì liên tục thực tập trong vòng 30 ngày, bạn sẽ tập thành những thói quen tốt. Chính những thói quen tốt này, sẽ giúp bạn thắp sáng lòng Từ Bi và phát huy Tuệ Giác của bạn, để đem đến sự Bình An và Hạnh Phúc cho bạn, và cho tất cả những người thân yêu của bạn.

Tiện đây, chúng ta cũng nên quan sát và nhìn sâu vào Từ, Bi, Tuệ, Giác khi ứng dụng ngoài đời sẽ như thế nào.

Hãy lấy câu chuyện sau đây làm minh họa.

Trong một ngôi làng nhỏ trong rừng sâu, có khoảng vài trăm người đang sinh sống, và họ chỉ có duy nhất một người bác sĩ để chữa trị bịnh cho họ những khi trái nắng trở trời.

Một hôm, ông y Sĩ đi chữa bịnh về, và đi ngang qua một khu rừng, ông nhìn thấy một con hổ đang bị thương, nằm ngất, bên bìa rừng.

Vì là Y sĩ, ông thấy con hổ bị thương nên khởi lòng “Từ Bi” muốn cứu con hổ đó. Sau khi, xem xét vết thương và băng bó lại cái chân bị gẫy của con hổ, ông mới dùng thuốc giải mê để đánh thức con hổ dậy.

Khi con hổ thức dậy, nhìn thấy ông, vì con hổ đã đói mấy ngày, nên đã tấn công ông, và cắn xé thịt của ông để thỏa mãn cơn đói của nó.

Hành động của vị bác sĩ này có phải là “từ bi” không và có đúng không?

Chắc chắn, đây không phải là lòng từ bi, mà đó là lòng thương xót hay lân mẫn. Phần lớn chúng ta hay lầm lẫn khi cho rằng lòng từ bi là lòng thương xót.

Trong khi, định nghĩa của lòng Từ bi là đem niềm vui đến cho người (từ), và lấy ra, hay làm vơi đi niềm đau nỗi khổ cho người (bi), thì định nghĩa của lòng thương xót là động lòng thương và xót xa cho hoàn cảnh của người hay vật.

Rõ ràng, hai định nghĩa hoàn toàn khác nhau, nếu chúng ta không cẩn thận, mà diễn dịch lòng từ bi là lòng thương xót, hay lòng yêu thương, thì chúng ta sẽ có thể bị rơi vào giống như trường hợp của vị bác sĩ kia. Chúng ta sẽ trở thành “mồi ngon” cho người hay cho vật.

Vậy nếu như vị bác sĩ kia muốn ứng dụng lòng “từ bi” vào việc cứu con hổ kia có được không?

Được và không được. Được khi ông băng bó vết thương cho con hổ (bi), rồi đánh thức con hổ dậy, và làm mồi cho con hổ ăn (từ). Nhưng không được vì cả mấy trăm sinh mạng trong làng, đang chờ ông chăm sóc và cứu chữa khi bị bịnh, họ có thể chết nếu không có ông.

Cho nên, chỉ có lòng từ bi không là không đủ. Muốn thực hiện được lòng từ bi thì phải luôn có thêm Tuệ Giác gắn liền vào, nếu không, khi chúng ta thực hiện lòng từ bi mà không có Tuệ Giác, thì chúng ta, không những không giúp được người, mà chúng ta còn lại làm hại người và hại chính mình.

Vậy làm sao chúng ta có thể kết hợp giữa từ bi và tuệ giác cho câu chuyện của ông bác sĩ nêu trên.

Nếu ông bác sĩ muốn cứu con hổ với lòng từ bi và tuệ giác thì ít nhất ông cũng có vài cách để thực hiện:

Việc đầu tiên khi ông khởi lòng thương xót, muốn cứu con hổ, thì ông phải sử dụng tuệ giác để ý thức được rằng, nếu ông không cẩn thận, và làm cho con hổ bị mê lâu hơn, mà lỡ, khi ông đang chữa trị, băng bó vết thương cho con hổ, mà nó thức dậy, cắn giết ông, thì những người dân làng của ông sẽ gặp rất nhiều đau khổ vì bịnh tật, và cả làng của ông có thể bị tiêu diệt, nếu chẳng may bị đại dịch khi không có ông ở đó.

Ông phải ý thức được rằng, ông sống không phải chỉ cho riêng ông, mà ông sống vì những trách nhiệm mà người dân trong làng đang trông cậy vào ông.

Cho dù, ông có vì lòng “từ bi” mà làm mồi cho con hổ, thì sau khi con hổ đánh chén no bụng xong, nó cũng chẳng lấy làm hối hận, khi vừa ăn thịt “ân nhân” của nó; và ngày mai, khi nó đói bụng, thì nó vẫn đi tìm những con vật khác hay người nào đó, để thỏa mãn cơn đói của nó.

Đó chính là bản năng của động vật, và con hổ đang sống đúng bản năng của nó. Trong bản năng đó, sự sống còn của nó mới là yếu tố quan trọng nhất.

Cho nên, những cảm giác tốt như: yêu thương, hiểu biết, hay đạo đức như thiện ác, không hề có trong phần lớn các động vật. Vì vậy, khi áp dụng lòng từ bi hay thương xót với động vật thì phải nên rất cẩn thận, nhất là những loại động vật hoang dã, chưa được huấn luyện thuần tánh như gia súc trong nhà.

Chính vì vậy, khi đã quyết định thực hiện lòng “từ bi” thì ông phải sử dụng tuệ giác trước, để so sánh, phân tích lợi và hại. Sau đó, ông mới sắp xếp xem giải pháp nào là tốt nhất, rồi mới thể hiện lòng từ bi.

Sau đây là một vài trường hợp mà ông Y sĩ có thể ứng dụng:

Trường hợp một: ông dùng thuốc tiếp tục gây mê cho con hổ, sau đó, mới dùng dây trói hai chân con hổ lại, băng bó vết thương, rồi trở về làng, nhờ những người khác đóng cũi để nhốt con hổ lại, và mang nó về làng. Sau đó, nuôi con hổ trong cũi để nó không đi ăn thịt những con thú khác hay con người.

Như vậy, qua sự có mặt của Tuệ Giác thì ông vừa giữ được thân mạng của ông an toàn để ông có thể giúp cho dân làng khi có bịnh tật, và ông cũng cứu được con hổ, và cũng ngăn ngừa con hổ, sẽ không thể đi giết hại những động vật khác hay con người. Ông vừa sử dụng Tuệ giác và lòng “từ bi” cùng một lúc, vừa đem lợi đến cho con người và con hổ.

Dĩ nhiên, có nhiều bạn sẽ thắc mắc, nếu giải quyết như ông thì đó có phải là Tuệ Giác không? Vì, tuy ông có thể đạt được lợi cho người, cho con hổ và các động vật khác, nhưng ông sẽ lấy thịt đâu để nuôi con hổ mỗi ngày.

Có nghĩa là, ông cũng phải giết những con vật khác để nuôi con hổ, vậy thì lòng “từ bi” của ông ở đâu, khi giết những con vật khác để nuôi con hổ.

Câu hỏi của bạn rất hay, nhưng nếu bạn để ý kỹ, bạn thấy đấy, chúng ta đang sống trong thế giới của tương đối chứ không phải là tuyệt đối. Trong thế giới của tương đối, cách ứng xử hay hành xử của chúng ta bao giờ cũng có giới hạn. Trong khi, trong thế giới của tuyệt đối thì không hề có giới hạn.

Khi chúng ta đang sống trong thế giới của tương đối, chúng ta luôn có chủ thể và đối tượng, và đối tượng ở đây chính là con người, hay vật.

Còn thế giới của tuyệt đối là thế giới dành riêng cho cá thể đó mà thôi. Dĩ nhiên, cũng có chủ thể và đối tượng. Nhưng đối tượng ở đây là những ý niệm, tư tưởng, cảm xúc/giác của cá thể, chứ không phải là người hay vật.

Cho nên, trong cách ứng xử hay giải quyết vấn đề hoàn toàn khác nhau, chứ không phải, cách giải quyết của tuyệt đối cao hơn tương đối, hay ngược lại.

Vì vậy, trong cách giải quyết của tương đối thì bạn chỉ có thể chọn giải pháp nào có lợi nhiều nhất, có hại ít nhất, chứ không thể nào chỉ có lợi mà không có hại như tuyệt đối được.

Cho nên, khi vị Y sĩ hành xử như trường hợp một, đã là cách tốt nhất, có lợi trên nhiều mặt, và cái hại là phải giết những sinh vật nhỏ để nuôi con hổ, là chuyện không thể đặng đừng.

Đó chính là những sự thật đang xẩy ra trong thế giới tương đối mà chúng ta chứng kiến mỗi ngày, giữa các động vật khi sinh hoạt chung với nhau trên trái đất này.

Trường hợp hai: Ông có thể giết con hổ, vì ông ý thức được rằng, ngày nào còn có con hổ, chúa tể sơn lâm, thì ngày đó còn có biết bao nhiêu con vật yếu đuối khác phải làm bữa ăn cho con hổ, trong đó, có thể có cả ông và những người khác.

Nếu đứng trên góc độ tương đối thì hành động giết con hổ của ông đem đến những lợi ích cho những con vật yếu đuối, không đủ sức chống trả trước sức mạnh của con hổ, và ông cũng giúp cho những người, khi có việc đi qua khu rừng không còn nơm nớp lo sợ, làm mồi ngon cho chúa sơn lâm. Và cái hại duy nhất, đó là, ông phải diệt đi một sinh mạng của một động vật.

Như vậy, nếu đem trường hợp hai so với trường hợp một, thì trường hợp hai sẽ giải quyết được vấn đề là, ông không cần mỗi ngày phải giết một số con vật nhỏ, để cung cấp thực phẩm cho chúa sơn lâm, và ông vẫn bảo vệ được ông và con người. Ông cũng có thể bảo vệ cho nhiều động vật nhỏ, không phải chịu làm những bữa ăn cho con hổ.

Khi đặt trên so sánh và phân tích thì hành động trong trường hợp hai tốt hơn trường hợp một, vì ông chỉ giết một con hổ nhưng cứu được rất nhiều động vật khác kể cả con người.

Trường hợp ba: Ông đánh thuốc mê cho con hổ mê lâu hơn để ông có thể băng bó cái chân gẫy của con hổ. Sau khi, ông băng bó xong thì bỏ đi, mặc kệ con hổ, sau khi hết thuốc mê tỉnh dậy sẽ sinh hoạt ra sao?

Nếu đứng trên góc độ tương đối thì có phải ông đang “tiếp tay” cho con hổ, để nó mạnh khỏe, và tiếp tục sát hại những sinh vật yếu đuối hơn nó không?

Chắc chắn là vậy, vì khi con hổ còn sống, là nó sẽ sống theo bản năng của nó để sinh tồn. Ông Y sĩ có thể thấy thoải mái hơn, vì vừa thực hiện được lòng từ bi là cứu con khổ khi nó bị nạn, nhưng ông lại không có tuệ giác nhìn sâu để thấy được sự nguy hiểm của con hổ, đối với con người và vật yếu đuối như thế nào?

Tuy việc làm giúp băng bó vết thương cho con hổ mang đầy tích chất nhân văn, nhưng ông lại quên mất là, đối tượng của ông đang giúp là đối tượng nào? Nếu ông không sử dụng tuệ giác để nhìn sâu, phân tích và so sánh thì có đôi khi, ông không giết trăm họ, nhưng trăm họ cũng vì ông mà chết.

Câu chuyện của Mikhail Kalashnikov, người phát minh ra AK-47, cho quân đội Liên Xô là một câu chuyện như trường hợp ba.

Khi cuộc chiến tranh chống lại phát xít Đức bùng nổ, Liên Xô đã bị ám ảnh bởi việc thiết kế một khẩu súng trường tự động ưu việt. Thiết kế AK-47 của Kalashnikov là điều mà thế giới đang mong đợi.

Năm 1947, phát minh của Mikhail, đã đưa ông trở thành người ưu tú ở Liên Xô, và ông đã giành được nhiều giải thưởng. Mặc dù vậy, Kalashnikov vẫn cảm thấy tội lỗi vì sự tàn phá mà phát minh của ông đem đến cho nhân loại. Vũ khí AK-47 của ông sáng chế ra, chính là nguyên nhân gây ra cái chết cho hàng triệu người trên toàn thế giới.  

Súng AK-47 đã giết nhiều người hơn bất kỳ loại súng nào khác. Nó đã trở thành loại vũ khí, mà những người theo đạo thánh chiến lựa chọn. Tất cả đều đạt được sự vô pháp, giết người hàng loạt, buôn người, và các hoạt động tội phạm khác, đều nhờ vào phát minh của Kalashnikov.

Sau đó, ông bị dằn vặt vì tội lỗi, và đã viết bức thư đau buồn, gởi cho người đứng đầu Nhà thờ Chính thống Nga như sau:

“Nỗi đau trong tâm hồn tôi không thể chịu đựng được. Tôi tiếp tục tự hỏi mình câu hỏi nan giải tương tự: Nếu khẩu súng Ak-47 của tôi cướp đi sinh mạng của mọi người, điều đó có nghĩa là tôi phải chịu trách nhiệm về cái chết của họ.

Tôi càng sống lâu, câu hỏi này càng thấm sâu vào não của tôi và tôi càng tự hỏi, tại sao Chúa lại cho phép con người, có những ham muốn xấu xa như ghen tỵ, tham lam, và hung hãn”.

Cho nên, khi ứng dụng trong thế giới tương đối, lòng từ bi không dễ dàng sử dụng, nếu như bạn không có mặt của tuệ giác theo sau.

Nếu bạn không cẩn thận tìm hiểu định nghĩa hai chữ từ bi cho rõ ràng, hay bạn lại diễn dịch định nghĩa từ bi theo một nghĩa khác, và thêm vào đó, bạn lại không sử dụng Tuệ Giác mà là Trí giác, thì cơ hội bạn giống như Mikhail rất là cao.

Vậy, nếu đứng trên góc độ của tuyệt đối thì lòng từ bi và tuệ giác sẽ ứng xử ra sao. Dĩ nhiên, chúng tôi có thể chia xẻ với bạn, nhưng cũng chẳng có ích gì, vì đó là sự trải nghiệm của chúng tôi, mà không phải là sự trải nghiệm của chính bạn. Nếu bạn muốn biết chính xác câu trả lời thì bạn cần phải tự trải nghiệm.

Đừng tin bất cứ một ai, mà hãy tin vào chính kết qủa mà bạn trải nghiệm một cách nghiêm túc bao gồm: kiểm nghiệm, thực nghiệm và chứng nghiệm.

Từ Bi và Tuệ Giác 

Vốn không thể tách rời

Nếu không…sẽ rối bời 

Tạo ra muôn đau khổ

NHẤT CHI MAI – “MỘT CÀNH MAI” HAY “MỘT CÀNH MƠ”?

album-art

00:00

TẢI MP3 – VIÊN NGUYỆT – DIỄN NGÂM: HƯƠNG CHIỀU

Bạn thân mến,

Nói đến Thiền của Việt Nam thì những ai nghiên cứu về Thiền, đều không thể nào không biết đến bài thiền kệ nổi tiếng của thiền sư Mãn Giác,  Nhất Chi Mai.

Xuân khứ bách hoa lạc

Xuân đáo bách hoa khai

Sự trục nhãn tiền quá

Lão tòng đầu thượng lai

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.

(Tạm dịch)

Xuân đi trăm hoa rụng,
Xuân đến, trăm hoa cười.
Trước mắt việc đi mãi,
Tóc bạc già đến rồi.
Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết;
Đêm qua, sân trước 
một nhành mai.

Trong chữ Hán 梅 (mai) là cây mơ. Cây mơ ở Trung Quốc có nhiều, là một loại cây ăn trái có hoa màu trắng, có khi hơi ửng hồng hoặc đỏ.

Riêng tại Việt Nam, mơ có nhiều ở các tỉnh phía Bắc, đặc biệt là ở vùng rừng núi ở động Hương Tích.

Nhà thơ Nguyễn Bính đã từng viết: “Thấp thoáng rừng mơ – cô hái mơ”

“Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái;

Lững lờ khe Yến cá nghe kinh…”.

Mơ mọc thành rừng. Rừng mai  đây chính là rừng mơ chớ không phải là rừng mai vàng như nhiều người lầm tưởng.

Vì điều kiện thổ nhưỡng, hoàng mai tức là cây mai vàng nở hoa vào dịp tết âm lịch,  chỉ có từ Quảng Trị trở vào.

Lãnh thổ Việt Nam vào thế kỷ XI chỉ mới đến chân đèo Ngang, cho nên, vào thời điểm này, nước Việt Nam chưa có hoàng mai, mà chỉ có hoa mơ, và hoa mơ trong thơ xưa, vẫn gọi là hoa mai.

Vậy mai trong lời thơ của Thiền sư Mãn Giác chính là cây mơ. “Đình tiền tạc dạ nhất chi mai”, tạm dịch là, “Ngoài sân đêm trước một cành mơ”.

Xuân đi trăm hoa rụng,
Xuân đến, trăm hoa cười.
Trước mắt việc đi mãi,
Tóc bạc già đến rồi.

Trăm hoa với mình, mình với trăm hoa, nào có khác gì nhau giữa dòng sinh diệt, vẫn tương duyên, tương tức trong nhịp điệu vô thường của vạn pháp diệt sinh.

Nhưng giữa dòng sinh diệt vô thường ấy, lại biểu hiện một sự nhiệm mầu: 

Đừng bảo Xuân tàn hoa rụng hết,

Đêm qua sân trước một nhành mai.

 “Không cần nói mà ngộ”.  Ngộ được gì? Ngộ được sự thật về tính vô thường của vạn pháp.

Thiền kệ thật giản dị, không triết lý dài dòng, không văn chương hoa mỹ, không suy luận mênh mang, không lang bang ngộ nhận, mà tiếp nhận sự thật một cách trực tiếp. Chấp nhận định luật của tự nhiên, vô ngôn mà phá chấp.

Có một vị Thiền sư đã tu nhiều năm, nhưng chẳng thấu đạt được chân lý. Một đêm nọ, vị Thiền sư gánh nước về tu viện; vừa đi vừa ngắm ánh trăng rọi xuống mặt nước trong thùng. Bỗng nhiên, đòn gánh gãy đôi, giây thùng đứt và thùng nước rơi xuống. Nước đổ ào ra, bóng trăng tan biến – không còn nước, không còn trăng.

 Vị Thiền sư hoắc nhiên đốn ngộ:

“Bằng cách này hay cách khác, tôi đã cố giữ đôi thùng nước, Mong rằng chiếc đòn gánh dòn yếu kia sẽ không gãy.
Bất chợt, giây đứt thùng văng, Không còn nước trong thùng, không còn trăng trong nước;
Tay tôi rỗng không, chẳng có vật gì,
Tâm tôi rỗng không, chẳng có vật gì”.

Tâm vẫn tự trụ tâm, cảnh vẫn tự trụ cảnh. Nếu Tâm không bị lay động bởi cảnh, thì cảnh vẫn là cảnh, nào há động được Tâm.

Vậy thì còn cần tìm đến ĐỊNH để làm gì? Trong khi, bản thể của Tâm đã là Định, không hề bị chuyển lay. 

Thiền kệ thì như thế, còn bạn “cảm” ra sao?

CẬU BÉ ĐÁNH GIẦY

album-art

00:00

TẢI MP3 – GIỌNG NGÂM: DIỆU LIÊN 

Ông nhà giầu dạo bước
Trên khu phố, hoàng hôn
Gặp chú đánh giày, buồn
Thân gầy thật lam lũ
Chú năn nỉ, mời dụ …
“Ông cho con đánh giầy..
Chỉ năm ngàn… bạc lẻ
Mua cơm nuôi em trẻ
Đang đói đợi cơm chiều
Thương trẻ, lòng ông xiêu
Gật đầu ông đồng ý
Có đáng… là bao nhỉ..
Bạc lẻ… dăm nghìn thôi
Tiếc chi, không đồng ý…
Giầy đánh xong, móc ví
Đưa tờ… hai trăm ngàn
Chú bé cầm, hoang mang…
“Ông chờ con đi đổi…
Năm ngàn thôi, ông hỡi…
Đủ bữa tối, hôm nay…
Anh em con gặp may
Xin ông chờ một chút…
Đã qua ba mươi phút
Cậu bé không trở về
Ông lắc đầu… chán ghê
Trẻ nghèo… hay gian lắm….
Cơm tối xong đứng ngắm
Trăng mọc, gió hiu hiu
Trong vườn hoa thơm nhiều
Quên bực mình… trẻ gạt…
Chuông cửa reo… tiếng quát
Đi chỗ khác mà xin
Nghèo khổ… biết phận mình
Lộn xộn… tao bắt nhốt….
Ông thong thả, cất bước
Thấy đứa bé gầy gò
Đang mếu máo co ro
Tựa trẻ hồi ban sáng….
Có việc gì, hốt hoảng
Từ từ nói ta nghe…
Này anh… đừng hăm he.
Đừng làm em nhỏ sợ…
Thằng bé hỗn hễn thở
Nói… sáng nay anh tôi
Cầm tiền của ông rồi
Băng qua đường đi đổi
Xe đông chạy vô lối…
Cán anh rồi, ông ơi …
Anh đau lắm… nhắn lời
Bảo tìm ông trả lại…
Anh tôi giờ mê dại…
Chỉ muốn xin gặp ông…
Mong ông hãy rộng lòng
Gặp anh… một lần cuối
Lòng ông như xát muối
Rảo bước, bước theo sau
Lòng ông bỗng thấy đau
Trước chái lều xập xệ
Đứa bé nằm trên ghế
Nghiêng hẳn qua một bên
Mắt ướt đôi mắt hiền
Nhìn ông như cầu khẩn…
Lòng như… còn lấn cấn
Băn khoăn… lo sợ gì…
Nó muốn nói điều chi
Nhưng sợ… rồi thất vọng …
Hình như… nó đang ngóng
Xem ông xử ra sao
Ông không nói tiếng nào
Nó càng thêm bối rối
Cuối cùng… nó nói vội…
Xin ông thương em con…
Cha mẹ đã không còn
Con đánh giầy nuôi nó…
Nay không may con khó
Qua khỏi kiếp phận này
Xin cho em đánh giầy
Mỗi ngày cho ông nhé…
Em cần vài ngàn lẻ
Mua cơm sống… mà thôi…
Ông rủ lòng… ông ơi
Xin ông… đừng từ chối…
Nói trong cơn hấp hối
Chưa đợi ông gật đầu
Nó thở ra, lịm… tắt…
Mắt ông trào nước mắt
Ôm nó, thật phục thay
Nghĩa tình người anh cả
Lo cho em, vất vả
Nhưng vẫn chẳng thở than
Lúc nguy kịch chẳng màng
Vẫn lo cho em nhỏ…
Ông dẫu thân giàu có
Chắc gì… hơn nó đâu…
Nó nghèo nhưng tình sâu
Còn hơn cả biển cả
Nó tuy nghèo… nhưng đã
Biết tự trọng, thương yêu
Những kẻ giầu, tiền nhiều
Đã chắc gì bằng nó!…..

TAM CANG – NGŨ THƯỜNG (三纲五常)

album-art

00:00

TẢI MP3 – TRẦN THIỆN TÍCH

Bạn thân mến,

Người xưa thường nói: “Gái thời Tứ Đức Tam Tòng – Trai thời phải giữ Ngũ Thường Tam Cang. Trong bài Công, Dung, Ngôn, Hạnh, các diễn giả đã bàn về phần Tứ Đức – Tam Tòng. Cho nên, trong bài này, tôi sẽ chia xẻ với các bạn về  Tam Cang – Ngũ thường.

Vậy thì Tam Cang là gì và Ngũ Thường là gì?

Tam Cang theo định nghĩa của Hán tự:

  • Tam là ba (三).
  • Cang là giềng mối (纲).

Giềng chính là sợi dây ở mép lưới đánh cá, nhờ nó mà lưới chắc chắn hơn và các mối dây cũng được liên kết chặt chẽ hơn. Giềng mối chính là mối chính liên kết với các mối khác, hiểu theo nghĩa bóng là mối quan hệ chủ đạo, dựa vào nó mà điều chỉnh các mối quan hệ khác.

Như vậy, nếu hiểu đơn giản, Tam Cang là ba mối quan hệ chính trong xã hội, gồm:

Quân thần cang (君为臣纲): Quan hệ vua – tôi
Phụ tử cang (父为纲): Quan hệ cha – con
Phu phụ cang (夫为妻纲): Quan hệ vợ – chồng

Còn Ngũ Thường theo định nghĩa của Hán tự:

Ngũ (五) là năm. Thường (常) là thường có, thường xuất hiện trong cuộc sống của con người.

Như vậy, Ngũ Thường chính là năm điều thường xuất hiện trong cuộc sống của con người, nó hình thành nên đạo đức, mà mỗi người nên có, bao gồm:

Nhân ():Là người, học cách làm người. Để làm người tốt thì phải có cái tâm, cái tâm biết yêu thương muôn loài muôn người. Trước khi muốn thành tài thì phải thành người.

 Lễ (): Là lễ độ, lễ phép. Lễ răn dạy con người ta phải cư xử cho phải phép, tôn trọng và hòa nhã với mọi người.

Nghĩa (): Là chính nghĩa, tình nghĩa, sự công tâm. Chữ nghĩa trong ngũ thường dạy con người phải cư xử sao cho công bằng, theo lẽ phải, theo tình và lý.

Trí (): Là trí tuệ. Trí thể hiện sự sáng suốt, minh bạch. Người có trí là người giữ được sự sáng suốt, biết cách nhìn nhận, phân biệt đúng sai, phải trái, thiện ác.

Tín (): Là sự tin tưởng, tín nhiệm, niềm tin. Tín trong ngũ thường dạy con người ta làm người phải biết giữ chữ tín.

Như vậy:

Tam Cang là nói về ba mối quan hệ trọng yếu trong xã hội, gồm:
vua – tôi ( Quân – Thần), cha – con (Phụ – Tử), vợ – chồng (Phu – Phụ).

Ngũ thường là nói về năm đạo đức mà một người thường có, và nên có: Nhân – Nghĩa – Lễ – Trí – Tín.

Như vậy, muốn thực hiện được những điều này, chúng ta chỉ cần quay về nơi “TÂM” của chúng ta.

Nhắc đến “TÂM”, thì ai trong chúng ta cũng biết, mọi hành động của chúng ta đều xuất phát từ tâm ra. Cho nên:

* Tâm thiện thì suy nghĩ và hành động đúng với đạo lý và lẽ phải.

* Tâm bất thiện thì sẽ sinh tà ý và làm nhiều điều bất chánh.

Chữ “TÂM” thường được dùng để hướng suy nghĩ của chúng ta đến cái thiện, tu thân, dưỡng tính, sống tích cực và làm nhiều điều tốt lành.

  • Tâm bất chánh thì mang lại cho cuộc sống của chúng ta nhiều đau khổ.
  • Tâm gian dối thì cuộc sống sẽ bất an.
  • Tâm ghen ghét thì cuộc sống sẽ hận thù.
  • Tâm đố kỵ thì cuộc sống sẽ không an lạc.

Vậy thì bạn hãy:

  • Đặt Tâm của mình lên ngực để yêu thương.
  • Đặt Tâm lên tay để giúp đỡ người khác.
  • Đặt Tâm lên mắt để thấy được nỗi khổ của tha nhân.
  • Đặt Tâm lên chân để đem may mắn đến với người cùng khổ.
  • Đặt Tâm lên miệng để nói lời an ủi với người bất hạnh.
  • Đặt Tâm lên tai để nghe lời góp ý của người khác.
  • Đặt Tâm lên vai để chịu trách nhiệm với chính mình.

Tam Cang – Ngũ Thường, dù là một học thuyết lỗi lạc của đức Khổng Tử đã để lại cho thế gian, nhưng học thuyết đó, vẫn không vượt ra khỏi chữ “TÂM”.

Nào, mời bạn hãy bắt đầu cho sự “Tâm, Tẩm, Tầm, Tâm”.

Chủng Niệm

 

 

CẦU NGUYỆN 2

album-art

00:00

TẢI MP3 – TÂM TỪ
TẢI MP3 – VIÊN NGUYỆT

Bạn Thân Mến,

Nếu trong bài cầu nguyện lần trước, chúng tôi chia xẻ với bạn về ý nghĩa của hai chữ cầu nguyện, thì chủ đề hôm nay, chúng tôi muốn chia xẻ với bạn về cách cầu nguyện như thế nào mới có kết quả.

Câu chuyện bắt đầu khi chúng tôi sinh hoạt về tâm linh với một số bạn có duyên. Trong những thân hữu này, có một cặp vợ chồng đã quyết định đem xá lợi tặng cho chúng tôi, vì anh chị cảm nhận được sự bình an của chúng tôi, mỗi khi anh chị tới sinh hoạt chung.

Anh chị nói với chúng tôi rằng, anh chị tin tưởng, với tâm bình an của chúng tôi, nếu cộng thêm với xá lợi, chúng tôi sẽ giúp ích được cho mọi người có được sự bình an lâu dài.

Nói thật, về kinh nghiệm làm sao kéo dài An thì chúng tôi còn có chút kinh nghiệm. Nhưng về xá lợi là gì và ứng dụng ra sao thì chúng tôi mù tịt.

Cho nên, chúng tôi nhất định từ chối, và anh chị đã phải mang xá lợi đến nhiều lần, chúng tôi mới chấp nhận. Chúng tôi nhận xá lợi không phải vì sự mầu nhiệm của xá lợi như những gì chúng tôi có đọc hay nghe qua, mà chúng tôi nhận vì tấm lòng chân thành của anh chị.

Trong hơn 100 viên xá lợi chúng tôi nhận lúc đó, có đầy đủ mầu sắc long lanh rất đẹp. Sau khi thiết lập một bàn thờ trang nghiêm, chúng tôi mới đặt những viên xá lợi lên bàn thờ.

Cũng như bao người khác, vì đây là lần đầu tiên nhận Xá Lợi, cho nên, chúng tôi cũng chưa hiểu được hết ý nghĩa và giá trị về Xá Lợi.

Vì thế, chúng tôi đã quyết định đi tìm hiểu bằng chính sự trải nghiệm của mình, mà không theo bất cứ những nghi thức, định nghĩa, hay giải thích về Xá Lợi từ bất cứ nguồn nào khác.

Chúng tôi nghĩ rằng, chỉ có như vậy, sự trải nghiệm mới mang tính chất khách quan, mà không hề có bất cứ một định kiến nào có trước.

Bước khởi đầu trải nghiệm của chúng tôi, bắt đầu bằng Tâm Bình An, sự Quan Sát và Nhìn Sâu. Trong tiến trình quan sát và nhìn sâu, chúng tôi cảm nhận được định nghĩa của Xá Lợi là:

Tinh hoa của một qúa trình tu hành nghiêm mật của các bậc  tĩnh thức, hiền giả, thiện tri thức, giác ngộ, sau khi viên tịch, đã dồn hết tuệ giác của các ngài lại kết tinh thành những hạt.

Giá trị của những Hạt Tuệ Giác (Xá Lợi) này, như một ngọn hải đăng, luôn soi đường dẫn lối cho chúng tôi, những con thuyền đang chìm trong bóng đêm tăm tối, có thể định hướng để quay về bờ bến An Toàn; và cũng là tấm gương phản chiếu, giúp cho chúng tôi có thể nhìn thấu tâm thức của mình, để kiểm tra, chỉnh sửa lại những hướng đi cho trúng đích, tránh lệch đường.

Qua sự trải nghiệm và cảm nhận trên, chúng tôi lại tiến thêm một bước nữa, đó là: kiểm chứng xem điều đó có đúng không? Bằng cách phân đôi Xá Lợi nguồn thành hai phần:

 Phần Xá Lợi thứ nhất: chúng tôi phát khởi tâm hướng về Từ Bi.

Phần Xá Lợi thứ hai: chúng tôi phát khởi tâm hướng về Tuệ Giác.

Sau một khoảng thời gian ngắn, phần Xá Lợi thứ nhất phát ra mùi trầm hương (Hương Từ), và phần Xá Lợi thứ hai, khi chụp hình, chúng tôi phát hiện ra những vùng ánh sáng.

Đặc biệt là, phần Xá Lợi thứ nhất, lại không có bất cứ ánh sáng nào, và ngược lại, phần Xá Lợi thứ hai, cũng không có bất cứ một chút mùi hương trầm nào. Dù rằng, cả 2 phần Xá Lợi lúc mới nhận, đều không có hương thơm, cũng không có ánh sáng.

Khi phát hiện ra điều này, chúng tôi có chia xẻ lại với thân hữu tặng xá lợi cho chúng tôi. Anh chị cũng rất ngạc nhiên, bởi vì, Xá Lợi cùng nguồn từ nhà anh chị, cũng không có hương thơm và ánh sáng.

Như vậy, qua sự trải nghiệm và kiểm chứng trên, chúng tôi rút ra được một bài học vô cùng qúy giá đó là:

Xá lợi là một tấm gương phản chiếu nội tâm của người đối diện. Khi chúng ta có được chiếc “gương Thần” này, chúng ta có thể nhìn rõ được nội tâm của chúng ta một cách rất rõ ràng.

Nhờ đó, chúng ta có thể tiếp xúc được với Sự Thật. Ai trong chúng ta cũng biết rằng, khi chúng ta không có khả năng tiếp xúc với Sự Thật, thì chúng ta sẽ sinh ra ảo tưởng, phỏng đoán, và từ đó dẫn đến những nhận thức mê lầm. Và Ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm, chính những nhận thức mê lầm này là những nguyên nhân gây ra phiền não, khổ đau, bịnh tật của chúng ta trong đời sống hàng ngày.

Sau đó, chúng tôi lại tiếp tục làm thực nghiệm thứ ba, qua việc tặng Xá Lợi cho những bệnh nhân, trong đó bao gồm: người bịnh ung thư Phổi và di căn, thời ký cuối, khi bác sĩ đã khẳng định chị chỉ có thể sống thêm được sáu tháng, nên cho về nhà, nằm chờ chết; gia đình bị tự kỷ; và một số người bịnh khác, theo phương pháp Cầu Nguyện của chúng tôi và cầu nguyện bình thường.

Với người bị ung thư Phổi và gia đình tự kỷ, khi nhận được Xá Lợi, họ đặt 100% niềm tin vào Xá Lợi, và thực hành theo hướng dẫn Cầu Nguyện.

Trong vòng 24 giờ, Xá Lợi của người bị ung thư Phổi, sinh ra hơn 10 viên Xá Lợi khác. Trong qúa trình tự chữa, chị tích cực cầu nguyện và duy trì trạng thái An nhiều nhất có thể trong một ngày. Trong vòng 3 tháng, chị khỏi hẳn ung thư, ngay cả, các bác sĩ đã “tuyên án tử” cho chị, cũng chỉ biết thốt lên hai chữ “kỳ tích”, mà không thể giải thích được tại sao.

Còn gia đình tự kỷ, sau một khoảng thời gian thực tập thì gia đình sinh hoạt như người bình thường.

Trong khi, với những người bịnh khác, chỉ cầu nguyện không thực hành, và niền tin dao động, thì kết qủa có khác nhau không được như ý muốn.

Qua thực nghiệm này, chúng tôi rút ra được những bài học như sau:

Bài Học 1: Cầu mà không nguyện cầu không đắc

Bài Học 2: Nếu muốn Xá Lợi sanh, thì khi Cầu, chúng ta phải thêm vào lời Nguyện: sau khi thực hành thành công chữa được bịnh từ Thân hay Tâm, chúng ta phải nguyện đem kinh nghiệm và Xá Lợi mới sinh ra, hay Xá Lợi của chúng ta có, để chia xẻ và giúp đỡ những người có căn bịnh giống như chúng ta. Và chỉ thực hiện duy nhất với căn bịnh đó mà thôi, chứ không nên hướng dẫn, hay chia xẻ những căn bịnh khác, mà chúng ta không có kinh nghiệm, hay chưa thực hành.

Bài Học 3: Niềm tin đóng vai trò vô cùng quan trọng đến việc đạt được kết quả. Phần lớn chúng ta, thường không biết cách đo lường niềm tin của chúng ta như thế nào.

Qua thực nghiệm này, chúng tôi rút ra được cách đo niềm tin của chúng ta khá chính xác. Đó là: Dựa vào kết qủa của chúng ta có, để biết lòng tin của chúng ta là bao nhiêu.

Nếu chúng ta ra kết qủa là “không có gì hết”, thì trong niềm tin của chúng ta đã có 100% nghi ngờ về kết qủa chúng ta mong muốn. Cho nên, điều mà chúng ta nhận được là: Kết Qủa của Nghi Ngờ (không có gì đúng với ý chúng ta), chứ không phải là chúng ta Không Có Kết Quả.

Thí dụ: Chúng tôi đang đau bụng, và muốn hết đau bụng; và chúng tôi nghĩ, chúng tôi tin Xá Lợi giúp tôi hết đau bụng, nhưng Không Biết Có Hết Hay Không?

Nếu chúng ta để ý kỹ, khi bạn thêm chữ “NHƯNG” vào, thì chữ “NHƯNG” đã thay đổi toàn bộ cái muốn bạn đầu của chúng ta, bằng cái muốn thứ hai. Và cái muốn thứ hai trở thành cái muốn thật sự của chúng ta. Kết Qủa đúng như chúng ta muốn, chúng ta Không Hết Đau Bụng là chuyện tất nhiên.

Hoặc, Tôi tin là Xá Lợi có thể giúp tôi, để tôi THỬ. Bạn có biết không, Thử là một dạng của nghi ngờ, không hơn và không kém; và đây là thói quen mà chúng ta sử dụng hàng ngày.

Cho nên, khi bạn Cầu với ý niệm Thử, hay Nghi Ngờ, thì cái Kết Quả bạn nhận được chính là Kết Quả của sự Nghi Ngờ chứ không phải là Không Có Kết Qủa.

Đây là một nhận thức lệch lạc, mà hầu hết chúng ta đều vấp phải, khi cho rằng, cái Nhân ban đầu là muốn hết bịnh, mà chúng ta lại “vô tình” cộng thêm quá nhiều nghi ngờ, nên cái Nhân muốn hết bịnh, đã đổi thành cái Nhân “không biết có kết quả không”. Vì vậy, nên khi nhận được đúng cái Quả “không hết bịnh”, thì chúng ta lại thất vọng, và cho rằng, phương pháp đó sai, hay cho rằng, chúng ta đã tin, nhưng không ra kết quả như ta muốn.

Tóm lại, công thức để đo niềm tin của chúng ta như sau:

Phần trăm nghi ngờ của chúng ta càng nhiều, thì kết qủa như chúng ta mong được càng thấp.

Kết quả mà chúng ta được bao nhiêu, thì niềm tin chính xác của chúng ta là bấy nhiêu.

Bài Học Thứ 4: Định nghĩa của Trí là: khả năng quan sát, phân tích, tổng hợp, phỏng đoán và tưởng tượng dưới dạng Nông, và định nghĩa của Tuệ là: khả năng quan sát, phân tích, tổng hợp dưới dạng Sâu.

Thí dụ: Người vợ đang bận rửa chén nghe đứa con khóc, nói với người chồng:

Anh ơi, vào thay tã cho con đi, vì nó vừa mới tè xong, nếu để lâu con sẽ bị hâm.

Người chồng bỏ tờ báo xuống, trên đường đi vào phòng của con, trong đầu suy nghĩ: Quái! Sao bà xã mình biết thằng cu nó tè chứ, biết đâu nó không tè thì sao?

Khi đến bên con, người chồng mở tã ra. Đúng như người vợ nói, thằng cu tè thật. Sau khi thay tã cho con xong, thằng cu mỉm cười, rồi lại chìm vào giấc ngủ. Người chồng bước ra khỏi phòng, tiến về chỗ người vợ đang đứng rửa chén, hỏi:

Sao em biết là thằng cu nó tè?

Người vợ mỉm cười trả lời: Em không biết nữa, chắc là thiên tánh của người Mẹ.

Thật ra, người vợ đang sử dụng Tuệ Giác (nhờ sự Quan sát, Phân Tích, Tổng Hợp theo Chiều Sâu nên biết ra sự thật) mà không biết.

Nếu chúng ta dựa vào định nghĩa của Tuệ, thì người mẹ đó, qua tiếng khóc ọ ọe của đứa con đã biết ra được Sự Thật.

Bởi vì, trong qúa trình nuôi con, người mẹ đã sử dụng khả năng Quan Sát, Phân Tích, Tổng Hợp và Nhìn Sâu (Tuệ), để phân biệt những âm thanh của đứa con. Đó là ngôn ngữ của bé dùng để diễn đạt những trạng thái đang xẩy ra trên thân thể của bé, mà bé không thể dùng ngôn ngữ bình thường để diễn đạt được.

Chính nhờ sự Quan Sát và Nhìn Sâu, người mẹ biết được, nếu không thay tả kịp thời thì con mình sẽ bị hâm. Chính nhờ sự Phân Tích Tỉ Mỉ (Sâu), mà người mẹ biết âm thanh ọ ọe này là con đi tè, hay âm thanh ọ ọe kia là con đói bụng. Chính nhờ sự nhìn sâu, mà người mẹ biết được Sự Thật, mà không hề dùng đến bất cứ sự phỏng đoán nào về kết quả cả.

Ngược lại, người chồng sử dụng Trí Giác, thiếu sự Quan Sát, Nhìn Sâu, nên đã đưa ra sự phỏng đoán như “biết đâu nó không tè”. Trong khi, Sự Thật là đứa bé đã tè.

Rõ ràng, Tuệ Giác thì luôn có mặt với chúng ta, nhưng thông thường chúng ta không chọn lựa sử dụng.  Cũng như người mẹ kia, khi có con, vì có tình thương nên người mẹ đã chọn sử dụng Tuệ Giác một cách linh hoạt, mà không hề có ai dậy bảo người mẹ đó làm như thế nào mới đúng.

Nhưng cũng bất hạnh thay, khi đứa bé bắt đầu biết sử dụng ngôn ngữ, thì phần đông những bà mẹ, lại bỏ đi việc sử dụng Tuệ Giác và dần dần thay vào đó sử dụng Trí Giác.

Để cho dễ nhớ, chúng tôi có thể rút gọn những bài học lại như sau:

  1. Cầu mà không Nguyện, Cầu không Đắc.
  2. Xá Lợi chỉ Sanh khi chúng ta dùng Tuệ Giác của chúng ta để tương tác với Tuệ Giác của các bậc Tĩnh Thức. Chữ Sanh ở đây, là biểu hiện Tuệ Giác của chúng ta đang tiếp tục phát triển. Những viên Xá Lợi mới sanh, chỉ là ấn chứng cho sự phát triển tuệ giác của chúng ta, biểu hiện qua góc độ của vật chất.
  3. Chuyện gì sẽ xẩy ra, nếu như khi chúng ta đối diện trước Xá Lợi, và sử dụng Trí Giác của chúng ta.

Đơn giản, khi chúng ta dùng Trí Giác thì chúng ta sẽ không thể tương tác với Tuệ Giác của các bậc Tĩnh Thức, nên Xá Lợi sẽ không Sanh, hoặc nếu có sanh thì cũng là những hạt dị tướng.

Cũng có nghĩa là, chúng ta đang tiếp cận Xá Lợi với sự lệch hướng. Và “Gương Xá Lợi” sẽ giúp cho chúng ta nhận ra điều này, và chúng ta phải điều chỉnh lại.

  1. Kết qủa của chúng ta như thế nào, thì lòng tin của chúng ta như thế đấy. Muốn biết chúng ta tin bao nhiêu thì lấy kết qủa ra thế nào, làm thước đo.
  2. Khác nhau giữa định nghĩa của Trí và Tuệ, là Tuệ Thì phát triển theo chiều Sâu còn Trí Phát triển theo chiều Rộng hay Nông.

Qua thực nghiệm về xá lợi, khi chụp hình, có những vùng ánh sáng, tùy theo tâm niệm của người cầu, chúng tôi bắt đầu thực nghiệm qua việc chụp lại những hình theo những lời cầu nguyện để biết được lời cầu nguyện có thể đạt được hay không?

Trải qua rất nhiều lần thực nghiệm, và qua nhiều cách thức cầu nguyện khác nhau, chúng tôi rút ra được những bài học như sau:

Bài Học 1: Khi lời cầu nguyện của chúng ta đủ thành khẩn thì bất kể là nơi nào mà chúng ta cầu nguyện, cũng đều có ánh sáng. Chúng tôi đã thực nghiệm nơi những đền thờ của tôn giáo, cũng như bàn thờ của gia tiên; khi tâm chúng tôi đủ thành khẩn thì tất cả mọi bàn thờ đều có ánh sáng qua hình chụp lại.

Khi chúng tôi khởi tâm niệm thử, chỉ làm với hình thức, hay làm qua loa cho có lệ, mà không đủ lòng thành, thì cũng cùng một địa điểm, cùng một không gian, lại không có ánh sáng.

Ánh sáng ở đây, không có gì là huyền bí để dẫn đến sự mê tín, như tin là có thần thông hay quyền lực gì cả, mà ánh sáng ở đây, chỉ là những hiện tượng chứng minh lòng của chúng tôi có đủ thành khẩn hay không?

Thông thường, chúng ta hay nghĩ rằng, khi chúng ta cầu nguyện điều gì thì chúng ta sẽ rất thành khẩn. Nhưng có thật là chúng ta có thành khẩn hay không, thì chính chúng ta cũng không thể khẳng định được.

Nhưng qua hình chụp lại khi cầu nguyện thì chúng ta có thể biết được sự thành khẩn của chúng ta như thế nào. Việc này cũng giống như các bác sĩ chụp hình cộng hưởng từ (fMRI) vậy. Qua hình ảnh họ có thể biết được những tần số sóng trong não của bịnh nhân như thế nào, thì qua hình chụp lại những lời cầu nguyện, chúng ta cũng có thể biết được chúng ta có thành khẩn hay không.

Việc chúng ta chụp lại hình có ánh sáng hay không, cũng chẳng có gì là to tát hay huyền bí gì cả. Bởi vì, chúng ta chỉ dùng những hình ảnh này để biết được tâm thức của chúng ta khi cầu nguyện như thế nào.

Nếu chúng ta chưa đủ thành khẩn thì chúng ta nên chỉnh sửa lại cho đúng, để chúng ta có thể tiếp cận, hay nhận được sự hỗ trợ từ các bậc tiền nhân, đơn giản, chỉ thế thôi.

Vậy như thế nào mới là thành khẩn và thành khẩn là gì?

Theo định nghĩa, Thành có nghĩa là thật lòng, hết lòng, một lòng, và Khẩn là khấn vái, van xin.

Như vậy, hai chữ thành khẩn, có nghĩa là, khi chúng ta xin một điều gì đó với ai, thì chúng ta phải một lòng, hay thật lòng hướng đến người đó, mà không chỉ làm lấy lệ, hay hình thức.

Đứng trên góc độ của tâm lý, khi chúng ta thành khẩn, có nghĩa là, chúng ta đang tập trung tất cả những nguồn năng lượng vào một điểm.

Vì vậy, nguồn năng lượng đó sẽ rất mạnh. Chính nhờ nguồn năng lượng mạnh này mà chúng ta mới có thể tương tác được với những tần số sóng Tuệ Giác thanh cao của các bậc tiền nhân, hay những người khuất mày khuất mặt. Những người, đã có những kinh nghiệm sống, hay những trải nghiệm sống, có hạnh phúc, an lạc lâu dài hơn.

Nếu chúng ta không đủ lòng thành, chỉ làm lấy lệ, hay hình thức, thì chúng ta sẽ không đủ nguồn năng lượng để tiếp cận với những nguồn năng lượng thanh cao của các vị. Cho nên, những lời cầu nguyện của chúng ta không được chứng, hay không được sự hỗ trợ từ các Ngài, cũng là chuyện tất nhiên.

Bài Học 2: Lời cầu nguyện thì nên chân thành và đơn giản như đang tâm sự, nhất là khi cầu nguyện với tổ tiên của chúng ta.

Nếu bạn để ý kỹ, khi đứa con nhỏ của bạn muốn mua một món đồ chơi nào, thì đứa bé đâu có cần phải dùng những từ ngữ văn hoa bóng bẩy gì để tán tụng bạn là người tốt bụng, mà đứa con của bạn sẽ nói với bạn những lời nói hết sức đơn giản và trực tiếp như sau:

“Mẹ/ Bố ơi, con muốn mua món đồ chơi này, mẹ/bố mua cho con nhe mẹ/bố, con yêu mẹ/bố nhiều lắm”.

Chỉ cần dùng bấy nhiêu chữ, trực tiếp vào vấn đề, của đứa con, nếu như bố mẹ không có vấn đề về tài chánh, hay cách thức giáo dục, thì đa số, các bà mẹ hay ông bố sẽ siêu lòng và thỏa mãn cho đứa con.

Tổ tiên của chúng ta khi khuất núi cũng là những bậc cha mẹ, nên khi chúng ta cầu nguyện, hay khấn xin các Ngài điều gì, chúng ta nên dùng đúng ngôn ngữ, như vậy, chúng ta mới có thể tương tác được với các vị.

Trong ngôn ngữ Việt, có chữ “ơi” rất tuyệt. Hễ một chữ nào, nếu được đính kèm thêm chữ “ơi” đằng sau, thì lại diễn tả được sự thiết tha, trìu mến, sâu đậm.

Người chồng nếu chỉ gọi vợ của anh là “mình”, thì nghe nhạt nhẽo không tha thiết, không yêu thương sâu đậm, nhưng nếu cộng thêm chữ “ơi” vào, thành “mình ơi”, thì người vợ sẽ cảm nhận được sự ngọt ngào, yêu thương, tha thiết của người chồng ở trong đó.

Cho nên, khi cầu nguyện, trong lời cầu xin chúng ta cũng nên thêm chữ “ơi” vào sau người chúng ta muốn cầu. Chữ “ơi” ở phía sau giúp cho chúng ta bầy tỏ sự thiết tha, trìu mến, một lòng hướng về.

Thí dụ, ông nội ơi, hôm nay là ngày giỗ của ông nội, chúng cháu tề tụ về đây, làm mâm cỗ mời ông nội về ăn chung cùng chúng cháu…

Hay, tổ nghiệp ơi, xin tổ nghiệp soi đường dẫn lối cho con trên con đường nghệ thuật, con nguyện khi con có được thành công, con sẽ đem hết kinh nghiệm của con để chia xẻ, hướng dẫn cho những ai muốn tiến thân trên con đường nghệ thuật…

Dĩ nhiên sẽ có nhiều bạn sẽ không đồng ý với cách cầu nguyện này, vì những lời cầu như trên, có vẻ như “bình dân”, không văn vẻ, thiếu đi sự tôn trọng và không bầy tỏ được thành ý.

Chúng tôi cũng đồng ý với bạn là những lời nguyện trên rất bình thường và trực tiếp, không có một chút văn hoa tán tụng nào. Nhưng quan trọng nhất không phải là bình dân hay văn vẻ, mà là, có đúng ngôn ngữ của các vị muốn nghe hay không mà thôi.

Nếu chúng ta không dùng đúng loại ngôn ngữ mà người chúng ta đi cầu xin, muốn nghe, thì chúng ta sẽ “không có cửa” để các Ngài tiếp cận, hỗ trợ hay phù hộ cho chúng ta.

Cho nên, nếu ông bà của chúng ta, hay tổ của chúng ta, chỉ là những người ưa thích sử dụng ngôn ngữ “bình dân” trực tiếp, mà chúng ta lại cứ thích dùng những lời lẽ văn hoa, bóng bẩy, tán tụng các Ngài, chắc chắc, các Ngài cũng chẳng muốn “tiếp” chúng ta làm gì.

Đó có phải là một trong những nguyên nhân mà khi chúng ta cầu hoài, mà không thấy các Ngài chứng chăng? Chúng tôi vốn không biết.

Chúng tôi chỉ biết, cầu làm sao để có thể tiếp cận được với người chúng tôi muốn cầu, để các Ngài hỗ trợ cho chúng tôi và chúng tôi nguyện đem những kinh nghiệm này chia xẻ lại cho bạn.

Bạn có toàn quyền lựa chọn. Với chúng tôi, cách nào cũng tốt và đẹp cả, nhất là khi chúng ta cầu nguyện và đạt được kết quả. Bởi vì, kết quả mới chính là cứu cánh mà chúng ta muốn đạt đến, chứ không phải là phương tiện, chúng ta cầu cách nào?

Cầu Mà Không Nguyện… Cầu Không Đắc

Nguyện Hành Từng Khắc… Đắc Nhân Tâm

CÓ BỊNH THÌ VÁI TỨ PHƯƠNG

album-art

00:00

TẢI MP3 – VIÊN NGUYỆT

Bạn Thân Mến,

Qua ca dao, tục ngữ, ông cha của chúng ta đã dậy rằng: “Có Bịnh thì Vái Tứ Phương”, vậy, Vái là gì? và Vái như thế nào mới đạt được kết quả? Đó là chủ đề mà chúng tôi muốn chia xẻ với bạn khi chăm sóc cho người thân của chúng tôi.

Theo định nghĩa, Vái có nghĩa là, xá, chắp tay trước trán hay ngực và cúi đầu, cầu khẩn, van xin với người khuất mày khuất mặt, khác với Lậy là quỳ gối và mọp đầu xuống.

Phần đông chúng ta khi “Vái” thường sử dụng ý nghĩa của sự cầu khẩn, hơn là chú trọng đến nghĩa thứ hai, van xin người khuất mày khuất mặt.

Riêng chúng tôi, lại hay sử dụng chữ “vái” theo nghĩa thứ hai, là tạo ra cầu nối để tiếp nhận nguồn năng lượng mà cha ông chúng ta đã tích lũy.

Nếu bạn đã đọc qua bài chín thức, bạn sẽ thấy ngôn ngữ của Ngã Thức thuộc về năng lượng được biểu hiện qua các tần số sóng.

Nếu đem so với ngày xưa, thì tần số sóng là một điều gì đó, không thể thấy được, mà người xưa, chỉ có thể cảm được. Nhưng với sự tiến bộ và khoa học ngày nay, người ta có thể đo được các tần số sóng, người ta có thể chụp hình được những tần số sóng.

Nói về tần số sóng với con người hôm nay thì không thể nói “cảm” không là đủ, mà có thể còn chứng minh được qua hình ảnh hay những biểu đồ.

Ngày xưa, người nào có khả năng nghe được âm thanh, lời nói ở ngàn dặm thì người đó được gọi là thiên lý nhĩ, người nào có thể nhìn xa, thấy được mọi cảnh tượng ở ngàn dặm thì người đó được gọi là thiên lý nhãn (thiên có nghĩa là một ngàn và lý là dặm).

Ai mà có khả năng nhìn xa ngàn dặm, hay nghe xa ngàn dặm, thì không phải “dạng vừa”, mà được phong thần, và khả năng nhìn xa nghe xa này được gọi là thần thông.

Trong những truyện về phong thần, cả thiên đình chỉ có hai vị thần được phong tặng danh hiệu: Thiên Lý Nhĩ và Thiên Lý Nhãn, mà ngay cả Ngọc Hoàng Đại Đế, người nắm quyền tối cao trên thiên đình, cũng không có được khả năng này. Nếu Ngọc Hoàng muốn biết chuyện gì xẩy ra từ ngàn dặm thì Ngọc Hoàng cũng phải nhờ, hay sai hai vị thần này làm cho.

Nhưng ngày nay, phần lớn chúng ta, ai cũng có thiên lý nhãn và thiên lý nhĩ cả. Chỉ cần, chún ta cầm trên tay một chiếc điện thoại thông minh, là chúng ta, không những chỉ biết được chuyện từ ngàn dặm, mà chúng ta còn có thể biết đến chuyện, lên đến cả chục ngàn dặm, cũng là chuyện bình thường.

Nếu đem so với thiên đình ngày xưa, chỉ có hai vị thần có khả năng nghe xa và nhìn xa, thì ngày nay, chúng ta có cả mấy tỷ vị thần, còn cao siêu hơn hai vị thần xưa, vì chúng ta có khả năng nghe và nhìn xa hơn hai vị ít nhất cũng gấp 10 lần.

Vậy, khi bạn cần chiếc điện thoại trên tay, bạn đang là hai vị thần, thiên lý nhãn và thiên lý nhĩ, bạn có thấy bạn có thần thông không?, và bạn có thấy thần thông có cao siêu không?

Chắc chắn là chả có gì mà cao siêu cả, mà đôi khi bạn còn cảm thấy phiền, khi có những việc, bạn đang cần riêng tư, mà lại đang dùng đến thiên lý nhãn (video call).

Cho nên, không phải cứ có thần thông là tốt đâu, mà có thần thông thì cũng có những cái bất tiện lắm đấy.

Vì vậy, nếu có ai đó, khoe với bạn họ có thần thông này hay nọ, thì bạn cũng đừng có ngạc nhiên hay tán phục. Vì bạn cũng có thần thông đấy, không những chỉ là một vị thần, mà bạn còn là cả hai, nghe xa, nhìn rộng cả nghìn dặm, với chiếc điện thoại đang cầm trên tay.

Nói đến điện thoại, thì không ai chúng ta lại không biết đến sóng, vì không có sóng là chúng ta sẽ mất đi “thần thông” ngay.

Như vậy, chức năng của điện thoại chỉ là một công cụ có khả năng thu và tiếp nhận được sóng, và qua song đó, mới thể hiện được thiên lý nhĩ (nói chuyện qua điện thoại) hay thiên lý nhãn (nói chuyên qua ghi hình).

Cơ thể của chúng ta cũng như chiếc điện thoại, là công cụ để tiếp nhận sóng và phát sóng. Hệ thống thần kinh và não bộ, cũng như các tế bào của chúng ta, vừa là trạm tiếp nhận tần số sóng, và cũng là trạm phát sóng từ trong cơ thể ra bên ngoài.

Có thể nói, cơ thể chúng ta giống như một đài phát thanh, nơi có thể vừa nhận sóng và phát sóng.

Khi bạn mở radio trong khi lái xe, thí dụ, đài FM100 quen thuộc, nếu bạn qua vùng phủ sóng, tuy bạn vẫn dùng đài FM100, nhưng bạn lại nhận được những sóng mới, những tiếng nói mới, những chương trình mới.

Không ai trong chúng ta xa lạ điều này, và hai chữ “phủ sóng” với chúng ta, cũng không cần phải giải thích nhiều, vì ai cũng biết.

Y học ngày nay, với những máy móc tối tân như EEG (ElectroEncephaloGraphy) hay chức năng chụp cộng hưởng từ  (fMRI – functional Magnetic Resonance Imaging), các bác sĩ và nhà khoa học thần kinh có thể đo lường những thay đổi trong não của chúng ta, mà không cần mổ não của chúng ta ra, như lúc xưa.

Trong tác phẩm bán chạy nhất, “Power vs Force” (Năng lượng tâm linh), bác sĩ David R.Hawkins đã chứng minh được mối liên hệ mật thiết giữa bệnh tật của con người và những suy giảm năng lượng trong cơ thể, đến từ những tư tưởng tiêu cực.

Để chứng minh điều này, bác sĩ David đã dùng phương pháp thực nghiệm khoa học để đo tất cả các tư tưởng, suy nghĩ, cảm nhận của một người; rồi từ đó, ông ghi nhận được tần số rung động về ý thức hệ của người đó.

Qua nghiên cứu của ông, những người thiếu thương yêu, hay có tư tưởng tiêu cực, oán giận, chỉ trích, hận thù người khác, hoặc sống ích kỷ, đều có tần số rung động thấp.

Theo bác sĩ David, khi những người đó trách móc, hận thù người khác, họ sẽ làm tiêu hao rất nhiều năng lượng của họ; đồng thời, họ cũng tạo ra rất nhiều áp lực trên cơ thể, khiến tần số rung động của họ bị giảm. Vì vậy, họ có nguy cơ bị mắc rất nhiều loại bệnh.

Sau hơn 20 năm dài thực nghiệm lâm sàng với hàng triệu tư liệu được ghi lại. Sau khi, thông qua các phân tích, thống kê tỉ mỉ, bác sĩ David đã phát hiện ra rằng:

Các tầng ý thức khác nhau của con người đều tương ứng với các chỉ số năng lượng nào đó. Từ đó, ông thống kê ra được những mức tần số năng lượng chủ yếu như sau:

Khai Ngộ, Chính Giác: 700 ~ 1000

Điềm Tĩnh, Thanh Thản: 600

Vui Vẻ, Thanh Tĩnh: 540

Tình Yêu Và Sự Tôn Kính: 500

Lý Tính, Thấu Hiểu: 400

Khoan Dung, Độ Lượng: 350

Hy Vọng, Lạc Quan: 310

Tin Cậy: 250

Can Đảm, Khẳng Định: 200

Tự Cao, Khinh Thường: 175

Ghét, Thù Hận: 150

Dục Vọng, Khao Khát: 125

Sợ Hãi, Lo Âu: 100

Điều này, có nghĩa là, khi bạn khởi sinh một ý niệm thì bạn bắt đầu tạo ra tần số sóng, và bạn có thể phát tần số sóng của bạn ra không gian. Nếu ai đó, có trạm thu nhận được tần số sóng của bạn, thì họ có thể “bắt” được tư tưởng của bạn là chuyện rất bình thường.

Người xưa có câu: Trên đầu ba thước có thần linh, dĩ nhiên, họ không có máy móc để đo hay chụp được những tần số sóng, nhưng họ vẫn có thể “cảm” được tần số sóng.

Định nghĩa của cảm là một nguồn năng lượng, mà có năng lượng là có tần số sóng, và tần số sóng của cảm có thể tương tác với các năng lượng hay tần số sóng ở ngoài cơ thể của chúng ta khi có chung một tần số rung động.

Giống như người chơi đàn guitar, khi họ đánh một dây đàn, tạo ra một tần số song, thì những dây đàn nào, lên cùng một tần số đều rung lên.

Như vậy, qua quan sát những hiện tượng về vật chất cũng như về tinh thần, chúng ta thấy, con người của chúng ta là trạm thu và phát ra những nguồn năng lượng với những tần số sóng qua tư tưởng, cảm giác, các cơ quan và tế bào.

Vì có thu, cho nên, chúng ta có thể tiếp xúc được với những nguồn năng lượng (tư tưởng, cảm giác,v.v) của các bậc tiền nhân, đồng thời, chúng ta cũng có thể phát ra những nguồn năng lượng (tư tưởng, cảm giác) cùng tần số với các bậc tiên tổ. Qúa trình thu hay phát này gọi là qúa trình tương tác hay tương tức (cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không).

Điều này có thể giải thích được lý do, tại sao các nhà ngoại cảm (cảm nhận được nguồn năng lượng từ bên ngoài) có thể tiếp xúc được những tần số sóng trong không gian của những người đã khuất. Đồng thời, cũng giải thích luôn được lý do tại sao có khi họ cảm được, cũng như có khi họ không cảm được.

Lý do họ cảm được, khi Ngã Thức của họ thật sự tạo ra được tần số sóng cùng chung với người họ muốn tươg tác, và họ không làm được, khi họ bị những “áp lực” như danh tiếng hay hoàn cảnh “ép buộc” khiến họ phải dùng đến phỏng đoán hay tưởng tượng ra kết quả, khi họ không thật sự có được tần số sóng giao thoa với người họ cần tương tác.

Chính vì vậy, khi chúng ta vái, có nghĩa là, chúng ta đang khởi ý niệm hướng về các vị tiên tổ của chúng ta, hay nói rõ hơn, chúng ta đang tạo ra tần số rung động cùng với tần số rung động của tổ tiên.

Khi chúng ta có cùng với tần số với tiên tổ, chúng ta có thể giao tiếp với các Ngài, một cách dễ dàng.

Vậy thì, chúng ta giao tiếp (vái) những gì với tiên tổ? Như những bài viết khác, chúng tôi đã chia xẻ với bạn về những tinh hoa, và cách sống làm sao kéo dài An của tổ tiên của chúng ta.  Chúng ta “vái” các Ngài chỉ dẫn cho chúng ta con đường để đạt được an và kéo dài an.

Tại sao chúng ta lại vái tiên tổ của chúng ta soi đường dẫn lối cho chúng ta An? Vì định nghĩa của An là không xáo trộn.

Theo Đông y, khi cơ thể của chúng ta bị bịnh, có nghĩa là, cơ thể của chúng ta đã mất đi sự quân bình giữa âm với dương, hay giữa lục phủ và ngũ tạng. Như vậy, khi chúng ta có An, chúng ta có thể thiết lập lại thế quân bình âm dương. Nhờ sự thiết lập được quân bình âm dương trong tâm, cho nên, sẽ ảnh hưởng tới thân.

Vì vậy, những bịnh từ thân, có thể nương tựa nơi nguồn năng lượng An của tâm, để tự điều chỉnh, từ đó, giúp cơ thể của chúng có thể sống khỏe mạnh hơn.

Những phương pháp sống lâu, và sống khỏe, không bịnh tật của người xưa luôn đặt trọng tâm vào chữ An. Khi Tâm đã an thì không có bịnh tật

Ngày nay, các bác sĩ Tây Y cũng công nhận sự bất an, căng thẳng, trầm cảm,v.v, là một trong những nguyên nhân chính gây ra những chứng bịnh nan y.

Câu chuyện về chứng bịnh rối loạn nghi bệnh (hypochondria) mà chúng tôi nhớ, có đọc trên vnexpress của tác giả Vương Linh, nói về chứng bịnh rối loạn nghi bệnh hay cách “định bịnh giả” như sau:

“Từ ngày ông hàng xóm mất vì ung thư vòm họng, bà A luôn có cảm giác mình có rất nhiều đờm. Bà nghĩ bà bị bệnh nặng sắp chết, nên bà bắt con cháu đưa đi hết nhà thương này tới nhà thương khác, dù bác sĩ nơi nào cũng khẳng định bà khỏe mạnh.

Trong 6 tháng, bà A đã đi khám tới hơn chục nơi. Qua các kết quả, đều cho thấy, bà có sức khỏe bình thường, họng và phổi không có vấn đề gì.

Nhưng bà A vẫn không yên tâm và luôn cảm giác họng đầy đờm, suốt ngày khạc nhổ. Người nhà sau nhiều lần đưa bà đi khám, đã quá mệt mỏi và nghĩ, bà chỉ giả vờ bệnh để con cháu quan tâm. Trong khi đó, bà A ngày càng lo lắng tới mất ăn mất ngủ.

Cuối cùng, trong một lần đến khám tại bệnh viện khác, bà được bác sĩ khuyên nên đi khám chuyên khoa thần kinh, vì bệnh không nằm trong họng của bà, mà nằm ở nơi “đầu” của bà.

Con cháu thuyết phục bà mãi, và lấy cớ bác sĩ chỉ định vào khoa thần kinh chụp chiếu, mới phát hiện bệnh chính xác, thì bà mới chịu đi. Qua chuẩn đoán, các bác sĩ tại đây mới xác định bà mắc chứng rối loạn nghi bệnh (hypochondria), nên luôn ám ảnh mình mắc bệnh hiểm nghèo.

Một bệnh nhân tên B, đi khám bịnh vì đinh ninh có một chiếc xương cá rất to dính trong cổ họng.

Người nhà cho biết, mấy ngày trước, khi đang ăn tối, có món cá, anh B bỗng đứng dậy khạc nhổ, kêu đau vì bị hóc xương cá.

Người nhà đã làm đủ các mẹo để chữa hóc xương, nhưng anh vẫn không đỡ, kêu than, nên người nhà quyết định đưa anh đi bác sĩ nhờ khám dùm.

Khi tới bịnh viện, sau khi kiên nhẫn nghe anh kể về cách chữa bệnh và những mối lo của anh; để cho anh yên lòng, bác sĩ chỉ định anh đi soi họng. Sau khi soi họng xong, bác sĩ khẳng định, anh bị mắc xương cá, và hẹn anh, chiều quay lại để lấy xương cá ra.

Trong thời gian đó, bác sĩ đã nhờ một người đi tìm một chiếc xương cá thật, và khi anh tới, bác sĩ làm các thủ thuật như đang gắp xương cá ra, rồi nhanh tay đưa cho anh B xem chiếc xương cá mà bác sĩ đã dấu trong tay từ trước.

Khi nhìn thấy xương cá anh vô cùng mừng rỡ, và từ đó, khỏi hẳn cảm giác vướng vướng, đau đau ở họng.”

Qua hai câu chuyện trên, chúng ta thấy, không phải chỉ có Đông y mà ngay cả Tây y cũng đều công nhận, An chính là chất liệu cần thiết để có thể chữa trị các loại bịnh, nhất là trong câu chuyện thứ hai. Nếu vị bác sĩ không tinh ý và “đánh lừa” anh, bằng cách tạo ra An cho anh, thì bác sĩ không thể chữa trị cho anh B hết bịnh được.

Nói đến chữ “Bịnh”, thì phần đông chúng ta ngày nay, đã đánh đồng chữ  “bịnh” là đau, ốm, hay sức khỏe kém hơn bình thường.

Nhưng thật ra, chữ bịnh theo Thân Thể Thức, là biểu hiển tình trạng của một cơ quan hay bộ phận nào đó trong cơ thể, đã hoạt động qúa độ, hay cách chức năng của bộ phận đó bị ảnh hưởng từ môi trường, hoàn cảnh, hay do vi trùng, vi khuẩn tấn công, nên không còn hoạt động đúng theo quy trình.

Thông thường, trước khi chúng ta bị bịnh, cơ thể của chúng ta luôn có sự báo động “đỏ” cho chúng ta biết, là cơ quan, bộ phận, hay cơ thể đã có sự hoạt động qúa tải hay lệch quy trình. Nhưng Ngã Thức của chúng ta, vì qúa ham mê theo đuổi một điều gì đó, nên thường không để ý đến.

Khi Thân Thể Thức đã báo động cho Ngã Thức rồi, mà Ngã Thức vẫn quyết định không nghe theo, thì Thân Thể Thức sẽ có hai trường hợp để hoạt động: một, quyết định ngưng hoạt động, hai, chấp nhận và điều khiển các cơ quan theo ý muốn của Ngã Thức.

Hãy lấy thí dụ sau đây làm minh họa.

Chị A mới mua một căn nhà, và nhà chị có một bồn hoa. Ngày cuối tuần, chị nghỉ làm, nên quyết định sẽ đi mua hoa về trồng trong bồn hoa của chị.

Vì quen làm việc văn phòng và ít hoạt động tay chân, cho nên, khi chị xới đất lên để trồng hoa trong một khoảng thời gian dài, tay của chị đã bắt đầu cảm thấy hơi bị ê.

Thay vì lắng nghe theo cơ thể của chị, báo cho chị biết, chị đã làm việc quá sức mà thói quen cơ bắp của chị có thể chịu đựng, và chị nên dừng lại, để cho cơ bắp phục hồi.

Nhưng vì Ngã Thức của chị lại muốn đem bồn hoa đẹp chị muốn trồng để khoe với bạn bè ngày mai, nên chị không nghe theo lời cơ thể của chị, và vẫn tiếp tục đào xới đất.

Vì cơ bắp tay của chị đã mệt mỏi, nay lại tiếp tục phải làm them việc, cho nên, các cơ bắp, bắt đầu gia tăng báo động, thay vì, ê thì nay thành đau.

Chị A vì cảm giác muốn khoe với bạn mạnh hơn, cho nên, tuy tay bị đau, chị vẫn tiếp tục công việc đào xới đất trồng hoa của chị. Khi các cơ bắp không thể chịu được nữa, thì gởi báo động “đỏ” đến chị, qua triệu chứng nhức, khiến cho chị vì đau qúa, không thể làm việc được nữa, nên chị phải ngừng.

Sau đó, chị phải bóp dầu cả tuần, mới hết đau nhức, và trong thời gian đó, làm ảnh hưởng đến công việc văn phòng của chị khá nhiều.

Qua câu chuyện này, chúng ta thấy, cơ thể của chúng ta luôn có sự báo động những sự bất thường đang xẩy ra trong cơ thể của chúng ta, theo dạng, từ nhẹ tới nặng, chứ không phải, tự dưng cơ thể chúng ta đau hay nhức một cách đột biến.

Dĩ nhiên, ở đây, chúng ta phải loại trừ trường hợp khi thân thể bị va chạm mạnh, khiến các cơ quan bị thương tổn trầm trọng, thì cơ thể của chúng ta sẽ không báo động kịp cho Ngã Thức lựa chọn.

Như vậy, nếu Ngã Thức của chúng ta chịu lắng nghe những lời “báo cáo” của cơ thể, từ lúc nhẹ, đã lo chữa trị, thì chúng ta sẽ ít bị rơi vào những căn bịnh khó trị sau này.

Các bác sĩ Đông cũng như Tây y đều khuyến cáo chúng ta, nên đi khám bịnh định kỳ, để có thể phát hiện ra những triệu chứng bất thường của cơ thể, lúc mới khởi đầu, như vậy, sẽ dễ dàng chữa trị, hơn là để đến khi qúa nặng, đã làm tổn thương tới các cơ quan, thì sẽ khó trị, và chúng ta sẽ tốn kém về tài chánh nhiều hơn.

Nhưng phần đông với chúng ta, những lời khuyên này hình như vô cảm với chúng ta.

Câu chuyện thứ hai liên quan đến sự thuần phục của Thân Thể Thức trước Ngã Thức.

Anh A có một thân hình khá mập mạp, anh đi cua gái và thường bị các cô chê là anh có bụng bia, nên ít cô muốn quen với anh. Họ chọc ghẹo anh, nếu anh có một thân hình sáu múi, thì họ sẽ về “nâng khăn sửa túi” cho anh.

Mặc dù anh biết là họ chọc ghẹo anh, nhưng sự chọc ghẹo đó, chạm đến tự ái của anh, nên anh quyết định sẽ đến phòng tập thể hình, để tập thành cơ bụng 6 múi.

Dưới sự hướng dẫn của huấn luyện viên thể hình, anh bắt đầu bằng cách đẩy tạ. Ngày đầu tiên, cơ thể của anh rã rời, ê ẩm. Anh đã tính bỏ cuộc, nhưng nhớ lại lời chọc ghẹo của các cô gái, anh cố chịu đau và vẫn tiếp tục ngày thứ hai.

Tuy cơ bắp cũng có ê đau, nhưng anh vẫn cố chịu và kiên trì luyện tập. Trong vòng 2 tuần thì những ê đau của cơ bắp ban đầu không còn. Sau đó, anh tiếp tục thực tập với các dụng cụ khác, và trọng lượng đẩy tạ của anh cũng tăng theo từng ngày.

Chỉ trong vòng vài tháng, cái bụng bia của anh đã bắt đầu phẳng lại, và một thời gian sau, anh cũng tập được cơ bụng 6 múi như Ngã Thức của anh mong muốn.

Qua câu chuyện này, chúng ta thấy, Thân Thể Thức của anh cũng đã có những báo động đỏ cho anh nhưng vì Ngã Thức của anh vì tự ái nên đã kiên trì ra lệnh cho Thân thể Thức làm theo ý của Ngã Thức.

Thân thể thức đã cộng tác với Ngã Thức, và ra lệnh cho hệ thần kinh và các cơ bắp, các tế bào, ghi nhớ những lập trình mới, như: gia tăng sự đàn hồi của các cơ, luân chuyển máu đến các cơ nhanh hơn, tim và phổi cũng phối hợp chặt chẽ để lấy đủ dưỡng khí cho cơ thể, và tim cũng bơm mạnh hơn để thải các độc tố do các cơ bắp hoạt động mạnh thải ra ngoài qua tuyến mồ hôi và nước tiểu v.v.

Trường hợp thứ hai này, thường xẩy ra cho chúng ta, khi chúng ta không chịu nghe theo cơ thể, và cứ tiếp tục “lơ là” với những báo động của cơ thể.

Sau những báo động “đỏ” của cơ thể, mà Ngã Thức của chúng ta cứ “phớt lờ”, thì Thân Thể Thức sẽ coi như đó là một lập trình mới từ Ngã Thức muốn, và ra lệnh cho các cơ quan hoạt động theo lập trình mới này.

Lập trình của anh A là một lập trình mang tính cách khỏe mạnh, đó là những lập trình tốt, mà chúng ta có thể lựa chọn cho cơ thể của chúng ta.

Nhưng nếu lập trình mang tính cách làm hại đến các cơ quan như uống rượu, ăn nhiều chất béo phì,v,v, thì chúng ta nên cẩn thận trước khi đưa ra lập trình cho Thân Thể Thức điều khiển các cơ quan hoạt động, và biến thành thói quen.

Qua thí dụ này, chúng ta thấy, khi chúng ta nói, chúng ta bịnh, có nghĩa là, Ngã Thức của chúng ta đã không lắng nghe những sự báo động của cơ thể; và đã phớt lờ những báo động này. Chính vì sự “phớt lờ” này, chúng ta đã vô tình tạo ra một lập trình mới cho cơ thể của chúng ta.

Lập trình này, do Ngã Thức của chúng ta, vì không hiểu được sự vận hành của cơ thể, hay hiểu nhưng vì qu’a ham mê vào một điều gì đó, nên chúng ta đã đưa ra những lập trình đi ngược, hay sai, với sự vận hành của cơ thể.

Cho nên, Ngã Thức của chúng ta đã làm xáo trộn, và tạo ra sự bất an giữa các cơ quan, và các tế bào; từ đó, tạo ra những vùng năng lượng đối chọi nhau trong cơ thể, và trong Ngã Thức, chúng ta có cảm giác đau hay nhức.

Như vậy, nếu chúng ta muốn sống khỏe mạnh thì chúng ta cần phải để ý đến những ý muốn trong Ngã Thức của chúng ta trước những báo động của cơ thể của chúng ta.

Chúng ta phải xem xét lại, những ý muốn của Ngã Thức của chúng ta có làm cho cơ thể chúng ta mạnh khỏe lên, hay làm cho suy yếu đi.

Nếu chúng ta làm được điều này, thì sự khỏe mạnh của cơ thể của chúng ta có là chuyện tất nhiên.

Ơ trong câu ca dao “có bịnh thì vái tứ phương”, chúng ta đã quan sát và nhìn sâu vào hai chữ “vái” và “bịnh”, vậy còn hai chữ tứ phương nghĩa là gì?

Hai chữ tứ phương ở đây, có nghĩa là, bên ông nội, bên bà nội, bên ông ngoại, và bên bà ngoại, gồm bốn gia tộc, tổ tiên của hai bên nội và hai bên ngoại.

Mỗi gia tộc của ông, bà, nội, ngoại, đều có những tinh hoa mà con cháu có thể quay về để nương tựa các bậc tổ tiên, dẫn lối soi đường.

Như vậy, câu ca dao có “bịnh thì vái tứ phương” qua cách ứng dụng của chúng tôi theo nghĩa thứ hai, có nghĩa là, khi Ngã Thức của chúng tôi có những sự bất an hay vì đam mê theo điều gì đó, nên không chịu lắng nghe theo cơ thể, khiến chúng tôi bị bịnh, thì chúng tôi phải quay về quan sát và nhìn sâu vào trong Ngã Thức để thiết lập được An.

Sau đó, gởi nguồn năng lượng An của chúng tôi đến tổ tiên hai bên nội, ngoại để được tương tác với các Ngài, và nương nhờ các Ngài chỉ dậy, cũng như hỗ trợ cho chúng tôi có cái An lâu dài.

Điều này, cũng giống như, khi ông bà chúng ta còn sống, nếu chúng ta cần những lời khuyên hay học hỏi kinh nghiệm từ ông bà thì chúng ta dùng lời nói để bầy tỏ vậy.

Khi các cụ đã khuất thì chúng ta cũng làm y như vậy, chỉ khác, thay vì dùng lời nói, thì chúng ta dùng ý niệm hay lời nói trong lúc khấn. Ý niệm hay lời nói, đều là những nguồn năng lượng, lời nói thì qua tần số của âm thanh và ý niệm vái cầu là tần số của tâm thức.

Sau khi chúng ta đã có thể thiết lập được sự tương tác với ông bà của chúng ta, và chúng ta có được sự hỗ trợ An từ các vị rồi, chúng ta mới dùng An đó, để quan sát và nhìn sâu xem Ngã Thức của chúng ta đã lập trình những điều gì, tạo nên sự xáo trộn trong cơ thể; nhờ đó, chúng ta sẽ điều chỉnh lại lập trình.

Trong qúa trình điều chỉnh này, chúng ta sẽ kết hợp với các bác sĩ hay các chuyên gia, bằng cách, cung cấp những thông tin chính xác về những lập trình, để các bác sĩ có đầy đủ những thông tin, và đưa ra những chuẩn đoán chính xác.

Thí dụ như câu chuyện về người thân của chúng tôi, mới xẩy ra, liên quan đến thuốc tiểu đường như sau:

Không biết vì lý do gì, mà người thân của chúng tôi trong mấy tháng qua, với chỉ số lượng đường trong máu đều ổn định, bỗng tăng một cách đột biến, nên chúng tôi đã quyết định, đưa người thân của chúng tôi vào nhà thương.

Qua những khám nghiệm, các bác sĩ không biết nguyên nhân vì sao, mà các bác sĩ chỉ phát hiện được có một bịnh duy nhất là bị nhiễm trùng đường tiểu.

Cho nên, các bác sĩ cho rằng, nguyên nhân gây ra đột biến đường là do bị nhiễm trùng đường tiểu. Chúng tôi không phải là bác sĩ, cũng không phải chuyên gia, nên không biết đánh giá đó có phải là nguyên nhân hay không?

Vấn đề mà chúng tôi quan tâm là, người thân của chúng tôi, sau khi được truyền những liều insulin, thì đã trở lại bình thường.

Sau 5 ngày nằm viện, bác sĩ về tiểu đường quyết định, người thân của chúng tôi phải chích insulin để khống chế lượng đường trong máu. Theo toa thuốc của bác sĩ thì người thân của chúng tôi phải chích một mũi buổi sáng và một mũi buổi chiều.

Qua ba ngày chích insulin, và qua những con số mà chúng tôi ghi lại, chúng tôi phát giác ra, khi chích hai mũi sáng chiều, thì sức khỏe của người thân chúng tôi suy sụp hẳn. Thay vì, có thể di chuyển như lúc trước, thì nay lại nằm bẹp, mê mệt.

Cho nên, chúng tôi đã liên lạc với bác sĩ tiểu đường, và đưa ra đề nghị, chỉ nên chích một mũi vào buổi trưa, vì chỉ vào buổi trưa là lúc đường lên cao nhất, còn những lúc khác, thì lại xuống thấp bất thường, không đủ tiêu chuẩn chích insulin.

Bác sĩ, sau khi coi qua cuốn sổ ghi chép cẩn thận với những con số thay đổi qua mấy ngày, và ông cũng coi những tấm hình chúng tôi chụp lại những con số trên máy đo, thì ông đồng ý, chuyển từ chích hai mũi sáng chiều, thành chích một mũi vào buổi trưa.

Sau đó, ba ngày, qua chăm sóc và ăn uống theo phương pháp “Thuốc từ Tâm”, thì chỉ số đường trở về bình thường, và không cần phải chích insulin nữa.

Câu chuyện chúng tôi kể cho bạn, không phải là để chê hay chỉ trích các bác sĩ Tây y, vì chúng tôi hiểu, khi chúng ta không có đủ những thông tin chính xác, mà chỉ dựa trên suy luận và phỏng đoán, thì kết quả không ra đúng như sự thật là chuyện bình thường.

Chúng tôi biết, các bác sĩ, sở dĩ, đưa ra những chuẩn đoán thiếu chính xác, không phải vì họ dở hay không có khả năng, mà bởi vì, họ không trực tiếp chăm sóc cho người thân của chúng tôi, nên họ thiếu những thông tin chính xác để đưa ra những sự chuẩn đoán chính xác.

Cho nên, là người chăm sóc trực tiếp cho người thân của chúng tôi, chúng tôi phải có bổn phận cung cấp đầy đủ các thông tin chính xác nhất cho các bác sĩ, để họ có đầy đủ dữ kiện khi đưa ra phương pháp chữa trị.

Quả nhiên, khi chúng tôi cung cấp đầy đủ các thông tin, các bác sĩ đã có sự điều chỉnh đúng lúc, đúng chỗ, và có thể khống chế được căn bịnh dễ dàng.

“Có bịnh thì vái tứ phương” không phải là chúng ta đi van xin cầu khẩn mọi nơi mọi chỗ. Vì đó, chỉ là chữa ngọn mà không phải chữa gốc.

Chữa tận gốc là chữa bằng cách trở về với chính chúng ta, thiết lập được An, rồi tương tác với các ông bà khuất mặt, để nương theo hướng dẫn, chỉ dậy, soi đường dẫn lối, hay nhờ ông bà của chúng ta tiếp lực hay hỗ trợ cho chúng ta có thể kéo dài được An.

Sau đó, chúng ta dùng nguồn năng lượng An để tìm ra những lập trình mà Ngã Thức đã “vô tình” tạo ra cho cơ thể để chỉnh sửa lại.

Rồi kết hợp với các bác sĩ (nếu có), bằng cách, cung cấp đầy đủ các thông tin chính xác về những suy nghĩ, tư tưởng, lo sợ, v.v. của chúng ta, để các bác sĩ có thể hiểu rõ và có thể chuẩn bịnh đúng hơn.

Khi đã đi khám bác sĩ, chúng ta nên đặt trọn niềm tin vào phương pháp chữa trị, tuân thủ và hợp tác.

Đặt niềm tin trọn vẹn vào bác sĩ, không phải là, bác sĩ nói sao chúng ta nghe vậy, hay cho thuốc thế nào thì chúng ta cứ uống theo như thế, mà trong qúa trình dùng thuốc, chúng ta phải tự theo dõi những diễn biến trong cơ thể, rồi liên tục cung cấp những thông tin đang xẩy ra trong cơ thể của chúng ta cho bác sĩ biết, để các bác sĩ có đầy đủ những thông tin chính xác nhất.

Chỉ khi chúng ta làm được như vậy, chúng ta mới chữa được tận gốc, chứ không phải như thói quen thông thường của chúng ta, khi có bịnh, chữa chỗ này không được thì đi cầu khẩn chỗ khác, mà lại không biết được, chính Ngã Thức của chúng ta mới là tác nhân chính.

Cho nên, khi chúng ta có bịnh, đó không phải là một điều gì đó xấu, hay hại, mà bịnh cũng có những điều tốt giúp cho chúng ta thực tập có An, có sự tương tác với tổ tiên, có cơ hội nhìn sâu vào Ngã Thức để chuyển hóa những lập trình mà Ngã Thức của chúng ta đã vô tình tạo ra.

Nhờ có “vái” mà chúng ta có thể kết hợp giữa hữu hạn của y học với vô hạn của những nguồn năng lượng yêu thương, hiểu biết, an lạc, và hạnh phúc của tổ tiên.

Như vậy, ý nghĩa của “có bịnh thì vái tứ phương” đâu phải chỉ dùng trên góc độ về vật chất, về y học trị liệu, mà còn có thể ứng dụng trên góc độ của tâm linh nữa.

Khi chúng ta biết kết hợp cả hai lĩnh vực vật chất và tinh thần hay tâm linh thì chúng ta sẽ có sức mạnh gấp đôi, thay vì, chỉ sử dụng có một lĩnh vực này hay lĩnh vực khác. Tệ hại hơn, khi chúng ta lại phí thời gian để đi tranh luận xem lĩnh vực này đúng hay sai, hay lĩnh vực này chánh hay tà.

Ai đúng, ai sai, không quan trọng, quan trọng của phương pháp chữa bịnh, dù là Đông hay Tây y, là chúng ta có đạt được kết quả hay không. Nếu có kết quả, đúng như ý chúng ta muốn, và kết quả đó đem đến cho chúng ta an lạc, hạnh phúc thì đó mới là ý nghĩa của “có bịnh thì vái tứ phương”.

Cho nên:

Có bịnh thì nên vái tứ phương

Trở về… tương tác với tổ đường

Cầu xin… học hỏi tâm An Lạc

Nhìn sâu… Ngã Thức… rõ tai ương

Dõi theo… kết hợp cùng y sĩ

Thông tin, dữ liệu… phải… rõ… tường

Niềm tin đặt trọn và tuân thủ

Bịnh đâu còn chỗ… để tựa nương

TỈNH HAY MÊ

album-art

00:00

TẢI MP3 – TRẦN THIỆN TÍCH
TẢI MP3 – DIỆU LIÊN
TẢI MP3 – VIÊN NGUYỆT

Bạn Thân Mến,

Nói đến hai chữ mê và tỉnh là một đề tài khó, vì thế nào mới gọi là mê? và thế nào lại gọi là tỉnh?

Một chàng trai đi trên đường, thấy một cô gái đẹp, liền mê mẫn theo sau, nhưng khi cô gái mở miệng trả lời, thì chàng trai mới hỡi ôi, vì rất là vô duyên. Chàng trai liền “tỉnh giấc” và dừng chân lại không theo nữa.

Mới vài phút trước thì anh chàng vì sắc đẹp quyến rũ của cô gái mê hoặc, vậy mà chỉ vài phút sau, khi nghe cô gái trả lời thì lại tỉnh táo dừng chân.

Trong cuộc đời của chúng ta, không ít lần, chúng ta cũng rơi vào như trường hợp của chàng trai này, chúng ta mê và tỉnh trong phút chốc. Sự đắp đổi giữa tỉnh và mê có đôi khi khiến chúng ta rơi vào trạng thái dở khóc dở cười.

Nhưng có những mê và tỉnh trong cuộc đời của chúng ta lại qúa dài, dài đến độ, chúng ta tưởng tượng ra có thể kéo từ kiếp trước đến kiếp sau, và chúng ta không biết bao giờ mới tỉnh.

Vậy thì mê là gì? và tỉnh là gì?

Mê có nghĩa là say, mờ mịt tâm trí, hết biết gì. Nếu chúng ta để ý, chúng ta thấy có chữ “hết biết” trong mê, có nghĩa là, chúng ta không có kinh nghiệm trải qua, nên thường dùng sự phỏng đóan hay tưởng tượng ra kết quả.

Còn Tỉnh nghĩa là hết hoảng sợ, sáng suốt, không u tối sai lầm như trước, hay kiểm điểm, suy xét, v.v.

Như vậy qua định nghĩa, chúng ta thấy mê và tỉnh, diễn tả hai trạng thái đối chọi nhau, hễ có cái này thì không có cái kia, mà có cái kia thì không có cái này.

Đây là một điều khá lý thú trong ứng dụng, vì nếu chúng ta biết lựa chọn đúng, chúng ta sẽ không cần phải lo tiêu diệt cái kia, mà cái kia cũng khó mà hiện hữu. Chúng ta đang biến nhị nguyên thành nhất nguyên.

Câu chuyện bắt đầu khi chúng tôi quyết định đi học Oriental Medicine (Y học Phương Đông) tại một trường đại học tại Nam California.

Xin nói rõ, trường Oriental Medicine là trường do người Đại Hàn làm chủ, và chỉ có những học sinh Á Châu theo học, trong đó, trường phân chia lớp học theo ngôn ngữ, và các giảng sư cũng là người cùng chủng tộc.

Ngay sau vài bài học đầu tiên thì nhóm sinh viên Việt, ngoại trừ ba người chúng tôi đã chống đối lại với vị giảng sư, vì cho rằng, vị giảng sư không có nhiều kinh nghiệm về học thuyết Âm Dương, trong khi, họ đã có kinh nghiệm nhiều năm học tại Việt Nam.

Theo học thuyết Âm Dương, thì Dương là ở trên và Âm là ở dưới.  Cho nên, khi học luận về cái đầu và cái chân của con người, đâu là Âm và đâu là Dương, lại trở thành một đề tài xung đột.

Theo nhóm sinh viên Việt, họ cho rằng, vị trí cái đầu ở trên nên thuộc về Dương, còn vị trí cái chân ở dưới là Âm; trong khi, vị giảng sư lại cho rằng, cái đầu là Âm, và cái chân là Dương.

Cả hai bên đều đưa ra những sách vở và những lý lẽ để biện minh cho những điều họ tin. Khổ nỗi, sách nào, nếu đứng trên góc độ đó thì đều đưa ra những lý luận trên góc độ đó, mà lại không đề cập đến những góc độ khác.

Cho nên, không bên nào có thể thuyết phục được bên nào, cuối cùng, để phản đối giảng sư, nhóm sinh viên Việt quyết định bãi học và biểu tình bắt ép nhà trường phải thay giáo sư khác. Lúc đó, trong lớp học chỉ còn lại ba chúng tôi.

Mỗi khi chúng tôi vào lớp, thì nhóm sinh viên Việt biểu tình lườm nguýt, và tự động coi chúng tôi như “kẻ thù”, vì không theo nhóm của họ.

Với kinh nghiệm nghiên cứu về học thuyết Âm Dương, chúng tôi phân biệt được rất rõ ràng, khi nói đến Âm hay Dương thì Âm hay Dương phải đối với cái gì, chứ không thể chỉ nói đó là Âm hay Dương? Hay nói chính xác hơn, về định nghĩa thì nhóm sinh viên Việt Đúng, nhưng về ứng dụng và lý thuyết thì vị giảng sư lại đúng.

Ông đúng vì theo quan niệm của ông, khi trị bịnh, chúng ta không phải chỉ trị bịnh trên thân không mà thôi, mà còn phải lệ thuộc vào môi trường, hoàn cảnh và vùng miền.

Cho nên, khi luận về Âm Dương thì phải dựa trên “tam hợp thể hay tam tài” Thiên Địa Nhân. Vì trời ở trên cao nên trời là Dương, đất ở dưới thấp nên đất là Âm, và con người ở giữa trời đất, nên đầu đội trời thì đầu là Âm, nghĩa là đầu ở dưới Trời, và chân đạp đất thì chân là Dương, vì chân ở trên mặt đất.

Cách giải thích này, không những vừa đúng với định nghĩa Dương trên, Âm dưới, mà trên thực tế, trong ứng dụng, khi trị bịnh thì phải dựa theo môi trường, hoàn cảnh, vùng miền khác nhau mà chữa trị.

Cho nên, chúng tôi đồng ý với cách giải thích của vị giảng sư, vì cách của ông vừa thỏa mãn được định nghĩa và ứng dụng. Ngược lại, nhóm sinh viên Việt chỉ có thể đúng với lý thuyết, nhưng khi ứng dụng lại cần phải chỉnh.

Sau vài tuần, vị sợ “mất lòng” nhóm sinh viên Việt, nên hai người khác cũng không vào lớp mà đi biểu tình chung với các người khác.

Cho nên, cuối cùng trong tiết học, chỉ còn lại chúng tôi và vị giảng sư, chỉ một thầy một trò, nhưng cả hai chúng tôi lại rất hạnh phúc, vì chúng tôi có thể chia xẻ mọi đề tài mà chúng tôi muốn.

Tuy sau này, vì những nghiên cứu khác, chúng tôi không còn theo học với ông, nhưng giữa ông với chúng tôi có một mối giao tình đặc biệt. Không phải chỉ có tình thầy trò, mà mỗi khi chúng tôi gặp nhau, cả hai đều chia xẻ những góc độ nhìn khác nhau về cả Y học và khoa học.

Ngoài bằng tiến sĩ về Y học phương Đông, vị giảng sư cũng có bằng tiến sĩ về điện tử, và có 15 bằng sáng chế các loại máy và thuốc.

Vài trong những thuốc đặc trị của ông là viêm da và Trĩ. Ai đã từng bị đau về Trĩ thì mới biết được giá trị thuốc của ông. Dù cho cơn đau Trĩ có đau như thế nào, chỉ cần bôi thuốc của ông vào, chỉ trong vòng một phút là cơn đau dịu lại bình thường, và trong 3 ngày là dứt hẳn.

Tiếc thay, sau ngày ông mất, chúng tôi vì muốn đem những nghiên cứu của ông để giúp người, quảng bá rộng rãi, nhưng con gái của ông, lại quyết định, dừng sản xuất và đem tâm huyết nghiên cứu bao nhiêu năm của ông để lên bàn thờ để cúng.

Nếu là bạn thì việc không theo nhóm sinh viên Việt biểu tình chống lại vị giảng sư của chúng tôi có phải đó là mê, hay tỉnh?, hay như trường hợp của cô con gái của vị giảng sư kia, đem bao tâm huyết mà cha mình nghiên cứu để giúp người, đặt lên bàn thờ cúng mà không tạo ra sản phẩm là tỉnh, hay mê?

Rõ ràng, khi đứng trên nhị nguyên thì mê với người này, có thể tỉnh với người kia, hay tỉnh với người này thì lại mê với người kia.

Vậy làm sao chúng ta có thể biết được khi nào chúng ta đang mê hay chúng ta đang tỉnh?

Muốn biết chúng ta mê hay tỉnh thì chúng ta chỉ có thể dựa vào một điều duy nhất, đó là, tiếp xúc được với sự thật.

Vậy làm sao chúng ta biết đó đúng là sự thật?

Bạn đang đi trên đường và chứng kiến từ đầu hai chiếc xe đụng vào nhau. Khi chúng tôi đến bên bạn, và hỏi bạn, chuyện gì đã xẩy ra, và bạn trả lời như sau:

Đèn bên anh A đã đỏ, nhưng anh cố vượt qua, và đụng vào chị B đang chạy khi đèn xanh.

Nếu bạn dừng lại ở đây thì bạn đang nói sự thật, vì đó là những gì đã xẩy ra như nó đã là. Nhưng nếu bạn lại tiếp tục như sau:

Anh A là người có lỗi, vì lái xe quá ẩu, xứng đáng bị trừng phạt và bị bồi thường, v.v. thì bạn đang nói không đúng sự thật.

Vì sao? Vì bạn không biết được có phải vì anh lái ẩu hay không? Hay tại con anh đang gặp nguy hiểm cháy nhà, nên anh phải chạy gấp về cứu con anh.

Rõ ràng, bạn hoàn toàn không biết lý do tại sao anh A lại chạy vượt đèn đỏ, nhưng bạn lại dựa trên sự phỏng đoán, và tưởng tượng của bạn, hay bạn lại “suy bụng ta ra bụng người”, nên bạn đã đưa ra một kết luận “rất chắc nịch” rằng, anh A chạy ẩu nên đáng bị trừng phạt.

Như vậy, nếu một người nào đó từ xa đến, chưa biết chuyện gì xẩy ra gây ùn tắc giao thông hỏi bạn, mà bạn lại trả lời:

Đèn bên anh A đã đỏ nhưng anh cố vượt qua và đụng vào chị B đang chạy khi đèn xanh. Anh A là người có lỗi, vì lái xe quá ẩu, xứng đáng bị trừng phạt và bị bồi thường, v.v, và người đó tin vào những điều bạn nói, đó là sự thật, thì sự thật đó có đúng không?

Chắc chắn là không, vì sự thật, bạn chỉ chứng kiến hai chiếc xe đụng nhau, chứ bạn đâu có biết rõ sự thật tại sao anh A lại vượt đèn đỏ.

Người mới đến nghe lời bạn và tin đó là sự thật đã là tai hại rồi, nhưng nguy hiểm nhất là, chính bạn cũng tin vào những phỏng đoán và tưởng tượng của bạn, và cho đó là sự thật.

Như vậy, nếu bạn muốn biết đúng sự thật cho câu bạn đính kèm vào, thì bạn phải đến hỏi anh A, lý do tại sao anh lại vượt đèn đỏ. Khi biết được lý do từ chính anh A thì bạn mới có thể đính kèm lý do đó vào sau sự thật ban đầu bạn chứng kiến.

Nếu bạn không có điều kiện để biết được lý do tại sao thì bạn chỉ cần dừng lại đúng những gì bạn chứng kiến đang xẩy ra như là, mà không thêm và không bớt, bất cứ một chi tiết nào, dù chi tiết đó có lợi hay có hại cho bạn hay cho người khác.

Khi bạn làm được như vậy thì gọi là bạn đang tiếp xúc đúng với sự thật, nếu bạn thêm thắt vào điều gì mà bạn chưa biết, hay dùng sự phỏng đoán, hay tưởng tượng, rồi đưa ra kết quả thì bạn đang rời xa sự thật.

Cho dù, sau này, sự thật có xẩy ra giống như phỏng đoán hay tưởng tượng của bạn, thì bạn cũng đã không thực sự tiếp xúc đúng với sự thật lúc ban đầu.

Trong đạo Phật, khi chúng ta không nhìn đúng với sự thật thì gọi là vô minh, nghĩa là không sáng suốt, mê mờ.

Khi chúng ta bị mê mờ thì chúng ta sẽ gây ra những nhận thức sai lầm, không đúng với sự thật, và đó chính là nguyên nhân gây ra sự khổ đau cho mình và cho người.

Còn người có thể tiếp xúc được với sự thật như đang là thì gọi là người Tĩnh Thức hay người Thể Nghiệm, và nếu người này vẫn tiếp tục duy trì được sự tiếp xúc với sự thật, và đem ứng dụng trong giao tiếp với mọi người thì người đó gọi là người Tỉnh Thức hay người Dụng Nghiệm.

Như vậy, mê nếu diễn rộng ra, có nghĩa là, khi chúng ta tiếp xúc với điều gì, vật gì, hay người nào, chúng ta hay có thói quen thêm thắt vào sau sự thật với sự phỏng đoán hay tưởng tượng ra kết quả, hay dựa trên những niềm tin chưa được kiểm chứng hay trải nghiệm của chúng ta.

Cho nên, khi tiếp xúc không đúng với sự thật thì chúng ta hay rơi vào sự bẽ bàng. Khi rơi vào bẽ bàng thì Ngã Thức của chúng ta vì sợ “mất mặt”, nên sẽ ra lệnh cho Ý Thức đi tìm những lý do để ngụy biện cho sự bẽ bàng vì tin sai sự thật.

Chỉ cần, chúng ta làm được một lần, thì chúng ta sẽ làm lại lần thứ hai, khi chúng ta lại rơi vào thế bẽ bàng. Cuối cùng, khi chúng ta cứ lập đi lập lại hành động này, thì hành động đó biến thành thói quen.

Khi đã biến thành thói quen, thì lúc đó, chúng ta muốn thay đổi thói quen đó, cũng không hề dễ dàng chút nào.

Câu chuyện Tam Đại con Gà mà chúng tôi nghe từ thưở nhỏ đã nói lên cho sự bẽ bàng và biện luận ra sao của Ngã Thức khi tiếp xúc với sự thật.

Ngày xưa, có anh học trò học hành không ra gì nhưng đi đâu cũng lên mặt ta đây, văn hay chữ tốt. Có một nhà khá giả tưởng anh ta hay chữ thật, nên mới đón anh về để dậy cho con trẻ trong nhà.

Một hôm, khi dậy đến chữ “kê” là gà, anh thấy mặt chữ có qúa nhiều nét rắc rối, mà anh thì lại không biết là chữ gì, trong khi những đứa trẻ lại hỏi anh quá gấp, nên anh cuống quýt, nói liều: “Dủ dỉ là con dù dì”.

Anh cũng khôn, khi nhắc những đứa trẻ đọc nhỏ, vì nhỡ có sai thì cũng đỡ xấu hổ. Nhân trong nhà có bàn thờ ông thổ công, anh mới đến khấn thầm xin ba đài âm dương, để xem chữ ấy có phải thật là “dù dì” không.

Thổ công cho ba đài được cả ba.

Được vậy, anh lấy làm đắc ý, tư tin.

Hôm sau, anh bệ vệ ngồi trên giường và ra lệnh cho lũ trẻ đọc cho to. Những đứa trẻ vâng lời anh, gân cổ lên gào:
“Dủ dỉ là con dù dì… Dủ dỉ là con dù dì”.

Người cha đang làm vườn, nghe tiếng đọc to của lũ trẻ, ngạc nhiên chạy vào, giở sách ra xem, rồi hỏi anh:

Chết thật! Chữ “kê” là gà, sao anh lại dậy “dủ dỉ” là con “dù dì”?

Bấy giờ anh mới biết, và thầm trách ông thổ công: “Rõ thật, mình đã dốt, nhưng ông thổ công của nhà này càng dốt hơn mình”, nhưng nhanh trí, anh vội nói gỡ:

Tôi biết là chữ “kê”, mà “kê” nghĩa là “gà”, nhưng tôi đang dậy cho các cháu biết đến tận tam đại con gà kia.                                 

Người cha càng không hiểu, hỏi:

Tam đại con gà, nghĩa là làm sao?

Thế này nhé! Dủ dỉ là con dù dì, dù dì là mẹ con công, con công là ông con gà!

Như vậy, không phải là tam đại nhà con gà thì là gì nữa.

Mặc dù, đó chỉ là câu chuyện cổ tích vui, nhưng trong thực tế, chúng tôi cũng đã gặp biết bao nhiêu người như anh chàng này, và cũng chứng kiến họ sống trong sự đau khổ như thế nào khi sống xa sự thật.

Và câu chuyện vừa mới xẩy ra với người thân của chúng tôi thì ai đang mê, đang tỉnh.

Nếu bạn đã đọc qua bài Tâm Dược, bạn đã biết sơ qua về người thân của chúng tôi, khi bác sĩ về não bộ và thần kinh đã khẳng định, người thân của chúng tôi đang bị bịnh suy khờ người già và đang trong qúa trình thoái hóa.

Trong bài Tâm Dược, chúng tôi cũng chia xẻ với bạn về góc nhìn rất chủ quan của chúng tôi về bịnh suy khờ người già, nhưng sự kiện xẩy ra sáng nay, lại dậy cho chúng tôi những bài học mới.

Trên căn bản, khi chăm sóc cho người bịnh lớn tuổi suy khờ thì mặc tã gần như là điều kiện cần phải có. Ngoài hai cái tã bên trong thì bên ngoài cũng phải có cái quần.

Cả tháng nay, khi sáng thức dậy chúng tôi luôn thấy người thân của chúng tôi cởi quần ra, mà chỉ còn mặc tả. Vì thấy tã bị ướt, nên chúng tôi chỉ đưa người thân đi tắm cho sạch sẽ, và thay tả mới, nhưng không hề để ý đến việc tại sao người thân của chúng tôi lại cứ cởi quần ra và để một bên.

Sáng nay, sau khi tắm và thay tã xong, chúng tôi mới bắt đầu thắc mắc, và hỏi người thân của chúng tôi, tại sao lại cởi quần ra?

Người thân của chúng tôi mới đáp:

Vì chỉ mới ướt cái tã, mà cái quần còn khô, nên mới cởi cái quần ra.

Câu trả lời của người thân của chúng tôi, khiến cả nhà cười lăn ra, nhất là mấy đứa con của chúng tôi, vì chúng tin vào những gì bác sĩ đã khẳng định là, “càng lúc càng trở nên giống trẻ thơ, không còn ý thức”.

Nhưng sự thật thì lý lẽ của người thân suy khờ người già của chúng tôi hoàn toàn hợp lý, và ai trong chúng ta, khi có ý thức, cũng đều hành động như vậy. Nghĩa là, nếu chỉ ướt cái tã, mà chưa ướt cái quần, thì phải cởi cái quần ra, chứ sao lại để ướt cái quần. Trừ khi, lúc đó, chúng ta vì mặt mũi, vì sợ xấu hổ, nên mới không dám cởi mà thôi.

Qua hành động của người thân của chúng tôi, chúng tôi học được những bài học rất đáng suy ngẫm như sau:

Nếu chúng tôi dùng Trí để nhìn về hành động của người thân của chúng tôi, mà không thắc mắc hỏi và tìm nguyên do, thì qua việc làm đó, chúng tôi sẽ cảm thấy xấu hổ, không những cho người thân của chúng tôi, mà cả chúng tôi nữa.

Từ sự xấu hổ này, chúng tôi sẽ liên tưởng đến những điều khẳng định của bác sĩ và phỏng đoán tình trạng bịnh của người thân của chúng tôi càng lúc càng tệ hại hơn xưa, đến độ, không còn biết xấu hổ, chỉ mặc tã, không mặc quần.

Nhưng trên thực tế, rõ ràng, người thân của chúng tôi đang dần có lại ý thức, khi đã biết dùng những chức năng so sánh, phân tích của ý thức để đưa ra một hành động rất hợp lý.

Nếu với những người bịnh bình thường khác thì hành động cởi quần ra có thể mang nhiều ý nghĩa khác. Nhưng với người bị bịnh suy khờ người già, người đang mất dần đi ý thức, lại có thể sử dụng ý thức một cách linh hoạt thì đó không phải là việc bình thường.

Rõ ràng, khi chúng tôi sử dụng Trí cộng thêm sự tưởng tượng thì chúng tôi đã không nhìn đúng với sự thật, từ đó, tạo ra những cảm giác, xấu hổ, mất mặt, bực tức,v.v, trong khi, người thân của chúng tôi khi trải nghiệm, đối diện với sự thật và hành động trên sự thật, thì hành động đó, chỉ chú trọng đến vấn đề, tã đang bị ướt và quần đang khô, để giải quyết. Chứ không hề có mặt của Ngã Thức tham gia vào để có những cảm xúc/giác khác.

Vậy thì, người thân của chúng tôi đang mê hay đang tỉnh? Mê vì không biết xấu hổ khi chỉ nằm mặc tả mà không mặc quần, hay Tỉnh vì đã biết dùng ý thức để phân tích so sánh và cởi cái quần khô ra khi cái tã bị ướt.

Và chúng ta là những người đi chăm sóc cho người bịnh, chúng ta có nên đi tìm hiểu nguyên do cho rõ ràng trước khi đưa ra nhận định, hay chúng ta dùng sự phỏng đoán và niềm tin chưa kiểm chứng để đưa ra nhận định.

Cho nên, tỉnh tỉnh, mê mê, lấy gì để đo, đâu mê, đâu tỉnh. Nếu không dựa trên sự tiếp xúc với sự thật thì cái mà chúng ta tin là tỉnh đó, biết đâu lại là mê chăng?, và cái mà chúng ta cho là mê đó, khi tiếp xúc với sự thật, thì mê kia lại là tỉnh chăng?

Tỉnh mê mê tỉnh, mê là tỉnh

Mê tỉnh tỉnh mê, tỉnh là mê

Mê trong sự thật, mê là tỉnh

Tỉnh trong phỏng đoán, tỉnh là mê

LỢI DỤNG

album-art

00:00

TẢI MP3 – VIÊN NGUYỆT
TẢI MP3 – HỒNG TRẦN

Bạn Thân Mến,

Hai chữ “lợi dụng” thì không ai trong chúng ta xa lại gì, vì gần như chúng ta sử dụng mỗi ngày. Nhưng hai chữ lợi dụng, với sự diễn dịch định nghĩa của chúng ta, thì hai chữ này lại mang một ý nghĩa thiên về phần xấu, có nghĩa là, có ai đó đã sử dụng chúng ta như một công cụ để làm lợi cho họ.

Nếu bạn sinh hoạt với chúng tôi, bạn sẽ quen với cách giao tiếp của chúng tôi, là bao giờ cũng phải nói rõ định nghĩa mà chúng tôi sử dụng.

Chúng tôi đã luôn nhấn mạnh, ai trong chúng ta cũng đều có quyền diễn đạt định nghĩa theo ý mình. Nhưng diễn nghĩa làm sao để đem đến kết quả, đem đến an lạc và hạnh phúc lâu dài cho chúng ta thì đó mới là lựa chọn tốt nhất.

Còn nếu như sự diễn dịch của chúng ta mà đem đến những khổ đau, phiền muộn, tạo ra quá nhiều hậu quả mà chúng ta phải gánh chịu, thì chúng ta nên chỉnh sửa lại sự diễn dịch của mình.

Chúng tôi cũng không cho rằng, cách thức của chúng tôi là tiêu chuẩn vàng, là đúng nhất, là hay nhất, hay cao nhất, mà đó chỉ là những trải nghiệm, những ứng dụng, mà chúng tôi đang học và hành trong cuộc sống hàng ngày để kéo dài sự an lạc và hạnh phúc trong cuộc đời của chúng tôi.

Chúng tôi cũng khẳng định, chúng tôi không phải là văn, thi sĩ, đạo học gia, triết gia, hay triết luận gì. Chúng tôi là những người vô cùng bình thường như tất cả mọi người, cũng có những lúc buồn vui bất chợt.

Nhưng vì, chúng tôi từng là nạn nhân do chính những nhận thức sai lầm của chúng tôi đã làm cho chúng tôi đau khổ, phiền muộn. Cho nên, trong những lúc đối diện với khổ đau, thay vì, như những thói quen trước đây là trốn chạy và đè nén, thì chúng tôi đã quyết định dừng lại, và trực tiếp đương đầu và đi giải quyết những vấn đề.

Trong qúa trình đương đầu với các vấn đề, chúng tôi liên tục học hỏi và sửa sai. Chúng tôi chấp nhận chúng tôi sai, và tiếp tục chỉnh sửa mỗi ngày.

Cho đến hiện tại, chúng tôi vẫn tiếp tục thực hành, rồi học tập, rồi lại thực hành, chưa hề gián đoạn, bởi vì, qua qúa trình thực hành chúng tôi biết, muốn kéo dài An trong đời sống hàng ngày cho đến cuối đời, thì không phải chỉ hiểu và biết một lần là đủ, vì sự thật, chúng tôi đang sống với vô thường, nghĩa là luôn luôn có sự thay đổi.

Chính vì vậy, ngày nào, chúng tôi cũng có chuyện để chia xẻ với bạn, không phải vì, chúng tôi muốn khoa trương kiến thức, mà chúng tôi chỉ muốn nhắn nhủ với bạn rằng, ngày nào, chúng ta cũng có những vấn đề phải giải quyết, và cách thức giải quyết vấn đề như thế nào để có thể có được an lạc, hạnh phúc kéo dài hơn.

Chúng tôi rất ngưỡng mộ những ai có khả năng chỉ cần thực hành một lần, và có an lạc, hạnh phúc cả đời. Chúng tôi mong được theo chân các vị đó để được học hỏi.

Có lẽ, chúng tôi phận mỏng, nên chưa đủ cơ duyên để được gặp các Ngài. Thay vì ngồi chờ đợi các Ngài, chúng tôi sẽ tận lực đi giải quyết những vấn đề mà mỗi ngày chúng tôi đối diện, giải quyết một cách rốt ráo để kéo dài an lạc cho chúng tôi.

Còn bao giờ chúng tôi có đủ cơ duyên được gặp các Ngài thì chúng tôi thật sự không biết, và các Ngài là ai thì chúng tôi cũng chưa biết.

Nói theo đạo Phật thì tất cả những điều đó đều tùy thuộc vào duyên.

Cho nên, chúng tôi xin khẳng định lại một lần nữa, đây chỉ là những sự trải nghiệm của cá nhân chúng tôi, chứ không phải đi xét nét, ai đúng, ai sai. Ai trong chúng ta cũng đều có niềm tin, và chúng tôi tôn trọng niềm tin của mọi người.

Chúng tôi cũng không kêu gọi hay thuyết phục bạn nên tin vào cách ứng dụng của chúng tôi. Với chúng tôi, những gì chúng tôi chia xẻ với bạn, đó chỉ là những thông tin về một góc độ nhìn khác với bạn.

Có thể qua ứng dụng, đối với chúng tôi, đó là sự thật, nhưng với bạn có thể là không. Nhưng chúng tôi biết, có một dấu ấn vô cùng quan trọng mà chúng ta có thể sử dụng để biết được đâu là sự thật, đó là dấu ấn của AN.

Khi mà dấu ấn của AN không bị nhạt nhòe, tan biến trong một khoảng thời gian ngắn, và AN có thể kéo dài, không tạo ra hậu quả mà là kết quả, thì đó, chính là dấu ấn của sự thật.

Trở lại chủ đề về hai chữ Lợi Dụng, Lợi có nghĩa là điều có ích với mình, dồi dào, có nhiều; Dụng có nghĩa là dùng, xài. Như vậy, Lợi Dụng có nghĩa là làm lợi cho mình mà có hại cho người khác.

Nhưng nếu bạn đã quen với những bài viết của chúng tôi, bạn sẽ thấy cách chúng tôi diễn dịch định nghĩa sẽ “rất lạ” khi chúng tôi dùng qua ứng dụng.

Nếu bạn để ý, bạn sẽ thấy khi chúng tôi đặt tựa đề có hai chữ, thì thường chúng tôi lại có những diễn nghĩa “không giống ai”, cho nên, hai chữ Lợi và Dụng với chúng tôi qua ứng dụng, đó là, “Mình Làm Gì Có Lợi Để Cho Người Khác Dùng”.

Chắc chắn, sẽ có rất nhiều bạn sẽ không đồng ý với chúng tôi, vì cho rằng, như vậy là mình qúa thiệt thòi. Chúng tôi rất đồng ý với bạn, vì lúc xưa, chúng tôi cũng nghĩ giống như bạn, chúng tôi cũng tìm đủ mọi cách để “bảo vệ” chúng tôi để không cho ai có cơ hội lợi dụng.

Khi giao tiếp với ai, chúng tôi lúc nào cũng nghi ngờ đối tượng, và luôn lo âu không biết là người kia có lợi dụng chúng tôi hay không?

Chúng tôi nghĩ, khi chúng tôi nghi ngờ người kia ở trong lòng thì làm sao họ biết. Nhưng sau này, chúng tôi biết, là dù người kia họ không biết, nhưng họ có thể “cảm” được nguồn năng lượng nghi ngờ này của chúng tôi.

Lúc đó, chúng tôi không thể nào giải thích được, tại sao có nhiều thương vụ, đáng lý ra sẽ thành công, nhưng cuối cùng lại thất bại.

Chúng tôi phiền muộn vì bao công sức, bao nhiêu trí lực, đã đổ dồn vào thương vụ đều đem đi đổ sông đổ biển.

Cuối cùng, chúng tôi quyết định đem những thất bại đó lên quan sát và nhìn sâu hơn, lúc đó, chúng tôi mới phát giác ra một điều vô cùng đơn giản, đó là, không phải vì kế hoạch của chúng tôi có vấn đề, mà vấn đề nằm ở chỗ, chúng tôi đã khởi ý niệm nghi ngờ, sợ bị người khác lợi dụng, nên kết quả ra, chính là sự nghi ngờ thương vụ sẽ không thành công, hay người kia chỉ lợi dụng chúng tôi, chứ không phải là kết quả của thương vụ thành công như chúng tôi muốn.

Khi phát hiện được điều này, chúng tôi thay đổi cách nhìn và ứng xử của chúng tôi, và chúng tôi đã đạt được những thành công như mục đích của chúng tôi đặt ra.

Hãy lấy câu chuyện sau đây để minh họa:

Chị L với chúng tôi là người làm cùng nghành. Vì cơ sở của chị không có đủ những điều kiện để đấu thầu với những hãng lớn, nên bao giờ có đấu thầu thì chị cũng đến xin hợp tác với chúng tôi.

Sau khi có đầy đủ những kế hoạch của chúng tôi, cũng như cung cấp đầy đủ những yêu cầu đấu thầu, thì chị lại dùng tên của hãng chị để đấu thầu.

Phần lớn những đấu thầu của chị đều thành công. Nếu là bạn, bạn có nghĩ là chúng tôi đang bị lợi dụng không? Chắc chắn, phần đông các bạn đều cho chúng tôi đã bị chị lợi dụng, hay có nhiều bạn còn cho rằng, cách ứng xử của chúng tôi là “ngu ngốc”, khi đem những kế hoạch, và ngay cả cơ sở của chúng tôi, cho chị dung, cho mục đích của chị.

Nếu như ngày xưa, với những quan điểm sợ người khác lợi dụng và nghi ngờ người khác, thì chúng tôi hoàn toàn đồng ý với bạn, nhưng sau khi chúng tôi quan sát và nhìn sâu, thay vì nghi ngờ chị, chúng tôi lại đặt trọng tâm vào làm sao cho thương vụ đấu thầu được thành công mà không cần biết ai đi thực hiện.

Chính vì vậy, khi chị đấu thầu thành công, đối với chúng tôi thì mục đích đã đạt được, và chúng tôi rất an vui, thay vì, ngày xưa chúng tôi đau khổ vì thất bại, vì đấu thầu không thành công.

Thay vì, chúng tôi tự ty mặc cảm, vì chúng tôi không có đủ khả năng, hay kế hoạch không hoàn hảo, thì nay chúng tôi có thêm tự tin vào khả năng của chính mình. Chính sự tự tin này, đã giúp cho chúng tôi đã thành công rất lớn trong những thương vụ về sau.

Nếu chúng tôi không có Lợi cho chị L dùng, thì có lẽ giờ này chúng tôi vẫn còn sống trong những nghi ngờ bị người khác lợi dụng, và có lẽ, chúng tôi đã chìm sâu vào trong cảm giác tự ty mặc cảm và khó đạt được những thương vụ đấu thầu thành công.

Nhưng có một điều mà bạn chưa biết đến, là ngoài những Lợi mà chúng tôi đạt được như: sống có an lạc hơn thay vì phiền muộn vì nghi ngờ bị người khác lợi dụng, có kinh nghiệm hơn trong cách ứng xử, có tự tin hơn, và quan trọng là, chúng tôi nắm quyền chủ động để nhường lại cho chị L đi thực hiện những kế hoạch mà chúng tôi đã phát thảo ra, v.v, thì có một cái Lợi “ngoài lề” khác, mà chúng tôi cũng đạt được, đó là, tuy chị L trúng thầu, nhưng với khả năng của hãng chị thì chị chỉ có thể đáp ứng được cho giai đoạn đầu, nhưng về lâu về dài, hãng của chị không thể ứng phó được.

Cho nên, cuối cùng, chị cũng giao lại những mối hàng cho công ty của chúng tôi, và chị lại tiếp tục sử dụng những cái lợi mà công ty của chúng tôi đưa cho chị, để tiếp tục những cuộc đấu thầu mới khác.

Chị càng sử dụng cái lợi mà chúng tôi đưa cho chị bao nhiêu, thì chúng tôi lại có nhiều đơn đặt hàng lâu dài sau này, bấy nhiêu.

Nói theo dân gian, thì chị là người ăn ốc và chúng tôi là người đi đổ vỏ. Và ai trong chúng ta nghe qua, cũng đều cảm thấy chúng tôi bị chị L lợi dụng rõ ràng nếu nhìn trên góc độ ngắn hạn, nhưng trên thực tế, trên góc độ dài hạn thì mục đích của công ty chúng tôi luôn đạt được những thương vụ đấu thầu mà ít khi thất bại.

Nếu đem so với kết quả ngày xưa là nghi ngờ bị người khác lợi dụng và đề phòng, thường đem đến cho chúng tôi những thất bại, những phiền lo, thì khi ứng dụng nhân sinh quan mới của chúng tôi, “Hãy Làm Lợi Cho Người Khác Dụng”, lại đem lại cho chúng tôi những kết quả như: sống có an lạc hơn, có chủ động hơn, có tự tin hơn, và mục đích đặt ra phần trăm thất bại ít hơn.

Chưa nói đến cách ứng xử của chúng tôi với chị L cũng tốt đẹp hơn, thay vì, là đối thủ của nhau, thì chị đi trước ăn trước, chúng tôi đi sau ăn sau. Quan trọng không phải là trước hay sau, mà quan trọng là có ăn hay không? Nếu không thì cả hai cùng chết.

Câu chuyện thứ hai, chúng tôi muốn chia xẻ với bạn về những năm đầu tiên khi chúng tôi đặt chân đến nước Mỹ. Vì chúng tôi là những người Việt đến giai đoạn hai, nên lúc đó, khó khăn hơn các giai đoạn khác.

Trong giai đoạn này, những công ty có đông người Việt làm công nhân nhất, đó là, những công ty về điện tử, gắn và hàn những resistor, capacitor, v.v. vào các bảng mạch điện.

Sở dĩ, nghành này được đa số người Việt chọn, vì thứ nhất: cần đến khéo tay, thứ hai: nhàn hơn, và thứ ba: có thể kiếm nhiều tiền hơn nhờ làm thêm giờ.

Chúng tôi còn nhớ, lúc đó, chúng tôi xin vào làm tại một khâu chuyên về tráng những lớp sơn mầu xanh lên trên các bảng mạch điện.

Khi tráng lớp sơn thì lớp sơn phải đều, không có chỗ dầy chỗ mỏng. Vì nếu có chỗ dầy hay mỏng, thì khi chạy qua máy làm khô sơn sẽ không thể làm cho những chỗ sơn dầy, khô được, nên khi đi tẩy rửa thì sẽ tạo ra tróc sơn, và làm cho mạch điện bị chạm.

Ngày đầu tiên chúng tôi đi làm thì được giao đứng máy tráng sơn trên bảng mạch điện. Chiếc máy đó là chiếc máy mới tinh, mới vừa đặt từ bên Đức về, và các kỹ sư bên Đức đang thử nghiệm trước khi cho vận hành liên tục trong 24 giờ.

Không biết vì bị vấn đề gì, mà cứ khi chạy qua màng sơn thì sơn lại không đều, chỗ thì qúa dầy, chỗ thì lại không có. Ba người kỹ sư cứ như lên cơn điên, chạy đôn chạy đáo, hết chỗ này đến chỗ kia, họp hành liên tục.

Trong lúc đứng quan sát kỹ, chúng tôi thấy, khi bảng mạch điện được chạy qua màng sơn từ trên chảy xuống, thì bên dưới phải có một máng để chứa sơn dư, rồi sơn dư lại được bơm lên trên đầu máy để tạo thành lớp màng sơn tuôn xuống.

Lúc đó, chúng tôi thấy máng sơn lại hơi lệch về một bên, nên mới lấy một miếng giấy gấp lại, nhét vào, tạo ra thế quân bình. Sau đó, chúng tôi chạy thử, quả nhiên, sơn phủ đều lên trên các bảng mạch điện. Chúng tôi thử liên tục trong 60 lần, đều ra kết quả giống nhau. Sau đó, chúng tôi lại rút tờ giấy lót ra, thì kết quả là bị chỗ dầy, chỗ mỏng.

Dĩ nhiên, lúc đó, chúng tôi đâu phải là kỹ sư để đưa ra quyết định, cho nên, chúng tôi đem hai lô 60 miếng lên gặp kỹ sư để hỏi ý kiến. Họ cho biết, 60 miếng mà chúng tôi lót giấy, đó là tiên chuẩn mà họ muốn, và họ hỏi chúng tôi đã làm gì để ra kết quả này.

Lúc đó, chúng tôi không dám nói thật, vì chúng tôi nghĩ, một bộ máy trị giá cả hơn triệu đô, với bao nhiêu đầu óc suy nghĩ để làm ra, không lẽ lại không bằng một sự quan sát và nhìn sâu của chúng tôi sao, nên chúng tôi cứ giả ngu, nói rằng, không biết.

Trong ba người kỹ sư, thì người kỹ sư trưởng là tinh ý nhất. Ông biết là chúng tôi đã biết làm cách nào để ra kết qủa đến 60 miếng giống nhau chứ không thể do tình cờ, hay không biết được.

Cho nên, ông bắt đầu “theo dõi” chúng tôi sẽ làm gì. Cứ hễ có ông thì chúng tôi rút tờ giấy lót ra, và kết quả là hư, phải đi rửa lại bảng mạch điện, nhưng nếu ông chỉ cần đi đâu khoảng 5 -10 phút trở lại, thì kết quả lại ra y như ông muốn.

Cuối cùng, ông quyết định mời chúng tôi đi uống cà phê, ông chân thành tâm sự ông đã xa nhà và rất nhớ vợ con, nếu ông không thể hoàn tất nhiệm vụ cho sự vận hành của máy đúng cách, không những ông phải ở lâu hơn để giải quyết mà ông còn có thể bị mất việc không chừng.

Nghe câu chuyện của ông, lúc đó, chạm vào trái tim của chúng tôi, vì cùng chung nỗi nhớ thương người thân nơi quê nhà, cho nên, chúng tôi mới dẫn ông đến chỗ máy, và bắt đầu nhét miếng giấy vào máng đựng sơn, và chạy thử cho ông xem.

Thay vì, chúng tôi chỉ thực nghiệm có 60 miếng, nhưng ông lại thực nghiệm gấp ba lần – 180 miếng, kết quả đều ra giống nhau. Ông vui mừng ôm chúng tôi thật chặt, và nói cám ơn rối rít.

Sau đó, ông lấy thước đo độ dầy và độ phẳng của máng đựng sơn, thì máng bị mỏng hơn 2/10 inch, nên đã tạo ra vấn đề bên dầy, bên mỏng.

Ông lập tức ra lệnh cho hai kỹ sư khác liên lạc với hãng chính, và đặt lại máng sơn mới. Trong khi chờ đợi máng đựng sơn mới, thì phương pháp “lót giấy” của chúng tôi vẫn được sử dụng vì đơn đặt hàng đang chất đống. Vài tuần sau, máng đựng sơn mới được gởi đến, sau khi lắp vào thì đạt đúng tiêu chuẩn.

Ngày ông về nước, ông có mời chúng tôi đi ăn để cám ơn, lúc đó, ông hỏi chúng tôi, làm sao chúng tôi có thể nghĩ ra cách chêm giấy vào dưới máng đựng sơn?

Chúng tôi trả lời ông, chính vì chúng tôi thích quan sát và nhìn sâu, nhờ vậy, chúng tôi mới phát giác ra độ chênh giữa máng đựng sơn, và đó có thể là vấn đề.

Cho nên, chúng tôi mới thực nghiệm từng độ dầy của miếng giấy khác nhau; lần đầu tiên, chúng tôi nhắm chừng thì thấy độ phủ của sơn trên các bảng mạch điện có thay đổi. Chúng tôi lại tiếp tục thực nghiệm cho đến khi đạt đến kết quả cuối cùng.

Ông nghe xong, cám ơn chúng tôi rất nhiều lần, vì nhờ sự phát hiện này, mà công ty của ông đã sửa chữa lại phần máng, giúp cho công ty tiết kiệm được rất nhiều tiền, và quan trọng nhất là uy tín của công ty của ông không bị suy giảm.

Lúc chia tay, ông có tặng cho chúng tôi một món tiền khá lớn, bằng cả nửa năm lương của chúng tôi, nhưng chúng tôi không nhận.

Trở lại khâu sản xuất của chúng tôi, trong đó, bao gồm nhiều gia đoạn:

Giai đoạn một là phải rửa sạch cái bảng mạch điện;

Giai đoạn hai, máy chạy qua khâu của chúng tôi là tráng sơn,

Rồi qua giai đoạn ba là hấp; sau khi hấp cho sơn đủ khô thì đến giai đoạn bốn là làm phim để rửa sạch những chỗ hàn mạch điện;

Sau khi qua khâu phim thì máy sẽ làm cứng sơn những chỗ không che; sau đó, qua đến giai đoạn năm là phần kiểm tra xem những phim che có chính xác không, nếu những chỗ nối mạch điện bị sai, hay còn sơn đọng lại, thì coi như bảng mạch điện đó bị hư phải đem đi rửa, và làm lại từ đầu.

Những bảng mạch điện nào đủ chuẩn, thì lại đưa qua giai đoạn sáu là dùng một máy rửa khác để làm sạch;

Sau đó, qua giai đoan bẩy và tám là đưa qua phần in chữ và đem hấp lần cuối, thành sản phẩm hoàn tất.

Ngày chúng tôi vào làm, trên chúng tôi có tổ trưởng và người giám sát cho tất cả các khâu. Thay vì, chỉ biết khâu của chúng tôi, thì chúng tôi trong những lúc nghỉ giải lao, lại xuống học cách rửa bảng mạch điện. Người làm việc trong khâu rửa bảng mạch điện rất thích, vì những khi anh lười biếng thì chúng tôi có thể vào phụ việc.

Vì khâu của chúng tôi là khâu thứ hai, nên luôn lệ thuộc vào khâu thứ nhất của anh, cho nên, thay vì ở trong thế bị động, chúng tôi chủ động đi học, để khi cần, chúng tôi vẫn có thể sử dụng.

Sau đó, chúng tôi tuần tự đi học tất cả các khâu. Trong khi, mọi người đi nghỉ giải lao thì chúng tôi lại làm việc. Mọi người vui vẻ giao việc cho chúng tôi, và đi giải lao thoải mái.

Chắc bạn lại nghĩ, họ đang lợi dụng chúng tôi có phải không? Sự thật thì không phải vậy, vì chúng tôi đang làm lợi cho họ sử dụng, và Lợi của chúng tôi sẽ đến như thế nào?

Hơn một tháng sau, vì đơn đặt hàng qúa nhiều, nên công ty quyết định thay đổi lịch trình làm việc, thay vì, làm 8 tiếng mỗi ngày thì lại tăng lên làm 12 tiếng, làm việc trong 4 ngày, và nghỉ 3 ngày.

Người tổ trưởng của chúng tôi vì gia đình có vấn đề, anh không thể theo được lịch trình mới nên xin đổi qua vị trí khác. Chức vị tổ trưởng bị khuyết, nên người giám sát quyết định chọn chúng tôi làm tổ trưởng.

Quyết định của ông khiến nhiều người không phục, vì chúng tôi là người qúa mới, chỉ mới làm hơn hai tháng nếu đem so với kinh nghiệm của nhiều người đã có kinh nghiệm trên 10 năm.

Khi làm tổ trưởng, qua quan sát và nhìn sâu chúng tôi đã biết được những vấn đề mà ca ba của chúng tôi đang đối mặt, cho nên, chúng tôi đã quyết định dùng phương pháp thay phiên và hợp tác. Chúng tôi thay đổi người làm các khâu cho nhau, và ai cũng phải biết tất cả các khâu.

Ngày trước, ai làm khâu nào thì biết khâu đó, nên không hiểu được những khó khăn của khâu khác phải đương đầu là gì, giống như kiểu: sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi vậy.

Nhưng từ khi chúng tôi thay đổi khâu, nên ai cũng hiểu được khó khăn của khâu khác. Vì vậy, khi họ ở khâu nào thì họ sẽ điều chỉnh máy làm sao cho có ít vấn đề nhất cho các khâu sau.

Không những vậy, chúng tôi còn thay thế luôn cả vị trí tổ trưởng luân phiên hàng tuần, để mỗi người hiểu được sự khó khăn thế nào khi vào vai trò lãnh đạo.

Sau hai tháng, ca ba của chúng tôi đã trở thành ca có sản phẩm ít bị hư nhất, sản xuất nhiều sản phẩm nhất, và quan trọng nhất, khi làm xong chỉ tiêu qui định cho một ngày thì chúng tôi cùng nghỉ ngơi, ngồi nói chuyện hàn huyên, hay đi ngủ chờ đến giờ về.

Lúc chúng tôi mới vào làm, ca hai là ca “chiến” nhất, lúc nào, cũng sản xuất ra nhiều sản phẩm hơn các ca khác. Nhưng kể từ khi chúng tôi áp dụng thay phiên và hợp tác, thì ca chúng ta sản xuất nhiều sản phẩm hơn ca hai, mà còn ít bị sai hơn. Vì ngay từ đầu, chúng tôi ai cũng ý thức được, nếu sai là sai cả tổ, nên cùng giúp đỡ, hợp tác với nhau, và cùng đưa ra những kết quả tốt nhất.

Sau này, những bảng mạch điện có giá trị cả trăm ngàn đô đều phải qua tay tổ ba của chúng tôi thực hiện. Có những lô bảng mạch điện lên đến cả triệu đô, lúc đó, những nhân vật cao cấp đều có mặt, vì sợ bị hư.

Nhưng với thói quen đoàn kết và có ý thức, chúng tôi vẫn làm theo cách của chúng tôi một cách tự nhiên, không hề bối rối, hay sợ hãi, khi có mặt của các xếp cao, mà gây ra sai trái. Và quả nhiên với tinh thần đó sản phẩm của chúng tôi  làm ra, luôn đạt tiêu chuẩn cao, và luôn giao hàng trước ngày quy định.

Sau 8 tháng làm việc, chúng tôi quyết định trở lại đi học, nên xin nghỉ việc. Ngày chúng tôi nghỉ, ai cũng buồn, và họ tổ chức một bữa tiệc chia tay chưa bao giờ có trong khâu của chúng tôi, trước đây.

Sau này, khi có dịp gặp lại những người làm trong ca ba của chúng tôi ngày xưa, thì ai cũng đã lên chức làm giám sát hay cao hơn. Họ cám ơn chúng tôi đã chia xẻ và tập cho họ biết làm sao để giải quyết vấn đề, và làm sao làm một người lãnh đạo có trách nhiệm.

Qua hai câu chuyện trên, bạn thấy đấy, đâu phải lợi dụng chỉ mang ý nghĩa xấu là biến mình thành công cụ cho người khác có lợi để dụng, mà thật ra, chúng ta cũng có Lợi.

Cái Lợi mà chúng ta có được, nhiều khi còn hơn là cái lợi mà chúng ta cho người khác sử dụng. Chỉ vì, chúng ta không biết chủ động trong việc làm lợi cho người khác sử dụng mà thôi.

Nếu đã bàn đến Lợi rồi, chúng ta cũng nên bàn thêm về chữ Dụng như thế nào?

Nói đến chữ Dụng thì ai trong chúng ta cũng biết dùng cả, nhưng dùng làm sao cho có ích lợi, mang lại hiệu quả cho mình và cho người, thì lại là cả một nghệ thuật mà chúng ta cần phải học hỏi liên tục.

Có một câu chuyện thế này:

Khi có những đợt hàng mới, đòi hỏi những loại máy đặc biệt mới có thể ra được những sản phẩm đạt tiêu chuẩn và sản xuất đại trà. Thế nên, chúng tôi đã quyết định mua máy đó, thay vì đi mướn.

Sau một khoảng thời gian hợp tác với công ty đó, chúng tôi có những đấu thầu mới, tốt hơn, nên không cần phải sử dụng đến máy đặc biệt này.

Thông thường khi những máy móc không còn sử dụng thì chúng tôi thường xếp vào một góc riêng và trùm những máy lại để không bị bụi bặm.

Có một ngày, có một người thợ, vì hoàn cảnh gia đình, người chồng bị thất nghiệp đã lâu nên kinh tế gia đình vô cùng eo hẹp.

Công ty cũ lúc trước chị làm, lại có những sản phẩm, cần đến máy đặc biệt này. Chị muốn lãnh hàng về nhà cho chồng của chị tập làm để có thêm chút tài chánh, nhưng chị lại không đủ khả năng để mua hay mướn máy.

Chị đến ngỏ lời với chúng tôi xin mua để trả góp. Nghe hoàn cảnh gia đình chị, chúng tôi quyết định đem cái máy đặc biệt tặng cho chị. Chị nhận máy mà nước mắt chan hòa.

Chắc không ít bạn đồng ý với cách giải quyết của chúng tôi, có phải không? Tại sao chúng tôi lại không cho chị mướn, hay cho chị mua trả góp, ít nhất là chúng tôi cũng lấy lại được một phần tiền mua máy?

Có lẽ, quan niệm của chúng tôi hơi “khác người”. Với chúng tôi, khi một cái máy mà không còn được sử dụng hay hữu dụng thì chiếc máy đó trở thành “vô dụng” theo định nghĩa của chúng tôi.

Thay vì, để những chiếc máy “vô dụng” trùm lại thì tại sao chúng tôi không biến nó thành hữu dụng, có thể giúp ích cho mọi người.

Dĩ nhiên, chúng tôi có thể cho chị mướn hay cho chị mua trả góp thì cũng đã là giúp cho chị và cũng biến những thứ “vô dụng” thành hữu dụng rồi. Như vậy, cũng là gọi biết thương người rồi. Nhưng với chúng tôi, tình thương, tình yêu hay tình người, mà còn có điều kiện với nhau thì tình yêu thương hay tình người đó vẫn có thể gây ra khổ đau cho nhau.

Cho nên, khi đã hiến tặng điều gì cho ai chúng tôi luôn hiến tặng một cách vô điều kiện. Chúng tôi không phải chỉ nói suông, mà chúng tôi phải luôn thực tập khi có cơ hội, để biến thành một thói quen.

Đó mới là mục đích trong cuộc đời của chúng tôi. Nếu đứng trên thực tế, bạn đúng vì khi cho chị mua trả góp, hay cho chị mướn, thì chúng tôi có được thêm vài trăm một tháng từ chị.

Nhưng khi chúng tôi đặt câu hỏi với chính chúng tôi:

Một vài trăm một tháng của chị có làm cho chúng tôi giầu có thành tỷ phú không? Câu trả lời là không.

Nếu có thêm vài ba trăm một tháng của chị, có làm cho chúng tôi đẹp ra không? Câu trả lời cũng không.

Vậy nếu chúng tôi đem tặng máy cho chị thì chúng tôi có giầu có không? Câu trả lời là có, vì khi tặng máy cho chị, chúng tôi đang làm giầu có cái an và cái vui của chúng tôi.

Nếu chúng tôi đem máy tặng cho chị chúng tôi có đẹp hơn không? Có, vì chúng tôi đang tiếp tục thực hiện những điều mà tổ tiên của chúng ta đã từng dậy dỗ: Thương người như thể thương thân. Chúng tôi đang tiếp nhận gia tài của tiên tổ để lại, và đang trao truyền hạt giống đẹp này cho các thế hệ tương lai.

Nếu cần phải đem so sánh, cân đo đong đếm thì rõ ràng khi tặng cái máy, đối với chúng tôi là “vô dụng”, thì với gia đình của chị lại thành “hữu dụng”.

Chị không cần phải chắt chiu từng tháng để trả góp cho chúng tôi, như vậy, ít nhất trong bữa cơm của nhà chị, những thành viên trong gia đình sẽ có thêm những chất dinh dưỡng khác.

Chị không còn sợ hãi vì chúng tôi sẽ có thể lấy lại máy bất cứ lúc nào, vì chị còn thiếu lại tiền của chúng tôi. Như vậy, chị sẽ có tâm an hơn, và khi làm ra sản phẩm sẽ ít bị hư hơn, tài chính gia đình của chị có thể nhờ đó mà cải thiện.

Dĩ nhiên, chị có lợi của chị và chúng tôi cũng có lợi của chúng tôi. Đôi bên đều có lợi thì sao chúng tôi lại không làm.

Ngược lại, nếu chúng tôi cho chị mua theo dạng trả góp, biết đâu khi sử dụng, chị làm hư máy và đem trả lại cho chúng tôi, không những chúng tôi bực mình vì phải nhận lại cái máy hư. Nếu bỏ tiền ra sửa thì cũng về chất đống, mà nếu không sửa thì đúng là cái máy trở thành “vô dụng” hoàn toàn. Có thể nói dù trong trường hợp nào cũng khiến chúng tôi rơi vào đau khổ.

Đặt những câu hỏi, quan sát và nhìn sâu, chúng tôi thấy, việc đem tặng cái máy cho chị là việc làm tốt nhất trong các giải pháp để đem đến an vui cho chúng tôi và cho chị.

Câu chuyện thứ hai là câu chuyện khi chúng tôi cho một người bạn mượn chiếc xe để lái khi người bạn của chúng tôi qua California để tham quan thắng cảnh.

Trong lúc đang lái xe, người bạn của chúng tôi đã bị xẩy ra tai nạn, do cô bé mới tập lái, vì chưa quen nên đã đụng từ phía sau.

Vì chiếc xe của chúng tôi cũng là loại đặt tiền, cho nên, người bạn của chúng tôi vô cùng bất an, và đã gọi điện thoại cho chúng tôi để báo tình hình xẩy ra.

Khi nghe người bạn chúng tôi báo qua điện thoại, chúng tôi đã quyết định không làm khó cô bé vừa tập lái, bởi vì, chúng tôi biết, nếu vấn đề đụng xe được bảo hiểm bồi thường thì sau này cô bé sẽ gặp vô vàn khó khăn khi mua bảo hiểm, và nếu có mua được thì giá cũng cao ngất ngưỡng, trong khi, cô bé lại sắp sửa vào trường đại học cần rất nhiều chi phí liên quan đến tài chánh.

Khi người bạn đem xe về nhà chúng tôi, thay vì, đi xem chiếc xe của chúng tôi có ra sao không, thì chúng tôi lại quan tâm đến sức khỏe của người bạn của chúng tôi nhiều hơn. Chúng tôi hỏi người bạn có cần đi bác sĩ không? Có những bất thường nào trong cơ thể không? Có cần đi bịnh viện không?

Khi mà người bạn cho chúng tôi biết, anh vẫn an toàn thì chúng tôi mới thở phào, an tâm. Với chúng tôi, quan niệm về vật chất cũng rất thoáng: một đời ta bằng ba đời nó. Cho nên, khi chiếc xe bị lõm vào một chút, như má lún đồng tiền, thì đó cũng là nét đẹp cho chiếc xe của chúng tôi. Vì thế thay vì đi sửa lại thì chúng tôi quyết định để nguyên vết lõm nhỏ đó.

Qua hai câu chuyện trên, chúng tôi muốn chia xẻ với bạn về cách dùng, và ai trong chúng ta cũng biết. Nhưng mỗi người đều có cách dùng khác nhau, và chúng ta đều có quyền để lựa chọn, chúng ta dùng như thế nào.

Quan trọng không phải là cách dùng này, hay hơn cách dùng khác, mà trọng tâm chúng ta cần hướng đến, đó là cách dùng của chúng ta có đem đến lợi ích cho người và cho mình, và có đem đến cho chúng ta bình an hay hạnh phúc hay không?

Tóm lại, qua hai chữ Lợi Dụng, chúng tôi không chia xẻ với bạn về góc nhìn mà chúng ta đã qúa quen thuộc và sử dụng trong cuộc sống cũng như trong cách ứng xử của chúng ta, mà chúng tôi chia xẻ với một góc nhìn mới, góc nhìn lợi dụng theo tích cực.

Có nghĩa là, bất cứ một việc gì trên thế gian này, cũng có hai mặt, dù mặt này có xấu bao nhiêu thì mặt kia cũng sẽ tốt bấy nhiêu.

Một bài thơ để nhắc nhở chúng tôi khi ứng dụng hai chữ lợi dụng như sau:

Hạnh phúc và khổ đau

Như đồng tiền hai mặt

Cũng như trước và sau

Liền nhau trong tích tắc

Biết dụng không vướng mắc

Biết dụng là Di Lặc

Hay đơn giản hơn và dễ nhớ hơn,

“Chúng ta sẽ trở nên “Vô Dụng” khi chúng ta không có thể làm Lợi cho người khác dùng.

Ở đời, đâu ai muốn trở thành người “Vô Dụng”, có phải không?

CHỮ ĐỒNG Ý, VẤN ĐỀ VÀ NHƯNG

album-art

00:00

TẢI MP3 – VIÊN NGUYỆT

Bạn Thân Mến,

Nếu chủ đề lần trước chúng tôi chia xẻ với bạn về những chữ “đang”, “mặc dù”, “Nhưng” và “Và” để ứng dụng trong việc chuyển đổi từ cảm xúc xấu thành tốt, thì chủ đề lần này chúng tôi sẽ chia xẻ với bạn về 5 chữ “Đồng Ý, Vấn Đề và Nhưng” trong việc ứng xử trong giao tiếp để tránh gây ra sự bất hòa, mà vẫn đạt được mục đích mà chúng ta muốn người kia chấp nhận thông tin của chúng ta, mà không có sự phản đối.

Dĩ nhiên, bạn có thể dùng phương pháp này để giải quyết những cảm xúc/giác của bạn. Việc bạn ứng dụng như thế nào thì tùy theo bạn muốn sử dụng Tuệ Giác của bạn ra sao, chúng tôi không có ý kiến, vì ai trong chúng ta cũng có quyền lựa chọn, và khi lựa chọn điều gì thì chúng ta cũng nên chịu trách nhiệm với những gì chúng ta đã lựa chọn.

Nếu bạn thấy phương pháp của chúng tôi không đúng với bạn, và bạn có những cách hay hơn, chúng tôi cũng mong bạn hãy chia xẻ cho chúng tôi được học hỏi.

Đời người thì qúa ngắn ngủi, mà kiến thức thì vô cùng. Không ai trong chúng ta có thể tự cho mình là biết tất cả. Chúng ta chỉ có thể giúp được nhau, bằng cách, mỗi người học một ít, rồi thực hành cho có kết quả, rồi đem kết quả đó, chia xẻ lại với người khác.

Như vậy, chúng ta giúp nhau khỏi phải học từ đầu. Vừa đỡ tốn thời gian, mà lại có thể tiếp xúc được với đúng sự thật. Nếu chúng ta chỉ học mà không có hành thì những cái học đó trở thành vô ích, vì chúng ta chẳng đóng góp được gì cho mọi người.

Giá trị cuộc sống của con người được đánh giá trên sự đóng góp vào tư tưởng chung của nhân loại. Và trong tất cả tư tưởng vĩ đại của nhân loại hôm nay, đều nhấn mạnh đến những chữ như: An Vui, Hạnh Phúc. Đó chính là mong cầu khao khát nhất của đời người, ngay từ lúc họ mới sinh ra cho đến ngày nhắm mắt.

Cho nên, những chia xẻ của chúng tôi với bạn không phải là để “phô trương kiến thức” mà là những sự trải nghiệm của chúng tôi giúp cho bạn có những góc nhìn mới.

Khẳng định là, những gì chúng tôi trải nghiệm, chỉ đúng với chúng tôi, chứ không đúng với bạn. Những điều này chỉ đúng với bạn, khi bạn trải nghiệm qua và đó là kết quả của chính bạn.

Còn nếu bạn chưa trải qua, mà bạn cho là không đúng, và không thích hợp với bạn, đó cũng là quyền tự do của bạn. Trên thực tế, từ lý thuyết đến thực hành, thì không phải chỉ cách nhau có một dặm, mà đến cả ngàn dặm. Vì sao?

Vì trên lý thuyết, không bao giờ có diễn tả đến những tác động của môi trường, hoàn cảnh, góc độ nhìn, định nghĩa của mỗi người khác nhau,v.v. Cho nên, khi học xong lý thuyết, mà đem qua thực hành, là cả một vấn đề, vì những điều kiện mà lý thuyết không có, lại là những điều kiện quyết định cho lý thuyết kia, là ảo hay thực.

Vì vậy, chúng tôi sẽ không đề cập đến lý thuyết nhiều trong những sự chia xẻ của chúng tôi, vì chúng tôi cảm thấy không cần thiết. Nếu bạn chỉ thích về lý thuyết, chắc chắn những gì chúng tôi chia xẻ với bạn qua ứng dụng sẽ không như ý bạn muốn.

Trở về chủ đề 5 chữ “Vấn đề, Đồng Ý và Nhưng”, làm sao chúng ta có thể sử dụng 5 chữ này một cách diệu dụng, hay có thể nói là thuyết phục người khác một cách khôn khéo nhất.

Đúng ra, phương pháp này, chúng tôi áp dụng trong nghành tiếp thị, nhưng càng sử dụng, chúng tôi thấy, có thể áp dụng trong tất cả mọi môi trường, hoàn cảnh và con người.

Công thức trong cách dùng này, bắt đầu bằng hai chữ “Đồng Ý”, sau đó, đến chữ “Vấn Đề”, và cuối cùng là chữ “Nhưng”.

Thí dụ: Tôi đồng ý với anh vấn đề mà anh vừa đề cập đến, rất hay về lý thuyết, nhưng trên thực tế, chúng ta nên ứng dụng trong đời sống hàng ngày sẽ hay hơn.

Trong câu thí dụ này, chúng ta dùng hai từ đồng ý trước, tại sao?

Đơn giản, vì ai trong chúng ta, khi đã tin vào điều gì thì chúng ta sẽ “trung thành” với niềm tin đó. Cho nên, khi nói ra một điều gì, chúng ta luôn tin rằng, người kia sẽ tin giống chúng ta. Vì vậy, khi chúng ta nói ra mà bị phản đối, hay không chấp nhận, thì Ngã Thức của chúng ta sẽ lập tức phản ứng bằng những nguồn năng lượng tiêu cực như: bực tức, nóng giận, v.v.

Chính vì vậy, việc đầu tiên chúng ta phải làm là, đồng ý với góc độ nhìn của họ trước khi chúng ta đưa ra góc độ nhìn của chúng ta. Khi chúng ta nói đồng ý với họ, có nghĩa là, chúng ta đã biết cách “né tránh” khơi dậy những nguồn năng lượng tiêu cực trong họ.

Chúng ta đã biết, khi mà nguồn năng lượng tiêu cực đã chiếm cứ Ngã Thức thì nguồn năng lượng đó sẽ khống chế Ý Thức, và ra lệnh cho Ý Thức dùng sự phân tích để “phản pháo” lại chúng ta.

Có đôi khi, trong Ý Thức, khi phân tích, so sánh thấy được những phản ứng của những nguồn năng lượng tiêu cực đang chiếm cứ Ngã Thức là sai. Nhưng Ý Thức vẫn không thể không làm theo những gì mà nguồn năng lượng tiêu cực đó đang điều khiển.

Những trường hợp này, chúng ta gọi là ngụy biện, hay cãi chày cãi cối, nghĩa là, dù Ý Thức qua phân tích, biết chúng ta làm sai, nhưng chúng ta cũng không chấp nhận là chúng ta sai.

Vì vậy, hai chữ “Đồng Ý” được dùng ngay đầu câu là việc cần thiết và vô cùng quan trọng, vì hai chữ này, được dùng như cách “điểm huyệt” Ngã Thức của đối phương, trước khi chúng ta đưa ra những ý kiến hay quan điểm của chúng ta.

Có một điểm lợi nữa là, khi chúng ta đã đồng ý với người ta trước, thì phần lớn, khi chúng ta đưa ra ý kiến của chúng ta, người kia vì “đáp lễ”, nên dễ thường “đồng ý” ngược lại.

Dĩ nhiên, đây chỉ là tương đối, có khi được, khi không, cho nên, phần này, chúng ta gọi là “extra” có nghĩa là thêm vào, hay phụ vào, chứ không phải là phần chính. Cũng có nghĩa là, không có cũng không thành vấn đề.

Tiếp đến là hai chữ “Vấn Đề”. Hai chữ ở đây mang tính cách bao gồm tất cả những chủ đề.

Thí dụ, nếu đề tài họ đang nói về tình yêu thì chúng ta thay chữ “vấn đề” bằng “tình yêu”: Tôi đồng ý với quan điểm về “tình yêu” của anh gần như hoàn toàn, nhưng nếu chúng ta nhìn trên góc độ này, và hành xử trên góc độ này thì tình yêu sẽ đẹp hơn.

Sau chữ “Vấn Đề”, chúng ta mới bắt đầu dùng chữ “Nhưng” để đưa ra những góc nhìn, nhân sinh quan, hay những cảm nhận của chúng ta.

Áp dụng phương pháp này, sẽ giúp cho chúng ta luôn nắm được thế chủ động trong bất cứ một cuộc nói chuyện nào, mà vẫn không khiến “cho ai đó” mất mặt.

Chúng ta không những học cách tôn trọng đối tượng, mà chúng ta còn học được cách làm chủ cảm xúc của chúng ta. Chúng ta sẽ không bị “dắt mũi” trong thế bị động và “nổi xung thiên” khi đối tượng của chúng ta đang trong thế chủ động.

Dĩ nhiên, bạn có thể ứng dụng tùy theo môi trường và hoàn cảnh, cũng như Tuệ Giác của bạn nhanh nhậy như thế nào. Sau đây là vài câu mẫu để bạn tham khảo:

Tôi đồng ý với anh về những đề nghị “hợp tác” mà anh vừa đề ra, có nhiều điểm chúng ta có thể phát triển, nhưng nếu chúng ta thêm vào những điều khoản sau đây thì không những đôi bên chúng ta đều có lợi, mà sự hợp tác của chúng ta, còn có thể phát triển lâu dài. Tôi nghĩ anh sẽ “đồng ý” với tôi như tôi đã “đồng ý” với anh.

Trong câu này, chúng ta có thể dùng hai chữ “đồng ý” nhiều lần, để “nhắc nhở” người kia nên “đáp lễ” lại cho chúng ta.

Tôi đồng ý với chị về vấn đề kinh doanh tiệm phở thì chúng ta nên có sự tự tin về khả năng nấu nướng, chiều khách, và tìm được những nhân công có lòng với cửa tiệm, nhưng nếu chúng ta có thêm những kiến thức và kinh nghiệm về điều hành, quản lý, nhân sự, tiếp thị, kế toán. hỗ trợ thì cửa tiệm kinh doanh của chị sẽ được phát triển lâu dài và bền vững.

Tôi đồng ý với ông là sản phẩm của chúng tôi so với các cửa hàng khác có mắc hơn, nhưng vấn đề ở đây không phải là giá cả, mà vấn đề ở đây là ông sẽ có những lợi ích gì khi sử dụng sản phẩm của chúng tôi, nếu đem so với các cửa hàng khác.

Trong khi, ông chỉ tiết kiệm được một số tiền nhỏ vì họ bớt thời gian bảo hành xuống 6 tháng, còn của chúng tôi lại đến 2 năm.

Hãy tưởng tượng, lỡ khi ông sử dụng qua sáu tháng vì sản phẩm bị hư thì ông phải tốn tiền sửa, hay mua cái mới. Đó cũng là chuyện nhỏ.

Chuyện lớn là, ông sẽ rất bực bội và khó chịu; mà ai trong chúng ta, cũng muốn sống an vui, nếu đem so giá cả chênh lệch với sự an tâm, khi mua sản phẩm của chúng tôi, với bảo hành 2 năm, thì sự an tâm của ông mới là cái giá mà công ty chúng tôi muốn hướng đến.

Những câu kế tiếp, chúng tôi xin dành lại cho bạn, và nếu khi bạn áp dụng có kết quả, xin hãy chia xẻ lại với chúng tôi để chúng tôi có thể học hỏi.

HAI CHỮ NHƯNG ,VÀ

album-art

00:00

TẢI MP3 – VIÊN NGUYỆT

Bạn Thân Mến,

Làm sao để chuyển những cảm xúc xấu thành tốt là một câu hỏi làm “điên đầu” biết bao nhiêu diễn giả. Không biết bao nhiêu cách thức đã được tìm ra, nhưng mỗi cách thức hình như vẫn “thiêu thiếu” một điều gì đó, mà vẫn chưa hoàn chỉnh được.

Chủ đề hôm nay, chúng tôi muốn chia xẻ với bạn một cách thức mà chúng tôi đã ứng dụng trên bản thân. Có thể nó sẽ chỉ thích hợp với chúng tôi, mà không thích hợp với bạn; nhưng biết đâu, qua cách thức của chúng tôi, bạn sẽ có vài khái niệm, và tìm ra “thuốc giải độc” cho những cảm xúc xấu đang khống chế Ngã Thức của bạn.

Nếu bạn chưa đọc qua bài “chín thức” thì bạn sẽ hơi khó hiểu về sự vận hành của các thức. Vì trong bài Chín Thức, chúng tôi đã phân chia các chức năng của các thức cũng như sự tương tác giữa các thức khá rõ ràng.

Cho nên, nếu bạn muốn hiểu được những sự ứng dụng này, bạn nên tìm đọc hay nghe về bài chín thức trước đã. Bài này, chúng tôi viết để chia xẻ cho những bạn nào đã nghe hay đọc bài chín thức rồi.

Trong chín thức, chúng ta đã nói về chức năng của Tiềm Thức, ngoài là thức khởi đầu cho sự sống của con người thì Tiềm Thức còn có những chức năng như sau:

  • Kho chứa tất cả các thông tin, dữ liệu từ 5 giác quan, Ý Thức, Thân Thể Thức, và Ngã Thức
  • Duy trì bộ nhớ lâu dài, và nối kết các thông tin dữ liệu, có khả năng sáng tạo
  • Đòi hỏi những thông tin, dữ liệu, hoặc vấn đề chưa được giải quyết triệt để, để tạo sự hoàn chỉnh
  • Cung cấp thông tin liên tục cho Ngã Thức
  • Ngôn ngữ Chính: Hình Ảnh
  • Chính vì, không có các chức năng như phân tích, tính toán, tổng hợp, v.v của Ý thức, nên Tiềm Thức không có thể phủ định, không có thiện ác, không có đúng sai, cũng như không có qúa khứ và tương lai. Thời gian hoạt động mạnh nhất của Tiềm thức là khi Ngã Thức và Ý Thức không hoạt động.
  • Không có cảm xúc/giác

Trong phần ứng dụng này, chúng ta sẽ sử dụng các chức năng của Tiềm Thức như: sự liên kết và không có thể phủ định, để chuyển hóa những “hạt giống xấu” tạo ra những “cảm giác xấu” nơi Ngã Thức.

Sau đây là phương pháp mà chúng ta có thể áp dụng:

Dùng chữ “Nhưng” và “Và” để thay đổi cảm giác.

Thí dụ, bạn đang tức giận con của bạn vì không nghe lời bạn, bạn có thể dùng chữ “Nhưng” một mình để thay đổi, hay bạn có thể dùng thêm chữ “và” để ghép thêm vào những nguồn năng lượng khác. Phương pháp này chúng tôi đặt tên là “Di Hoa Tiếp Mộc” nghĩa là dời hoa ghép cây.

Muốn thực tập phương pháp này, việc đầu tiên bạn cần làm là “mời” cơn giận của bạn lên, nghĩa là bạn xác định bạn đang có cơn giận với con của bạn.

Khi cơn giận của bạn đã có mặt, bạn mới bắt đầu nói với bạn như sau:

Mặc dù tôi biết là tôi đang giận con tôi vì nó không nghe lời tôi, nhưng tôi là người có tình yêu thương vô điều kiện, có hiểu biết, cho nên, bất cứ khi nào tôi nổi giận thì nguồn năng lượng này sẽ khích hoạt nguồn năng lượng yêu thương vô điều kiện và nguồn năng lượng hiểu biết, giúp tôi sống có hạnh phúc an lạc hơn.”

Trong thí dụ này, chúng ta có những chữ cần chú ý, đó là 5 chữ “Đang” “Mặc Dù” “Nhưng” và “Và”.

Chữ “Đang” luôn phải được sử dụng trong câu, vì chữ “đang” xác định sự việc đang xẩy ra trong hiện tại mà không phải là qúa khứ hay tương lai.

Trong Tiềm Thức, vốn không có quá khứ hay tương lai, mà chỉ có trong hiện tại, cho nên, nếu chúng ta không có từ “đang” thì Tiềm Thức của chúng ta sẽ rơi vào thế “lưỡng lự”.

Vậy, tại sao chúng ta lại phải sử dụng thêm hai chữ “Mặc Dù”?

Phần lớn, các diễn giả khi đưa ra các phương pháp chuyển hóa tiêu cực thành tích cực, đều mắc phải một lỗi lớn, đó là, khi chúng ta đang có cảm xúc tiêu cực, mà đem những suy nghĩ tích cực, hay ám thị tích cực, để thay đổi cảm xúc tiêu cực là không thể. Vì sao?

Vì khi Ngã Thức của chúng ta bị cảm xúc tiêu cực khống chế thì lúc đó Ý Thức của chúng ta cũng bị điều khiển bởi nguồn năng lượng tiêu cực này.

Cho nên, những suy nghĩ lúc đó từ Ý Thức cũng chỉ hướng tới tiêu cực, mà không thể là tích cực được.

Thông thường, khi dùng những tư tưởng tích cực hay ám thị những điều tích cực, sẽ khó được thực hiện, vì nguồn năng lượng tích cực mới này còn qúa yếu nếu đem so với những nguồn năng lượng tiêu cực, luôn có sẵn trong Ngã Thức của chúng ta.

Vì thế, nguồn năng lượng mới này, khó mà có thể tồn tại. Nguy hiểm hơn, nếu chúng ta cứ ám thị và suy nghĩ tích cực (khi không có cảm giác xấu khống chế), trong một thời gian, mà không có kết quả, thì những nguồn năng lượng tích cực này lại biến thành nguồn năng lượng xấu là: thất vọng, chán nản, v.v.

Đó cũng là lý do, có rất nhiều phương pháp, mới nghe thì hay, nhưng khi ứng dụng thì như con dao hai lưỡi. Nếu chúng ta không cẩn thận, chúng ta cũng bị “đứt tay” như chơi.

Cho nên, hai chữ “mặc dù” phải được sử dụng ở đây, để xác định là cơn giận đó đang có mặt, và đang chiếm hữu Ngã Thức. Nếu chúng ta dùng tư tưởng tích cực lúc này là điều không thể. Vì Ngã Thức của chúng ta không chấp nhận là chúng ta đang giận, mà lại nghĩ là mình đang vui được.

Thế nên, dùng hai chữ “mặc dù” ở đầu câu, là để “thỏa mãn” và được sự đồng ý của cơn giận trong Ngã Thức, cho phép được tiếp cận cơn giận.

Ngoài công dụng “thỏa mãn” và được sự chấp nhận của cơn giận trong Ngã Thức, thì hai chữ “mặc dù” lại có một ý nghĩa khác rất hay, đó là, không chấp nhận cơn giận, dù cơn giận đó đang có mặt. Hai chữ mặc dù này, có thể gọi là “quân du kích” của tư tưởng tích cực, đang được “gài vào” cảm giác giận, để mở cửa cho những tư tưởng tích cực được sử dụng sau chữ “Nhưng” có thể “chiếm được địa bàn” và “khống chế thời cuộc”.

Tiếp theo, chính là “đoàn quân chủ lực” của tích cực được chuẩn bị thay thế cho cảm giác giận qua “pháo đài” của chữ “Nhưng”.

Phần đông, các phương pháp chuyển hóa tiêu cực thành tích cực, đều cho chữ “Nhưng” là chữ tối kỵ, không nên dùng, nhất là trong khoa tiếp thị. Vì khi sử dụng chữ “Nhưng” sẽ biến vế đầu, đang tốt thành ra xấu.

Thí dụ: bạn là người tốt luôn yêu thương, có hiểu biết, và giúp đỡ mọi người, nhưng bạn hay cằn nhằn, nóng tính.

Hay: sản phẩm của chúng tôi rất ưu việt có thể làm cho nhà bạn đẹp sang hơn, có giá trị hơn nhưng khá đắt tiền.

Nếu bạn quan sát hai thí dụ này, bạn sẽ cảm thấy, sau khi có chữ “nhưng” đi kèm theo trong câu, chắc chắc, cảm giác của bạn sẽ không ở những câu đầu, mà lại ở những câu sau chữ “nhưng”, có phải không?

Và các phương pháp đã hoàn toàn đúng trong việc đặt chữ “nhưng” vào trong những câu này.

Điều mà chúng tôi cảm thấy lạ nhất, đó là, nếu có thể chuyển từ tốt thành xấu như hai thí dụ trên, thì tại sao chúng ta lại không hoán đổi vị trí từ xấu thành tốt chứ.

Cho nên, khi ứng dụng phương pháp hoán chuyển này, chúng tôi thấy hiệu quả khá nhanh, vì chúng tôi không cần phải đi tạo ra nguồn năng lượng mới để “áp chế” nguồn năng lượng cũ; mà chúng tôi sử dụng chính nguồn năng lượng cũ, bằng cách “ghép” vào thân của những nguồn năng lượng cũ với những nguồn năng lượng mới.

Như vậy, mỗi khi nguồn năng lượng hay gốc của giận nổi lên thì chúng tôi lại có những hoa trái là sự yêu thương, hiểu biết, hạnh phúc, và an lạc.

Sau đó, chúng tôi tạo thành thói quen trong tiềm thức bằng cách, mỗi lần chúng tôi giận, chúng tôi lại lập lại những điều trên, cho đến khi trở thành thói quen.

Khi đã trở thành thói quen rồi, thì lúc đó, dù có giận đi chăng nữa, cơn giận cũng không thể nở ra hoa trái của giận được, và dần dần tự động chuyển hóa thành nguồn năng lượng của yêu thương, có hiểu biết hay hạnh phúc, an lạc.

Khi trong ngã thức đã có mặt mạnh mẽ của yêu thương và hiểu biết, an lạc và hạnh phúc thì chúng ta lại sử dụng Ý Thức để mời các cảm xúc khác lên để chuyển hóa, vẫn dùng chung một phương pháp.

Dĩ nhiên, trong 4 chữ chúng ta dùng, gồm: ”Mặc Dù”, “Nhưng”, và “Và” thì ba chữ “mặc dù” và “nhưng” đóng vai trò chuyển hóa, còn chữ “và” để chúng ta “tiếp lực” cho những vế sau chữ “nhưng” được vững mạnh hơn và chắc chắn hơn.

Như chúng tôi đã chia xẻ với bạn ở phần trên, đây là phương pháp chúng tôi ứng dụng. Thí dụ mà chúng tôi dung, chỉ là câu mẫu cho bạn tham khảo. Với Tuệ giác của bạn, bạn sẽ biết dùng câu nào thích hợp nhất cho bạn.

Sau đây là vài mẫu câu bạn có thể áp dụng cho những lĩnh vực khác:

“Mặc dù tôi biết là tôi đang giận ông chủ của tôi, nhưng tôi là người có tinh thần trách nhiệm cao, bất cứ việc khó khăn nào trong công ty khi giao cho tôi, tôi đều hoàn thành xuất sắc trước thời hạn, những cách giải quyết vấn đề của tôi luôn độc đáo, đem đến rất nhiều lợi nhuận cho công ty, ông chủ luôn biết ơn, thăng thưởng tôi vào những chức vụ quan trọng trong công ty”.

“Mặc dù tôi biết là tôi đang giận người bạn của tôi, nhưng tôi là người có tính dĩ hòa vi quý, tôi luôn quan tâm đến mục đích sống của tôi là AN, Cứ mỗi lần tôi giận thì sẽ khích hoạt mục đích An của tôi, tôi sẽ sử dụng sự quan sát nhìn sâu để tìm ra sự thật”.

“Mặc dù tôi biết là tôi đang buồn vì tài chánh của tôi bị túng thiếu, nhưng tôi là người có sự quan sát nhìn sâu vào sự việc, nên tôi có thể dùng sự quan sát này để giải quyết những vấn đề cho các công ty, tôi trở thành một người cố vấn tài năng, là người quan trọng mà các công ty luôn chào đón với mức lương hậu hĩ, tôi giải quyết vấn đề tài chánh của tôi một cách dễ dàng”.

Phương pháp thì tôi đã chia xẻ với bạn, còn bạn có thực tập hay không thì do chính bạn lựa chọn.

CÔNG DUNG NGÔN HẠNH

album-art

00:00

TẢI MP3 – QUẢNG BẢO TÂM
TẢI MP3 – HƯƠNG CHIỀU – VIÊN NGUYỆT

Bạn Thân Mến,

Ngày nay, khi nói đến bốn chữ Công, Dung, Ngôn, Hạnh thì không ít người trong chúng ta cho rằng nó cổ lỗ sĩ, nó không hợp thời, và nó thuộc về chế độ phong kiến, “đàn áp” người phụ nữ phải tuân theo, trong khi, nam giới thì lại không cần.

Cho nên, những người phụ nữ ngày nay với tư tưởng tự do bình đẳng, xem đó như là một điều tệ hại, cổ hũ, cần phải xóa bỏ.

Thật ra bốn chữ Công, Dung, Ngôn, Hạnh có phải là “tệ hại” đến như thế không, và có cần phải “tiêu diệt” không thì chúng ta hãy bắt đầu dùng sự quan sát và nhìn sâu vào để hiểu.

Đứng trên góc độ định nghĩa:

Công có nghĩa là chung, cùng chung, ngay thẳng, không có riêng tư, rõ ràng; hay khi diễn rộng ra được hiểu là: nữ công gia chánh, tề gia nội trợ, may vá thêu thùa, nuôi dạy con cái khỏe mạnh, chăm ngoan (ngày xưa), hay công việc, việc làm (ngày nay).

Dung nghĩa là dáng dấp, hình tướng, hay là vẻ đẹp thùy mị, kín đáo, duyên dáng.

Ngôn nghĩa là lời nói, hay là lời nói nhã nhặn, nhỏ nhẹ, dễ nghe; nói đúng lúc, đúng chỗ, đúng phép tắc.

Hạnh nghĩa là nết na, hay lòng nhân hậu, thủy chung son sắt, giầu tình yêu thương.

Chúng tôi còn nhớ cách đây hơn 30 năm, khi tham dự một khóa học về huấn luyện nhân viên. Lúc đó, vị tiến sĩ về tâm lý đã “khoe” về những khám phá của ông, trong cách chính phục khách hàng để tăng lợi nhuận cho công ty.

Trong suốt bốn tiếng đồng hồ, ông thao thao bất tuyệt giảng về bốn chữ “công, dung, ngôn, hạnh”.

Lúc mới đầu nghe, chúng tôi nghĩ “khám phá” của ông chắc có gì vĩ đại lắm, nhưng khi ông đi vào chi tiết của một người bán hàng, muốn chinh phục được người khách một cách thành công, thì phải có bốn yếu tố sau đây:

Về công việc: phải luôn ý thức được việc của mình cần phải làm là gì, phải hiểu rất rõ ràng những mặt hàng mà người tiêu dùng sẽ mua, và luôn trau dồi kiến thức chuyên môn để có thể thuyết phục khách hàng.

Về Dung mạo: phải luôn cười tươi tắn, không cáu gắt, mặt lạnh như tiền.

Về lời nói: phải dịu dàng, nhỏ nhẹ, không to tiếng cãi vã với khách hàng.

Về phong cách: luôn kiên nhẫn, nhẫn nại.

Quả thật, sau khóa huấn luyện, công ty đó thu được lợi nhuận cuối năm gần gấp đôi, nếu so với các năm trước.

Trải qua hơn ba mươi năm, bốn “đặc tính” này, hầu như đã trở thành bốn đặt tính “bắt buộc” cho những ai trong nghành phục vụ, phải có, nếu muốn thành công.

Trong khi, vị tiến sĩ năm xưa, giờ đã khuất núi; không biết khi giã từ cuộc đời, ông vẫn tin rằng, ông chính là người đã khám phá ra bốn “đặc tính” này hay không.

Nhưng chúng tôi biết, bốn điều này thì đã có cả nghìn năm, mà ngày xưa, các chị và em gái của chúng tôi đều phải học và thực hành. Còn chúng tôi là con trai, nên được miễn.

Lúc đó, chúng tôi cảm thấy hạnh phúc lắm, vì không phải thực tập như: khi rót một ly nước mời khách, cũng không để cho có bọt nổi lên,v.v. Nhưng sau này, khi ra đời, và bị đời “quật” cho tơi tả, thì chúng tôi mới biết được giá trị của bốn chữ “công, dung, ngôn, hạnh” là gì. Và tại sao ông cha chúng ta lại phải dậy rất kỹ cho người con gái.

Dù xưa hay nay, khi nói đến người phụ nữ thì luôn luôn gợi đến hình ảnh của một điều gì đó, dịu dàng, mềm mại.

Trong thuyết Âm Dương, người phụ nữ thuộc về Âm, mang tính nuôi nấng, sinh trưởng, nhu hòa, mềm mỏng như nước, an tĩnh mà khoan thai, không nóng nẩy, không dong dài.

Cho nên ngày xưa, ông cha chúng ta đã gọi những người vợ của mình là “nội tướng”, nghĩa là “ông tướng ở bên trong”.

Nói về tướng hay binh pháp, thì tướng tiên phương đánh trận không quan trọng bằng tướng giữ thành (nội tướng). Vì sao?

Vì dù có đánh thắng được bao nhiêu thành, mà không có tướng giữ được thành, thì có đánh được bao nhiêu thành cũng như không. Không những vừa tốn công, vùa tốn sức, mà chẳng được gì.

Cho nên, trong binh pháp những ông quan Văn (nội tướng) thường quan trọng hơn ông quan võ (tiên phương), vì ông quan văn biết cách giáo dục người dân, thiết lập luật pháp, và ổn định lòng dân để có thể đủ sức giữ thành.

Hai chữ “nội tướng” được ông cha chúng ta đặt lên vai người phụ nữ, không phải là gánh nặng hay “áp bức” người phụ nữ, như chúng ta ngày nay đã hiểu lầm, mà đó là biểu tượng của sự tôn kính, kính phục, mà những đàn ông thuộc tướng tiên phương không thể làm được.

Chính vì trọng trách quá lớn này, nên khi còn nhỏ, những người con gái đã phải được trui rèn tứ đức: “công, dung, ngôn, hạnh” để biến thành một thói quen.

Chỉ khi đã biến thành thói quen, thì người con gái, sau khi có chồng và có con, mới có thể đóng trọn vai “nội tướng” một cách “thảnh thơi” và xuất sắc.

Không ai trong chúng ta xa lạ với câu chuyện về Mạnh Mẫu, một người mẹ, qua thói quen “công, dung, ngôn. hạnh” đã đào tạo ra nhà hiền triết lỗi lạc của Trung Quốc.

Mạnh Tử mồ côi cha, và chịu sự giáo dục nghiêm túc của mẹ là Chương Thị, sau này, được gọi là Mạnh Mẫu. Bà nổi tiếng với câu chuyện: 3 lần chuyển nhà để cho con trai mình được sống, học tập trong ngôi trường và môi trường giáo dục tốt nhất.

Chuyện kể rằng, mẹ con Mạnh Tử sống gần bãi tha ma. Hàng ngày, Mạnh Tử vẫn thường ra đấy nô đùa, ông thường diễn lại những cảnh nhìn thấy ở bãi tha ma.

Mạnh Mẫu nhận thấy, đây không phải là chỗ ở tốt cho con trai mình, bà liền chuyển nhà sang một khu phố mua bán sầm uất, nhưng tình hình không khả quan cho lắm.

Ông lại học cách cân, đo, đong, đếm của những kẻ mua bán, hay khoe khoang đồ của mình. Lần này, Mạnh Mẫu chuyển nhà đến gần một ngôi trường; Mạnh Tử sống gần đây, nên học những khuôn mẫu lễ giáo, học hành chăm chỉ; lúc bấy giờ, Mạnh Mẫu mới thở phào: “Đây mới là chỗ ở của con ta”.

Có một lần, nhà hàng xóm mổ lợn, Mạnh Tử thấy vậy hỏi bà: mổ lợn để làm gì?, bà lỡ miệng nói đùa: “Để cho con ăn”. Sau đó, bà đi mua thịt lợn về cho con ăn, vì bà nghĩ, nếu mình nói dối con, chẳng khác nào dạy con nói dối.

Một câu chuyện nổi tiếng khác về Mạnh Mẫu dạy con, đó là, khi bà đang dệt vải, thấy con trốn học đi về. Bà kêu Mạnh Tử đến gần, rồi cầm dao chặt đứt tấm vải và mắng:

“Con đi học mà bỏ học, chẳng khác nào mẹ dệt vải mà chặt đứt nó vậy”.

Thấm thía lời mẹ dậy, ông chăm học, dần trở thành học sinh giỏi nhất lớp, và trở thành bậc đại hiền triết sau này.

Trong văn thơ của Việt Nam, nhà thơ Tú Xương đã ca ngợi người vợ của mình qua bài thơ “Thương Vợ” như sau:

Quanh năm buôn bán ở mom sông

Nuôi đủ năm con với một chồng

Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông

Một duyên hai nợ âu đành phận

Năm nắng mười mưa dám quản công

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

Có chồng hờ hững cũng như không

Qua miêu tả của ông, chúng ta có thể thấy ngay được nét đẹp tuyệt vời của bà Tú, một người phụ nữ đảm đang, chu toàn, công, dung, ngôn, hạnh của mình.

Trong 8 câu thơ của ông, chúng ta thấy nhà thơ Tú Xương không những biết ơn vợ, mà ông còn cảm thấy tủi thẹn, khi không thể đem đến no ấm cho người “nội tướng” của mình.

Cuộc đời của bà Tú là cuộc đời tảo tần, chỉ vì chồng, vì con. Bà chưa hề trách móc gì ông; dù văn tài của ông xuất chúng, nhưng vì tính khí ngang tàng của ông đã khiến ông thi trượt bao lần.

Bà Tú chưa một lần oán trách ông; bà vẫn dành dụm, chắt chiu từng đồng để ông có lộ phí đi thi. Nhưng cuối cùng, ông vẫn quay về nhà, và bà vẫn tiếp tục tảo tần buôn bán, nuôi chồng, nuôi con.

Vì sao chúng ta có thể biết bà không trách mắng hay buồn phiền gì ông?

Qua hai câu cuối, chính ông cũng đã “bực” dùm cho bà, tại sao có một người chồng “vô dụng” như ông, mà vẫn cư xử qúa đẹp với ông. Đến nỗi, chính ông cũng cảm thấy được sự bất công của ông dành cho vợ.

Nhưng chắc chắn bà Tú đã không nghĩ như ông, vì bà Tú đã có thói quen của công, dung, ngôn, hạnh, nên bà đã không cảm thấy đó là bất công, mà với bà, đó là trách nhiệm của một “nội tướng” nên làm.

Nếu Bà Tú như ngày nay, cứ cằn nhằn, trách móc, oán hờn, dằn vặt, thì chắc chắn ông Tú Xương sẽ cảm thấy dễ chịu hơn, và ông cũng sẽ không “bực mình” dùm bà, khi thốt lên hai câu cuối:

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

Có chồng hờ hững cũng như không

Như vậy, chúng ta thấy, công, dung, ngôn, hạnh là bốn đức tính vô cùng cần thiết trong cách ứng xử giữa người với người.

Dù cho xưa hay nay thì cũng đều có giá trị để nâng cao phẩm chất của con người. Không những chỉ có người phụ nữ phải học, mà hễ ai là con người, cũng phải học và hành “công, dung, ngôn, hạnh”.

Chúng ta không những chỉ thực hành trong gia đình, xã hội, chính trị, mà ngay cả trong kinh tế, cũng đều đem đến những sự thành công.

Điều mà các phụ nữ ngày nay muốn loại bỏ, đó không phải là Tứ Đức “công, dung, ngôn, hạnh” mà phải là Tam Tòng: “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”, nghĩa là, ở nhà phải theo cha, đi lấy chồng phải theo chồng, chồng chết phải theo con.

Tam Tòng này, đúng là chỉ thích hợp với người xưa chứ không thích hợp với ngày nay, và cần phải loại bỏ.

Có lẽ, vì Tam Tòng luôn được đặt chung với Tứ Đức, nên các phụ nữ ngày nay đã hiểu lầm chăng? Và họ đã loại bỏ luôn cả “Tứ Đức – Công, Dung, Ngôn, Hạnh”. Trong khi, bốn đức này làm cho nhân phẩm của con người được đẹp hơn, mà hễ là con người, dù ở thời xưa hay nay cũng đều cần phải có.

THẤT BẠI LÀ MẸ THÀNH CÔNG

album-art

00:00

TẢI MP3 – TRƯƠNG THU HUYỀN

Bạn Thân Mến,

Ai trong chúng ta cũng đều có những thành công và thất bại. Có những thành công của người này, vượt trội hơn người kia. Hay có những thất bại của người này, to lớn hơn người kia. Nhưng tại sao “thất bại là mẹ thành công”, lại là chủ đề khiến chúng ta phải “động não”.

Đứng trên góc độ định nghĩa thì Thành là thành tựu, đạt được, nên việc; và Công là công việc, việc làm. Vậy Thành Công có nghĩa là đạt được, hay làm xong việc một cách tốt đẹp.

Còn Thất Bại, Thất nghĩa là mất, thua, hỏng việc, và Bại có nghĩa là hư, hỏng. Như vậy, Thất Bại là hỏng hay không đạt được mục đích đã đề ra.

Qua định nghĩa của Thành Công và Thất Bại, chúng ta thấy, Thành Công là kết quả từ một mục đích nào đó đã được hoàn thành, và Thất Bại cũng là hậu quả mà chúng ta nhận được khi không thể hoàn thành được mục đích mà chúng ta đặt ra.

Nhưng tại sao các cụ ngày xưa lại cho rằng: “thất bại là mẹ thành công”?

Nếu đứng trên lý thuyết của nhân quả thì Thất Bại là nhân, và quả là Thành Công, thì hoàn toàn không hợp lý chút nào. Vì Thất bại là nhân xấu, làm sao cho ra quả tốt được. Như vậy, chẳng lẽ cha ông của chúng ta đã sai?

Nói đến thông minh, và làm sao để sống có nhiều an lạc hơn, ứng xử khéo hơn, thì chúng ta ngày nay còn thua xa các bậc tiền nhân. Không phải vì chúng ta ngày nay tụt hậu, mà vì, chúng ta đang được “Tây hóa”.

Thế giới ngày nay được phân chia làm hai phần khá rõ rệt, đó là, thế giới về vật chất và thế giới về tinh thần.

Nói về vật chất, nếu phương Tây chịu đứng thứ nhì, thì không có ai dám nhận đứng nhất. Những sự phát minh về khoa học, máy móc, kỹ thuật, y học phẫu thuật, v.v thì phương Đông chỉ có thể “lót dép” để theo học cũng không xong.

Bởi vì, tất cả những tư duy của phương tây đều hướng đến sự phát triển về vật chất. Quan niệm của họ nghiêng về duy vật. Họ quan niệm khi chết là hết, nên khi còn sống, họ muốn thỏa mãn được tất cả những khát khao về vất chất, mà họ có thể có được, để phục vụ cho họ. Chính vì thế, nên những tư duy nghiêng về tâm linh, hay về tinh thần, thì họ có đóng góp ít hơn phương Đông.

Ngược lại, phương Đông là nơi sản sinh ra rất nhiều nhà Hiền Triết, những tôn giáo lớn trên trái đất này. Với người phương Đông, vì quan niệm vật chất là phù du, chỉ có tâm An Lạc, Hạnh Phúc mới là quan trọng. Cho nên, thay vì dành phần lớn thời gian phát triển về vật chất, họ lại dùng phần lớn thời gian hướng về tâm linh, về tinh thần.

Chính vì vậy, nếu nói về kinh nghiệm tâm linh hay tinh thần, thì phương Tây lại phải “cầm giầy” chạy theo phương Đông.

Đó cũng chính là sự quân bình giữa phương Tây và phương Đông, ai cũng có thế mạnh của riêng mình.

Cho nên, khi chúng ta bị “Tây hóa” thì chúng ta cũng bắt đầu thói quen hướng những tư duy của chúng ta về vật chất. Vì vậy, sự phát triển về tâm linh hay tinh thần của chúng ta kém với cha ông của chúng ta cũng là lẽ thường tình.

Tuy ngày nay, chúng ta sống “hướng ngoại” về phương Tây, chúng ta có thể sống sung túc với sự phục vụ vật chất đến tận răng. Nhưng chúng ta là con người, chúng ta có cảm xúc/giác. Cho dù thân thể của chúng ta có được cung phụng đầy đủ thì cảm xúc/giác của chúng ta về tâm linh vẫn sinh hoạt giống nghìn xưa. Chúng ta vẫn có những hỷ, nộ, ái, ố, những buồn vui bất chợt.

Chính vì vậy, trở về để học hỏi những tinh hoa của cha ông chúng ta đã tích lũy bao đời, làm sao sống có được sự an lạc và hạnh phúc, là việc làm cần thiết.

Trở lại câu hỏi, tại sao Thất Bại là Mẹ Thành Công? Nếu chúng ta chịu khó quan sát kỹ, chúng ta thấy, trong qúa trình phát triển và thực hiện mục đích thì chữ “mẹ” ở đây, mới là yếu tố quyết định cái qủa kia là thành công hay không.

Chữ “mẹ” ở đây, không phải là nghĩa đen ám chỉ về người sinh thành ra chúng ta, mà “mẹ” ở đây, là nơi sản sinh ra những phương pháp, những cách ứng dụng để đem đến sự thành công. Cho nên, chữ “mẹ” trong câu này biến thất bại trở thành nhân.

Nếu thất bại là Nhân, và theo đúng thuyết nhân quả thì chúng ta phải ra qủa là thất bại chứ sao lại là thành công?

Nếu bạn chịu khó để ý, bạn đang nói về lý thuyết của Nhân Quả, và điều này hoàn toàn đúng, khi thuộc về tâm lý. Nhưng câu: “thất bại là mẹ thành công” đang nói về ứng dụng của thuyết nhân quả, chứ không nói về lý thuyết của  thuyết nhân quả. Và đây mới chính là chỗ tuyệt diệu nhất của các bậc tiền nhân của chúng ta, qua ứng dụng.

Thí dụ: chúng ta gieo hạt giống là trái chanh, theo lý thuyết thì chúng ta phải ra quả chanh, chứ không phải quả khác. Nhưng qua ứng dụng thì chúng ta có thể cắt thân cây chanh, và ghép vào cây tắc, trong khoảng một thời gian, chúng ta sẽ có những trái tắc mà không phải trái chanh.

Nếu chúng ta dựa trên lý thuyết thì chúng ta sẽ không thể nào giải thích được việc nhân này ra qủa kia. Nhưng nếu chúng ta dựa trên ứng dụng thuyết nhân quả thì chúng ta lại dễ dàng giải thích và chấp nhận sự thật.

Cái hay trong câu “thất bại là mẹ thành công” ở đây, qua cách ứng dụng, chúng ta không hề sợ cái nhân đó là gì. Cho dù, cái nhân đó có là thất bại, nhưng khi đem những thất bại đó lên để quan sát và nhìn sâu, rồi chỉnh sửa lại (mẹ) thì cái thất bại đó có thể ra hoa trái là thành công.

Hãy dùng thí dụ dưới đây để minh họa:

Có một chị muốn mở một tiệm phở để kinh doanh.

Người này rất tự tin với khả năng nấu nướng của mình, vì chị đã được những người trong gia đình và bạn bè khen chị nấu ăn ngon. Cho nên, chị nghĩ, khi chị mở tiệm phở, chị sẽ chính phục được khách hàng.

Chị đã dùng số tiền chị tiết kiệm bấy lâu, và ra mở tiệm phở. Tiếc rằng, chị lại không biết, muốn kinh doanh và làm chủ thì không phải chị chỉ biết nấu ăn ngon là đủ, mà còn phải có ít nhất 6 “chiếc nón” khác, mà người chủ cần phải có, bao gồm: hệ thống điều hành, quản trị, tài chánh, tiếp thị, huấn nghệ, nhân sự.

Cho nên, chỉ trong vòng một năm, chị đã phải đóng cửa.

Như vậy, nếu chúng ta nhìn từ ban đầu thì phải nói, chị chọn mục đích là thành công (nhân) nhưng vì trong qúa trình phát triển, chị lại thiếu 6 “chiếc nón” khác, nên cuối cùng, kết quả của chị nhận được là thất bại.

Trên thực tế, chúng ta thấy, chúng ta sử dụng về ứng dụng nhiều hơn là trên lý thuyết, nhưng chúng ta lại không hay để ý đến, nên hay dùng lý thuyết để nói về nhân quả, mà lại chẳng bao giờ nói đến “ứng dụng”.

Bây giờ, chúng ta lại dùng câu chuyện của chị, sau khi thất bại về, và chị bắt đầu quan sát và nhìn sâu vào sự thất bại của chị. Chị biết, chị thiếu 6 “chiếc nón” để đưa đến kết quả thành công. Chị không những đầu tư vào học hỏi. mà chị còn tiếp cận với những người cố vấn có kinh nghiệm để giúp cho chị.

Sau đó, chị lại ra mở cửa tiệm, với những kinh nghiệm tích lũy từ sự học hỏi của chị, cộng thêm sự cố vấn của những người có kinh nghiệm, lần này, chị lại rất thành công.

Sự thành công lần này, không phải phát xuất từ sự tự tin nấu ăn ngon của chị, mà bắt đầu từ sự thất bại, bắt đầu bằng sự chỉnh sửa lại những sai lầm mà lúc xưa, chị chưa biết.

Vậy câu: “Thất bại là mẹ thành công”, chỉ có thể ứng dụng cho kinh doanh, hay có thể ứng dụng cho tất cả mọi lĩnh vực, trong đó, bao gồm luôn việc giải quyết về khổ đau?

Chắc chắn là bạn có thể ứng dụng câu: “Thất bại là mẹ thành công” trong việc giải quyết các vấn đề về khổ đau, cũng rất đơn giản.

Thí dụ, khi chúng ta dùng câu: “Thất bại là mẹ thành công” trong việc giải quyết những sự khổ đau trong qúa khứ mà chúng ta đã “trốn chạy” hay “đè nén”, bằng cách. chúng ta sử dụng phương pháp bốn bước, gồm:

  1. Xác định chúng ta đang có vấn đề
  2. Đi tìm nguyên nhân có vấn đề
  3. Cách thức giải quyết vấn đề
  4. Thời gian giải quyết vấn đề

Khi chúng ta thực hành bốn bước một cách nghiêm chỉnh thì chúng ta đang lấy những thất bại trong cuộc đời làm “thực nghiệm” cho qúa trình phát triển, và qua qúa trình này, chúng ta dùng bốn bước để đưa đến kết quả thành công. Thành công ở đây, có nghĩa là chúng ta đã giải quyết vấn đề của chúng ta một cách tốt đẹp hay rốt ráo, mà không để lại hậu quả.

Nếu chúng ta để ý kỹ, chúng ta thấy cái hay của ông cha chúng ta là, đã dậy chúng ta những phương pháp ứng dụng thật tuyệt vời. Chỉ trong 6 chữ: “Thất bại là mẹ thành công”, mà trong đó bao hàm tất cả tinh hoa của sự chuyển hóa.

Qua 6 chữ này, chúng ta có thể thay nhân hay thay quả, và quan trọng nhất, đó chính là, dậy cho chúng ta quyền chủ động và ứng dụng quyền chủ động.

Khi chúng ta chủ động, có nghĩa là, chúng ta đang nắm vấn đề trong tầm tay của chúng ta, mà không phải là những vấn đề, vượt ngoài tầm tay của chúng ta, như khi chúng ta trong thế bị động.

Chính vì vậy, dù kết quả có ra sao, chúng ta vẫn là người thành công, vì người thành công là người luôn nắm được thế chủ động.

Trên thực tế, chúng ta thấy những người thành công đều rất tự tin vào chính họ. Muốn có được sự tự tin này, họ phải có những kinh nghiệm đã trải qua, và họ luôn nắm những vấn đề trong tầm tay của họ, hay họ luôn là người chủ động.

Ngày nào, bạn chưa biết nắm được sự chủ động, nắm được sự việc trong tầm tay của bạn, và bạn vẫn bị rơi vào thế bị động, thì cho dù mục đích của bạn có đẹp bao nhiêu, có vĩ đại bao nhiêu, cuối cùng, bạn cũng sẽ nhận được một kết quả là thất bại. Vì sao?

Đơn giản, là vì bạn luôn bị “xỏ mũi”, bạn luôn bị người khác dẫn bạn đi, mà bạn không thể kháng cự lại khi bạn trong thế bị động.

Cho nên, đừng bao giờ cho rằng, hễ chúng ta có mục đích tốt thì chúng ta sẽ ra kết quả tốt, mà trên thực tế, chúng ta thường bị “đứt đoạn” hay bỏ cuộc nửa chừng.

Ngược lại, cha ông của chúng ta, qua ứng dụng, lại dậy cho chúng ta một góc nhìn mới, đó là, không cần phải sợ cái nhân hay quả là gì, mà chỉ cần chú tâm vào qúa trình phát triển.

Chữ “mẹ” được sử dụng trong câu: “Thất bại là mẹ thành công” thật rất tuyệt vời. Ngoài ý nghĩa là chủ, là chính, là phần định đoạt, thì hình ảnh người mẹ cũng bao gồm những đức tính: công, dung, ngôn, hạnh. Đây là chìa khóa bí mật để đem đến thành công, nhất là trong thương trường.

BẠN VÀ BÈ

album-art

00:00

TẢI MP3 – TRƯƠNG THU HUYỀN

Bạn Thân Mến,

Nói đến hai chữ bạn bè, chẳng có ai trong chúng ta không hiểu cả, bởi vì, chúng ta đã sử dụng hai từ bạn bè qúa nhiều lần. Nhưng, thế nào là Bạn? và thế nào là Bè? thì sẽ khiến bạn phải “động não” đấy.

Câu chuyện chúng tôi muốn chia xẻ với bạn hôm nay là câu chuyện liên quan đến hai chữ “bạn bè”, khi chúng tôi nhận được email từ một người quen.

Chào anh,

Như anh đã biết, để hình thành trọn vẹn kiếp nhân sinh của mình, chúng ta đều phải trải qua: hỷ, nộ , ái , ố. Nên những cái hay ai cũng trải nghiệm trong đời mình, và thích nghi với mọi hoàn cảnh, nhưng anh hãy cho em sự góp ý chân thành, và câu hỏi em đặt ra thì em nghĩ cũng có rất nhiều người vướng phải, như sau:

Biết rằng” Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã”, nhưng cuộc sống người làm Nail (nhất là những người mới sang) thời gian và công việc đều có giới hạn, và cuộc sống của người làm Nail, chỉ giới hạn mỗi ngày sáng đi tối về, và cuối tuần thì tất bật với nấu ăn, dọn dẹp…. Thì cách nào để tìm cho mình được người bạn tốt. Vì em thấy, cuộc sống ở đây không có nhiều tình cảm như ở Việt Nam.

Có thể, câu hỏi này sẽ làm phật lòng nhiều người, nhưng là câu nói thật. Vì em thấy họ, chỉ nói bằng miệng chứ cách họ làm thì ngược lại.

Thí dụ:

  1. Người A có bằng Nail, biết người B mới sang. Khi gặp nhau trong tiệm thì cứ mở miệng: em mới sang, ráng làm đi… Nhưng khi thấy khách chọn người B nhiều, thì chọt sau lưng chủ: nó không có bằng….. Đủ thứ …

Người B thì luôn tin tưởng quý người A như người ơn, mà không hề hay biết, mình bị đâm sau lưng. Mãi đến khi có người C kể cho biết thì người B bị hụt hẫng tình cảm.

  1. Chị chủ trước khi nhận vô làm, biết người ta không có bằng, nhưng vì mùa thuế nên cần thợ. Sau đó, hứa cho vay tiền để lo bằng. Người thợ bỏ học để đi làm, vì sợ mất khách cho chủ.

Sau đó, chủ nhận nhiều thợ có bằng thì nói xa nói gần là: ngại state board đến. Rồi việc lo bằng thì mượn cớ là, người thợ hỏi chỗ khác làm…. Bao nhiêu vấn đề khác nữa, mà người thợ thì luôn nghĩ: mình sống thật. Chia xẻ vui buồn, và chăm sóc tiệm tốt như tình cảm của người bạn.

Vậy cách nào nhận biết là nguoi bạn tốt và kẻ xấu để không phí thời gian với họ đối với nghề Nail này???

Cám ơn Anh

P/s: vấn đề cá nhân, thay mặt bạn em hỏi dùm, không ám chỉ ai. Mong chúng ta hãy cùng chung tay xây dựng tình cảm con người với con người, ngày càng tốt đẹp hơn.

Chào chị T,

Đọc xong những câu hỏi của chị, tôi muốn trả lời cho chị ngay, nhưng vì công việc khá bận rộn, nên chưa có thời gian rảnh rỗi. Mong chị thông cảm cho.

Nếu tôi nhớ không lầm, trước đây tôi đã chia xẻ một bài thơ về “Bạn và Bè”, Không biết chị đã đọc chưa, nên tiện đây tôi xin trích lại.

BẠN VÀ BÈ…

Ngày xưa, khi quen biết ai, tôi vẫn quen gọi họ là bạn. Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau, thì những người mà tôi gọi là bạn này, lại “đâm sau lưng” tôi. Tôi hoang mang, mơ hồ, khổ đau và thu mình vào trong lớp vỏ cô đơn. Cho đến khi, tôi trở lại với chính mình, và bắt đầu học quan sát và nhìn sâu, tôi mới biết được, đâu là Bạn đâu là Bè.

Bạn là người đồng cam cộng khổ

Chia xẻ buồn vui

Nâng đỡ nhau trong hoạn nạn

Chia xẻ lúc hân hoan

Ngưòi có thể thổ lộ tâm cang

Giúp cho mình hướng thiện

Bè là hội ngộ phút giây

Cùng là cây, kết thành một khối

Nhưng, sẽ vội chia xa

Khi gặp phong ba bão táp

Bè sẽ chẳng hỏi đáp

Khi mình có gian nan

Bè sẽ đến khi sang

Nghoảnh mặt đi, khi nghèo nàn túng thiếu

Đối với Bạn thì lấy chân tình ra cư xử

Đối với Bè thì lấy lễ nghĩa ra trao

Mất đi bạn thì mất cả trăng sao vũ trụ

Mất đi Bè thì cứ An trú thản nhiên

Gặp nhau muôn sự tùy duyên

Mất Bè thì cứ an nhiên, mỉm cười

Và từ đó, tôi đã thoát khỏi lớp vỏ cô đơn và biết mỉm cười và chia xẻ.

Nếu chị đọc kỹ bài thơ này, chị sẽ thấy, cách phân biệt và ứng xử với Bạn và Bè khác nhau. Cho nên, khi chúng ta lầm lẫn trong sự phân biệt thì chúng ta phải “chịu trách nhiệm” với sự lựa chọn của mình.

Nếu tôi là chị, tôi thấy tôi có 3 lỗi lớn mà tôi cần phải học hỏi và hoàn thiện bản thân mình.

1- Nhận Thức

Mỗi một cá nhân đều có những sự nhận thức khác nhau về những hoàn cảnh môi trường, sự việc v.v. Sự nhận thức khác biệt này, nương trên định nghĩa, kinh nghiệm tích lũy, môi trường và hoàn cảnh.

Sự nhận thức sẽ trở nên sai lầm khi có sự tham gia của bản ngã “cái tôi”. Chính vì có “cái tôi”, nên chúng ta không thể nhận thức “sự thật đúng như là nó.” Vì vậy, chúng ta thường “tưởng tượng” ra kết qủa, và cuối cùng khi tiếp xúc với cái kết qủa thật, chúng ta thường thất vọng, khổ đau.

Trong câu thí dụ của chị, rõ ràng nhận thức của chị có “vấn đề”. Đó là chị, không có khả năng phân biệt giữa Bạn và Bè.

Khi chị không phân biệt được giữa bạn và bè, dẫn đến tình trạng chị “ứng xử” không đúng cách. Sự ứng xử đó, lại được chị “tô hồng thêm” kết quả là, “khi chị tốt với họ thì họ sẽ tốt lại với chị”.

Vì vậy, khi tiếp xúc với kết quả thật “họ không tốt với chị như chị nghĩ” thì chị bực tức, than van, và trách móc họ. Nếu tôi là chị, tôi sẽ không “than phiền” về họ, mà tôi sẽ “trách” chính bản thân tôi đã không học hỏi và ứng xử đúng cách. Chính tôi mới là “tác nhân” gây ra cho tôi “đau khổ”, và chỉ có chính tôi mới có thể sửa đổi và tha thứ cho những lỗi lầm của mình.

2- Lựa Chọn

Ai trong chúng ta cũng có quyền lựa chọn. Chúng ta có toàn quyền quyết định lựa chọn của mình. Như vậy, chúng ta phải có trách nhiệm về sự lựa chọn này. Chúng ta không thể đòi quyền lựa chọn, được quyền chọn lựa, nhưng lại không muốn gánh trách nhiệm về sự lựa chọn của mình.

Rõ ràng, trong câu chuyện thí dụ của chị, chị đã chọn lựa, tin vào những gì người chủ hứa, chị chọn lựa giúp cho người chủ đó trong lúc khó khăn. Chị quyết định nghỉ học để giúp cho họ. Họ đâu có cầm dao hay cầm súng ép chị phải giúp cho họ, có phải thế không? Họ cũng đâu có dùng bất cứ phương tiện nguy hiểm nào để bắt ép chị.

Chị đã tự quyết định lựa chọn giúp họ thì chị cũng phải gánh lấy hậu quả mà họ đã đối xử “tệ bạc” với chị, Vì đó mới thật là họ.

Hơn nữa, nếu nhìn sâu hơn, chúng ta thấy, khi chúng ta “giúp người có điều kiện”, dù là điều kiện đó như thế nào thì luôn luôn sự giúp đỡ đó sẽ có “biến chứng” về sau.

Trong tình yêu, tình thương hay tình người… khi đã có điều kiện thì sẽ tạo ra phản ứng trái chiều. Chỉ có tình thương, yêu không điều kiện mới có thể “thảnh thơi” mà hành xử.

3- Giải Quyết Vấn Đề

Chúng ta không thể giải quyết vấn đề, nếu vấn đề đó không thuộc về chúng ta. Khổ thay, nếu chúng ta cứ tiếp tục than trách, buồn phiền vì họ, mà họ lại chẳng bao giờ thấy, hay thay đổi, thì có khác gì chúng ta giao số mạng, hạnh phúc của chúng ta vào tay họ.

Chúng ta mất đi “chủ quyền” để tự mình giải quyết sự khổ đau của mình, và lại hoàn toàn lệ thuộc vào sự “thứ tha” hay “nhận lỗi” của họ.

Trên đời này, có mấy ai có đủ can đảm để nhận lỗi với người khác. Cho nên, có thể nói, chúng ta đang tự “giết chính mình”. Hay có thể nói, chúng ta đang tự “đào huyệt” chôn chính mình.

Đời người, mà chúng ta vấp phải 3 lỗi lầm lớn này thì qủa thật rất khổ đau, không lối thoát.

Cách hay nhất để lấy lại “chủ quyền” về mình, đó là: “nhìn sâu” để thấy rõ được lỗi lầm của mình để tự mình giải quyết. Nếu không thì suốt đời này, cho dù, chúng ta có gặp Bạn hay Bè, chúng ta cũng mãi mãi là người đau khổ.

Những gì tôi chia xẻ với chị đêm nay, chỉ là những gì tôi đang học và hành trong cuộc sống. Có thể cách giải quyết của tôi sẽ không giống như cách giải quyết hay mong muốn của chị. Nhưng vì chị hỏi đến, thì bổn phận của tôi là trả lời theo nhân sinh quan của tôi. Nếu có gì “va chạm” đến tự ái của chị, mong chị hãy bỏ qua cho.

Còn việc làm sao phân biệt bạn bè tốt hay xấu trong nghành Nail, thì tôi chịu, vì một người xấu hay tốt thì tùy theo nhận thức và đánh giá của mỗi người.

Với nhân sinh quan của tôi, vốn chẳng có ai là người xấu cả. Vì với ai, cũng là thầy dậy cho tôi cách ứng xử như thế nào là đúng nhất, là đẹp nhất. Không có người học trò nào, lại cho rằng, người thầy dậy cho mình là người xấu cả.

Chính vì nhân sinh quan này, nên gặp ai, tôi cũng chỉ thấy là người tốt, những người thầy luôn dậy tôi những bài học quý giá trong cuộc đời.

Nếu chị muốn thực tập nhân sinh quan như tôi thì đây là vài nét căn bản để chị nghiền ngẫm.

Trước tiên, chị phải hỏi lại chính chị, định nghĩa về Bạn là gì? và Bè là gì? Sau đó, chị “kiểm tra” lại nhận thức của chị về hai chữ “Bạn và Bè” thế nào. Chị “kiểm tra” lại cách hành xử của chị về Bạn với Bè thế nào?

Chị hãy hỏi lại chính bản thân của chị, xem chị giúp họ là giúp có điều kiện hay không có điều kiện. Nếu có điều kiện thì điều kiện đó là gì, và không có điều kiện thì không điều kiện gì.

Thương yêu mà không có sự hiểu biết đúng sự thật thì còn làm khổ nhau nhiều hơn là không thương yêu giúp đỡ nhau.

Chị phải tự hỏi chính chị, và chị phải trả lời thật thà với chính chị. Vì chỉ khi chị thật thà với chính chị, chị mới có cơ hội hiểu được chính chị một cách sâu sắc hơn.

Chị đừng quên, dù cho chị có những người bạn tốt nhất thì họ cũng chỉ đóng một vai trò “hỗ trợ” cho chị, chứ không thể thay thế quyết định cho chị được.

Thật ra, những gì chị chia xẻ, không phải chỉ xẩy ra trong nghành Nail, mà nó có mặt trong tất cả mọi nghành nghề. Nó đang có “mặt trên từng cây số” của xã hội.

Nếu chị không học nhìn sâu để hiểu được chính chị, chị không học cách ứng xử đúng đắn, thì chị làm nghành nghề nào, chị cũng sẽ vẫn bị đau khổ triền miên.

Chị nên nhớ: Cuộc sống luôn trao tặng cho chị những “món quà” là phiền não và thử thách. Và lạ thay… trong những phiền phức và thử thách đó, luôn hàm chứa những phương án giải quyết thích hợp nhất.

Công việc duy nhất của chị là “bình tỉnh và sáng suốt” để lựa chọn ra phương án nào thích hợp nhất cho chị.

Nếu chị không làm “tròn” công việc lựa chọn này, thì chị phải chịu trách nhiệm với chính mình, mà không phải một ai khác.

Mong chị hãy bình tâm suy nghĩ lại.

MUỐN BIẾT PHẢI HỎI, MUỐN GIỎI PHẢI HỌC

album-art

00:00

TẢI MP3 – TRƯƠNG THU HUYỀN
TẢI MP3 – QUẢNG BẢO TÂM
TẢI MP3 – QUẢNG BẢO TÂM (HUẾ)

Bạn Thân Mến,

Ai trong chúng ta cũng không xa lạ gì với câu ca dao này: “Muốn biết phải hỏi, muốn giỏi phải học”. Nhưng hỏi ra sao, và học ra sao lại là những vấn đề.

Nếu chúng ta không cẩn thận trong việc đặt đúng câu hỏi thì không những chúng ta không thể đạt được kết quả, mà lắm khi, còn tạo ra rất nhiều hậu quả.

Có một người vừa mới chia tay người yêu, và trong lòng đầy những muộn phiền, oán trách. Nếu người này muốn giải quyết được những muộn phiền này, thì người đó phải biết cách đặt đúng câu hỏi để tìm ra gốc rễ của vấn đề. Nếu không, thì người đó sẽ chỉ làm tăng thêm sự oán trách, và có thể dẫn đến sự thù hận dai dẳng cả cuộc đời.

Thay vì, người đó hỏi Tại Sao tôi buồn, thì người đó hỏi làm sao tôi giải quyết sự buồn phiền này.

Chúng ta hãy dùng thí dụ để minh họa.

Làm sao tôi có thể quên đi được nỗi buồn này?

Khi Ý Thức của chúng ta nhận được câu hỏi này thì ít nhất chúng ta cũng có ba đến năm câu trả lời:

  • Mượn rượu giải sầu
  • Dùng chất khích thích để không suy nghĩ
  • Đi bôi nhọ, nói xấu người đó cho họ đau khổ

Qua những câu trả lời này, chúng ta sẽ thấy gì?

Rõ ràng, không có cách giải quyết nào mang đến cho chúng ta được cái chúng ta muốn là quên được. Cho dù, chúng ta có làm cả ba cách giải quyết cùng một lúc thì cũng bằng không. Ngược lại, chúng ta càng dùng chung nhiều cách thức thì chúng ta càng tạo ra nhiều hậu quả mà chúng ta phải gánh chịu sau này.

Nếu mượn rượu giải sầu, mà nếu sầu kia không giải được, thì chúng ta dần trở thành con sâu rượu, chúng ta bị nghiện rượu, và cuối cùng, chúng ta làm cho gan của chúng ta bị sơ cứng. Chúng ta không phải chỉ khổ về Tâm, mà chúng ta còn khổ về thân nữa.

Tệ hại hơn, nếu chúng ta dùng những chất khích thích để “phê” đi Ý Thức, thì chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, chúng ta sẽ thành con nghiện. Khi đã thành con nghiện thì sự đòi hỏi về thuốc càng lúc càng gia tăng, vì cơ thể của chúng ta đã quen với những “đô” trước đó. Cho dù, chúng ta có núi vàng cũng không thể cung phụng cho những cơn nghiện này, huống chi, tài chính của mỗi cá nhân thường có giới hạn.

Cuối cùng, vì không đủ tài chính cung phụng cho cơn nghiện, chúng ta sẽ đi ăn trộm, hay ăn cướp, để cung phụng cho cơn nghiện, và cuối cùng, cuộc đời của chúng ta sẽ gắn liền với những song sắt trong nhà tù.

Đó là chưa kể, khi sử dụng qúa nhiều chất khích thích thì hệ thống thần kinh và các cơ quan nội tạng sẽ bị ảnh hưởng trầm trọng, khiến cho những suy nghĩ của chúng ta sẽ mông lung, không thực tế; hay sự xáo trộn của các tế bào và cơ quan tạo ra những chứng bịnh nan y.

Nếu như đi bôi nhọ, nói xấu người kia, cho họ khổ, thì có chắc gì là họ khổ không? Hay đôi khi, người kia còn coi thường, và càng giúp họ khẳng định lý do họ bỏ chúng ta là chính xác. Không những họ không đau khổ, mà còn vui mừng vì họ vừa thoát được “món nợ”, khi phải dính với chúng ta cả đời.

Đi bôi nhọ và nói xấu người kia, không những làm hạ phẩm giá con người của mình, mà còn tiếp tục khích thích những nguồn năng lượng tiêu cực trong Ngã Thức trở nên mạnh mẽ hơn. Khi những nguồn năng lượng này kết hợp với nhau thành nguồn năng lượng “không tên” thì những nguồn năng lượng này sẽ làm tê liệt Ngã Thức, và lúc đó, càng muốn quên lại thành càng nhớ.

Tai hại nhất là, khi nguồn năng lượng “không tên” này có mặt, thì luôn sử dụng những ý niệm tàn ác, độc hại, không những gây ra nguy hiểm đến tính mạng cho người và cho mình.

Qua thí dụ nêu trên, chúng ta thấy được sự nguy hiểm, khi chúng ta không biết đặt câu hỏi một cách chính xác, hay rõ ràng.

Vậy thì chúng ta phải đặt câu hỏi như thế nào mới đúng cách?

Muốn tìm ra nguyên nhân giải quyết một vấn đề thì chỉ có câu hỏi Tại Sao mới giúp chúng ta tìm ra được gốc rễ. Nếu chúng ta chưa, hay ít sử dụng câu hỏi Tại Sao, thì chúng ta cũng nên suy nghĩ lại.

Hãy dùng câu hỏi trong thí dụ nêu trên làm minh họa.

Tại sao tôi buồn?

Tôi buồn vì tôi mới bị người yêu bỏ

Tại sao người yêu lại bỏ?

Vì người đó nói không hợp với tôi

Tại sao lại không hợp?

Vì tôi hay nổi giận khi người kia không làm theo ý tôi

Tại sao lại nổi giận khi người kia không làm theo ý?

Vì nếu không làm theo ý tôi thì tôi sẽ trở nên yếu đuối trong mắt người đó

Vậy thì yếu đuối trên lĩnh vực nào?

Trên lĩnh vực tài chính vì tôi không làm ra nhiều tiền

Tại sao lại không làm ra nhiều tiền?

Vì tôi không có tài năng

Tại sao không có tài năng?

Vì tôi lười biếng.

Nếu chúng ta dừng lại ở đây, thì chúng ta thấy gốc rễ từ nỗi buồn, không phải vì chia tay người yêu, mà bắt nguồn từ sự lười biếng.

Khi biết được gốc rễ rồi, thì mới hỏi Làm Sao giải quyết được sự lười biếng này, và đi giải quyết.

Như vậy, qua cách đặt câu hỏi Tại Sao, chúng ta không những có thể tìm ra được nguyên nhân gây ra nỗi buồn, mà chúng ta còn hiểu được chúng ta một cách sâu sắc hơn.

Qua câu hỏi tại sao, chúng ta thấy hoàn toàn không liên quan gì đến việc người yêu bỏ chúng ta mà chúng ta buồn, nguyên nhân chính là sự lười biếng của chúng ta khiến cho chúng ta không chịu học hỏi, nên không có khả năng tạo ra tài chính, rồi sinh ra tự ty, và muốn che dấu sự tự ty, nên hay nổi giận với người yêu, khiến người đó không chịu được nữa, mới chia tay.

Như vậy, người yêu chia tay không phải là tác nhân chính, mà sự lười biếng mới là tác nhân chính. Cho nên, hình ảnh người yêu không cần phải quên cũng tự động không xuất hiện; vì đó không phải là đối tượng tạo ra nỗi buồn, mà nỗi buồn là hậu quả của sự lười biếng.

Qua hai thí dụ trên, chúng ta thấy được sự khác biệt trong cách đặt câu hỏi như thế nào để giải quyết vấn đề. Nếu chúng ta đặt sai câu hỏi, thì đó chính là lỗi của chúng ta, chứ không phải của ai khác.

Nhân tiện đây chúng ta cũng nên tìm hiểu hai chữ hiểu và biết khác nhau như thế nào? Nếu bạn để ý kỹ hơn, bạn sẽ thấy, ở đây, ông cha chúng ta đã rất tinh tế khi diễn tả về những trải nghiệm của các cụ. Trong câu này, chúng ta không thấy ông cha chúng ta dùng từ “muốn hiểu” mà lại dùng là “muốn biết”. Vậy hiểu là gì, và biết là gì?

Phần đông chúng ta hay lầm lẫn giữa hai chữ này. Chữ Hiểu có nghĩa là, khi chúng ta nghe một điều gì mà chưa có kinh nghiệm trải qua thì gọi là hiểu. Còn chữ Biết là chúng ta đã nghe qua và cũng đã trải qua, chúng ta có kinh nghiệm về việc đó rồi thì gọi là biết.

Như vậy, khi ông cha chúng ta dùng từ “muốn biết” có nghĩa là khuyên chúng ta phải trải qua, phải thực hành và phải có kinh nghiệm (biết) đặt câu hỏi cho đúng cách thì mới giải quyết được vấn đề, chứ không phải chỉ nghe, hiểu, rồi không làm gì hết với cái hiểu của mình.

Nếu như chúng ta chưa thực hành được, hay chưa có kinh nghiệm thì phải đi tìm những người có kinh nghiệm, họ đã trải qua rồi, hỏi họ, và nhờ họ dùng kinh nghiệm của họ để giúp cho mình, chứ đừng nên đi tìm người không có kinh nghiệm đã trải qua, hay chỉ mới nghe, hiểu, rồi đưa ra lời khuyên mà tin theo và làm theo.

Đó chính là ý nghĩa của câu “muốn biết thì hỏi”. 

Vậy còn “muốn giỏi thì học” có ý nghĩa gì?

Đơn giản, ai trong chúng ta cũng có thể nghĩ ra là chúng ta muốn giỏi thì chúng ta phải học hỏi nhiều. Nhưng học nhiều cũng chưa chắc là giỏi, vì trong học có cả ngàn cách học.

Có cách học thuộc lòng, có cách học suy luận, có cách học trải nghiệm.v.v. vậy cách học nào mới giúp cho chúng ta giỏi?

Muốn học giỏi thì chúng ta cần phải có phương pháp.

Chúng tôi còn nhớ thời khi đi học đại học. Ngày khai giảng, vị giảng sư cho chúng tôi biết loại sách giáo khoa nào chúng tôi cần.

Với những ngày đầu, hầu như tất cả các sách giáo khoa sẽ là phần giới thiệu. Hơn nữa, vị giảng sư vì muốn làm quen với học sinh, nên cũng không quá đi sâu vào chi tiết, cho nên, đa số những ngày đầu này với sinh viên là sướng nhất, vì ít phải học bài.

Nhưng với chúng tôi thì lại hoàn toàn khác. Chúng tôi lại rất “bận rộn” trong việc đọc trước một chương (chapter). Chúng tôi bắt đầu đọc lướt qua xem có thể hiểu được bao nhiêu, và những chỗ không hiểu thì ghi lại những câu hỏi.

Đến khi vào lớp và khi giảng sư giảng bài, trong khi, các bạn khác chăm chú nghe và ghi chép, thì chúng tôi vì đã có kinh nghiệm đọc qua, nên chỉ chú trọng vào những câu hỏi mà chúng tôi ghi lại, và hỏi vị giảng sư. Nhờ vậy, chúng tôi luôn hiểu được bài một cách trọn vẹn nhất.

Phương pháp mà chúng tôi áp dụng vô cùng đơn giản. Nghĩa là, khi có được sách giáo khoa thì chúng tôi bỏ chút thời gian ra đọc ngay chương đầu. Vì không bị thời gian “thúc hối” nên Ý Thức của chúng tôi có thể thoải mái phân tích và đào sâu vào vấn đề.

Nếu vấn đề đó chúng tôi đã có kinh nghiệm thì không phí thời gian vào đó, ngược lại, chúng tôi sẽ chú trọng vào những vấn đề chưa hiểu được, và chọn ra những câu hỏi chính xác để tìm ra đáp an cho câu hỏi. Sau đó thì ghi lại những câu hỏi đó trong một cuốn sổ.

Chính vì nhờ có sự chuẩn bị trước, nên tất cả những chủ đề được giảng sư giảng, chúng tôi như được “ôn lại” trong khi các bạn khác thì mới học. Cho nên, chúng tôi hiểu rõ hơn, và những phần chưa hiểu rõ, chúng tôi cũng đã có sẵn những câu hỏi chọn lọc để hỏi vào chi tiết.

Nhiều giảng sư cũng rất ngạc nhiên và cho rằng chúng tôi thông minh, vì thường đặt những câu hỏi khó cho họ, nhưng họ lại rất hứng thú vì chủ đề của họ có đứa học trò biết “thưởng thức”, nên thường, họ có những “cảm tình” đặc biệt với chúng tôi. Nhưng bạn biết, chúng tôi chẳng có thông minh gì cả, mà chỉ biết dùng phương pháp học đúng đắn mà thôi.

Sau khi đặt những câu hỏi và được giảng giải xong thì chúng tôi ghi lại những lời giảng giải đó dưới phần các câu hỏi.

Đến kỳ thi giữa khóa hay cuối mùa thì chỉ cần đọc lại những câu trả lời đã được giảng sư giải thích mà không cần phải đọc lại cả một cuốn sách dầy, với cả lô chữ với thời gian thúc bách.

Y như rằng, hầu như hơn 90% những đề thi thường “lọt” vào trong những cuốn sổ mà chúng tôi ghi lại.

Với phương pháp học này, chúng tôi chỉ tốn thời gian lúc ban đầu đọc lướt qua chương đầu, và sau đó, đặt ra những câu hỏi. Và khi các bạn bắt đầu học chương đầu thì chúng tôi lại đọc lướt chương hai và đặt câu hỏi.

Chính nhờ cách học có phương pháp này, giúp chúng tôi rút ngắn được thời gian ôn thi, chủ động trong việc học, và quan trọng nhất là, chúng tôi sử dụng Ý Thức để đào sâu và hiểu trọn vẹn được những gì chúng tôi đang học một cách rõ ràng.

Dĩ nhiên, mỗi người trong chúng ta ai cũng có cách học riêng. Nhưng muốn giỏi thì sự học hỏi của chúng ta phải hướng về chiều sâu và cần có sự kiểm nghiệm và thực nghiệm để hiểu đúng sự thật.

Nếu không, chúng ta sẽ không thể ứng dụng những gì chúng ta học được một cách tinh tế nhất.

GIỚI ĐỊNH TUỆ

album-art

00:00

TẢI MP3 – TRƯƠNG THU HUYỀN
TẢI MP3 – TÂM TỪ

Chiều nay, chỉ có mình Nhật Minh đến thăm ông chú. Sau khi lễ phép chào ông chú, Nhật Minh ngồi xuống đối diện, rồi nói:

Thưa chú, kể từ ngày gặp chú, cháu càng ngày càng hiểu về cháu nhiều hơn. Sau những buổi nói chuyện với chú về, cháu đã quyết định, dừng lại tất cả việc sử dụng kinh nghiệm của người khác, và bắt đầu bằng sự trải nghiệm của chính mình.

Trong qúa trình tự trải nghiệm này, cháu cảm nhận được rất nhiều điều mới lạ. Chiều nay, cháu muốn đem những điều trải nghiệm mới lạ này để chia xẻ cùng chú, không biết có được không?

Dĩ nhiên là được. Tôi xin ngồi lặng yên để lắng nghe sự trải nghiệm của bạn. Ông chú nói.

Thưa chú, khi nói đến Thiền, từ xưa cho nay, từ sách vở cho đến người thực tập, đều nhấn mạnh đến 3 từ: Giới, Định, Tuệ.

Nhiều người định nghĩa rằng: Giới là Giới luật, Định là ngừng sự suy nghĩ, và Tuệ là ánh sáng; và họ đã dùng những định nghĩa này để đi tìm về Bản Thể.

Cháu cũng là một trong những người như họ. Cháu cũng đã dùng những định nghĩa đó, và đã trải qua gần 10 năm, nhưng cháu vẫn cứ loay hoay, vướng mắc.

May nhờ nói chuyện với chú, cháu mới nhận ra, khi chúng ta không biết được chính xác định nghĩa của một điều gì đó thì chúng ta sẽ dễ dàng tạo ra sự nhận thức sai lầm. Chính sự nhận thức sai lầm này, mới gây ra sự vướng mắc, ràng buộc, và tạo ra sự khổ đau cho con người.

Thế nên, cháu đã tự hỏi lại chính mình, Giới là gì? Định là gì? và Tuệ là gì? và dùng sự quan sát, phân tích và nhìn sâu để nhìn vào định nghĩa của Giới, Định, và Tuệ.

Khi quan sát và nhìn sâu vào Giới, cháu nhận ra, Giới không chỉ có nghĩa là giới hạn, hay khoanh vùng hẹp lại, mà Giới còn có nghĩa là Những Điều Kiện Cần Có và Sự Chấp Nhận để đạt được một điều gì đó.

Cũng như Định, có nghĩa là duy trì, không xao động, không thay đổi, chứ không phải là ngừng lại sự suy nghĩ. Ngừng lại sự suy nghĩ chỉ là ứng dụng của Định chứ không phải định nghĩa của Định.

Và định nghĩa của Tuệ, cũng không phải là ánh sáng mà là khả năng quan sát, phân tích, tổng hợp, và quan trọng nhất là Nhìn Sâu. Cũng từ sự quan sát nhìn sâu này, cháu cũng phát giác ra một sự sai lầm lớn nhất của cháu từ trước tới nay, đó là cháu nghĩ Trí cũng là Tuệ.

Cháu đồng ý rằng, muốn giải quyết bất cứ mọi vấn đề nào trong cuộc sống của chúng ta, chúng ta cũng phải có đầy đủ Giới, Định, Tuệ. Đó là 3 yếu tố cốt lõi không thể thiếu được. Chỉ cần thiếu một trong ba thì sẽ rơi vào bế tắc và vướng mắc.

Nhưng nếu chúng ta sắp xếp sai lệch cách vận hành, thay vì được kết qủa thì chúng ta lại phải gánh hậu quả. Chính vì vậy, mà cuộc sống của chúng ta mang nhiều dấu ấn của khổ đau hơn An Lạc.

Bản thân cháu, khi mới bắt đầu thực tập Thiền đã bị hướng dẫn lệch lạc về định nghĩa, sai về thứ tự, về cách vận hành. Thí dụ như:

Các diễn giả dậy rằng, nếu muốn thực hành Thiền thành công, việc đầu tiên, người thực tập, cần phải giữ Giới một cách nghiêm chỉnh. Nghĩa là phải đặt ra những kỷ luật và ép mình vào khuôn khổ.

Chẳng hạn như: mỗi ngày phải dành ra một tiếng để ngồi Thiền, và khi ngồi Thiền, phải giữ lưng cho thẳng; có nơi, phải ngồi theo thế kiết già hoặc bán già; có nơi, cho phép ngồi trên gối hay ghế v.v.

Trong khoảng thời gian ngồi thiền một tiếng đó, nếu có tê chân, mỏi vai, đau lưng, cũng ráng chịu, và không nên động đậy. Bởi vì, theo nhận thức của họ, đó là phương pháp điều Thân trước khi điều Tâm. Họ quan niệm rằng, khi chúng ta có thể làm chủ được Thân, thì chúng ta sẽ có thể làm chủ được Tâm, vì Thân với Tâm là một.

Trong qúa trình giữ Giới bằng cách ngồi Thiền bắt buộc đó, người thực tập bắt đầu một qúa trình gọi là Định. Và cái Giới trong Định là phải tìm mọi cách để giữ cho Tâm Không Suy Nghĩ Gì Cả.

Nếu chẳng may, trong lúc đang tìm cách duy trì Tâm không suy nghĩ mà có một ý niệm nào đó phát sinh, người thực tập phải tìm cách đè nén nó xuống, hay tìm cách diệt nó đi.

Nếu không đủ khả năng để diệt, hay đè nén nó thì dùng hình thức “trốn chạy” như: chú tâm vào một việc khác: nghe tiếng chim, tiếng suối, tiếng nhạc êm dịu, v.v. Và họ, cho đó là cách làm hợp lý.

Rõ ràng, mục đích của việc thực tập Thiền là đi giải quyết các vấn đề Một Cách Rốt Ráo, dù vấn đề đó là vấn đề gì. Vấn đề đó có thể liên quan đến cảm tình, cảm giác, cảm thọ, cảm thân, hay đi tìm về Bản Thể, v.v.

Vậy tại sao, khi ý niệm hay cảm giác nẩy sinh trên bề mặt của ý thức, chúng ta lại không trực tiếp đi giải quyết mà lại tìm cách đè nén, tìm cách tiêu diệt; và khi không thể thì lại trốn chạy qua cách chú tâm vào việc khác.

Điều này, khi nghĩ kỹ lại, cháu thấy nó mâu thuẫn và nghịch lý qúa, phải không chú? Nhưng cũng tức cười, cháu đã tin, và đã làm theo trong một thời gian khá dài.

Không ít người, trong đó cũng có cháu, đã lý luận rằng: khi chúng ta chú tâm vào nghe tiếng chim hót hay nhạc êm dịu, v.v thì ý niệm, hay cảm giác phiền não, hay khổ đau kia sẽ không có mặt; và nếu nó không có mặt thì chúng ta đâu có khổ đau.

Từ lý luận đó, chúng ta tin rằng, nếu chúng ta cứ tiếp tục đánh lừa chính chúng ta, bằng cách trụ càng lâu trong cái mà chúng ta đang thích hướng về đó sẽ giải quyết được sự khổ đau, phiền não đến tận gốc rễ.

Hoặc trong qúa trình Thiền Định, chúng ta đặt ra một cái Giới Không Tưởng, đó là Giữ Cho Tâm Không Suy Nghĩ. Và chúng ta tin rằng, nếu làm như vậy, chúng ta sẽ chấm dứt được sự phiền não, khổ đau. Bởi vì, Tâm Chúng Ta Không Suy Nghĩ Gì Hết. Có nghĩa là, chúng ta không có khổ đau.

Sự thật đã chúng minh rất rõ ràng, cho dù, chúng ta có cố gắng giữ cho Tâm Chúng Ta Không Suy Nghĩ, hay chúng ta đè nén chúng, hay chúng ta trốn chạy theo cách chú Tâm vào một điểm khác và cố trụ trong đó càng lâu càng tốt, cuối cùng, chúng ta cũng phải trực tiếp đối diện và đương đầu với phiền não và khổ đau đang xẩy ra.

Vì sao? vì trong thực tế, sự khổ đau không phải chỉ nẩy sinh từ trong nội tâm của chúng ta, mà còn đến trùng trùng từ ngoại cảnh.

Nếu sự khổ đau đến từ trong nội tâm của chúng ta thì cách đổi hướng, hay đánh lừa suy nghĩ, có thể áp dụng. Nhưng nếu đến từ ngoại cảnh thì cách ứng dụng này gần như không có hiệu quả. Và sự thật cũng rất rõ ràng, chúng ta bị ảnh hưởng bởi ngoại cảnh liên tục. Không nói đâu xa, bản thân cháu chính là nạn nhân trong cách lý luận, và thực hành này.

Qua quan sát, cháu nhận thấy, khi một cảm giác phiền não hay khổ đau mới trồi lên trên bề mặt của ý thức thì sự tàn phá của nó nhẹ hơn; nhưng nếu chúng ta cứ tiếp tục dùng sai phương pháp, chúng ta cứ tiếp tục đè nén nó, việc làm đó, giống như, chúng ta đang ép lò xo vậy, khi nó bật dậy thì sức tàn phá của nó mạnh gấp trăm lần.

Thật tuyệt vời! Vậy còn Tuệ, định nghĩa theo cách cũ là gì, và làm sao dùng Tuệ? Ông chú hỏi.

Nếu lúc trước, mà chú hỏi câu này, cháu sẽ trả lời, nếu có thể duy trì được Cái Tâm Không Suy Nghĩ, hay chú tâm vào hơi thở thì ánh sáng của tuệ sẽ phát sinh. Khi có ánh sáng của Tuệ thì sẽ giải quyết được phiền não khổ đau.

Nhưng bây giờ thì cháu sẽ trả lời khác.

Định nghĩa của Tuệ cũng không phải là ánh sáng, mà là khả năng quan sát, phân tích, tổng hợp và quan trọng nhất là Nhìn Sâu. Như lần trước chú đã nhắc nhở, chúng ta đã có sự nhầm lẫn khi xem phương tiện là cứu cánh.

Qua quan sát, cháu cũng thấy đúng như vậy. Rõ ràng, sự An Lạc chỉ có thể có, khi chúng ta biết sử dụng khả năng quan sát, phân tích, tổng hợp, nhìn sâu, để tìm ra cách giải quyết vấn đề liên quan đến khổ đau.

Khi vấn đề đó được giải quyết thì sự khổ đau biến mất và chúng ta có được sự An Lạc. Nếu như chúng ta cũng quan sát, phân tích, tổng hợp nhưng với cái nhìn Nông (Trí) thì sự khổ đau có thể biến mất trong một giai đoạn ngắn, rồi sau đó trở lại, và có thể sẽ mạnh mẽ hơn khiến chúng ta khổ đau dài hơn.

Hay nói một cách rõ ràng hơn, cách giải quyết của Trí là cách giải quyết mang tính tạm thời và thường mang đến hậu quả.

Ngược lại, với cách giải quyết của Tuệ, qua sự quan sát và nhìn sâu, có thể tìm được nguyên nhân đích thực gây ra sự khổ đau, và khi chấm dứt ngay tại cái nhân đó thì An sẽ có mặt.

Hay có thể nói rằng, cách giải quyết của Tuệ là cách giải quyết mang tính cách rốt ráo, và thường đem đến Kết Quả.

Qua sự trải nghiệm mới này của cháu, thì cháu lại dùng Định trước Giới, nghĩa là, khi có một ý niệm bắt đầu xuất hiện trên bề mặt của ý thức, thì trước tiên, cháu Xác Định ý niệm đó đang có mặt trên ý thức là gì, sau đó, cháu dùng Giới để tìm ra những điều kiện gì cần có để giải quyết ý niệm đó.

Chính nhờ đặt ra những điều kiện, cho nên. khi sử dụng Tuệ, cháu mới nương theo những điều kiện đó để quan sát, phân tích, tổng hợp, nhìn sâu, vào trong ý niệm.

Thí dụ, Cháu đang ngồi một mình, và cháu có cảm giác Chán. Thay vì, tìm cách trốn tránh như: tìm cách đè nén cảm giác Chán. Cháu bắt đầu xác ĐỊNH sự có mặt của cảm giác Chán, và bắt đầu đi tìm những điều kiện cần có (Giới) để giải quyết cái Chán.

Tuệ khi tiếp nhận câu hỏi của Giới như: mình cần có những điều kiện nào để giải quyết triệt để nỗi Chán này? Và bắt đầu nương theo câu hỏi từ Giới, bằng sự quan sát, hay phân tích, hay nhìn sâu v.v.

Đôi khi Tuệ chỉ dùng một phần trong khả năng, cũng có khi, lại kết hợp với nhiều khả năng, tùy thuộc vào sự nặng hay nhẹ của Chán.

Nếu Tuệ lựa chọn bằng sự quan sát, thì Tuệ sẽ chú tâm theo dõi xem Chán sẽ ảnh hưởng như thế nào, và ảnh hưởng đến phần nào trong cơ thể v.v. Hễ Chán đi tới đâu thì sự quan sát dõi theo đến đó.

Nếu đó là cơn Chán nhẹ thì dưới sự quan sát của Tuệ, cơn Chán sẽ tự tan biến, và không bao giờ trở lại. Nếu cơn Chán nặng hơn, mà sự quan sát không thể giải quyết được thì sự quan sát bắt đầu kết hợp với sự Nhìn Sâu. Khi Nhìn Sâu có mặt thì lập tức đặt câu hỏi Tại sao.

Thí dụ:

Tại sao bạn Chán?

Tôi Chán vì Tôi không có việc gì làm.

Tại sao Bạn không có gì làm?

Tôi không có gì làm, vì tôi không biết làm gì cả.

Tại sao Bạn không biết làm gì cả?

Vì tôi sống không có mục đích.

Vậy mục đích của bạn là gì?

Mục đích của tôi là sống An vui.

Vậy việc làm gì sẽ khiến bạn vui?

Đi nhậu nhẹt với bạn bè.

Nếu như khi đi nhậu nhẹt, chẳng may có cuộc ẩu đả khiến cho bạn bị tàn tật, bạn có vui không?

Không, không những không vui mà còn đau khổ nữa.

Tại sao bạn đau khổ?

Vì tôi đang lành lặn mà lại trở nên tàn tật.

Vậy, nếu cho bạn lựa chọn giữa lành lặn và tàn tật thì bạn chọn cái nào?

Dĩ nhiên là lành lặn.

Tại sao bạn lại không chọn tàn tật?

Vì khi tôi bị tàn tật, tôi sẽ tự ty mặc cảm, mà khi tôi tự ty mặc cảm thì tôi rất đau khổ.

Như vậy, nguyên nhân gây ra đau khổ cho bạn là từ sự tự ty, mà sự tự ty có trong bạn là từ sự tàn tật, và sự tàn tật thì bắt nguồn từ sự đi nhậu nhẹt. Nếu bạn không muốn sau này bạn khổ dài dài thì bạn sẽ làm sao?

Thì tôi sẽ không bao giờ đi nhậu nhẹt nữa.

Bạn có chắc không? Biết đâu sau này bạn đổi ý thì sao?

Tôi chắc chắn.

Bạn dựa trên điều gì để bạn chắc chắn?

Tôi dựa vào quyền lợi của tôi. Nếu chỉ vì một bữa nhậu nhẹt, và nếu chẳng may tai nạn xẩy ra khiến tôi bị tàn tật cả đời thì chả dại gì mà tôi đi nhậu cả.

Ngoài nhậu nhẹt ra, bạn thích làm gì nữa?

Tôi thích đọc sách.

Đọc sách có lợi gì cho bạn?

Cho tôi, mở mang kiến thức.

Vậy kiến thức nào, bạn đang thiếu mà bạn cần mở mang?

Kinh nghiệm sống…

Thưa chú, nếu cứ tiếp tục, thì không biết đến bao giờ dừng. Nhưng Cháu có thể khẳng định một điều, khi cảm giác Chán bị “cuốn” vào trong nhìn sâu bằng những câu hỏi Tại Sao thì Chán không còn là một ý niệm xấu cần phải loại trừ hay loại bỏ.

Mà cảm giác Chán đã được chuyển hóa thành một công cụ sắc bén, giúp cho cháu có thể nhìn sâu hơn vào chính mình, có thể xác định được mục đích của mình là gì. Có thể nhìn sâu để nhìn ra những hậu qủa, hệ lụy từ một việc mà mình vẫn xem như là sở thích, nhưng không biết rằng, sở thích đó lợi hại như thế nào.

Trong những khả năng của Tuệ, thì khả năng Nhìn Sâu với sự bắt đầu bằng câu hỏi Tại Sao, thật là lợi hại. Hầu như tất cả những sự khổ đau trên cuộc đời này, nếu biết Nhìn Sâu thì đều có thể giải quyết một cách triệt để mà không cần phải dùng đến sự cố gắng đè nén hay tiêu diệt.

Này người bạn trẻ, đúng vậy.

Khi chúng ta biết ứng dụng Nhìn Sâu và biết cách đặt câu hỏi Tại Sao một cách sâu sắc, thì khả năng này của Tuệ sẽ giúp chúng ta giải quyết tất cả những sự khổ đau của một kiếp người.

Nếu bạn nhìn sâu và kỹ hơn, bạn sẽ thấy, hễ là con người, dù là trẻ sơ sinh cho đến ông bà cụ sắp mãn phần, không ai trong chúng ta không đi tìm sự An Vui cả. An Vui có thể nói, đó là mục đích lâu dài nhất, không hề bị đứt đoạn của một đời người.

Dĩ nhiên, trong đời người, chúng ta có nhiều mục đích cần phải thực hiện. Nhưng cho dù mục đích đó có là gì đi chăng nữa; cho dù, chúng ta có hoàn thành bao nhiêu mục đích đi chăng nữa; thì ngay sau khi chúng ta chấp nhận đã hoàn thành mục đích đó, nếu chúng ta tinh ý, chúng ta sẽ nhận ra cái cảm giác lúc đó cũng chỉ là sự thỏa mãn, An Vui.

Cho nên, cách hay nhất là chúng ta nên xác định lại mục đích của chúng ta cho rõ ràng; sau đó, chúng ta sẽ dùng Giới để duy trì mục đích đó, và sử dụng Tuệ để đi giải quyết vấn đề.

Thí dụ, An Vui là sự khao khát của con người bất kể tuổi tác. Cho dù, chúng ta có làm gì thì điều chúng ta đạt được khi thành công cũng là An Vui.

Cho nên, mục đích mà chúng ta nên xác Định chính là An Vui. Khi chúng ta có một vấn đề cần giải quyết thì chúng ta dùng Giới để xác định lại mục đích của chúng ta là gì, và vấn đề mà chúng ta đang gặp phải, có thay đổi mục đích của chúng ta không? Nếu có thay đổi, chúng ta dùng giới để duy trì thời gian giải quyết vấn đề. Sau đó, dùng Tuệ đặt những câu hỏi Tại Sao để tìm ra nguyên nhân tạo ra vấn đề, kế tiếp là giải quyết vấn đề bằng những câu hỏi Làm sao, và cuối cùng, chọn thời gian thích hợp để giải quyết vấn đề.

Nếu chúng ta làm được như vậy và thực tập thành một thói quen thì chúng ta sẽ có nhiều An Lạc hơn trong cuộc sống.

Hay quá chú ơi, chú đã rút gọn lại thành một phương pháp đơn giản, dễ hiểu và dễ thực hành hơn nhiều. Cám ơn Chú rất nhiều.

Tôi cũng cám ơn bạn rất nhiều.

Sao chú lại cám ơn cháu, cháu đâu có làm gì đâu?

Bạn thật khiêm tốn.

Này người bạn trẻ, bạn có biết không, chính nhờ sự nhìn sâu của bạn, mà bạn đã đưa định nghĩa của Giới, Định, Tuệ về đúng với ý nghĩa của nó.

Đây có thể được coi là một nền tảng vững chắc cho những ai muốn tự mình chuyển hóa khổ đau thành An Lạc.

Dĩ nhiên, trong quá trình đi tới Bản Thể của mỗi người, chúng ta đều có quyền lựa chọn phương tiện nào thích hợp nhất với mình, nhưng đừng bao giờ lầm tưởng: phương tiện là cứu cánh.

Tất nhiên, phương pháp Định, Giới, Tuệ của bạn có thể ứng dụng trong hành trình đi từ Bản Ngã tới Bản Thể, và sẽ giúp cho người đi tìm tới Bản Thể tránh được nhiều sai lầm trong nhận thức.

Nhưng nếu trong qúa trình đi từ Bản Thể về Bản Ngã thì sự ứng dụng sẽ vô cùng. Bạn có thể biến Định, Giới, Tuệ, thành Tuệ, Định, Giới, hay Tuệ, Giới, Định, hay Giới, Tuệ, Định v.v. tùy theo môi trường hoàn cảnh.

Tôi tin rằng, với khả năng của bạn, bạn sẽ biết cách ứng dụng này trong một tương lai rất gần.

Chú có thể cho cháu một thí dụ về cách dùng Tuệ, Định, Giới không?

Thí dụ, bạn đang đi trên đường và bạn chứng khiến một cảnh đụng xe giữa ngã tư đường do một người cố vượt đèn đỏ đụng vào một người đang chạy đèn xanh.

Nếu bạn bắt đầu dùng sự quan sát, phân tích, bạn có thể biết được nguyên nhân gây ra tai nạn phát xuất từ sự bất an đến từ một người, hoặc cả hai người. Và từ sự bất an của một người hay cả hai đã gây ra một hậu quả, tạo ra thương tật và đau khổ cho người. Nếu bạn dừng lại ở đây, và không tiếp tục quan sát và nhìn sâu thì bạn đang dùng Trí.

Nếu bạn tiếp tục nhìn sâu nữa, bạn sẽ thay thế người đang bị thương tích kia là bạn. Bạn sẽ cảm được nỗi đau mà bạn phải trải qua và chịu đựng nỗi đau trong tương lai nếu là thương tật vĩnh viễn.

Dĩ nhiên, trên thực tế, cơ thể bạn không trải qua sự đớn đau, thương tật. Nhưng qua sự quan sát và nhìn sâu, bạn đang trải nghiệm sự đớn đau từ cơ thể bạn.

Chính vì có sự trải nghiệm sự đớn đau trong thân xác bạn, và bạn không muốn điều đó xẩy ra. Cho nên, bạn quyết ĐỊNH đặt ra một kỷ luật (Giới) mà bạn phải tuân theo, đó là, bạn chỉ lái xe trong trạng thái bạn An. Nếu khi bạn có bất an thì bạn sẽ dừng việc lái xe lại. Vì sao? Vì nếu không giữ Giới, thì bạn sẽ là người gánh lấy sự khổ đau do sự bất An gây ra.

Cho nên, một người khi sử dụng đến Tuệ, họ luôn luôn kết hợp giữa Giới và Định một cách chặt chẽ. Vì vậy, tại sao họ có thể kéo dài được trạng thái An.

Ngược Lại, vì Trí tuy cũng có sự quan sát, phân tích nhưng thiếu sự nhìn sâu để đặt mình vào. Vì vậy, không dùng Định và Giới. Cho nên, tuy thấy người ta bị thương tật trong tai nạn, nhưng lại không biết ứng dụng điều đó cho mình.

Hoặc đôi khi, còn cười mỉa mai cho rằng, người kia lái xe quá kém mới gây ra tai nạn, chứ mình lái xe cừ hơn sức mấy mà có chuyện đó xẩy ra.

Thực tế, trên đời này, chưa ai lái xe mà chưa từng xẩy ra tai nạn cả. Có chăng, nó Chưa Xẩy Ra cho mình, chứ không phải Không Xẩy Ra.  Diễn dịch định nghĩa “Chưa Xẩy Ra” thành “Không Xẩy Ra” đó là một sự mê lầm lớn. Và ai trong chúng ta có nhận thức mê lầm này, chúng ta phải trả giá cho sự mê lầm đó thôi.

Thật vô cùng thú vị. Cháu cám ơn chú. Giờ thì cháu biết cháu sẽ làm gì. Nhật Minh nói.

Xa xa vọng về, tiếng của những đứa trẻ đang nô đùa, tiếng cười dòn tan, rộn rã. Chàng thanh niên đứng dậy, kiếu từ, và hẹn gặp lại ông chú chiều mai.

TỰ TIN (NIỀM TIN)

album-art

00:00

TẢI MP3 – TRƯƠNG THU HUYỀN

Chiều nay, Nhật Minh bận đi họp, nên chỉ có Diệu Hiền và Hoàng Trang đến thăm ông chú. Vừa đến chỗ ông chú ngồi, cả hai, Diệu Hiền và Hoàng Trang đã tự động phân ra ngồi hai bên cạnh ông chú. Hoàng Trang lên tiếng:

Chú ơi, ai trong chúng ta cũng cần có tự tin, vì khi có tự tin, chúng ta mới có thể làm được những điều chúng ta mong muốn.

Nhà Tâm Lý học, Albert Bandura, đã xác định tính tự tin vào năng lực bản thân là niềm tin của một người trong khả năng thành công trong những tình huống cụ thể hoặc hoàn thành một nhiệm vụ. Cảm giác tự tin vào năng lực bản thân của một người đóng một vai trò quan trọng trong việc tiếp cận các mục tiêu, nhiệm vụ hay thách thức.

Vậy theo như sự quan sát và nhìn sâu của chú thì có phương pháp nào giúp cho chúng ta có thể đạt được tự tin không chú?

Trước khi chúng ta nói đến những phương pháp về Tự Tin thì chúng ta cũng nên tìm hiểu về định nghĩa hai chữ Tự Tin là gì?

Tự là chính mình, Tin là nguồn năng lượng có trong Ngã Thức, diễn tả một trạng thái chấp nhận một điều gì, hay vật gì, hay người nào đó. Như vậy, Tự Tin có nghĩa là chính mình chấp nhận một điều gì, vật gì, hay người nào đó qua sự quan sát, phân tích, so sánh, v.v. từ Ý Thức.

Phần đông chúng ta hay “đánh đồng” hai chữ “tự tin” là để đánh giá về khả năng của chúng ta, hơn là hiểu đúng với định nghĩa.

Nếu cần phải đặt lại danh từ cho hai chữ “tự tin” mà chúng ta “đánh đồng”, thì chúng ta nên gọi là Khả Tin, nghĩa là lòng tin vào khả năng của mình; và trả lại định nghĩa cho hai chữ Tự Tin, khi chúng ta lại “đánh đồng” bằng hai chữ niềm tin. Như vậy mới đúng nghĩa.

Nhưng vì tôn trọng quyền diễn dịch của mọi người, chúng ta vẫn sử dụng hai chữ tự tin tức là khả năng, và niềm tin thay cho định nghĩa của tự tin.

Theo định nghĩa phổ thông, thì tự tin là khả năng của một cá thể, và niềm tin, có nghĩa là, sự chấp nhận một điều gì hay vật, người nào, theo ý chúng ta muốn. Hay ngắn gọn thì tự tin là ngọn, và niềm tin là gốc.

Nếu chúng ta là người có kinh nghiệm, chúng ta biết, muốn phát triển ngọn thì chúng ta nên bắt đầu từ gốc. Bởi vì, nếu gốc mà tróc rễ thì ngọn cũng không còn.

Vậy làm sao chúng ta có thể phát triển được niềm tin? Nếu muốn phát triển được niềm tin, chúng ta phải sử dụng đến sự vận hành của các thức để hiểu được niềm tin được tạo ra như thế nào, và tại sao Ngã Thức của chúng ta lại hay sử dụng niềm tin.

Trong chín thức, chúng ta đã phân chia rạch ròi những chức năng khác nhau của các thức. Trong đó, Ngã Thức làm chủ Ý Thức, và sử dụng Ý Thức để quan sát, phân tích, tổng hợp, nhìn nông hay sâu. Trong Ý Thức, vì có qúa trình quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp, nên chúng ta có sự chọn lọc.

Nhưng trong Ngã Thức, chúng ta chỉ có sự Lựa Chọn. Có nghĩa là, Ngã Thức của chúng ta chỉ có thể lựa những kết quả do Ý Thức phân tích, rồi chọn trong những kết quả đó cái nào tốt nhất, có lợi nhất cho Ngã Thức của chúng ta, và tin vào điều đó để ứng xử trong cuộc đời.

Chính vì vậy, niềm tin mà chúng ta có được bắt đầu từ Ý Thức, là nguồn cung cấp những dữ liệu cho Ngã Thức lựa chọn. Như vậy, nếu muốn chỉnh lại niềm tin có đúng với sự thật hay không thì chúng ta phải quan sát về Ý Thức.

Trong chín thức, chúng ta biết, chức năng của Ý Thức có phần nhìn nông và nhìn sâu. Khi nhìn nông thì chúng ta không biết được kết quả, nên phải dùng sự phỏng đoán hay tưởng tượng, và khi nhìn sâu, chúng ta cần sự kiểm chứng và thực chứng.

Thí dụ, nếu tôi hỏi bạn có biết ăn Igwava không? Nếu bạn không biết tiếng Xhosa thì có ba trường hợp sẽ xẩy ra.

Trường hợp một: bạn không biết định nghĩa chữ Igwava là gì, nên bạn không thể khởi được ý niệm về trái đó là gì, nên bạn sẽ không có hành động, ăn ra làm sao?

Trường hợp hai: tuy bạn không biết định nghĩa của Igwava là gì, nhưng bạn lại sử dụng sự phỏng đoán và tưởng tượng ra Igwava là trái vả hay trái vải (vì có âm cuối là wava).

Nếu như qua sự phỏng đoán và tưởng tượng của Ý Thức đưa ra kết quả, rồi đưa về kho của Ngã Thức, và Ngã Thức sau khi lựa chọn và tin vào điều đó. Đến sau này, có người nói với bạn, định nghĩa của Igwava là trái ổi thì bạn có thể vì tự ái, hay vì sự tự tôn, mà quyết định cãi đến cùng, vì đó là niềm tin của bạn, và bạn tin là bạn đã tin đúng.

Trường hợp ba: với một người có sự quan sát và nhìn sâu, họ không làm như trường hợp hai, mà họ sẽ đi tra cứu, tìm tòi, cho đến khi, họ biết đúng được định nghĩa Igwava là gì thì họ mới tin.

Với họ, tất cả cái gì khi qua sự quan sát, phân tích, so sánh, v.v của Ý Thức, đó chỉ là những thông tin và dữ liệu cần phải kiểm chứng và thực nghiệm, cho tới khi có kết quả rõ ràng. Họ chỉ tin vào kết quả qua sự kiểm nghiệm, chứ họ không tin vào thông tin và dữ liệu hay sự phỏng đoán hay tưởng tượng.

Sự khác biệt giữa trường hợp thứ hai và thứ ba, trong phần chín thức, chúng ta đã phân trường hợp thứ hai là Trí, và trường hợp thứ ba là Tuệ.

Như vậy, trong Ý Thức có hai phần cho Ngã Thức của chúng ta lựa chọn. Chúng ta có thể sử dụng Trí hay sử dụng Tuệ tùy theo Ý muốn của Ngã Thức của mỗi cá thể.

Tiếc thay, đa số chúng ta lại thích sử dụng Trí hơn Tuệ; cho nên, Ngã Thức của chúng ta thường rơi vào những niềm tin trên sự phỏng đoán hay tưởng tượng, mà không đúng sự thật.

Sự khổ đau hay những hậu quả mà chúng ta phải gánh chịu là chuyện tất nhiên. Vì khi tiếp xúc với sự thật, chúng ta không thể dùng được niềm tin của chúng ta nữa, hay cái gốc của chúng ta đã tróc gốc thì sự thiếu tự tin nơi bản thân cũng là chuyện không cần nghĩ bàn.

Như vậy, muốn đạt được sự tự tin (khả năng) ở phần ngọn thì chúng ta phải đi xuống gốc là niềm tin (tự tin). Xuống đến gốc của niềm tin, thì chúng ta lại phải tìm nơi Ý Thức. Khi nhìn sâu vào Ý Thức, chúng ta mới phát hiện ra nguyên nhân chính, đó chính là định nghĩa.

Hãy lấy thí dụ về hai chữ Tự Do khi chúng ta nhìn dưới dạng nông về định nghĩa như thế nào?

Tự Do theo định nghĩa có nghĩa là mình (tự) có thể nghĩ theo ý mình (do).

Phần lớn chúng ta đều hiểu gần đúng hai chữ Tự Do như định nghĩa trên, nhưng lại thay chữ “nghĩ” bằng chữ “làm”. Cho nên, đã gây ra sự hiểu lầm trong sự phân tích và cách ứng dụng. Từ đó, mới gây ra rất nhiều tranh cãi và không ai chịu chấp nhận ai.

Nếu chúng ta chịu khó quan sát kỹ và nhìn sâu, chúng ta thấy, trong định nghĩa của Tự Do nhấn mạnh đến chữ Ý. Chữ Ý ở đây phải hiểu là chỉ liên quan đến tư tưởng mà không hề nói đến hành động.

Nếu đứng trên góc độ ứng dụng về Tự Do, theo định nghĩa diễn dịch chung của chúng ta là: “mình muốn làm gì thì làm”, và nếu không muốn gây ra sự hiểu lầm, chúng ta phải thêm vào bốn chữ sau Tự Do, đó là: Tư Tưởng và Hành Động.

Tự Do Tư Tưởng là mình có quyền nghĩ theo ý mình, có quyền phỏng đoán, tưởng tượng theo ý mình, mà không ai có quyền can thiệp hay bắt buộc chúng ta phải thay đổi.

Đừng nói là người nào đó có đủ uy quyền như: người đang ở cõi trời hay cõi người, có thể khống chế, hay đưa ra quy định nào để áp đặt Tự Do trong tư tưởng của chúng ta, mà ngay cả Ngã Thức của chúng ta, nơi trực tiếp xẩy ra các hoạt động của khởi niệm, cảm xúc/giác, cũng không đủ khả năng để khống chế được sự hoạt động tự do tư tưởng của chúng ta (thuộc về Ý Thức qua tác động của nguồn năng lượng).

Thí dụ, chúng ta có một tư tưởng tiêu cực về một vấn đề nào đó, nếu chúng ta quan sát kỹ, chúng ta thấy, tư tưởng tiêu cực đó luôn sử dụng quyền tự do để diễn dịch những hiện tượng, tình trạng, hay định nghĩa theo cách tiêu cực mà tư tưởng đó chọn lựa.

Cho dù, Ngã Thức là chủ nhân của Ý Thức, nhưng Ngã Thức của chúng ta cũng khó có thể làm được gì với những tư tưởng tiêu cực đang sử dụng quyền tự do suy diễn này.

Cho nên, ngoài sự chịu đựng, chờ đợi cho những tư tưởng tiêu cực không còn sử dụng đến quyền tư do ra (do nguồn năng lượng tiêu cực khống chế Ngã Thức và sử dụng Ý Thức để phân tích, so sánh,v.v.), thì Ngã Thức cũng đành bó tay, chịu trận.

Phần đông, qua lâm sàng, các nhà tâm lý khi gặp những bịnh nhân có tư tưởng tiêu cực thì các nhà tâm lý trị liệu thường hay tìm mọi cách để thay đổi trạng thái hay góc độ nhìn của bịnh nhân, từ những tư tưởng tiêu cực sang tích cực.

Đứng trên góc độ về phương pháp thì đây là cách thức chuẩn không cần chỉnh. Vì sao? Vì muốn chữa tiêu cực thì dùng sự đối lập của tiêu cực là tích cực, là đúng cách.

Nhưng vấn đề ở đây là, các nhà tâm lý đã không để ý đến Tự Do và Quyền Tự Do (Ý Thức không bị giới hạn, trong quan sát, phân tích, v.v.) mà tư tưởng tiêu cực đang sử dụng.

Cho nên, tuy phương pháp là chuẩn nhưng đứng trên góc độ của kết quả thì cần chỉnh. Vì các nhà tâm lý đã không biết ứng dụng làm sao để chấm dứt quyền tự do mà tư tưởng tiêu cực đang sử dụng, nên kết quả thường không mấy khả quan.

Ở đây, chúng ta sẽ không đào sâu vào phương pháp làm sao chấm dứt quyền tự do tiêu cực của các nhà tâm lý, mà chúng ta chỉ quan sát và nhìn sâu để nhận dạng được Tự Do Tư Tưởng hoạt động như thế nào, và qua sự quan sát đó, chúng ta có thể hiểu được đúng sự thật về Tự Do Tư Tưởng.

Có nghĩa là, đứng trên góc độ của Tư Tưởng thì chúng ta có quyền tự do tuyệt đối. Không ai có thể ngăn cấm hay bắt buộc, áp chế chúng ta được.

Thí dụ, trong Tự Do Tư Tưởng, chúng ta có toàn quyền muốn hại ai thì hại, muốn tiêu diệt ai thì tiêu diệt, mà không có thần thánh, chính quyền, hay luật pháp nào dù thuộc về Tư Bản chủ nghĩa,  hay Xã Hội chủ nghĩa, có thể trừng phạt, bắt bớ, hay giam cầm chúng ta.

Chúng ta có toàn quyền tự do làm nổ tung trái đất, vỡ toang vũ trụ, tiêu diệt thần thánh, cũng không có ai có thể ngăn cấm hay tước đoạt đi Quyền Tự Do Tư Tưởng Tuyệt Đối này của chúng ta. Đó chính là sự thật.

Cho nên, trong định nghĩa Tự Do là mình muốn nghĩ gì theo Ý mình là hoàn toàn chính xác, khi chúng ta thêm vào hai chữ Tư Tưởng theo sau. Hay nói đúng hơn phải là Tự Do trong Tư Tưởng mới rõ nghĩa.

Nhưng khi ứng dụng Tự Do và Quyền Tự Do trong Hành Động thì lại hoàn toàn khác.

Khác ở chỗ nào vậy chú? Diệu Hiền hỏi.

Này bạn trẻ, ai trong chúng ta cũng biết, hành động bao giờ cũng phải đến sau sự tư duy, hay cảm xúc/giác. Nếu không có sự tư duy hay cảm xúc/giác khởi đầu thì chúng ta không thể hành động.

Trong hành động, luôn bao gồm hai trường hợp: một là trực tiếp, và hai là gián tiếp. Hành động trực tiếp là hành động có sự tham gia của sự tư duy và cảm giác.

Còn hành động gián tiếp thì có sự tham gia của cảm xúc với những nguồn năng lượng “không tên”. Cho nên, có những khi, chúng ta cứ hành động một cách “tự nhiên” theo thói quen của Tiềm Thức mà không hề có sự tham gia của cảm giác hay suy nghĩ.

Qua quan sát, chúng ta thấy, Tự Do Hành Động có thể bắt đầu từ Tự Do Tư Tưởng trực tiếp, hay Tự Do Tư Tưởng gián tiếp, tùy theo môi trường, hoàn cảnh, tình trạng v.v.

Nếu như Ngã Thức của chúng ta có sự tư duy hay cảm giác tích cực thì chúng ta sẽ có những hành động tích cực. Nếu như chúng ta có những tư duy, hay cảm xúc tiêu cực thì chúng ta có những hành động tiêu cực.

Đó là đứng trên góc độ về nhân quả, khi tư tưởng hay cảm xúc/giác là Nhân và hành động là Quả.

Nhưng nếu đứng trên góc độ về: kinh tế, xã hội, chính trị, thì Tư Tưởng Hành Động, tuy được bắt đầu bằng quyền tự do trong tư tưởng, nhưng Tự Do trong Hành Động lại phải phụ thuộc vào môi trường, và hoàn cảnh chung quanh và có hai trường hợp sẽ xẩy ra.

Trường hợp một: Nếu Tự Do Hành Động của một cá thể nào đó, mà hành động đó chỉ ảnh hưởng đến cá thể đó, hay riêng cho cá thể đó thì Tự Do Hành Động của cá thể đó là tuyệt đối.

Trường hợp hai: Nhưng nếu như, Tự Do Hành Động của cá thể đó lại liên quan đến tập thể thì Tự Do Hành Động của cá thể đó sẽ bị giới hạn, từ tuyệt đối biến thành tương đối, và cá thể đó phải tuân theo quyền tự do chung của tập thể đã quy định.

Quyền tự do chung của tập thể là quyền tự do mà những cá thể, khi đã chịu chấp nhận sống chung, hay sinh hoạt chung, đòi hỏi mỗi cá nhân phải hy sinh một số quyền tự do tư tưởng (tuyệt đối) của cá nhân, và phải chấp nhận hành động theo quy định về tự do chung (tương đối) để tạo ra an ninh, hay an toàn chung cho tập thể.

Nếu cá nhân đó không tuân theo những quy định do tập thể quy định thì cá nhân đó có thể bị tập thể khống chế hay bắt buộc.

Thí dụ, nếu đứng trên góc độ Tự Do về Tư Tưởng thì cá nhân nào đó, có thể coi hại người là niềm vui, và có thể hại bất cứ một ai mà người đó không thích trong tư tưởng, mà không hề bị sự trừng phạt, bắt bớ, hay giam cầm từ bất cứ ai.

Nhưng nếu cá nhân đó đem tự do trong tư tưởng của mình,  và áp dụng Tự Do trong Hành Động liên quan đến tập thể, và gây thiệt hại cho tập thể thì cá nhân đó sẽ bị tập thể khống chế, trừng phạt, bắt bớ, giam cầm, hay tiêu diệt.

Vì sao? Vì Quyền Tự Do Hành Động của cá nhân đó đã vi phạm vào quyền tự do chung, vi phạm vào an ninh, hay an toàn chung của tập thể.

Đây chính là vấn đề mà chúng ta gây ra tranh cãi nhiều nhất. Bởi vì, chúng ta đã có sự hiểu lầm giữa Tự Do trong Tư Tưởng và Tự Do trong Hành Động.

Ở các nước có nền Dân Chủ cao, luật pháp được đặt ra để bảo vệ sự an ninh, an toàn, và quyền lợi của mỗi cá thể theo đa số. Luật pháp sẽ dựa trên đa số để quy định ra những quyền tự do hành động cho tập thể và bắt buộc mỗi cá thể trong tập thể đó phải tuân theo.

Vì chỉ dựa trên đa số, cho nên, tự do trong hành động của mỗi cá thể trong tập thể sẽ luôn có sự chống đối hay không hài lòng của thiểu số về những quy định do luật pháp của đa số đặt ra.

Với những người thuộc phe thiểu số, họ hay lý luận rằng, họ có quyền tự do hành động theo những gì họ muốn để biện minh cho những việc họ làm trái, hay sai, với những quy định về quyền tự do hành động chung của tập thể đã quy định.

Họ cho rằng, những quy định đó vi phạm vào quyền tự do hành động của họ và họ cảm thấy bất công, cho nên, họ phải tranh đấu để được quyền tự do hành động.

Nhưng thật ra, họ đã lầm lẫn giữa Tự Do và Quyền Tự Do giữa Tư Tưởng và Hành Động.

Nếu họ thêm vào bốn chữ sau Tự Do là, Tư Tưởng hay Hành Động, thì họ sẽ không rơi vào sự mơ hồ hay biện minh cho cái quyền tự do mà họ có thể sử dụng.

Thí dụ, họ có thể đạt được quyền tự do trong hành động một cách tuyệt đối khi họ chọn lựa sống một mình, không sinh hoạt hay va chạm gì đến tập thể. Lúc đó, họ có toàn quyền tự do hành động theo đúng ý họ muốn mà tập thể không thể áp đặt hay trừng phạt họ.

Vấn đề rắc rối ở đây là, họ lại không muốn sống một mình, họ muốn sống chung với mọi người nhưng họ lại muốn có cái quyền tự do hành động tuyệt đối theo ý họ. Và họ bắt mọi người phải chiều theo ý muốn của họ. Nếu không, họ coi như quyền tự do hành động của họ bị xâm phạm, bị cấm đoán.

Trong khi, họ không bao giờ nghĩ, nếu như, người ta thuộc đa số lại phải chiều họ, thì họ thuộc về thiểu số, họ có chịu chiều người ta không? Nếu họ đòi có quyền tự do hành động tuyệt đối, thì những người khác, cũng có quyền tự do hành động tuyệt đối, tại sao người khác lại phải nhường quyền đó cho họ?

Rõ ràng, chúng ta đang sống trong thế giới của nhị nguyên, thế giới của đúng sai, thế giới của tương đối, thế giới của đa số và thiểu số, chứ không phải chúng ta đang sống trong thế giới của nhất nguyên, của tuyệt đối. Cho nên, nếu chúng ta cứ đòi hỏi tất cả các sự việc phải xẩy ra theo tuyệt đối thì đó chỉ là ảo tưởng, không thật, và mãi mãi không bao giờ xẩy ra.

Hãy lấy thí dụ về quyền Tự Do Ngôn Luận, đứng trên góc độ về chính trị, phần lớn chúng ta vẫn hay có sự hiểu lầm và gây ra biết bao tranh cãi.

Theo định nghĩa, quyền tự do ngôn luận là quyền của mỗi một công dân, có quyền nói nên những ý kiến đóng góp cho chính quyền, khi chính quyền đó có những luật lệ gây ra ảnh hưởng đến quyền lợi, an ninh, hay an toàn của tập thể chung; và quyền tự do ngôn luận là quyền tự do thuộc về hành động chứ không phải là quyền tự do thuộc về tư tưởng.

Khi đã nói đến chính quyền, đến tập thể chung, có nghĩa là, quyền tự do đó sẽ chỉ là tương đối chứ không phải tuyệt đối (muốn nói, hay muốn làm gì thì làm), và phải theo sự lựa chọn của đa số chứ không phải là thiểu số.

Thế nên, khi những phản đối hay ý kiến đòi hỏi của nhóm thiểu số đưa ra mà không được chính quyền thay đổi, hay thi hành, thì những người thuộc về thiểu số sinh ra bất mãn và cảm thấy quyền tự do ngôn luận bị vi phạm, khống chế, hay bị kiềm kẹp. Thế là, họ đứng lên kêu gọi biểu tình, gây loạn lạc, chiến tranh, gây ra tang thương, đau khổ cho những người khác.

Để tránh những tình trạng bất ổn, và bảo đảm an ninh, an toàn cho đa số, chính quyền phải bắt giam hay trừng phạt những người thiểu số này. Khi bị bắt giam, những người thiểu số này lại cho rằng, chính quyền đó đã vi phạm vào quyền tự do ngôn luận hay tự do hành động của họ. Đây chính là chuẩn nhưng cần chỉnh. Vì sao?

Vì Quyền Tự Do Ngôn Luận, không phải là quyền tự do tuyệt đối theo tư tưởng của cá nhân, mà là quyền tự do hành động tương đối theo tập thể.

Nếu tập thể muốn thay đổi thì đa số trong tập thể phải lên tiếng. Và chỉ khi đa số trong tập thể muốn thay đổi thì chính quyền mới thay đổi. Còn nếu như đa số vẫn chấp nhận và chỉ có thiểu số muốn thay đổi thì chính quyền sẽ không vì quyền tự do ngôn luận của thiểu số mà thay đổi, rồi sau đó, bắt đa số phải chấp nhận. Đây chính là cách sinh hoạt của thế giới tương đối, hay thể chế dân chủ.

Chúng ta, ai cũng có quyền lựa chọn. Chúng ta có thể lựa chọn sống trong thế giới tương đối hay tuyệt đối. Nhưng chúng ta chỉ có quyền, chọn một trong hai, chứ không thể nào chọn cả hai cùng một lúc được.

Tệ hại hơn, không ít người trong chúng ta lại diễn dịch quyền tự do ngôn luận, vốn chỉ dành trong lĩnh vực chính trị, lấn qua xã hội và kinh tế v.v. 

Chúng ta cho rằng, chúng ta có quyền tự do tuyệt đối, muốn nói gì thì nói, chúng ta có thể nói về bất cứ ai, và nói bất cứ đề tài nào, về người nào đó, ngay cả đặt điều, hay nói không đúng sự thật, mà không cần phải chịu trách nhiệm là chúng ta có gây ra tổn thương cho người khác hay không, hay có làm tổn hại đến công ty của người khác hay không? Bởi vì, theo lý luận và diễn dịch của chúng ta, chúng ta có quyền tự do ngôn luận.

Nếu như chính quyền hay luật pháp vì bảo vệ quyền tự do chung của mọi cá nhân trong tập thể, và trừng phạt cái quyền tự do hành động hay ngôn ngữ gây ra tổn thương và tổn hại cho người khác của chúng ta, thì chúng ta cho rằng, chính quyền hay luật pháp đó bất công đã vi phạm vào quyền tự do hành động hay tự do ngôn luận tuyệt đối của chúng ta. Và chúng ta nổi loạn, chống đối lại chính quyền hay đa số.

Rõ ràng, quyền tự do ngôn luận chỉ được áp dụng cho chính trị, chứ không hề áp dụng cho xã hội hay kinh tế. Nhưng chúng ta lại thích diễn dịch theo ý mình, nên đã gây ra những nhận thức sai lầm, những tư tưởng lệch lạc, những phỏng đoán thiếu chính xác.

Rồi chúng ta dựa trên sự tư duy đó để hành động, và tạo ra vô vàn hậu quả mà chúng ta phải gánh chịu, bao gồm: sự bạo loạn, đấu tranh, loạn lạc, chết chóc, đau thương, và khốn khổ cho tất cả mọi người.

Với những nước có nền dân chủ cao, những luật lệ được đặt ra, dựa trên quyền tự do chung, thì trong luật lệ, luôn có một phần đặt biệt dành cho những cá nhân thuộc về thiểu số.

Với những người thiểu số, họ có thể dành được quyền tự do chung của tập thể, theo ý họ, mà không cần phải gây ra bạo động, nổi loạn, gây ra chiến tranh, tàn hủy con người, đó là, luật lệ hay chính quyền luôn cho phép những người thuộc phe thiểu số có quyền kêu gọi, thỉnh cầu, thuyết phục những cá nhân khác, qua diễn thuyết, hay dự luật bầu cử, để thay đổi luật lệ, luật pháp, hay chính quyền, khi nhóm thiểu số biến thành đa số.

Tiếc rằng, phần lớn chúng ta lại thích sử dụng đến bạo động, nổi loạn, đấu tranh, lật đổ, hơn là sử dụng những quyền mà luật pháp cho phép, trong cách giải quyết ôn hòa, êm thắm.

Dĩ nhiên, trên thực tế, cái quyền tự do chung của luật pháp, cho phép những người thiểu số có thể thay đổi cái quyền tự do hành động, theo ý họ, tùy thuộc vào mỗi quốc gia, hay các thể chế. Có nơi có, nơi không.

Nhưng trên căn bản, ai trong chúng ta cũng đều có Tự Do và Quyền Tự Do. Vấn đề ở đây là, Tự Do và Quyền Tự Do đó, chúng ta sẽ sử dụng vào lĩnh vực nào. Vì mỗi lĩnh vực khác nhau thì Tự Do và Quyền Tự Do sẽ có sự ứng dụng, giới hạn, cũng như kết quả hay hậu quả sẽ khác nhau.

Cho nên, khi chúng ta nói đến tự do và quyền tự do thì chúng ta cần phải hiểu rất rõ ràng, đó là tự do và quyền tự do đang thuộc về tư tưởng hay hành động.

Tóm lại, Tự Do trong Tư Tưởng là sự tự do tuyệt đối của cá nhân. Không ai có quyền cấm, bắt, giam, hay trừng phạt cá nhân đó, nếu như cá nhân đó dùng quyền tự do tuyệt đối trong tư tưởng của cá nhân đó mà thôi.

Ngược lại, Tự Do trong Hành Động là sự tư do tương đối, khi cá nhân đã chấp nhận sống chung với tập thể, và phải chấp nhận thay đổi một số quyền tự do tuyệt đối của họ theo quyền tự do chung tương đối của tập thể đã quy định.

Cá nhân đó, có quyền sử dụng quyền tự do hành động một cách tuyệt đối theo ý mình, khi cá nhân đó chỉ sinh hoạt một mình, và không có sự liên hệ hay va chạm đến tập thể.

Nếu cá nhân đó, vì sợ sống cô đơn, hay vì lý do gì khác, muốn sống chung với tập thể, thì cá nhân đó phải chấp nhận lệ thuộc vào quyền tự do chung của tập thể, và phải tuân thủ theo đúng với những luật lệ quy định mà tập thể đó đặt ra.

Nếu cá nhân nào vi phạm vào quyền tự do chung của tập thể thì sẽ bị luật pháp hay luật lệ của tập thể đặt ra, trừng phạt, bắt ép, giam cầm v.v.

Qua thí dụ về định nghĩa hai chữ Tự Do, chúng ta thấy, chỉ cần chúng ta diễn dịch lệch lạc là chúng ta sẽ tạo ra biết bao khổ đau cho con người.

Chính vì vậy, chúng ta phải rất cẩn thận khi diễn dịch định nghĩa của chúng ta, nếu không, chính chúng ta cũng đang biến chúng ta thành nạn nhân của chính mình.

Trở lại niềm tin, nơi mà Ngã Thức của chúng ta nương tựa vào đó để xây dựng cá tính và cách ứng xử của chúng ta. Chúng ta thấy, niềm tin của chúng ta là cái quả từ cái nhân là định nghĩa. Nếu muốn thay đổi cái quả, chúng ta chỉ cần bắt đầu từ nhân.

Và đây là một số phương pháp mà chúng ta có thể ứng dụng trong đời sống hàng ngày để tạo ra một niềm tin vững chãi.

Khi bắt đầu một câu chuyện thì chúng ta nên luôn luôn xác định chúng ta đang đứng trên góc độ nào để nói. Việc xác định góc độ sẽ giúp cho chính chúng ta và người nghe có thể nhìn về cùng một hướng.

Khi chúng ta dùng những từ ngữ liên quan đến cảm xúc/giác, chúng ta cũng nên nói rõ định nghĩa của chúng ta là gì. Không có định nghĩa đúng hay sai. Chỉ là, mỗi người chúng ta đều có quyền diễn dịch theo ý của mình. Vì vậy, trong giao tiếp, chúng ta cần nên nói rõ định nghĩa của chúng ta để tránh gây ra những hiểu lầm về định nghĩa.

Khi nghe những từ ngữ liên quan đến cảm xúc/giác, chúng ta cũng nên xác định và hỏi lại đối tượng định nghĩa của họ là gì. Hỏi để chúng ta biết về định nghĩa và góc độ nhìn hay sự diễn dịch định nghĩa của họ, chứ không phải để lên án hay chỉ trích định nghĩa của đối tượng là đúng hay sai. Hay áp lực người đó phải thay đổi định nghĩa của họ theo mình.

Không nên sử dụng tiêu chuẩn kép, dù trong bất cứ trường hợp nào. Chỉ nên dùng một tiêu chuẩn: hễ đúng với mình thì đúng với người, mà sai với mình thì sai với người.

Muốn xác định được niềm tin của chúng ta như thế nào thì trước khi tin, nên hỏi những câu hỏi như sau: “có thật không”, “đã hỏi hay hiểu được định nghĩa của họ chưa?” Nếu là thông tin, thì “nguồn đó ở đâu?”, “có đáng tin cậy không?”, “Có bao nhiêu thông tin trái ngược với thông tin này?”, v.v.

Khi đã tin, và trong hành xử, thì dùng kết quả hay hậu quả để biết được niềm tin đó đúng hay sai. Nếu ra kết quả là đúng, nếu ra hậu quả là sai. Khi sai thì thay đổi lại định nghĩa, chứ không cần chèn ép hay áp bức phải thay đổi trong cách hành xử.

Đó là vài nét về cách ứng dụng để chỉnh lại niềm tin.

Khi niềm tin được kiểm chứng, có hiểu biết rõ ràng những góc độ, thì niềm tin đó sẽ đem đến cho chúng ta nhiều kết quả hay An Lạc nhiều hơn.

Khi có được sự An Lạc, và chúng ta chia xẻ trong chính những sự trải nghiệm, kiểm nghiệm của chúng ta thì khi nói hay làm việc gì, chúng ta sẽ tự tin. Vì sao? Vì chúng ta dựa vào kết quả và sự trải nghiệm của chính chúng ta.

Ngày nay, một số các diễn giả hay hướng dẫn các cách thức, hay phương pháp để gia tăng sự tự tin (tin vào khả năng của mình) của cá thể. Nhưng sự thật, sự tư tin chỉ xuất hiện khi chúng ta có niềm tin vững chãi, đúng với sự thật.

Khi niềm tin của chúng ta chỉ dựa trên sự phỏng đoán hay tưởng tượng thì khi tiếp xúc với sự thật chúng ta sẽ dễ bị “vỡ mộng”.

Chính vì vậy, không ít người trong chúng ta đã vô cùng thất vọng về những niềm tin của mình, và cuối cùng rơi vào trạng thái tự ty, tự tôn.

Tóm lại, muốn có được tự tin (tin vào khả năng của mình) thì nên phát triển từ niềm tin. Niềm tin chính là gốc rễ của tự tin. Khi gốc rễ phát triển mạnh thì tự tin sẽ có mặt, hay nở hoa trái là chuyện tất nhiên.

Thí dụ: chúng ta chỉ có thể tự tin khi chúng ta có kinh nghiệm hay trải qua những vấn đề nào đó. Nếu chúng ta không có kinh nghiệm thì chúng ta không thể tự tin được. Nếu có chăng, đó cũng là sự đánh lừa hay “tự trấn an”, chứ đó không phải là tự tin.

Chúng ta phải hiểu, khi nói tự tin là khả năng, có nghĩa là, chúng ta đã phải làm qua, trải qua, mới xác định được chúng ta có khả năng hay không. Chứ không thể nào, chưa làm qua, mà chúng ta có thể khẳng định là chúng ta có khả năng được; trừ khi, chúng ta dùng sự tượng tượng và phỏng đoán để đưa ra kết quả.

Và muốn trải qua, hay có kinh nghiệm thì chúng ta phải có niềm tin trước, rồi mới bắt đầu thực hành quá trình trải nghiệm hay tích lũy kinh nghiệm.

Nếu chúng ta không bắt đầu từ niềm tin, và cứ tìm đủ mọi phương pháp để gia tăng sự tự tin, thì cũng giống như chúng ta đang “mò trăng dưới nước” vậy.

Thay vì, tốn nhiều thời gian cho việc phát triển cái ngọn tự tin, chúng ta nên dành thời gian đó để kiểm chứng và thay đổi lại những niềm tin mà chúng ta đã tích lũy trong qúa khứ.

Nếu niềm tin nào đúng thì chúng ta giữ lại, và niềm tin nào sai thì chúng ta đi thay lại định nghĩa mới cho niềm tin đó.

Việc làm này, xem ra hợp lý, thiết thực, và hữu ích hơn. Vì sao? Vì chúng ta đang có vô vàn niềm tin vẫn chưa được kiểm chứng.

Cứ càng nghe chia xẻ của chú thì cháu càng thấy chúng ta thích dùng Trí hơn dùng Tuệ chú nhỉ.

Chẳng trách sao, cuộc đời của chúng ta cứ đau khổ, vì chúng ta cứ lo tập trung để phát triển về phần ngọn mà lại quên đi phần gốc. Thật đáng tiếc làm sao. Hoàng Trang nói.

Những đứa trẻ từ đâu kéo đến gần chỗ ba chú cháu đang ngồi, và bầy trò chơi “bịt mắt bắt dê”. Chúng vui đùa, cười nắc nẻ. Ba chú cháu cùng hướng mắt về đám trẻ và vui lây với sự hồn nhiên tươi mát của trẻ thơ.

ĐÓA HOA VÔ THƯỜNG

album-art

00:00

TẢI MP3 – TRƯƠNG THU HUYỀN – VINH ĐOÀN

TẢI NHẠC MP3 – CA SĨ VINH ĐOÀN

Chiều nay, cả ba, Diệu Hiền, Hoàng Trang và Nhật Minh cùng đến thăm ông chú.

Diệu Hiền vừa gặp ông chú đã tíu tít cười nói:

Chú ơi, chúng ta đã chia xẻ rất nhiều về tôn giáo và tâm lý, chiều nay, chúng cháu muốn nghe chú chia xẻ về âm nhạc được không chú.

Xin chiều lòng các bạn, vậy bạn muốn chúng ta sẽ chia xẻ về tác giả nào. Ông chú nói.

Trịnh Công Sơn đi chú. Chúng cháu rất mê nhạc của chú Trịnh, nhưng đôi khi nghe xong vẫn chưa hiểu được trọn vẹn ý nghĩa của mỗi bài hát, hay là chú chia xẻ với chúng cháu về bài Đóa Hoa Vô Thường nghe chú.

Trịnh Công Sơn có thể nói là một nhạc sĩ lớn trong nền âm nhạc Việt Nam. Cuộc đời của ông đã để lại rất nhiều những tác phẩm có giá trị vượt không gian và thời gian.

Không ai có thể phủ nhận tài hoa của ông khi ông sử dụng những từ ngữ “siêu việt” trong những bài nhạc của ông. Nhưng cách ứng xử của ông, cũng có rất nhiều người không mấy hài lòng, nhất là đứng trên góc độ về chính trị.

Ở đây, chúng ta sẽ không đánh giá về cách ứng xử của Trịnh Công Sơn là Đúng hay Sai. Vì Đúng hay Sai, không phải dùng để đánh giá người khác, mà dùng để hoàn chỉnh lại chính mình.

Cho nên, chúng ta chỉ nên quan sát Nhạc của Trịnh Công Sơn dưới góc nhìn của Tuệ Giác.

Nói đến nhạc của Trịnh Công Sơn là phải nói đến tính vô thường của vạn pháp. Nếu chúng ta lấy đi tính vô thường trong nhạc Trịnh, thì nhạc của Trịnh Công Sơn cũng không còn những nét đẹp như hiện tại.

Trong hầu hết các nhạc phẩm của Trịnh Công Sơn, chúng ta luôn gặp những cặp đối đãi dính liền với nhau. Ông vừa đưa ra điều vui trong câu trước, thì ngay trong câu sau, đã dính liền với nỗi buồn.

Cái hay trong nhạc Trịnh về nỗi buồn, không phải là một sự oán hờn, tránh móc, hay thù hận, mà nỗi buồn đi theo, để nhấn mạnh đến tính vô thường luôn có mặt trong cuộc sống của chúng ta trong từng mỗi phút giây.

Chúng ta vì đã qúa quen sử dụng Tiềm Thức, nên chúng ta không Ý Thức được sự vô thường đang xẩy ra chung quanh chúng ta; cho nên, chúng ta hay quá ỷ y rằng, cuộc sống hay tình cảm của chúng ta rất bền bỉ và lâu dài.

Có thể nói, nhạc Trịnh như một tiếng chuông “cảnh tỉnh”, giúp chúng ta sử dụng Ý Thức nhiều hơn để nhận diện được thực tại đang xẩy ra trong vô thường.

Cái hay của nhạc Trịnh chính là, khi Ý Thức được sự vô thường, thay vì sợ hãi, thì Trịnh Công Sơn lại chia xẻ cho chúng ta một góc nhìn mới. Góc độ đẹp của vô Thường.

Đóa Hoa Vô Thường là một bài nhạc rất lạ của Trịnh Công Sơn. Trong vài trăm bài nhạc của ông, có những bài nhạc ông diễn tả về Bản Thể, có những bài nhạc ông diễn tả về Ứng Dụng, nhưng hiếm có bài nào, ông lại diễn tả cả một qúa trình đi từ Bản Ngã đến Bản Thể, và đi từ Bản Thể về lại Bản Ngã, như bài Đóa Hoa Vô Thường này.

Ngay phần mở đầu, chúng ta đã thấy “bóng dáng của mười bức tranh chăn trâu” qua việc xác định mục đích của một người đi từ Bản Ngã đến Bản Thể.

Trong bốn câu đầu tiên, nếu chúng ta chỉ hiểu theo nghĩa đen, thì đó có thể diễn tả trạng thái của một người con trai đi tìm một người con gái đẹp, nhưng người con gái này, không phải đẹp về hình tướng, mà đẹp về tinh thần.

Tìm em tôi tìm mình hạc xương mai

Theo định nghĩa của Huỳnh Tịnh Của, “Mình hạc xương mai”, có nghĩa là, người có xương nhỏ ốm yếu, thanh cảnh, cốt cách lịch sự, hay sự duyên dáng của người phụ nữ.

Trong ngôn ngữ học của phương Đông, Hạc là con vật tượng trưng cho sự tinh tuý, thanh tịnh, thần tiên thoát tục hay còn gọi là Tiên Hạc.

Chim Hạc là loài đứng đầu trong họ lông vũ còn gọi là đại điểu, hay nhất phẩm điểu, có tính cách của một người quân tử, là con chim của vũ trụ, của tầng cao, báo hiệu sự chuyển mùa, đại diện cho thế lực thiên nhiên từ trời xanh.

Hạc loại linh vật được cho là bất tử của loài chim, là loài chim có phẩm chất cao quý, mạnh mẽ, đối đầu với khó khăn, mang lại nhiều may mắn.

Tìm trên non ngàn một cành hoa khôi

Câu kế tiếp, Trịnh Công Sơn vẫn tiếp tục khẳng định cái đẹp như hoa khôi – đứng đầu các loại hoa.

Nụ cười mong manh, một hồn yếu đuối

Trong câu này, nếu hiểu theo nghĩa đen, thì sẽ thấy vô cùng khó hiểu, vì nếu hai câu đầu đang xác định về cái đẹp rất rõ ràng, thì qua “câu nụ cười mong manh, một hồn yếu đuối”, lại diễn tả về cái gì đó không được đẹp mấy. Vậy thì ý nghĩa của câu này, nếu phải hiểu, thì nên hiểu là, trong một tâm hồn yếu đuối luôn khổ đau, khi có thể nở được nụ cười, thì nụ cười đó cũng là một nét đẹp, mặc dù, nét đẹp đó rất mong manh, dễ biến mất.

Một bờ môi thơm, một hồn giấy mới

Trong câu này Trịnh Công Sơn cũng lại đưa về hình ảnh đẹp.

Nếu tóm lại, trong bốn câu trên, chúng ta thấy ông đang diễn tả về những nét đẹp đang có mặt trong cuộc đời.

Nếu hiểu theo nghĩa đi tìm người yêu, thì đây chính là mẫu người yêu lý tưởng mà ông đi tìm, người yêu này, không phải là người yêu có những nét kiều diễm về hình tướng, mà người yêu của ông, lại có những nét đẹp về tinh thần. Nét đẹp công, dung, ngôn, hạnh của người phụ nữ, tuy cuộc đời có đầy những khó khăn khổ cực, nhưng vẫn dịu dàng, chịu đựng, hy sinh, với một tâm hồn bao dung, độ lượng.

Nhưng nếu đứng trên góc độ về nghĩa bóng, thì nhạc phẩm Đóa Hoa Vô Thường lại đang diễn tả về qúa trình trải nghiệm của ông/hành giả đi từ Bản Ngã đến Bản Thể.

Trong bốn câu trên, chúng ta thấy “bóng dáng” của bức tranh thứ nhất: Tìm Trâu, đang được ông dựng lại qua ngôn ngữ mới.

Hình ảnh “Mình Hạc xương mai, hoa khôi, nụ cười, một hồn giấy mới” là biểu hiện của sự An và Lạc khi đối diện được với sự thật mà ông mong muốn đạt được.

Tìm em tôi tìm, nhủ lòng tôi ơi

Về nghĩa đen, trong câu này, diễn tả một sự quyết tâm của một người khi đã xác định được mẫu người yêu lý tưởng, thay vì, chỉ lưu lại trong Tiềm Thức thì lại bắt đầu thực hiện ý định đi tìm của mình. Hai chữ “nhủ lòng” như một sự nhắc nhở, không được quên mục đích mình muốn đi tìm. 

Tìm đêm chưa từng, tìm ngày tinh khôi

Và hành động đi tìm này, không dừng lại, dù là ngày hay đêm.

Tìm chim trong đàn ngậm hạt sương bay

Ngay cả những nơi chốn khó tìm, hay cả những sự việc tưởng chừng như hoang tưởng: “ngậm hạt sương bay–hạt sương đã bay, làm sao ngậm được”, nhưng vẫn đi tìm.

Tìm lại trên sông những dấu hài

Dù tìm nơi xa xăm, hay hoang tưởng vẫn không thể gặp, nên ông lại quyết định trở về, tìm lại những nơi quanh mình, xem có gặp được không.

Tìm em xa gần, đất trời rộn ràng

Và sự quyết tâm đi tìm này, không hề buông bỏ, vẫn tiếp tục đi tìm từ gần đến xa. Trong câu này, hai chữ “rộn ràng” diễn tả cảm giác như, sắp tìm ra được người yêu lý tưởng của mình trong một thời gian rất gần.

Tìm trong sương hồng, trong chiều bạc mệnh

Câu này, cũng diễn tả sự đi tìm chưa hề dừng lại dù ngày hay đêm. Sương hồng là những giọt sương buổi sang; bạc mệnh có nghĩa là sắp chấm dứt số mệnh của buổi chiều, hay sắp tối.

Trăng tàn nguyệt tận chưa từng tuyệt vọng đâu em

Có thể nói, cùng một ý nghĩa diễn tả về cuộc đi tìm của ông từ sáng đến tối, nhưng qua ngôn ngữ của ông, ông đã dùng đến ba hình ảnh khác nhau như: Tìm đêm chưa từng, tìm ngày tinh khôi, Tìm trong sương hồng, trong chiều bạc mệnh, Trăng tàn nguyệt tận. Mỗi câu đều có những nét đẹp riêng, nhưng vẫn mang một ý nghĩa chung: từ sáng đến tối.

Trong câu này, ông vẫn tiếp tục khẳng định mục đích đi tìm của ông rất rõ ràng, không lùi bước, không hề tuyệt vọng.

Về nghĩa bóng, trong bẩy câu trên, chúng ta thấy được bóng dáng của bức tranh thứ hai và ba: Thấy Dấu, qua bốn câu trước, và Thấy Trâu, trong ba câu sau.

Trong qúa trình Thấy Dấu, chúng ta thấy, ông đã diễn tả những dấu mà ông đi tìm qua, những chữ như: nhủ lòng, tìm đêm, tìm ngày, tìm chim, tìm lại trên sông v.v.

Trong qúa trình Thấy Trâu, ông dùng những từ như: rộn ràng, chưa từng tuyệt vọng. Nếu diễn rộng hơn, chúng ta có thể thấy trong 11 câu khởi đầu thì bốn câu đầu tiên là ông xác định ông có vấn đề là những khổ đau, và ông muốn đi giải quyết những khổ đau đó.

Ông biết đằng sau những khổ đau đó là sự An Lạc và Hạnh Phúc, và ông quyết tâm đi giải quyết vấn đề. Bẩy câu sau, diễn tả ông đi tìm những nguyên nhân tạo ra vấn đề. Ông luôn vui vẻ (rộn ràng) tin tưởng (chưa từng tuyệt vọng) khi ông tìm ra được gốc rễ của vấn đề và giải quyết, ông sẽ có được sự An Lạc, Hạnh Phúc. Và câu kế tiếp ông đã dẫn chứng rất rõ ràng.

Tìm trong vô thường có đôi dòng kinh, sấm bay rền vang

Bỗng tôi thấy em dưới chân cội nguồn

Tới đây, bài nhạc không còn có thể giảng giải theo nghĩa đen được, mà phải dựa hoàn toàn vào nghĩa thực của bài nhạc là diễn ta về quá trình trải nghiệm của một người đi từ Bản Ngã về Bản Thể, và qúa trình đi từ Bản Thể về lại Bản Ngã.

Trong hai câu này, Trịnh Công Sơn đang giới thiệu về phương pháp mà ông ứng dụng trong sự trải nghiệm, đó là: Vô Thường.

Qua sự quan sát và nhìn sâu vào vô thường, ông đã tiếp xúc được với Bản Thể. Hình ảnh “sấm bay rền vang” diễn tả một sự chấn động tận tâm can, làm thay đổi tất cả những nhận thức sai lầm của ông hay hành giả. Khi những nhận thức sai lầm không còn tồn tại, ông tiếp xúc được với Bản Thể.

Cái hay trong ngôn từ của ông là dùng chữ Bỗng. Ý nghĩa của chữ bỗng là một điều gì đó chợt xẩy ra mà không có dự liệu trước.

Vậy ông đã không dự liệu được điều gì? Điều mà ông không dự liệu được, đó là, khi có sự quan sát và nhìn sâu, chúng ta có thể tiếp xúc được với sự thật ngay tức thì, mà không cần phải tích lũy, học hỏi, hay chờ đợi cả ngàn kiếp.

Trong Thiền tông, trạng thái này gọi là Đốn Ngộ – Hiểu ra, nhận ra ngay tức thì; hay Trực Ngộ – Hiểu ra, nhận ra trực tiếp mà không qua sự suy luận.

Ba chữ “Chân Cội Nguồn” được sử dụng rất hay. Cội nguồn tức là nguồn từ gốc, và Chân là Chân Thật. Hay nói rộng hơn là Bản Thể vốn Chân Thật Như Vậy.

Nếu luận theo 10 bức tranh chăn trâu thì đây là bức tranh thứ tư: Được Trâu

Tôi mời em về đêm gội mưa trong

Có thể nói, hay nhất trong câu này là “đêm gội mưa trong”. Đêm trong Phật học thường ví với vô minh. Khi vô minh được tắm gội sạch sẽ, không còn những vướng bận thì vô minh trở thành Minh, có nghĩa là trong sáng.  Chỉ với bốn chữ, ông có thể diễn tả cả một qúa trình của ông/hành giả đi từ vô minh đến minh, một cách thần kỳ.

Chữ Em ở đây, không phải là một đối tượng, mà chính là Ngã Thức của ông/hành giả, sau những năm tháng sống trong tăm tối mê mờ đã gội rửa sạch những nhận thức sai lầm gây ra khổ đau qua sự quan sát và nhìn sâu vào vô thường.

Em ngồi bốn bề thơm ngát hương trầm

Khi những nhận thức sai lầm gây ra khổ đau không còn tồn tại trong Tâm Thức thì Tâm Thức/Ngã Thức này chính là Tâm Phật. Bốn bề nghĩa là tứ phương đều thơm hương thanh tịnh, giải thoát, không còn bị ràng buộc.

Trong vườn mưa tạnh, tiếng nhạc hân hoan

“Vườn mưa tạnh” diễn tả Ngã Thức không còn những khổ đau. Thiền sư Nhất Hạnh, trong bài Sám Nguyện có câu: “Vườn Tâm gieo hạt giống xấu, Tham Sân Tự Ái dẫy đầy” là nói về Ngã Thức đang chất chứa những nhận thức sai lầm gây ra khổ đau. Hai chữ “mưa tạnh” có nghĩa là những giọt nước mắt khổ đau đã ngừng rơi hay chấm dứt (tạnh).

Chính vì những sự khổ đau đã tận diệt, nên có những tiếng nhạc hân hoan, An Lạc. Đây là hình ảnh của bức tranh thứ năm: Chăn Trâu, khi đang Trụ trong An của Bản Thể và có sự vui vẻ (Lạc)

Trăng vàng khai hội một đóa hoa quỳnh

Trăng trong đạo Phật được ví như Chân lý. Chân lý của đạo Phật là giải thoát khỏi những tri kiến sai lầm gây ra sự khổ đau. Nguyên nhân gây ra những nhận thức sai lầm chính là vì chúng ta đã lầm lẫn “vô thường” chính là “thường”.

Chính vì vậy, chúng ta luôn ham muốn và chiếm hữu, từ đó mới gây ra khổ đau. Nếu chúng ta luôn Ý Thức được vô thường thì chúng ta sẽ không còn ham muốn và chiếm hữu nữa. Như vậy, chúng ta có được sự giải thoát.

Hoa Quỳnh là một loại hoa nở vào ban đêm, và sẽ tàn vào buổi sáng. Trong khoảng 4-6 tiếng, hoa quỳnh sẽ “phô diễn” cả một qúa trình sinh diệt, từ nụ bắt đầu nở cánh hoa, và cuối cùng, lại khép lại những cánh hoa, khi tàn. Có thể nói, dùng hoa quỳnh để biểu tượng cho vô thường là hình ảnh đẹp và vô cùng sinh động.

Về 10 bức tranh Chăn Trâu thì đây là bức thứ sáu: Cỡi Trâu Về Nhà.

Từ nay tôi đã có người

Có em đi đứng bên đời líu lo

Từ nay tôi đã có tình

Có em yêu dấu lẫy lừng nói thưa

Từ em tôi đã đắp bồi

Có tôi trong dáng em ngồi trước sân

Trong 6 câu này, chúng ta thấy ông dùng hai chữ rất hay, đó là: “tôi” và “người”. Nếu chúng ta đã có kinh nghiệm về 10 bức tranh Chăn Trâu, chúng ta biết, ông đang diễn tả về bức tranh thứ bẩy: Quên Trâu Còn Người.

Trong qúa trình đi từ Bản Thể về lại Bản Ngã, ông đã có được sự An Lạc Tuyệt Đối của mình, hay An Riêng, thì đây là quá trình ông đang muốn thiết lập được cái An Chung giữa cá thể và tập thể.

Từ câu “Có em … cho tới trước sân”, ông diễn tả về trạng thái An Lạc Tuyệt đối hay An Riêng của ông như thế nào. Nhưng hay nhất là hai chữ “đắp bồi”, có nghĩa là, trong cái An Riêng của ông, ông đang cộng thêm cái An Chung của mọi người vào.

Mùa đông cho em nỗi buồn

Chiều em ra đứng hát kinh đầu sông

Tàn đông con nước kéo lên

Chút tình mới chớm đã viên thành

Trong bốn câu này, chúng ta thấy ông đang diễn tả về “người” hay tập thể sinh hoạt như thế nào. Những khổ đau của họ khi đang đánh mất đi sự An Lạc Thường Hằng vốn có sẵn trong mỗi một con người. Có những lúc khi tiếp xúc với tập thể, ông không thể thiết lập được cái An Chung, mà ở đó, chỉ có cái An Riêng của chính mình.

Sự độc đáo trong cách diễn đạt của ông, chính là hai chữ “chút tình”, có nghĩa là, cái tình không nhiều lắm này, chỉ muốn được sống chung với mọi người để hưởng An Chung, nhưng xem ra, cũng chẳng thể nào. Hai chữ “viên thành” ở đây, nên hiểu theo nghĩa ngược lại, có nghĩa là, không phải là sự thành đạt một cách đầy đủ, tròn đầy, mà phải hiểu là sự mong muốn sống chung với mọi người bình an đã không thể thực hiện được, và đã bị kết thúc ngay từ khi trong trứng nước (mới chớm)

Từ nay anh đã có nàng

Biết ơn sông núi đáp đền tiếng ca

Mùa xuân trên những mái nhà

Có con chim hót tên là ái – ân

Bốn câu này, diễn tả trạng thái khi ông thiết lập được cái An Chung cho cá nhân ông và tập thể. Hai chữ Ái Ân ở đây, không nên hiểu theo nghĩa của vợ chồng, mà nên hiểu là có sự yêu thương (ái) và những ân tình (ân) được thiết lập giữa người với người.

Hình ảnh mùa xuân nói đến sự sự hạnh phúc, ấm êm, an vui đang có trong mọi người (mái nhà). Mọi người cư xử với nhau và trao cho nhau những yêu thương và hiểu biết. Đây là bóng dáng của bức tranh thứ tám: Người Trâu Đều Quên.

 Sen hồng một nụ, em ngồi một thuở

Một thuở yêu nhau có vui cùng sầu

Từ rạng đông cao đến đêm ngọt ngào

Sen hồng một độ, em hồng một thuở xuân xanh

Sen buồn một mình

Em buồn đền trọn mối tình

Trong sáu câu này, chúng ta lại được chứng kiến qúa trình phát triển giữa An Riêng và An Chung, giữa cá nhân ông với tập thể, không phải lúc nào cũng có thể được thiết lập. Trong 6 câu này, hai chữ Sen Hồng biểu hiện cho sự An Lạc của ông, vẫn luôn khao khát được hòa chung vào trong An Chung với mọi người.

Nhưng trên thực tế, ông không thể đạt được. “Sen Buồn một mình”, có nghĩa là, nhiều lúc ông buồn, nhưng nỗi buồn này, không phải buồn vì ông không thiết lập được An Chung, mà ông buồn, vì tập thể vẫn còn đang quay cuồng sống trong những đau khổ, mà không nhận diện được cái An đang Thường hằng trong mỗi người. Cho nên, con người đã phải gánh chịu những hậu quả từ những sự khổ đau đó.

Một từ ngữ rất hay để diễn tả cho sự gánh chịu khổ đau đó là chữ “đền”. Có nghĩa là bồi thường lại, hay trả lại. Nhưng mọi người trả lại cái gì? Trả lại cái An Chung giữa người và người (trọn mối tình) đã không còn nữa, mà chỉ còn lại là những khổ đau, và bất an.

Một chiều em đứng cuối sông

Gió mùa Thu rất ân cần

Chở lời kinh đến núi non

Những lời tình em trối trăn

Một thời yêu dấu đã qua

Gót hồng em muốn quay về

Dù trần gian có xót xa

Cũng đành về với quê nhà

Trong tám câu này, ông diễn tả cả một quá trình đầy cố gắng để thiết lập An chung giữa ông với mọi người, nhưng cuối cùng thì ông vẫn không thể. Cho dù, lòng ông đầy từ bi, thương xót cho người đời, nhưng ông cũng đành phải chấp nhận hiện thực là đã vượt qúa tầm tay của ông, và ông cũng đành phải trở về sống trong cái An Riêng Tuyệt Đối của ông. Đây chính là hình ảnh của bức tranh thứ chín: Trở Về Nguồn Cội.

Từ đó trong vườn khuya

Ôi áo xưa em là

Một chút mây phù du

Đã thoáng qua đời ta

Từ đó trong hồn ta

Ôi tiếng chuông não nề

Ngựa hí vang rừng xa

Vọng suốt đất trời kia

Trong tám câu này, chúng ta lại có dịp để nhìn suốt tâm tư của ông, hay nói đúng hơn, lòng từ bi của ông lại bị rung động khi tiếp xúc với mọi người đang quay cuồng sống trong đau khổ.

Hình ảnh của “phù du, thoáng qua, hồn ta”, gợi nhớ trong ông những khi thiết lập được cái An Chung với người. Nhưng cái An Chung đó rất bạc mệnh, chỉ có thể tồn tại được trong một khoảng thời gian rất ngắn như tên gọi Phù Du (là tên một loài côn trùng nhỏ, có cánh, chỉ sống được vài giờ đồng hồ).

Có thể nói, ông đã tận hết sức của mình, bằng tất cả những gì ông có thể, từ thơ văn cho đến âm nhạc, hội họa, để cảnh tỉnh mọi người. Nhưng, những tiếng chuông cảnh tỉnh đó, vốn “vô cảm” với con người. Trong khi, những tiếng chuông đó có thể vang vọng lay chuyển cả trời đất.

Từ đó ta ngồi mê

Để thấy trên đường xa

Một chuyến xe tựa như

Vừa đến nơi chia lìa

Từ đó ta nằm đau

Ôi núi cũng như đèo

Một chút vô thường theo

Từng phút cao giờ sâu

Trong tám câu này, chúng ta thấy được những tâm trạng xao động của ông, và ông đang đánh mất đi cái An Riêng Tuyệt đối của chính mình. Nguyên do là vì, ông qúa thương người, muốn họ có thể sống được An Vui, nhưng ông không thể làm được. Ông đã không còn sống trong Bản Thể của chính ông để có được An Lạc, và ông lại bắt đầu mê mờ vì hai chữ “yêu thương”.

Hai chữ này đã lôi kéo ông, mà trong bài “Một Cõi Đi Về”, ông đã gọi sự yêu thương là con tinh, có nghĩa là, một loại chúng sanh có tánh linh, rất qủy quyệt, và có sự biến hóa.

Tình yêu thương, khi sử dụng mà không có sự hiểu biết, thì chính sự yêu thương cũng có thể gây ra sự khổ đau như thường.

Từ đó hoa là em

Một sớm kia rất hồng

Nở hết trong hoàng hôn

Đợi gió vô thường lên

Từ đó em là sương

Rụng mát trong bình minh

Từ đó ta là đêm

Nở đóa hoa vô thường

Nếu tám câu trên diễn tả trạng thái mê mờ vì hai chữ yêu thương con người, và muốn giúp họ, thì tám câu này, lại diễn tả hình ảnh ông trở về sống trong sự An Lạc Tuyệt đối của ông. Ông chấp nhận hiện thực, và không còn mong đợi. Ông chấp nhận, dù rằng, người đời đang sống trong đau khổ đó, nhưng khi họ có dịp tiếp xúc với vô thường, họ sẽ Ý Thức ra, và quay về sống với An Thường Hằng họ đang có.

Trong các câu: “một sớm kia rất hồng, hay rụng mát trong bình minh”, nhấn mạnh đến sự hy vọng của ông với mọi người. Ông hy vọng, họ sẽ Ý Thức được sự vô thường đang hiện hữu, và thay đổi cách sống hay ứng xử để đạt được cái An cho mình.

Trong toàn bộ bài nhạc này, chúng ta thấy, thiếu bức tranh thứ mười: Thỏng Tay Vào Chợ, nơi ông có thể thiết lập được cái An Chung và sống trong cái An chung với mọi người. Có lẽ, đó là điều ông hối tiếc nhất.

Chúng ta thấy trong hai câu cuối ông đã khẳng định, “từ đó ta là đêm” diễn tả một tâm tư u hoài của ông với con người.

Trong cuộc đời của Trịnh Công Sơn, chúng ta có thể thấy sự “thất bại” của ông trong việc thiết lập cái An Chung với mọi người.

Trong khá nhiều nhạc phẩm như bài Phôi Pha có đoạn:

“Thôi về đi, đường trần đâu có gì

Tóc xanh mấy mùa

Có nhiều khi từ vườn xưa bước về

 Bàn chân ai rất nhẹ

Tựa hồn những năm xưa”

Trong câu đầu, ông đã xác định, dù ông đã cố gắng bao nhiêu, có yêu thương bao nhiêu, có từ bi bao nhiêu để giúp con người, thì con người, họ vẫn sống quay cuồng trong khổ đau của họ, mà ông không thể nào làm thay đổi được họ, hay thiết lập được cái An Chung với họ.

“Thôi về đi” diễn tả một trạng thái đành phải chấp nhận, và cuối cùng, ông đành phải trở về để sống với cái An Riêng của mình, qua câu “tựa hồn những năm xưa”.

Hay trong nhạc phẩm “Tôi Ơi Đừng Tuyệt Vọng” có đoạn:

Tôi là ai mà còn ghi dấu lệ

Tôi là ai mà còn trần gian thế

………………………………..

Có đường xa và nắng chiều quạnh quẽ

Có hồn ai đang nhè nhẹ sầu đêm.

Những câu này, như tự an ủi chính mình, khi ông không thể thiết lập được cái An Chung, những khát khao mong mỏi giúp người, nhưng không thực hiện được, cuối cùng, ông cũng phải Chấp Nhận.

Chấp nhận sự thật chỉ còn cái An Riêng của ông, theo cùng ông, mà không thể nào có cái An Chung với mọi người. Nỗi u hoài tiếc nuối đó, được cô đọng trong câu “có hồn ai đang nhè nhẹ sầu đêm”.

Có thể nói, nhạc của Trịnh Công Sơn là nhạc phát xuất từ tấm lòng yêu thương nhân hậu, muốn đem cái An của mình đang có để hiến tặng cho cuộc đời.

Cái khao khát lớn nhất trong cuộc đời của nhạc sĩ họ Trịnh là muốn thiết lập được cái An Chung, cái An mà mọi người có thể yêu thương nhau, trao cho nhau những hiểu biết và những ân tình nên gìn giữ.

Trong âm nhạc của ông, mỗi từ, mỗi chữ, đều mang một nguồn năng lượng chữa lành những vết thương. Dù vết thương đó được gây ra bởi con người, chiến tranh, hay những nhận thức sai lầm.

Chính vì vậy, khi nghe nhạc Trịnh, cho dù, vết thương của chúng ta có đau đến đâu, chúng ta cũng đều cảm nhận được một sự xoa dịu, một sự cảm thông, đồng cảm.

Chính những nguồn năng lượng này giúp cho những vết thương của chúng ta, tuy vẫn còn đau, nhưng không đau một cách dữ dội, tàn phá, mà những cơn đau này bắt đầu lắng dịu, nhẹ nhàng hơn.

Cháu hoàn toàn đồng ý với chú. Cứ mỗi lần cháu có niềm đau nào, khi nghe nhạc Trịnh, cháu đều có cảm nhận được sự lắng dịu, nhẹ nhàng.

Tiếc thay, ngôn từ trong nhạc Trịnh thì lại vô cùng khó hiểu, nên ít ai có thể hiểu được những tâm tư mà ông muốn gởi gấm cho mọi người. Diệu hiền nói.

Tôi thì lại tiếc cho Trịnh Công Sơn không giống như bạn. Ông chú nói.

Vậy, chú tiếc gì vậy chú?

Từ ngày có luật bản quyền, thì nhạc Trịnh đã không còn được nhiều ca sĩ hát nữa, cũng đồng nghĩa với việc, tấm lòng muốn đem những nguồn năng lượng chữa lành giúp mọi người của Trịnh Công Sơn sẽ dần chìm vào quên lãng. Trong khi, ông đã sống cả một đời đầy yêu thương nhân hậu và muốn hiến tặng những chất liệu qúy giá này cho con người, nhưng cuối cùng, cũng là không.

Có lẽ, ông đã nhận ra điều đó, nên trong hai câu kết của bài Đóa Hoa Vô Thường ông đã viết:

Từ đó ta là đêm

Nở đóa hoa Vô Thường.

Phải chăng, ông đã nhìn thấy với những nhận thức lệch lạc (từ đó ta là đêm) sau khi ông mất đi, cũng là dấu chấm hết cho tấm lòng yêu thương con người của ông, và đó cũng là định luật của vô thường chăng?

Tiếng nhạc “Đóa Hoa Vô Thường” phát ra từ chiếc điện thoại của Hoàng Trang vang lên. Cả bốn chú cháu cùng ngồi im lặng thưởng thức.

HẠNH PHÚC

album-art

00:00


TẢI MP3 – VIÊN NGUYỆT

Chiều nay, Hoàng Trang và Diệu hiền đến thăm ông chú. Như mọi lần, Diệu Hiền xà xuống ngồi bên cạnh ông chú. Không như những lần trước ngồi đối diện, lần này, Hoàng Trang cũng ngồi xuống bên cạnh ông chú, rồi nói:

Chú ơi, chiều nay chú có thể chia xẻ về hạnh phúc không chú? Nếu cháu nhớ không lầm, cháu có đọc được về định nghĩa của hạnh phúc trên một trang web nào đó, và họ cho rằng, có 10 định nghĩa về hạnh phúc là chuẩn, như sau:

  1. Hạnh phúc là một trạng thái cảm xúc của con người khi được thỏa mãn một nhu cầu nào đó mang tính trừu tượng. Hạnh phúc là một cảm xúc bậc cao. Ở loài người, nó mang nhân bản sâu sắc và thường chịu tác động của lý trí.
  2. Những người tìm kiếm hạnh phúc trên chính đôi chân của mình, chứ không phải dựa vào sự giúp đỡ của người khác, luôn là những người hạnh phúc nhất.
  3. Hạnh phúc là khi con người muốn đạt được những thứ nằm trong tầm với của mình. Hãy mơ những gì có thể đạt được và từ bỏ những thứ ở xa tầm với.
  4. Hạnh phúc giống như một con bướm, bạn càng rượt đuổi, nó càng bay xa hơn. Nhưng nếu bạn không để ý đến nó, nó sẽ tự bay đến gần bạn.
  5. Khi nghĩ đến những điều tốt đẹp, con người sẽ sống hạnh phúc hơn.
  6. Không có con đường nào dẫn đến hạnh phúc, bởi hạnh phúc chính là một con đường.
  7. Hạnh phúc là khi quyền lực tăng lên và bạn có thể kiểm soát mọi thứ.
  8. Hạnh phúc là niềm vui thích chúng ta cảm thấy khi chúng ta phấn đấu đạt tới tiềm năng của chính mình.
  9. Chỉ khi nào chúng ta thỏa mãn được nhu cầu của riêng mình và cảm thấy hài lòng từ bên trong thì chúng ta mới có thể thực sự hạnh phúc.
  10. Ai đó từng hỏi tôi rằng rằng với tôi ba điều gì là quan trọng nhất để có được hạnh phúc. Câu trả lời của tôi là: một cảm giác chân thật bạn có với chính bản thân và những ai ở quanh bạn; một cảm giác bạn đã làm điều tốt nhất bạn có thể cả trong cuộc sống cá nhân và trong công việc; và có khả năng yêu thương người khác.

Thú thật, ngay bản thân cháu, cháu cũng chưa hiểu rõ ràng về định nghĩa của hai chữ này, và cháu cũng chưa biết ứng dụng làm sao cho có hiệu quả.

Này hai bạn trẻ, hai chữ hạnh phúc nếu nói theo định nghĩa của Hán Việt thì Hạnh là may mắn, nhiều an lành, thuộc về danh từ, và động từ là mừng, thích; còn Phúc là đầy tràn, đầy đủ, những sự tốt lành.

Hai chữ hạnh phúc khi ghép lại với nhau, diễn đạt sự mong chờ được hưởng những sự tốt lành, hay trong đời sống và cảnh ngộ làm cho tâm tình dễ chịu vui sướng, vừa lòng toại ý.

Nếu diễn tả trên góc độ năng lượng thì hạnh phúc là một nguồn năng lượng tích cực, có tần số rung động thanh nhẹ đem đến cảm giác thỏa mãn, dễ chịu.

Trước khi chúng ta quan sát và nhìn sâu vào hai chữ hạnh phúc, chúng ta cũng nên xem lại định nghĩa của hai chữ “định nghĩa” là gì?

Định có nghĩa là trụ lại, không xê dịch, không dời đổi, đã đúng, không sửa đổi nữa; và Nghĩa là nội dung của từ ngữ. Hai chữ định nghĩa là nội dung của từ ngữ đã đúng, không cần chỉnh sửa.

Như vậy định nghĩa của hạnh phúc có nghĩa là một nguồn năng lượng diễn tả một tâm trạng thỏa mãn, dễ chịu khi đạt được ý muốn của một cá thể.

Thông thường, khi nói về định nghĩa là chúng ta đang nói về cái nhân, còn mười định nghĩa mà bạn đưa ra đó, chỉ là quả từ cái nhân được thỏa mãn và có cảm giác dễ chịu.

Phần đông chúng ta vì ít chịu đi tìm hiểu gốc rễ của định nghĩa nên chúng ta hay diễn dịch bằng cách lấy cái quả rồi gọi đó là nhân.

Thí dụ: Trong câu “Hạnh phúc là khi con người muốn đạt được những thứ nằm trong tầm với của mình. Hãy mơ những gì có thể đạt được và từ bỏ những thứ ở xa tầm với”

Nếu chúng ta quan sát kỹ câu này, thì đây chỉ là kết quả từ cái nhân là muốn được thỏa mãn cái chúng ta đang muốn. Chứ đó không phải là định nghĩa của hạnh phúc. Chúng ta đang đi định nghĩa cái chúng ta muốn đạt được trong tầm tay của chúng ta, và cái quả mà chúng ta đạt được từ “định nghĩa diễn dịch” này sẽ dẫn đến những khổ đau thất vọng khi chúng ta không đạt được những ước mơ đó.

Trong chủ đề yêu và thương, chúng ta đã biết, khi chúng ta diễn dịch định nghĩa không đúng với “định nghĩa” thì chúng ta sẽ rơi vào những phiền lụy liên tục sau này.

Nếu chúng ta quan sát kỹ, chúng ta thấy cả mười định nghĩa được gọi là chuẩn đó, đều chỉ là cái quả từ định nghĩa là sự thỏa mãn dễ chịu đúng ý muốn mà ra.

Chính vì vậy, chúng ta ít thấy “bóng dáng” của hạnh phúc đến trong cuộc đời của chúng ta, đâu phải vì hạnh phúc không có, mà nó đã có rồi nhưng chúng ta không nhận ra.

Sự thật, không có nguồn năng lượng nào không có trong chúng ta, dù tiêu cực hay tích cực. Nếu chúng ta muốn có hạnh phúc an vui thuộc về tích cực, chúng ta chỉ cần đặt mục đích cho rõ ràng, rồi chúng ta thực tập mỗi ngày cho thành một thói quen.

Trong qúa trình tập thành thói quen, khi có bất cứ sự phiền não bất an nào đến, chúng ta phải luôn đem mục đích của mình lên để làm “lá chắn”. Chúng ta nương tựa nơi lá chắn để sự dụng ý thức nhìn sâu và giải quyết vấn đề đó.

Nếu không có “lá chắn” của mục đích thì chúng ta sẽ bị chao đảo, chúng ta sẽ bị cuốn hút vào trong vòng xoáy của những lo âu, phiền não, khiến cho chúng ta dễ dàng bỏ cuộc, hay đè nén, hay tìm cách trốn chạy vấn đề.

Dĩ nhiên sự bắt đầu bao giờ cũng khó cả, vì chúng ta chưa có kinh nghiệm. Nhưng muốn có kinh nghiệm thì chúng ta phải làm, phải thực hành; nếu không, chúng ta chỉ có một mớ kiến thức suông, chẳng giúp ích gì cho chúng ta, ngoài sự khoát lác.

Trở lại hai chữ hạnh phúc, khi chúng ta nói chúng ta đang hạnh phúc, có nghĩa là, những gì chúng ta muốn, đều được hoàn thành như ý chúng ta mong cầu, tạo cho chúng ta một cảm giác thỏa mãn vui vẻ.

Đúng trên góc độ của Ngã Thức, hạnh phúc là một nguồn năng lượng thuộc về Ngã Thức. Vì Ngã Thức ở ẩn bên trong, cho nên, chúng ta gọi nguồn năng lượng đó là hạnh phúc nội tại (hạnh phúc ở bên trong). Khác với nguồn năng lượng do tác động từ bên ngoài đem đến, hay gọi là hạnh phúc ngoại tại.

Đứng trên góc độ của tần số rung động của năng lượng thì sự rung động do tác động bên trong (hạnh phúc nội tại) hay từ bên ngoài (hạnh phúc ngoại tại) cũng không có sự khác biệt.

Nhưng nếu đứng trên góc độ ứng dụng để đạt được hạnh phúc, thì hạnh phúc nội tại dễ thực hiện hơn, và kéo dài hơn, khi đem so với hạnh phúc ngoại tại. Vì sao?

Vì hạnh phúc nội tại đang nằm trong tầm tay của chúng ta, chúng ta có quyền quyết định. Ngược lại, hạnh phúc ngoại tại thì lệ thuộc vào đối tượng. Khi đối tượng chỉ có khổ đau thì họ chỉ có thể hiến tặng khổ đau cho chúng ta mà không thể là hạnh phúc.

Chính vì vậy, nếu chúng ta cứ đi tìm hạnh phúc ngoại tại hay hạnh phúc ở bên ngoài, sẽ khó hơn khi tìm ở một người, nên chúng ta thường đi tìm ở nhiều người. Điều nghịch lý ở đây là, khi chúng ta càng tìm hạnh phúc nơi nhiều người thì nhiều người lại tạo ra những mâu thuẫn xung đột lẫn nhau, khiến cho “bóng dáng” của hạnh phúc lại càng trở nên mông lung, không hiện thực.

Nếu chúng ta có may mắn thì cũng chỉ gặp được hạnh phúc ở bên ngoài của một hay vài ai đó, trong một khoảng thời gian ngắn, rồi họ cũng sẽ rơi vào khổ đau hay phiền muộn của chính họ. Cuối cùng, điều họ hiến tặng cho chúng ta cũng là sự khổ đau, phiền não của họ.

Đây chính là lý do tại sao các diễn giả cho rằng hạnh phúc của chúng sanh là giả tạm, không thật, còn hạnh phúc của các bậc Bồ Tát Thánh Hiền thì Chân Thật. Nhưng các diễn giả lại không giải thích được sự khác biệt, tại sao của chúng sanh là giả tạm và của Bồ Tát là Chân Thật.

Nguyên do, bởi vì, về định nghĩa thì hạnh phúc nội tại hay ngoại tại đều giống nhau, nhưng về ứng dụng thì khác nhau.

Thí dụ: khi chúng ta mong muốn gặp lại người yêu, và khi chúng ta gặp được, thì sự thỏa mãn và vui mừng khi gặp được, dù là nội tại hay ngoại tại, đều giống nhau.

Với người ngoại tại, sau khi gặp gỡ, hàn huyên, người yêu đi về, khiến cho ý muốn gặp được người yêu lâu hơn không đạt được; từ đó, tạo ra cảm giác thất vọng. Khi cảm giác thất vọng có mặt lấn chiếm cảm giác hạnh phúc, khiến chúng ta rơi vào trạng thái tiêu cực. Khi Ngã Thức trong trạng thái tiêu cực, chúng ta gọi chung đó là cảm giác khó chịu.

Với người nội tại, ở đó không có sự mong cầu muốn gặp người yêu, vì với họ, hạnh phúc khi có người yêu hiểu và yêu họ, luôn có trong bộ nhớ của Tiềm Thức. Cho dù, họ có gặp hay không gặp người yêu thì người đó vẫn luôn có mặt mỗi khi Ngã Thức muốn tiếp xúc. Cho nên, dù có gặp hay không gặp người yêu, thì hạnh phúc bên cạnh người yêu của họ vẫn có trong sẵn kho của Ngã Thức.

Vì vậy, nếu có gặp mặt hay không, thì hạnh phúc đó vẫn có đó. Nếu có khác chăng là gặp thật hay gặp trong Tiềm Thức. Nhưng dù gặp như thế nào cũng không quan trọng, điều quan trọng là sự tác động tạo ra cảm giác nơi Ngã Thức.

Trong Ngã Thức chúng ta có nhiều nguồn tác động. Có sự tác động từ ngoại cảnh, có sự tác động của nội tâm, có sự tác động của Thân Thể Thức, v.v nhưng dù sự tác động nào, điểm cuối cùng, chính là cảm giác nào sẽ có mặt trên Ngã Thức, mới là điều quan trọng.

Nếu chúng ta thực tập một cách nghiêm chỉnh, chúng ta đừng phí thời gian vào việc tranh luận là nguồn tác động nào quan trọng hơn nguồn nào, mà chúng ta nên chú trọng tới qúa trình phát triển, thì chúng ta có thể có hạnh phúc kéo dài.

Trong những lần chia xẻ về nhân quả, chúng ta đã quan sát rất kỹ về quá trình này, cho nên, nếu chúng ta muốn có hạnh phúc thì chúng ta nên sử dụng qúa trình này trong ứng dụng.

Thói quen của chúng ta, khi đi tìm hạnh phúc, thường hay chọn cách “nằm ngoài tầm với” hơn là làm những gi “trong tầm tay” của chúng ta.

Ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm, khi chúng ta làm việc gì ngoài tầm với thì cơ hội mà chúng ta té ngã khá nhiều. Dĩ nhiên, có đôi khi chúng ta cũng thành công, nhưng nếu chúng ta chỉ cầm kiểm nghiệm lại, chúng ta sẽ thấy cơ hội thành công rất ít so với cơ hội thất bại.

Ai trong chúng ta cũng biết rằng, khi làm việc gì đó trong tầm tay, chúng ta sẽ vững vàng hơn, tự tin hơn, và dễ đạt được kết quả mà chúng ta mong muốn hơn.

Tiếc thay, trong qúa trình đi tìm hạnh phúc, đa số chúng ta lại luôn chọn ứng dụng “nằm ngoài tầm với”.

Chúng ta tin và lý luận rằng, hạnh phúc vốn từ người khác ban phát cho chúng ta. Chính vì vậy, chúng ta luôn hướng ngoại để tìm hạnh phúc.

Thí dụ, một người buồn chán, thay vì ứng dụng phương pháp bốn bước để giải quyết sự buồn chán của mình, lại khởi ý niệm, đi tìm một người bạn đi chơi để giải quyết sự buồn chán này. Người đó nghĩ rằng, khi mình được đi chơi với người bạn này, mình sẽ có hạnh phúc.

Cho nên, người này quyết định đi gặp người bạn. Khi đến nhà bạn, người bạn đang có chuyện bực mình, nên cau có, khó chịu, trách mắng, và từ chối đi chơi cùng.

Người này rơi vào trạng thái hụt hẫng, khó chịu và tự ái. Khó chịu vì ý muốn giải quyết sự buồn chán không được thỏa mãn; tự ái vì bị người bạn “xem thường”, nên nẩy sinh cảm giác tức giận. Nguồn năng lượng “không tên” bao gồm: tức giận, tự ái, buồn chán cùng hiệp lực bùng nổ, khống chế Ngã Thức, khiến Ngã Thức bị “tê liệt”, đưa đến những hành động vụng dại, nói những lời nói khó nghe, hay dựng chuyện qua phỏng đoán, nói không đúng với sự thật.

Người bạn khi nghe xong đã tức giận, đuổi người đó ra khỏi nhà, và thề không muốn gặp lại người đó.

Ban đầu chỉ là sự buồn chán và muốn đi tìm hạnh phúc từ người bạn. Nhưng sau khi gặp người bạn xong, người này vừa đau khổ vì bị nguồn năng lượng không tên dẫn dắt, nay lại mất đi người bạn có thể cho người đó chút hạnh phúc.

Ngược lại, trong trường hợp khi đến nhà bạn, và người bạn vui vẻ đi chơi cùng, thì người đó đạt được hạnh phúc, vì người bạn giúp cho người đó giải quyết được nỗi buồn chán đang có trong lòng.

Ở đây, chúng ta phải hiểu nỗi buồn chán này chỉ là những nỗi buồn chán vu vơ như nhà thơ Xuân Diệu “hôm nay trời nhẹ lên cao, tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Chứ không phải những nỗi buồn chán mang tính “hình sự” như vừa cãi nhau với người yêu.

Nếu nỗi buồn chán mang tính “hình sự” thì dù có đi chơi, có hạnh phúc được thõa mãn, nhưng khi về nhà một mình, sự buồn chán đó vẫn tiếp tục tồn tại và tiếp tục “ngự trị” trong Ngã Thức. Cho dù, lúc đi chơi đã tạm được thay thế bằng cảm giác hạnh phúc.

Hiện tượng này được gọi là cảm giác hạnh phúc tạm thời, hay còn gọi là giả tạm, vì vấn đề của nỗi buồn chán chưa được giải quyết một cách rốt ráo, nên chưa đạt được hạnh phúc lâu dài hay hạnh phúc chân thật.

Đúng ra, chúng ta không nên gọi là giả tạm hay chân thật, vì dễ gây ra sự hiểu lầm. Chữ chính xác nên dùng là hạnh phúc ngắn hạn và hành phúc kéo dài sẽ giúp chúng ta không rơi vào sự hiểu lầm về định nghĩa của hạnh phúc là có thật và có giả, mà là qua sự ứng dụng có ngắn hay dài, nhưng sự thật thì định nghĩa vẫn giống nhau, không có giả và không có thật.

Ngược lại, hạnh phúc nội tại sẽ có mặt khi chúng ta áp dụng phương pháp bốn bước để giải quyết vấn đề. Khi vấn đề được giải quyết triệt để, chúng ta đạt được cảm giác thỏa mãn ý muốn, và đạt được trạng thái hạnh phúc. Trạng thái hạnh phúc này sẽ khéo dài cho đến khi nào có một sự khởi niệm mới, hay một cảm giác tiêu cực khác thay thế. Nếu không có cảm giác tiêu cực thì lúc đó cảm giác thỏa mãn vẫn tiếp tục có mặt, hay hạnh phúc có mặt dài hơn, bất chấp là sự buồn chán đến từ buồn vu vơ hay buồn chán “hình sự”.

Với sự ứng dụng này, chúng ta hoàn toàn chủ động, chúng ta không bị lệ thuộc vào bất cứ một ai. Chúng ta đang giải quyết vấn đề trong tầm tay của chúng ta, và chúng ta có thể kéo dài hạnh phúc theo ý chúng ta muốn.

Muốn đạt được điều này, chúng ta có thể dùng mục đích làm Giới cho chúng ta. Có nghĩa là, chúng ta biến mục đích hay Giới làm “lá chắn” để che chở cho chúng ta, khi có những nguồn năng lượng tiêu cực nẩy sinh trong Ngã Thức.

Khi có một nguồn năng lượng tiêu cực nẩy sinh, Ngã Thức của chúng ta sẽ dùng mục đích để hướng Ý Thức của chúng ta đi tìm những giải pháp qua việc sử dụng Trí hay Tuệ.

Cách phân biệt giữa Trí và Tuệ khá đơn giản. Khi nào chúng ta thấy cách giải quyết chỉ qua nhìn nông cộng thêm phỏng đoán và tưởng tượng, thì chúng ta biết chúng ta đang dùng Trí.

Hay, chúng ta cũng có thể sử dụng cái quả mà chúng ta nhận, để biết được cái quả đó có biến thành nhân và tạo ra các hậu quả khác không. Nếu không, chúng ta biết chúng ta đang sử dụng Tuệ. Nghĩa là, ra đúng kết quả mà chúng ta muốn, mà không có những hậu quả khác theo sau.

Về mục đích thì chúng ta có thể có vô vàn mục đích. Chúng ta có thể chọn bất cứ mục đích nào. Nhưng cách dễ nhất vẫn là mục đích An hay Hạnh Phúc, vì hai mục đích đó luôn là khát khao mong ước của con người từ lúc mới sinh ra cho đến lúc mãn phần.

Còn những mục đích khác thì thường hay rơi vào thế ngắn hạn. Khi chúng ta đạt được hay không, thường rơi vào tình trạng không liên tục, nghĩa là, dù bỏ cuộc giữa chừng hay khi mục đích đó đã hoàn tất. Nếu như, ngay sau khi mục đích đó đã hoàn thành hay bỏ cuộc, mà chúng ta không có một mục đích nào khác tiếp nối, chúng ta sẽ rơi vào trạng thái không có mục đích.

Khi cuộc sống của chúng ta rơi vào trạng thái sống không có mục đích, hay không có sự ham muốn, thì lúc đó, Ngã Thức của chúng ta sẽ rơi vào trạng thái trung tính. Thông thường, sống trong trạng thái trung tính, mang tích cách bình bình, tạo ra cho chúng ta cảm giác buồn chán, và khơi dậy nguồn năng lượng tiêu cực.

Dĩ nhiên, đó là những hiện tượng dành cho những ai trong chúng ta đặt mục đích không phải là mục đích dài hạn. Đối với những người đặt mục đích dài hạn như An Lạc và Hạnh Phúc, thì ngoài mục đích dài hạn, họ vẫn có những mục đích ngắn hạn.

Nhưng khi thực hiện những mục đích ngắn hạn, trong qúa trình phát triển mục đích, họ vẫn sử dụng mục đích An hay Hạnh Phúc làm “la bàn”, hay định hướng cho những cách thức giải quyết.

Nếu trong qúa trình đó đi ngược lại mục đích An hay hạnh phúc, và tạo ra rất nhiều bất An hay không có hạnh phúc, họ sẽ dừng lại và tìm một mục đích khác. Vì sao? Vì họ biết, nếu trong qúa trình phát triển mà đã có bất An và không có hạnh phúc thì cái quả họ đạt được sẽ là hậu quả, sẽ đem đến rất nhiều hệ lụy.

Họ dừng lại không phải họ không có khả năng đạt được cái quả, mà bởi vì, họ không muốn phí thời gian. Thay vào đó, họ tìm mục đích khác mà mục đích đó, trong quá trình phát triển có An Lạc, Hạnh Phúc để thực hiện.

Chú ơi, chú có thể dùng một thí dụ để minh họa cho chúng cháu hiểu rõ về mục đích An ứng dụng chung với các mục đích khác không chú? Hoàng Trang nói.

Thí dụ: Mục đích của bạn muốn thành lập một trung tâm Tư Vấn Tâm Lý để giúp cho những bịnh nhân có xáo trộn về tâm lý, có thể có được An Lạc và Hạnh Phúc sau khi được bạn chữa trị hay cố vấn. Bạn muốn trung tâm của bạn thành công, nhưng bạn lại không có đặt mục đích An hay Hạnh Phúc làm nền.

Trong qúa trình phát triển để đạt được mục đích, bạn phải dùng tiếp thị để kiếm bịnh nhân. Thay vì, dùng tiếp thị, bạn lại dùng quảng cáo.

Có sự khác biệt giữa quảng cáo và tiếp thị, nhưng phần đông chúng ta lại lầm lẫn tiếp thị là quảng cáo, hay ngược lại.

Quảng có nghĩa là rộng rãi, Cáo có nghĩa là thông báo; hay quảng cáo là thông báo rộng rãi, nói rộng ra cho mọi người cùng biết, hay làm cho mọi người biết đến.

Còn Tiếp nghĩa là nối theo, nối tiếp, nối liền, liên tục, và Thị nghĩa là chợ, nơi có đông người mua bán (danh từ), thích, nghiện, ham (động từ). Tiếp Thị nghĩa là liên tục khơi dậy lòng ham muốn hay ưa thích của con người.

Thông thường, với một bịnh nhân mới, vì họ chưa biết đến sự phục vụ của bạn, nên họ chẳng ưa thích hay ham muốn sử dụng dịch vụ của bạn, cho nên, họ chẳng có tin tưởng gì về bạn cả.

Nhiệm vụ của tiếp thị là làm sao phải khiến cho bịnh nhân mới của bạn biết về dịch vụ của bạn như thế nào. Đây là vấn đề khó nhất của người làm tiếp thị.

Với những người giỏi về tiếp thị, họ phải biết đưa ra những khó khăn mà bịnh nhân của bạn đang gặp phải, và phải đưa ra những cách thức bạn sẽ giải quyết những vấn đề cho bịnh nhân ra sao, và phải chứng minh được kết quả đó là có thật.

Khi những bịnh nhân mới, chưa biết về dịch vụ của bạn, họ sẽ qua thông tin tiếp thị của bạn để biết được những lợi ích mà họ có được khi sử dụng dịch vụ của bạn. Sau đó, bạn mới tiếp nối những thông tin đó bằng những ngôn từ khích thích sự ham muốn sử dụng của họ.

Khi bạn đã thành công khích thích được sự ham muốn của họ rồi, và họ đã đến sử dụng dịch vụ của bạn, bạn mới bắt đầu sử dụng quảng cáo để tăng thêm sự tin tưởng của họ vào dịch vụ của bạn, và biến họ thành bịnh nhân trung thành với dịch vụ của bạn.

Đó chính là quy trình của tiếp thị và quảng cáo. Nhưng phần đông các doanh nghiệp, khi sử dụng tiếp thị và quảng cáo không hiểu rõ ràng, nên thay vì tiếp thị thì họ lại đi quảng cáo giảm giá, trong khi, bịnh nhân của họ chưa biết gì về dịch vụ của họ, cũng như. các khó khăn mà người bịnh đang có là gì, và làm sao dịch vụ có thể giúp họ giải quyết thì lại không nhắc đến. Cho nên, dù doanh nghiệp có giảm giá, họ cũng chẳng quan tâm, vì họ có biết gì về dịch vụ của doanh nghiệp đâu mà họ ưa thích hay ham muốn dùng dịch vụ.

Vì vậy, trung tâm của bạn sẽ rơi vào tình trạng thiếu bịnh nhân; trong khi, trung tâm của bạn cần phải có bịnh nhân mới có thể có đủ tiền để chi trả tiền mướn trung tâm, cũng như các chi phí cho cuộc sống của bạn.

Nếu tình trạng này cứ tiếp tục kéo dài, bạn sẽ rơi vào sự thất vọng, chán nản, lo âu và phiền muộn. Khi những vấn đề này cứ tiếp tục gia tăng, cuối cùng bạn phải đóng cửa trung tâm trong sự thất vọng, chán chường.

Nếu như bạn may mắn có được thành công, nhưng trong qúa trình thực hiện lại không có mục đích của An hay hạnh phúc, thì trong sự phục vụ của bạn, chỉ mang yếu tố phục vụ, chứ không phải là chia xẻ từ chính kinh nghiệm của bạn.

Vì bạn chẳng có An hay Hạnh Phúc, nên những gì bạn đưa ra phương pháp giải quyết, chỉ là những kinh nghiệm dựa trên sách vở. Cho nên, những gì bạn cố vấn hay chữa trị chỉ là phần ngọn, không đem đến sự giải quyết triệt để. Vì vậy, vấn đề đó sẽ “vắng mặt” trong một khoảng thời gian ngắn, rồi sau đó trở lại, khiến cho uy tín của bạn sẽ bị ảnh hưởng rất trầm trọng trong tương lai.

Khi điều đó xẩy ra, bạn sẽ rơi vào những “áp lực” vô hình từ những lời đồn thổi, khiến cho trung tâm của bạn càng lúc càng rơi vào tình trạng thiếu bịnh nhân; hay nguy hiểm hơn, bịnh nhân sẽ không tin tưởng vào bạn, nên không còn hợp tác với bạn để giải quyết vấn đề, mà còn tạo ra những thông tin giả, khiến cho phục vụ của bạn càng khó khăn hơn, và tạo ra cho bạn rất nhiều phiền muộn và khổ đau với họ.

Nếu như mục đích mở trung tâm của bạn kết hợp với dùng mục đích An hay hạnh phúc trong qúa trình phát triển thì khi dùng tiếp thị, bạn sẽ dùng chính những kinh nghiệm của bạn, khi bạn có vấn đề, bạn giải quyết ra sao để bạn có được An hay hạnh phúc kéo dài làm những thông tin trung thực của bạn. Khi họ biết được sự phục vụ của bạn, họ đến dùng dịch vụ của bạn, và đạt được kết qủa như họ muốn, họ sẽ tin tưởng bạn.

Khi họ đã tin tưởng bạn, họ sẽ giới thiệu những người quen của họ khi có vấn đề đến gặp bạn, lúc đó, có khi bạn không cần đến quảng cáo nữa, vì chính những bịnh nhân của bạn đã làm việc quảng cáo cho bạn miễn phí.

Trong qúa trình phát triển khi tiếp xúc với bịnh nhân, bạn không những, giúp cho bịnh nhân của bạn giải quyết được vấn đề của họ, mà ngay trong qúa trình đó, bạn cũng được học hỏi và trải nghiệm nhiều hơn. Điều này sẽ giúp ích cho bạn rất nhiều cho những lần chữa trị kế tiếp, hay cho những bịnh nhân có cùng bịnh chứng.

Quan trọng nhất, bạn sẽ không rơi vào trong trường hợp “ôm” những vấn đề của bịnh nhân vào bạn, và phải đi tìm một bác sĩ tâm lý khác để giúp bạn giải quyết.

À, cháu cũng có chút kinh nghiệm về việc đặt mục đích An hay hạnh phúc vào một vài mục đích khác của cháu, nhưng cháu lại không biết, chúng ta có thể áp dụng mục đích An hay hạnh phúc vào tất cả mọi mục đích. Nhưng nếu như trường hợp có mục đích An hay hạnh phúc mà thất bại thì sao chú?

Cũng đơn giản thôi, đâu phải chỉ có trung tâm tư vấn mới giúp được người, bạn vẫn có thể làm tư vấn cho từng cá nhân qua điện thoại, qua những trang web, trên diễn đàn có trả tiền hay trên Youtube, v.v.

Điều quan trọng là bạn phải có An và có Hạnh Phúc.

Muốn có An và hạnh phúc, bạn phải đặt những mục đích này làm mục đích của bạn. Sau đó, bạn thực hành trong đời sống hàng ngày của bạn. Khi bạn đã có trải nghiệm, bạn có phương pháp rõ ràng, và bạn dùng chính sự trải nghiệm và phương pháp để kiếm tiền, không những bạn có An Lạc và Hạnh Phúc cho chính bạn, mà những gì bạn tư vấn hay giúp cho người khác, cũng là chân thực, không phải qua những kinh nghiệm tích lũy từ sách vở.

Chúng ta phải nhớ rằng, kinh nghiệm của người khác, chúng ta chỉ nên dùng để kiểm chứng lại sau khi chúng ta có sự trải nghiệm thật sự, chứ đừng bao giờ lấy kinh nghiệm của họ làm của mình, mà chưa qua quá trình trải nghiệm và thực nghiệm.

Tóm lại, dù chúng ta muốn đặt mục đích là An hay Hạnh Phúc thì tùy mỗi người trong chúng ta lựa chọn. Chúng ta cũng có thể chọn vui, chọn hoan hỷ, v.v. Nhưng dù chúng ta chọn mục đích là gì thì điều kiện bắt buộc đó là mục đích đó phải liên tục. Có nghĩa là, mục đích đó phải là khát khao, mong muốn từ lúc mới sinh ra cho tới lúc mãn phần mà chúng ta luôn đi tìm kiếm.

Muốn đạt được trạng thái An hay Hạnh Phúc thì cách dùng đơn giản, nhanh nhất, và đạt hiệu qủa tối ưu là phương pháp bốn bước, gồm:

Bước một: Xác Định Có Vấn Đề

Bước hai: Đi Tìm Nguyên Nhân Tạo Ra Vấn Đề

Bước Ba: Phương Pháp Giải Quyết Vấn Đề

Bước Bốn: Thời Gian Giải Quyết Vấn Đề

Nếu chúng ta ứng dụng đúng cách và thực tập liên tục cho đến khi trở thành thói quen thì chắc chắc chung ta sẽ có được hạnh phúc lâu dài, hay An lâu dài, mà không cần lệ thuộc vào bất cứ một đối tượng ở bên ngoài “ban phát” cho chúng ta.

Dĩ nhiên, khi chúng ta sinh hoạt với các đối tượng bên ngoài, chúng ta cũng nhận được An hay hạnh phúc từ họ, nhưng An hay hạnh phúc đó chỉ là phần “tô điểm” chứ không phải là nguyên liệu chính.

Cho nên, có cũng tốt, mà không có cũng không sao. Vì vậy, chúng ta không cần phải “giãn cách”, “cách ly” hay “tránh né” đối tượng, mà chúng ta vẫn sinh hoạt hết sức bình thường với họ. Khác biệt chỉ là chúng ta chủ động tạo ra hạnh phúc của chúng ta, mà không bị động chờ họ ban phát.

Cháu thì rất hạnh phúc khi được đi mua sắm mà không có anh Nhật minh, và chỉ số hạnh phúc của cháu sẽ giảm dần khi anh Nhật Minh không chịu móc ví trả tiền.

Ba chú cháu cười vui vẻ trước câu nói đùa của Diệu Hiền.

Những con chim đậu trên cành cây hót vang những tiếng ríu rít, như đang chia xẻ hạnh phúc đến loài người.

NGHIỆP VÀ LUÂN HỒI

album-art

00:00

TẢI MP3 – TRƯƠNG THU HUYỀN
TẢI MP3 – QUẢNG BẢO TÂM

Chiều nay, Diệu Hiền và Nhật Minh lại đến thăm ông chú. Sau những câu chào hỏi, Diệu Hiền đã xà xuống, ngồi bên cạnh ông chú, rồi nói:

Chú ơi, tối qua, sau khi đi ăn với chú về, cháu và anh Nhật Minh đã cùng nhau chia xẻ về Nghiệp và Luân Hồi.

Theo sự hiểu biết của cháu, Nghiệp và Luân hồi là hai ý niệm đã có trong Ấn độ Giáo được truyền giảng trong các Kinh Vệ Đà và Áo Nghĩa Thư, vào khoảng 1500 năm trước công nguyên. Như vậy, hai ý niệm này đã có trước khi giáo lý về Nghiệp và Luân Hồi của đức Phật được truyền giảng.

Đứng trên góc độ trải nghiệm về các kinh của Ấn Độ giáo thì cả hai đứa cháu đều không có nhiều hiểu biết về Nghiệp và Luân hồi được họ truyền giảng như thế nào.

Nhưng đứng trên góc độ của đạo Phật, theo cháu hiểu, thì Nghiệp là hành động chịu ảnh hưởng của luật Nhân Quả, vì mỗi một hành động làm ra, được gọi là nguyên nhân, đều có một hậu quả tương ứng; và hậu quả sẽ trở thành nguyên nhân cho một hậu quả kế tiếp.

Nhưng trong một số kinh điển khác của đạo Phật thì lại cho rằng: không phải hành động nào cũng tạo ra Nghiệp. Nghiệp chỉ được tạo ra khi có một sự tác ý, và khi đã tạo ra Nghiệp thì Nghiệp sẽ ảnh hưởng đến sự tái sanh trong vòng sinh tử luân hồi.

Tuy cháu và anh Nhật Minh cũng đã tham khảo và nghiên cứu khá nhiều kinh điển, nhưng chúng cháu vẫn cảm thấy rất mơ hồ về Nghiệp và Luân Hồi, chú có thể chia xẻ với chúng cháu sự quan sát của chú về Nghiệp và Luân hồi được không?

Này hai bạn trẻ, Nghiệp và Luân Hồi là một đề tài rất lớn, và mỗi một tôn giáo, bao gồm: Ấn Độ giáo, Thiên Chúa giáo, Phật giáo, và Hồi giáo, v.v. đều có những quan niệm và cách diễn giải riêng tùy thuộc vào giáo lý mà tôn giáo đó và các tín đồ của tôn giáo đó, Tin theo như thế nào.

Cho nên, rất khó để có thể đưa ra, đâu là chuẩn và đâu là cần chỉnh.

Như những lần trước tôi đã chia xẻ, muốn biết được đâu là chuẩn thì chúng ta cần phải tiếp xúc được với sự thật. Nếu chúng ta không thể tiếp xúc được với sự thật thì tất cả những gì chúng ta diễn giải đều chỉ là những phỏng đoán mà thôi.

Trước khi chúng ta dùng sự quan sát và nhìn sâu vào Nghiệp và Luân Hồi, tôi nghĩ, chúng ta nên tìm hiểu sơ qua về những quan điểm cũng như giáo lý của các tôn giáo diễn giải về Nghiệp và Luân Hồi như thế nào?

Tôi còn nhớ, có đọc một bài của tác giả nào đó không để tên trên Lạc Tửu Lâu. Tác giả vô danh đó đã viết một bài khảo cứu về Nghiệp và Luân Hồi như sau:

Theo Hindu giáo, luật nhân quả được biểu hiện qua cặp nhị nguyên là: Nghiệp Báo và Luân Hồi.

Ấn Độ giáo quan niệm rằng, linh hồn của bất kỳ một thể sống nào, bao gồm: động vật và thực vật; khi chết đi, hay hoại diệt, và đầu thai, đều có liên hệ một cách phức tạp với Nghiệp.

Nghiệp hay gọi đúng hơn là Nghiệp Báo, theo Hindu giáo, là tổng số các hành động của một người, và là lực, sẽ quyết định sự đầu thai kế tiếp của người đó qua vòng xoay, luân chuyển (Luân Hồi) của việc chết và tái sinh.

Theo tư tưởng Nghiệp Báo và Luân Hồi, kinh Upanishad (Áo Nghĩa Thư – kinh điển với ý nghĩa uyên áo, giữa thầy và trò) cho rằng: Con người sẽ trở nên tốt, nhờ họ có những hành động tốt trong cuộc sống, và họ sẽ trở nên xấu nếu cuộc sống của họ có nhiều hành động xấu.

Và để diễn rộng hơn, kinh Áo Nghĩa Thư, đã dẫn chứng những ví dụ như:

Nếu người nào sống có những hành vi tốt đẹp thì sau khi chết sẽ đầu thai vào kiếp khác tốt đẹp hơn, hoặc thành Bà La Môn, hoặc thành người quý tộc, hoặc thành thương nhân.

Còn những ai có hành vi xấu xa, sau khi chết, sẽ phải đầu thai vào những kiếp xấu xa như: kiếp chó, kiếp heo, ngạ quỷ, hay những kẻ nô lệ hèn mọn, làm tôi tớ cho người khác, v.v.

Bên cạnh đó, quan điểm về Luân Hồi, còn được thể hiện trong các thuyết Ashrama (những bước trong hành trình của cuộc sống), về bốn giai đoạn mà con người phải trải qua để đạt được sự giải thoát của linh hồn, tức là tránh khỏi Luân Hồi, bao gồm:

  • Học tập
  • Lập gia đình, tạo sự nghiệp
  • Hướng về tâm linh
  • Thoát ly xã hội để tu hành

Bốn gia đoạn này, cũng được diễn giải qua tư tưởng Brahman (Đại Ngã) và Atman (Tiểu Ngã).

Cũng theo Áo Nghĩa Thư, đại ngã là nguồn gốc tối cao của vũ trụ; và đại ngã là đại vũ trụ, là đại hồn, hay còn gọi là Thượng Đế. Còn tiểu ngã là bản ngã của con người. Hay, tiểu ngã là tiểu hồn, là tiểu vũ trụ. Và tiểu ngã chỉ là một phần rất nhỏ từ đại ngã tách ra.

Do đó, đại ngã và tiểu ngã vốn đồng về bản chất, nên đại ngã và tiểu ngã có thể tương thông được với nhau. Vì vậy, tiểu ngã có thể nhờ sự tu luyện để đạt được sự giải thoát của linh hồn, thoát khỏi các khổ não ràng buộc nơi cõi trần, và có thể đem tiểu ngã trở về hợp nhất với đại ngã.

Nếu tiểu ngã nào không thể giải thoát được những ràng buộc, và vẫn không dứt khỏi nghiệp thì tiểu ngã đó không dứt khỏi Luân Hồi và phải đầu thai trở lại cõi trần, hết kiếp này đến kiếp khác.

Dựa trên những định nghĩa và cách diễn giải về luật Luân Hồi này, đã giúp cho các thầy tu Bà La Môn giải thích được cho các tín đồ Hindu giáo, về lý do tại sao lại có sự phân biệt đẳng cấp trong xã hội Ấn Độ của ngày xưa cũng như ngày nay.

Vậy còn quan điểm về Nghiệp và Luân Hồi theo đạo Phật thì sao?

Theo Phật giáo, nguyên nhân trói buộc con người trong luân hồi sinh tử, chính là tam độc: tham, sân và si.

Luân Hồi tuân theo nguyên tắc của luật Nhân Quả, luân chuyển qua sáu cõi, tùy vào nghiệp của con người đã tạo ra trong quá khứ, mà người đó, sẽ tái sinh vào một trong sáu cõi, gồm: Trời-Thần; Người; Atula; Súc Sinh; Quỷ Đói (Ngạ Quỷ); và Địa Ngục.

Còn định nghĩa của Nghiệp theo đạo Phật là hành động hay việc làm. Nghiệp được gây nên bởi hành, cụ thể là do thân, khẩu, ý, tạo ra.

Thế nên, tùy theo Nghiệp Báo mà chúng ta có thể sinh ra trong một tình trạng, hay hoàn cảnh nào đó, tùy thuộc vào chính những hành động của chúng ta trong quá khứ đã tạo nên.

Nếu trong kiếp hiện tại, mặc dù, chúng ta sống một đời sống trong sạch, nhưng chúng ta lại gặp phải những điều bất hạnh thì chúng ta phải biết rằng, đó là, do nghiệp xấu của ta trong quá khứ đã tác động, mà có.

Trái lại, nếu chúng ta đang sống trong một đời xấu xa, tội lỗi, nhưng chúng ta vẫn đang được hưởng an vui hạnh phúc, giàu sang, may mắn, thì đó, cũng là do nghiệp tốt của chúng ta đã tạo trong quá khứ, mà có.

Đạo Phật quan niệm rằng, kiếp sau của chúng ta như thế nào, tùy thuộc vào 4 loại nghiệp như sau:

  • Nghiệp Cận Tử: Đây là nghiệp quan trọng nhất. Khi chúng ta sắp chết chúng ta sẽ tiếc nuối vòng đời, chúng ta sẽ được tua lại, trong đó, có những việc chúng ta tiếc là mình đã làm, và cũng có những việc chúng ta tiếc là đã không làm
  • Tích Lũy Nghiệp: là nghiệp sinh ra trong quá trình chúng ta sống. Nghiệp được sinh ra bởi Tâm, Thân, Khẩu. Mỗi một lời nói, suy nghĩ, hành động của chúng ta đều giống như đang gieo hạt, và hạt đó sẽ sinh ra quả tốt hay xấu tương ứng
  • Tập Quán Nghiệp: là thói quen của chúng ta sinh ra nghiệp
  • Cực Nghiệp: Nghiệp tạo ra, gây ra hậu quả nghiêm trọng, trái với luân thường đạo lý như: giết người.

Luật Nhân Quả trong Phật giáo, cũng khá tương đồng với Hindu giáo, trong quan điểm về Nghiệp Báo và Luân Hồi. Nhưng đứng trên góc độ xây dựng một xã hội công bằng, bình đẳng, không phân biệt cao thấp, thì Phật giáo lại đi ngược lại với xã hội phân chia gia cấp hay phân biệt đẳng cấp mà Hindu giáo muốn tạo dựng.

Đó là những nét căn bản về định nghĩa, cũng như quan điểm và diễn giải của Hindu giáo và Phật giáo về Nghiệp và Luân Hồi.

Vậy còn quan điểm về, Con Đường Giải Thoát theo Hindu giáo và Phật giáo thì như thế nào?

Đứng trên góc độ của bản thể luận đến hiện tượng luận, thì cả Phật giáo lẫn Hindu giáo đều thống nhất rằng: cuộc đời này là sự giả tạm, là đau khổ. Bởi thế, sự giải thoát khỏi sự giả tạm và khổ đau là yêu cầu cấp thiết nhất mà tất cả các thế hệ tư tưởng của Ấn Độ đều nỗ lực tìm kiếm.

Tuy nhiên, nếu đứng trên góc độ về triết lý và tư tưởng, thì hai tôn giáo này đều có những mục đích khác nhau.

Đối với Hindu giáo, nếu một tiểu ngã muốn đạt được sự giải thoát thì tiểu ngã đó phải quay trở về với bản thể Phạm Thiên (đại ngã). Vì sao?

Bởi vì, Tiểu Ngã đã ngày càng xa rời khỏi những quy luật của đấng sáng tạo Phạm Thiên tạo ra. Linh hồn của tiểu ngã đã bị vô minh, dục vọng làm ô nhiễm nên bị trôi lăn trong sinh tử luân hồi và khó có thể trở về hợp nhất với đại ngã được nữa.

Cho nên, muốn trở về, tiểu ngã cần phải diệt được dục vọng, và vô minh. Và muốn diệt được dục vọng, và vô minh, thì phải dùng Yoga để đạt được những trạng thái thiền định. Chính trạng thái thiền định này sẽ giúp cho tiểu ngã hạn chế tới mức thấp nhất những ảnh hưởng của Ý Thức, nơi mà, theo quan điểm của Hindu giáo, chính là nguyên nhân gây ra: sự phân biệt đối đãi, vô minh, và ham muốn của tiểu ngã.

Bởi thế, Hindu giáo, chủ trương dùng trí tuệ đạt được, qua cách thể nhập vào các loại định Yoga để loại bỏ sự kiềm tỏa của Ý Thức. Khi sự kiềm tỏa từ Ý Thức bị đứt đoạn, rụng rơi, thì lúc đó, tiểu ngã mới có sự giải thoát, và tiểu ngã mới có thể được hòa nhập vào đại ngã.

Còn đối với Phật giáo, phạm trù giải thoát, bao gồm: đối tượng để giải thoát, phương pháp và kết quả:

Về đối tượng giải thoát, Phật giáo cùng quan điểm với Hindu giáo rằng: cuộc đời của con người là đau khổ. Và nỗi khổ này, không có nguyên nhân nào khác ngoài vô minh, ái dục. Cho nên, muốn hết khổ thì phải loại bỏ những nguyên nhân này.

Tuy nhiên, quan điểm về vô minh của Phật giáo lại khác với Ấn Độ giáo, khi Ấn Độ giáo cho rằng: vô minh là do mối quan hệ giữa Ý Thức và cảm giác hiện tượng quá sâu đậm dẫn đến sự mê đắm, từ đó, đánh mất đi tính chất thanh cao của bản ngã nên bị luân hồi sanh tử; thì Phật giáo, lại cho rằng: khi người thực tập không đủ khả năng nhận ra được bản chất như thật của các pháp thì đó gọi là vô minh.

Bản chất Như Thật ở đây, tức là bản chất Không Thật Tính của các pháp. Và Phật giáo cũng cho rằng: muốn giải thoát, thì người thực tập phải có khả năng nhận ra được bản chất Như Thật của các pháp.

Trong khi quan điểm của Hindu giáo, chú trọng vào việc đưa bản ngã của con người ra khỏi tầm ảnh hưởng của Ý Thức, thì Phật giáo lại chú trọng đến sự phát triển Ý Thức lên đỉnh điểm của nhận thức để chuyển hóa tâm thức và giác ngộ được Thật Tính của các pháp.

Về phương pháp giải thoát, do vì quá chú trọng đến sự thể nhập của tiểu ngã vào đại ngã làm đối tượng, nên các phương pháp của Hindu giáo thường sử dụng các lễ nghi, nghiên cứu kinh Vệ Đà, Áo Nghĩa Thư, và thực hành Yoga, với mục đích hạn chế Ý Thức để đạt được giải thoát.

Trong khi đó, Phật giáo lại cho rằng: Người thực tập muốn đạt được Giải Thoát phải là người có khả năng nhận ra được các pháp như “Nó Đang Thật Là”. Điều này, đã được đức Phật dậy như sau: Ai thấy được lý Duyên Khởi thì người ấy thấy được Pháp. Ai thấy được Pháp thì người ấy thấy Phật.

Bởi vậy, trong Phật giáo, các pháp môn, dù là lễ bái, niệm Phật, hay tọa thiền, v.v., tất cả đều lấy việc, nâng cao sự nhận thức của tâm thức lên đến tột đỉnh của sự giác ngộ. Nói khác hơn, tất cả chỉ để hoàn thiện tính năng tự hoạt của tâm, mà một trong các đại diện của cái tâm đó là Ý thức.

Đó chính là những nét căn bản về Con Đường Giải Thoát của Ấn Độ giáo và Phật giáo.

Dĩ nhiên, ngoài Ân Độ giáo và Phật giáo, thì các tôn giáo khác cũng có những quan điểm về Nghiệp, Luân Hồi, và con đường giải thoát để truyền giảng giáo pháp của mình.

Nếu chúng ta đều đi tìm hiểu từng tôn giáo một thì sẽ tốn rất nhiều thời gian, và cũng khiến đề tài sẽ trở nên rộng hơn, dễ khiến cho chúng ta choáng ngợp.

Chính vì vậy, chúng ta chỉ nên chú trọng đến Ấn Độ giáo và Phật giáo, vì cả hai tôn giáo này có những sự liên hệ đặc biệt như sau:

  • Vì giáo lý của đạo Phật có sau giáo lý của Ấn Độ giáo, nên trong hàng đệ tử của đức Phật, cũng có khá nhiều các bậc tôn giả, đã từng thực hành, hay ít nhiều đã thấm nhuần những tư tưởng của kinh Áo Nghĩa Thư hay Vệ Đà; mà ngay cả đức Phật, khi còn là thái tử, cũng đã thực tập qua những bộ kinh này.

Vì vậy, khi giảng dậy cho những vị tôn giả, đức Phật đã dùng khá nhiều những tư tưởng của kinh Vệ Đà hay Áo Nghĩa Thư để giúp cho những tôn giả, đã có những kinh nghiệm về các kinh này, có thể dễ lĩnh hội được những quan điểm khác biệt giữa hai tôn giáo.

  • Trong thời đức Phật còn tại thế thì Ấn Độ giáo đang sinh hoạt rất mạnh tại Ấn Độ.Trong kinh điển của đạo Phật, cũng đã nhắc đến những bậc thức giả Bà La Môn đã từng ghé qua những tu viện nơi đức Phật cư trú để chất vấn và tranh luận.

Cho nên, trong những nét căn bản giữa Phật giáo và Ấn Độ giáo đã có rất nhiều tư tưởng về giáo lý gần như giống nhau, nhưng mục đích thì lại hoàn toàn khác nhau.

Vì vậy, chúng ta sẽ chỉ nên tập trung quan sát và nhìn sâu vào hai tôn giáo này mà thôi. Chứ không phải, giáo lý hay tư tưởng của hai tôn giáo này vĩ đại hơn, thâm sâu hơn, vi diệu hơn, hay chánh đạo hơn các tôn giáo khác.

Này hai bạn trẻ, khi chúng ta quan sát và nhìn sâu vào sự Trải Nghiệm và Dụng Nghiệm của đức Phật, Ai trong chúng ta cũng đều công nhận rằng, đức Phật là bậc Giác giả, là người đã tiếp xúc được với Sự Thật, một người có khả năng nhận ra, biết ra, được Bản Chất Như Thật của các Pháp.

Cho nên, nếu như Ngài được sinh ra ở thế giới hôm nay, chắc chắn, Ngài sẽ diễn giải về Nghiệp, Luân Hồi và Nhân Quả không dựa trên tư tưởng của Ấn Độ giáo, mà Ngài sẽ sử dụng ngôn ngữ mới, ngôn ngữ của hiện đại sẽ dễ hiểu hơn rất nhiều.

Thật bất hạnh thay, chúng ta không có nhân duyên đó. Cho nên, chúng ta phải dùng sự quan sát và nhìn sâu của chúng ta để tiếp cận với sự thật, tiếp cận với các pháp “Chân Thật Như Đang Là”.

Muốn làm được việc đó, đầu tiên, chúng ta cần, đó là: quan sát sự hình thành của thuyết Nghiệp, Luân Hồi và Nhân Quả.

Rõ ràng, thuyết về Nghiệp và Luân hồi được hình thành, theo Ấn Độ giáo (ngày nay), hay Vệ Đà giáo (ngày xưa), nhằm mục đích giúp các vị Bà La Môn có thể giải thích được lý do tại sao có sự phân biệt gia cấp trong xã hội.

Theo những tài liệu của các nhà nghiên cứu về Ấn Độ giáo, ngày nay, hay Vệ Đà giáo, Bà La Môn giáo, ngày xưa, thì Bà La Môn giáo, hay Vệ Đà giáo, phát triển đến thế kỷ thứ nhất sau tây lịch thì cải biến thành Ấn Độ giáo. Tôn giáo này, quy định thứ tự của các đẳng cấp trong xã hội Ấn Độ như sau:

Đứng đầu là các vị Bà La Môn (Brahman), bao gồm: những giáo sĩ, tu sĩ, triết gia, học giả, và các vị lãnh đạo tôn giáo, tức là những người nắm giữ quyền thống trị tinh thần, phụ trách về lễ nghi, và cúng bái.

Vệ Đà giáo, hay Ấn Độ giáo, quy định, các vị Bà La Môn là đẳng cấp cao thượng nhất, được sinh ra từ miệng của Phạm Thiên. Họ có toàn quyền thay Phạm Thiên cầm cương lãnh đạo tinh thần dân tộc. Cho nên, họ có quyền ưu tiên được tôn kính, và an hưởng cuộc đời sung sướng nhất. Dân chúng Ấn Độ nhất định phải tuân theo và tôn trọng đẳng cấp này. Nếu không, họ sẽ bị trừng phạt từ Phạm Thiên.

Vị Trí thứ hai, thuộc về Sát Đế Lỵ, hay Sát Đế Lợi (Kshastriya) là hàng vua chúa quý phái. Ấn Độ giáo quy định, những Sát Đế Lợi này, sinh ra từ cánh tay của Phạm Thiên và họ có thể thay mặt cho Phạm Thiên nắm giữ quyền hành thống trị dân chúng.

Vị Trí thứ ba, thuộc về Vệ Xá (Vaisya) là những người bình dân, thương gia, nông dân. Ấn Độ Giáo quy định, họ sinh ra từ bắp vế của Phạm Thiên, có nhiệm vụ đảm đương về kinh tế trong nước như: kinh doanh, mua bán, trồng trọt, thu hoa lợi cho quốc gia.

Vị Trí thứ tư, thuộc về Thủ Đà La (Sudra) là hàng tiện dân. Ấn Độ giáo quy định, họ sinh ra từ gót chân của Phạm Thiên, nên phải thủ phận và phải phục vụ các giai cấp trên.

Vị trí thứ năm, thuộc về Chiên Đà La (Pariah, Dalit) là giai cấp người cùng khổ, nô lệ. Ấn Độ giáo quy định, họ là đẳng cấp hạ tiện nhất. Họ phải làm các nghề hạ tiện nhất như: gánh phân, dọn nhà vệ sinh, giết mổ gia súc, v.v, và bị coi như sống ngoài lề xã hội, bị các giai cấp trên đối xử như thú vật, bị coi là thứ ty tiện, vô cùng khổ nhục, tối tăm, không được chạm tay hay chân vào những người thuộc các đẳng cấp khác. Thậm chí, họ còn không được giẫm lên cái bóng của những người thuộc đẳng cấp cao như: Bà La Môn, Sát Đế Lỵ, v.v.

Không dừng lại ở đó, cũng theo những giáo điều này, Ấn Độ giáo, cũng quy định rất nghiêm khắc về cách “cha truyền con nối”, như:

Tổ tiên thuộc đẳng cấp nào thì con cháu cũng thuộc đẳng cấp đó. Cho dù, một người ở đẳng cấp thấp hơn, có giỏi giang, cố gắng đến đâu thì cũng không thể được xếp lên đẳng cấp cao hơn.

Thí dụ: một người Thủ Đà La cho dù có tài năng xuất chúng, có chiến đấu dũng cảm, lập  được nhiều chiến công đến đâu thì cũng mãi chỉ là lính, không bao giờ được bổ nhiệm làm tướng, vì chức vị đó chỉ dành cho những người thuộc đẳng cấp Sát Đế Lỵ.

Hay, người thuộc các đẳng cấp chênh lệch xa thì không được kết hôn với nhau. Thí dụ: một người thuộc đẳng cấp Bà La Môn, Sát Đế Lỵ thì chỉ có thể kết hôn với một người cũng thuộc đẳng cấp Bà La Môn, hoặc Sát Đế Lỵ, cùng lắm cũng chỉ kết hôn với một người Vệ Xá giầu có, chứ tuyệt đối không được kết hôn với Thủ Đà La.

Trong thời kỳ Đức Phật còn tại thế, Bà La Môn là cấp cao nhất trong hệ thống xã hội phân chia tầng lớp ở Ấn Độ.

Như vậy, qua các tài liệu ghi chép, chúng ta có thể thấy, giới cầm quyền Bà La Môn đã đưa ra thuyết Nghiệp và Luân hồi cũng như Nhân Quả có hai mục đích rõ rệt:

  • Mượn Thần Linh và lợi dụng sự hiểu biết nông cạn của người dân, về vấn đề sợ chết, chết đi về đâu, hay tại sao họ nghèo khó, hay tại sao họ phải phục tùng, v.v. để đặt ra những tư tưởng nhằm giải thích những hiện tượng, tình trạng hay hoàn cảnh của con người, và chỉ dựa trên sự phỏng đoán mà không hề đúng sự thật.
  • Dùng những tư tưởng Nghiệp, Luân Hồi, Nhân Quả để bảo vệ quyền hành và quyền lợi của chính họ. Cũng như, đặt ra những sự trừng phạt, đọa đầy qua thần linh đối với những ai có những tư tưởng chống đối lại những sự bất công do họ tạo nên.

Chính vì những mục đích này, cho nên, chúng ta cũng không lấy làm lạ, khi kinh điển của Áo Nghĩa Thư đã định nghĩa Nghiệp, là tổng số các hành động của một người, và là lực, sẽ quyết định sự đầu thai kế tiếp của người đó qua vòng xoay, luân chuyển (Luân Hồi) của việc chết, và tái sinh.

Nếu chúng ta chịu khó quan sát và nhìn sâu vào trong định nghĩa này, chúng ta thấy, có nhiều điều thiếu chính xác, khi Kinh Áo Nghĩa Thư cho rằng: Nghiệp là tổng các hành động và là lực, thúc đẩy sự đầu thai, hay tái sinh của người nào đó trong lục đạo luân hồi.

Qua trải nghiệm, cũng như qua thực nghiệm, ai trong chúng ta cũng có thể biết rất rõ ràng. Nếu chúng ta muốn hành động một việc gì đó thì chúng ta phải có sự tư duy, hay có cảm xúc/giác trước đó.

Hay cho dù, chúng ta có hành động theo thói quen, thì trước khi muốn biến thành thói quen, được lập đi lập lại nhiều lần, thì mỗi lần chưa trở thành thói quen, chúng ta cũng phải có suy nghĩ, hay có cảm xúc/giác về việc làm đó trước khi có hành động. Chứ không thể nào, không có sự tư duy hay cảm xúc/giác mà chúng ta có thể hành động được.

Thí dụ, chúng ta bị muỗi chích và bị ngứa. Nếu như mới lần đầu thì vùng bị muỗi chích do Thân Thể Thức gởi về cho Tiềm Thức, và đưa vào kho Ngã Thức. Ngã Thức khi tiếp xúc với vùng bị muỗi chích mới khích hoạt cảm giác Ngứa. Vì cảm giác ngứa gây ra khó chịu nên Ngã Thức liền sử dụng Ý Thức để tìm phương pháp làm dịu cảm giác ngứa.

Ý Thức khi nhận lệnh từ Ngã Thức thì mới dùng khả năng phân tích để tìm ra phương pháp giải quyết. Sau khi Ý Thức phân tích, so sánh, và tìm ra phương pháp xong thì gởi về kho dữ liệu của Tiềm Thức.

Vì cảm giác Ngứa đang có mặt trong Ngã Thức, nên Tiềm Thức sẽ sắp xếp những phương pháp từ phân tích của Ý Thức vào kho của Ngã Thức. Ngã Thức khi tiếp nhận các phương pháp từ Ý Thức, mới tác động lên Thân Thể Thức. Thân Thể Thức khi nhận lệnh từ Ngã Thức mới điều khiển đôi tay đưa vào chỗ ngứa để gãi.

Nếu như chỗ bị ngứa, lại rơi vào chỗ mà đôi tay không thể chạm đến để gãi, thì Thân Thể Thức sẽ gởi vấn đề: “tay không thể chạm đến chỗ gãi” về kho của Ngã Thức trong Tiềm Thức.

Ngã Thức lại sử dụng Ý Thức đi phân tích vấn đề “tay không chạm được chỗ gãi” để tìm ra những phương pháp khác, thí dụ như: dựa chỗ ngứa vào tường để gãi, hay dùng một que gãi có cán dài để gãi v.v. và gởi những phương pháp này về lại cho Tiềm Thức.

Tiềm Thức lại sắp xếp vào kho Ngã Thức, và Ngã Thức lại ra lệnh cho Thân Thể Thức, ứng dụng những phương pháp từ Ý Thức để giải quyết cảm giác Ngứa. Khi Thân Thể Thức đã chạm vào chỗ Ngứa, và giải quyết được cảm giác đó, và khi cảm giác Ngứa không còn có mặt trong Ngã Thức thì Thân Thức sẽ đem những phương pháp giải quyết đó, gởi về Tiềm Thức lưu giữ.

Tiềm Thức sắp xếp những phương pháp giải quyết đó vào trong kho của Ngã Thức, và chúng ta quen gọi những phương pháp được tích lũy hay lưu giữ trong kho Ngã Thức này là những kinh nghiệm sống của một cá thể.

Trong trường hợp chúng ta liên tục bị muỗi chích, và bị ngứa. Những kinh nghiệm tích lũy trong Ngã Thức được sử dụng nhiều lần, thành thói quen, thì lúc đó, chúng ta chẳng cần phải suy nghĩ phải làm gì, mà tự động, lúc đó, chúng ta tùy theo chỗ ngứa ở vị trí nào mà giải quyết một cách rốt ráo dựa trên những phương pháp đã có sẵn.

Nếu như, lại rơi vào trường hợp, chưa có những phương pháp có trước, hay tích lũy trong kho Ngã Thức không có, thì lập trình  trên lại được lập lại theo đúng sự vận hành của các Thức.

Như vậy, nếu quan sát sâu hơn về sự vận hành của các Thức, chúng ta thấy, nếu cảm giác ngứa không có mặt nơi Ngã Thức, cũng như, Ngã Thức, nếu không muốn giải quyết cảm giác ngứa, vì còn đang bận giải quyết những vấn đề khác quan trọng hơn, thì chúng ta không thể có hành động gãi theo sau.

Trạng thái này, chúng ta gọi là sự vô cảm của Ngã Thức với cảm giác ngứa. Nghĩa là, không có nguồn năng lượng nào sinh khởi từ Ngã Thức để đi giải quyết vấn đề của Ngứa, cho nên, không có hành động gãi, tiếp theo.

Thế nên, qua sự quan sát và nhìn sâu vào sự vận hành của các Thức, chúng ta thấy, định nghĩa của Nghiệp theo Áo Nghĩa Thư, là tổng số hành động, và là lực điều khiển đến sự tái sinh hay luân hồi theo lục đạo thì hoàn toàn không hợp lý, và không đúng với sự thật, cũng như không đúng với sự vận hành của các Thức.

Nếu nói chính xác hơn, thì sự tư duy hay cảm xúc/giác mới chính là nguồn lực để tạo ra sự tái sinh theo luân hồi, chứ không thể nào là Nghiệp được.

Và điều này, chúng ta lại thấy rất rõ, trong phần con đường giải thoát, Áo Nghĩa Thư cho rằng: Ý Thức mới chính là nguyên nhân tạo ra sự ràng buộc mê đắm và tạo ra sự tái sinh trong sinh tử luân hồi.

Dĩ nhiên, ở đây, chúng ta chỉ đang quan sát đến góc độ định nghĩa về Nghiệp là lực, là tổng số các hành động mà thôi, chứ chúng ta chưa quan sát đến có tái sinh, và có luân hồi hay không? Vấn đề này, chúng ta sẽ tiếp tục quan sát khi thực nghiệm về tái sinh luân hồi và nhân quả.

Như vậy, qua sự quan sát về sự hình thành gia cấp của các vị Bà La Môn trong Bà La Môn giáo, hay Vệ Đà giáo, chúng ta có thể hiểu rõ hơn lý do tại sao lại có thuyết về Nghiệp, Luân Hồi, và Nhân Quả được hình thành, và diễn giải có lợi ích lớn hơn, cho các vị chức sắc Bà La Môn.

Vấn đề này, chúng ta cũng lại thấy trong một số kinh điển của giáo lý của đạo Phật đã được đề cập đến như bạn Diệu Hiền đã trình bầy:

“Nghiệp là hành động chịu ảnh hưởng của luật Nhân Quả, vì mỗi một hành động làm ra, được gọi là nguyên nhân, đều có một hậu quả tương ứng; và hậu quả sẽ trở thành nguyên nhân cho một hậu quả kế tiếp.

Hay không phải hành động nào cũng tạo ra Nghiệp. Nghiệp chỉ được tạo ra, khi có một sự tác ý. Và khi đã tạo ra Nghiệp, thì Nghiệp sẽ ảnh hưởng đến sự tái sanh trong vòng sinh tử luân hồi.”

Nếu chúng ta lại quan sát và nhìn sâu vào sự vận hành của các Thức, thì chúng ta cũng thấy, định nghĩa của đạo Phật cũng có những vấn đề tương tự như Ấn độ giáo. Có nghĩa là, những định nghĩa này chỉ dựa trên sự suy luận, và phỏng đoán mà không hề có sự tiếp xúc với sự thật.

Trước tiên, chúng ta hãy quan sát định nghĩa về Nghiệp theo đạo Phật, là hành động chịu ảnh hưởng của luật Nhân Quả, vì mỗi một hành động làm ra, được gọi là nguyên nhân, đều có một hậu quả tương ứng; và hậu quả sẽ trở thành nguyên nhân cho một hậu quả kế tiếp.

Định nghĩa như thế này có chuẩn không?

Chắc chắn là không chuẩn, Vì sao? Vì qua sự quan sát vận hành của các Thức thì hành động luôn đến sau sự tư duy hay cảm xúc/giác có trước trong Ngã Thức. Cho nên, hành động phải thuộc về Quả, chứ không phải là Nhân; và cái Nhân thật sự phải là sự tư duy hay cảm xúc/giác, chứ không phải là hành động.

Theo luật Nhân Quả, cái gì có trước và qua tác động sinh ra cái có sau, thì cái có trước, được gọi là Nhân hay Nguyên Nhân, và cái có sau gọi là Quả, Kết Quả hay Hậu Quả.

Theo định nghĩa, trong câu đầu: “hành động chịu ảnh hưởng của luật Nhân Quả” điều này chính xác, vì hành động có hay không, còn tùy thuộc vào sự quyết định hay trạng thái của Ngã Thức lúc đó đang là gì. Cho nên, có hai trường hợp sẽ xẩy ra theo vận hành của các Thức: một, có xẩy ra hành động, và hai, không có xẩy ra hành động.

Chính vì, hành động chịu sự tác động trực tiếp từ cái Nhân trong Ngã Thức, hay nói, Quả-hành động chịu ảnh hưởng từ luật Nhân Quả, là điều vô cùng hợp lý và đúng với sự thật về sự vận hành của các Thức.

Chắc chắn, định nghĩa này, phải phát xuất từ một bậc Giác giả, một người đã tiếp xúc với sự thật, mới có thể diễn giải như vậy.

Nhưng nếu quan sát tiếp câu thứ hai, chúng ta lại thấy, định nghĩa của đạo Phật lại gần giống với định nghĩa của Áo Nghĩa Thư, chỉ khác trong cách sử dụng những từ ngữ, nhưng nội dung lại hoàn toàn dựa vào sự phỏng đoán khi cho rằng:

“Vì mỗi một hành động làm ra, được gọi là nguyên nhân, đều có một hậu quả tương ứng; và hậu quả sẽ trở thành nguyên nhân cho một hậu quả kế tiếp.”

Như chúng ta đã từng quan sát về các chức năng của Ngã Thức, chúng ta đều biết rằng, trong Ngã Thức có chức năng về Đạo Đức. Và trong phần Đạo Đức lại được chia làm ba phần riêng biệt, gồm cặp đối lập: Thiện-Ác, và phần thứ ba thuộc về Trung Tính, không Thiện, không Ác.

Thí dụ như, nhà thơ Xuân Diệu, khi diễn tả về nỗi buồn của mình ông đã viết:

Hôm nay trời nhẹ lên cao

Tôi buồn, không hiểu, vì sao tôi buồn.

Qua hai câu thơ này, nếu chúng ta quan sát theo sự vận hành của các Thức, chúng ta thấy, ông Xuân Diệu, khi nhìn lên trời, thấy mây bay trên cao, và nẩy sinh một cảm giác buồn.

Vì cảm giác buồn của ông thuộc về Trung Tính, không thiện, không ác, nên ông chẳng có bất cứ một hành động Ác hay Thiện nào kế tiếp để giải quyết nỗi buồn của ông.

Ngã Thức của ông, cũng không muốn giải quyết nỗi buồn của ông qua việc ra lệnh cho Ý Thức đi tìm hiểu xem nguyên nhân tại sao ông có nỗi buồn, và ông cũng chẳng muốn Ý Thức của ông tìm ra phương pháp để giải quyết nỗi buồn.

Vì vậy, ông đã sử dụng hai từ “không hiểu”, để diễn tả về Ngã Thức của ông đang hoạt động như thế nào. Nghĩa là, ông đã cho biết, ông không sử dụng khả năng phân tích của Ý Thức để đi tìm hiểu sâu hơn về nguyên nhân gây ra nỗi buồn của ông, hay tìm ra phương pháp giải quyết nỗi buồn của ông.

Mà ở đây, ông chỉ sử dụng Ý Thức để nhận diện ra nguồn năng lượng đang có trong ông, đó là nỗi buồn. Mà nỗi buồn đã qua sự phân tích của Ý Thức được xác định, đó không phải là những nguồn năng lượng khác như: chán, nản, khó chịu, v.v., nên ông khẳng định, đó là ông đang buồn, chứ không phải ông đang chán, hay ông đang khó chịu.

Nếu chúng ta quan sát và nhìn sâu, trên góc độ của Nhân Quả thì sẽ có bốn trường hợp xẩy ra.

Trường hợp thứ nhất, thuộc về cách ứng dụng trong việc ứng xử của cá nhân ông Xuân Diệu với những người chung quanh. Nếu như ông Xuân Diệu có nỗi buồn, và muốn giải quyết nỗi buồn của ông bằng cách đi gây chuyện, cãi vã, bạo hành với người khác để giải tỏa nỗi buồn, thì nỗi buồn của ông là nguyên nhân, gây ra hậu quả là hành động: gây chuyện, cãi vã, hay bạo hành với người khác. Và hành động này của ông sẽ kéo theo những hậu quả khác như: bị thương tích, phải bồi thường, hay bị giam cầm v.v.

Trường hợp này, xẩy ra đúng với một phần của định nghĩa trên, có nghĩa là, hành động của ông Xuân Diệu đã là nguyên nhân kế tiếp gây ra Hậu Qủa, không phải chỉ có Một Hậu Quả không, mà có khi lại tạo ra nhiều Hậu Quả như: bị bắt giam, bị thương tích, bị bồi thường v.v.

Và nếu chúng ta quan sát và nhìn sâu hơn, chúng ta thấy, cái Quả của hành động để tạo ra các Nhân mới, không phải là cái Nhân chính. Cái Nhân chính là nỗi buồn của ông. Nếu ông không có nỗi buồn, và lại không lựa chọn những hành động mang tính bạo động thì ông không tạo ra các nhân mới được.

Trường hợp thứ hai, như hai câu thơ của ông, ông chỉ cảm nhận được ông đang buồn, ông không tìm cách giải quyết nỗi buồn của ông qua người khác. Ông không dùng Ý Thức của ông để tìm hiểu tại sao ông buồn. Ông chỉ nhận biết trong ông đang có nỗi buồn, và ông không có bất cứ một hành động nào, đối với chính thân thể ông, hay với bất cứ ai khác.

Cho nên, tuy ông đang có Nhân là nỗi buồn, nhưng ông lại không tạo ra bất cứ một Quả hành động nào cả. Như vậy, trong trường hợp này thì chỉ có Nhân nhưng lại không có Quả.

Vậy thì trong trường hợp thứ hai này, định nghĩa trên hoàn toàn không hợp lý, và thiếu độ chính xác.

Trường hợp thứ ba, khi ông cảm nhận được nỗi buồn trong ông, thay vì kết hợp với những nguồn năng lượng tiêu cực như đi gây hấn, bạo hành, thì ông lại kết hợp nguồn năng lượng nỗi buồn vu vơ, thuộc về Trung Tính của ông, với những nguồn năng lượng tích cực, như: hối lỗi (vì chưa làm tròn những trách nhiệm với đất nước), hay cảm thông (những nỗi buồn của người khác, nên không sáng tác những vần thơ buồn, để tưới tẩm những hạt giống đó), và có những hành động tích cực như: siêng năng làm việc hơn khi buồn, sống có ý thức hơn; thì những hành động này, lại không gây ra Hậu Quả, mà lại là Kết Quả.

Như trường hợp thứ ba này thì định nghĩa trên lại hoàn toàn trái ngược với những gì xẩy ra trong thực tế.

Trường hợp thứ tư, đó là trường hợp chỉ liên quan đến chính cá nhân của ông Xuân Diệu, đó là trường hợp nỗi buồn của ông lại là Quả, chứ không phải là Nhân.

Có nghĩa là, nỗi buồn mà ông có, đến từ một khởi niệm nào trong Ngã Thức của ông khi qua sự tiếp xúc của ngũ quan, ngũ thức hay Ý Thức. Qua sự tiếp xúc này, mới sinh ra nỗi buồn. Ở đây, nhà thơ Xuân Diệu đã khẳng định, cái Qủa nỗi buồn của ông, đến qua sự tiếp xúc của mắt với trời cao, mây trắng, và qua Nhãn Thức, nhận diện được hình sắc, mới tạo ra nỗi buồn.

Nếu ông Xuân Diệu là một người Thể Nghiệm, muốn đi tìm sự thật thì ông sẽ sử dụng Ý Thức của ông để tìm ra nguyên nhân thật sự gây ra nỗi buồn.

Nhân nói về Ý Thức, chúng ta có thể quan sát về sự khác biệt giữa định nghĩa giữa Trí và Tuệ, mà phần lớn chúng ta đã có những lầm lẫn giữa hai định nghĩa này.

Định nghĩa của Trí là: sự quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp, nhân dạng, và phỏng đoán, theo chiều nông, và định nghĩa của Tuệ là: sự quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp, nhận dạng, nhưng không có sự phỏng đoán, và theo chiều sâu.

Như vậy, định nghĩa giữa Trí và Tuệ gần giống nhau về khả năng: quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp, nhân dạng, nhưng khác nhau, là Trí có thêm sự phỏng đoán và phát triển theo chiều nông. Còn Tuệ, thì không có sự phỏng đoán và phát triển theo chiều sâu.

Để kiểm chứng định nghĩa này, chúng ta có thể dùng phương pháp của Tứ Diệu Đế hay Bốn Bước làm minh họa:

Thí dụ, Nếu ông Xuân Diệu muốn đi tìm nguyên nhân gây ra nỗi buồn của ông, thì ông có thể sử dụng Tập Đế hay Bước Thứ Hai như sau:

Tại sao tôi buồn?

Tôi buồn vì mắt tôi tiếp xúc với những đám mây bay trên bầu trời.

Tại sao những đám mây bay trên trời lại khiến tôi buồn?

Vì tôi cảm thấy những đám mây kia, tụ tán vô thường, không biết lúc nào còn, lúc nào mất.

Tại sao tụ tán vô thường lại khiến tôi buồn?

Vì tôi nghĩ đến đời sống của tôi, cũng vô thường như đám mây, rồi có một ngày nào đó tôi sẽ chết. Và tôi rất sợ cảm giác chết.

Tại sao lại sợ chết?

Tại vì, tôi không biết, khi tôi chết sẽ đi về đâu.

Dĩ nhiên, nếu ông Xuân Diệu tiếp tục hỏi tại sao, ông sẽ biết được gốc rễ thật sự, hay cái Nhân đã gây ra nỗi buồn của ông.

Khi đã tìm được cái nhân, hay gốc rễ thật sự gây ra nỗi buồn, ông sẽ ứng dụng Đạo Đế, hay Bước Thứ Ba, để đi giải quyết vấn đề đó. Và khi giải quyết được vấn đề đó, bằng cách chấm Dứt từ Cái Nhân thì cái Quả là nỗi buồn của ông được giải quyết một cách triệt để.

Qua thí dụ trên, chúng ta thấy, ai trong chúng ta cũng có khả năng sử dụng Trí và Tuệ. Nhưng tiếc thay, chúng ta hay sử dụng những nguồn năng lượng tiêu cực như: lười biếng, do dự, chán nản v.v. cho nên, chúng ta thường làm việc qua loa, vì vậy, chúng ta thường sử dụng Trí nhiều hơn dùng Tuệ.

Thông thường, chúng ta cũng như nhà thơ Xuân Diệu, sẽ chỉ dừng lại ở câu trả lời số một, và phỏng đoán, cho rằng, đó chính là cái Nhân tạo ra nỗi buồn của chúng ta. Nhưng khi dùng Tuệ, chúng ta không dừng lại ở câu trả lời số một, mà chúng ta lại tiếp tục nhìn sâu hơn. Cho nên, chúng ta có khả năng để tiếp xúc với sự thật mà không cần đến sự phỏng đoán.

Nếu như, nhà thơ Xuân Diệu, hay chúng ta, dừng lại ở câu số bốn thì chúng ta thấy, nguyên nhân gây ra nỗi buồn của Xuân Diệu bắt nguồn từ cái Nhân “sợ chết không biết về đâu”, chứ không phải từ trời xanh mây trắng.

Giả sử như, đó chính là gốc rễ, thì khi áp dụng Đạo Đế, hay Bước Thứ Ba, chúng ta sẽ có những cách giải quyết hoàn toàn khác nhau, cũng như, sẽ tạo ra Hậu Quả hay Kết Quả khác nhau.

Thí dụ, qua Bước Thứ Ba, tìm những phương pháp giải quyết vấn đề từ cái Nhân. Nếu chúng ta dùng Trí, và dừng lại ở câu hỏi số một, thì chúng ta sẽ gặp vô số các vấn đề kế tiếp khi hỏi:

Làm sao giải quyết nỗi buồn, đem đến từ trời xanh mây trắng?

Chúng ta sẽ rơi vào trạng thái bế tắc, vì chúng ta không thể làm sao thay đổi được cái Nhân trời xanh mây trắng kia. Và nếu như, Ngã Thức của chúng ta đã Tin Trời Xanh mây trắng kia chính là cái Nhân, và lại không thể chuyển hóa, hay thay đổi cái Nhân, vì nằm ngoài tầm tay của chúng ta, thì chúng ta tạo ra một hậu quả là không thể giải quyết vấn đề này, và hậu quả này sẽ khích hoạt tạo ra một Nhân mới, đó là cảm giác thất vọng.

Cảm giác thất vọng mới được tạo ra sẽ kết hợp với nỗi buồn của chúng ta có sẵn, thành một nguồn năng lượng “không tên” mạnh mẽ hơn, và  nếu nguồn năng lượng này, liên tục xẩy ra, sẽ khích hoạt nguồn năng lượng tự ty, thấy mình nhỏ bé, v.v.

Và nếu chúng ta lại không thể giải quyết thì những nguồn năng lượng này lại tiếp tục kết hợp với những nguồn năng lượng khác, và trở nên mạnh mẽ hơn; cuối cùng, khống chế Ngã Thức của chúng ta và sẽ tạo ra những hậu quả liên tục.

Đây, cũng chính là những lý luận của Ấn Độ giáo, khi cho rằng Ý Thức là mầm mống hay là Nguyên Nhân gây ra sự mê đắm của con người. Hay đúng hơn, chúng ta sử dụng Trí nên tạo ra nhiều Hậu Quả.

Nếu chúng ta quan sát và nhìn sâu, chúng ta thấy, sự khởi đầu của nhà thơ Xuân Diệu có thể chỉ là một nỗi buồn vu vơ qua sự tiếp xúc với trời xanh, mây trắng. Nhưng qua việc sử dụng Trí, để giải quyết nỗi buồn, qua sự thiếu nhìn sâu và dùng phỏng đoán, chúng ta có thể tạo ra vô số những nguồn năng lượng “không tên”, và chính những nguồn năng lượng không tên này là nguyên nhân gây ra các hậu quả kế tiếp.

Còn nếu như chúng ta sử dụng Tuệ thì câu hỏi sẽ như sau:

Làm sao có thể giải quyết nỗi buồn khi sợ chết và chết đi về đâu?

Sợ chết là vấn đề thuộc về phạm trù của Ngã Thức, về quan điểm, nhận thức của Ngã Thức, cũng như niềm tin của Ngã Thức vào những kinh nghiệm đã tích lũy.

Vì thuộc về Ngã Thức, cho nên, vấn đề “sợ chết” nằm trong tầm tay của chúng ta, có thể thay đổi được. Chúng ta có thể bắt đầu bằng cách kiểm tra lại niềm tin của chúng ta có đúng không? Chúng ta có thể kiểm tra lại những nhận thức của chúng ta có đúng không?

Chúng ta cũng có thể học hỏi những kinh nghiệm của những người đã sợ chết, và họ đã dùng những nhận thức nào, hay niềm tin của họ sẽ tin thế nào, để thay thế cho những nhận thức, hay niềm tin lệch lạc của chúng ta trong quá khứ. Hay chúng ta có thể quan sát những hiện tượng, tình trạng đang xẩy ra, để nhận thấy, sự lệch lạc, và chỉnh sửa lại cho đúng, v.v.

Khi những nhận thức và niền tin lệch lạc đã được chỉnh sửa lại cho đúng (Nhân), và có thể giải quyết được nỗi buồn của chúng ta, thì chúng ta đã chấm dứt được cái Quả nỗi buồn của chúng ta mà không còn tạo ra thêm những Hậu Quả, thì chúng ta gọi cái Quả đó là Kết Quả. Quả không còn tạo ra nhân mới, để sinh ra các Hậu Quả khác.

Quá trình này, được gọi là Giải Thoát hay Kiến Ngộ, qua việc quan sát và nhìn sâu, tiếp xúc với gốc rễ, nguyên nhân chính, hay sự thật, mà không hề có sự phỏng đoán.

Đây, chính là lý do, tại sao đức Phật lại khuyến khích các đệ tử của ngài phát triển Ý thức đến độ cao nhất.

Nếu nói chính xác hơn, không phải phát triển Ý Thức đến độ cao nhất, mà là sử dụng sự quan sát và nhìn sâu của Tuệ Giác để giải thoát khỏi những định kiến, nhận thức sai lầm đã tích lũy trong Ngã Thức.

Như vậy, qua bốn trường hợp nêu trên, trong đó có ba trường hợp, mà nỗi buồn được coi là Nhân, và mỗi trường hợp, lại đưa ra những Hậu Quả, hay Kết Quả khác nhau. Không giống như định nghĩa của đạo Phật khi cho rằng:

“vì mỗi một hành động làm ra, được gọi là nguyên nhân, đều có MỘT hậu quả tương ứng; và hậu quả sẽ trở thành nguyên nhân cho MỘT hậu quả kế tiếp.”

Điều này chỉ đúng với duy nhất một trường hợp, khi Qủa Hành Động đó, được kết hợp với những nguồn năng lượng tiêu cực.

Còn với hai trường hợp khác thì lại hoàn toàn thiếu chính xác, và không hợp lý, đặc biệt với trường hợp thứ tư, thì nỗi buồn không phải là Nhân, mà là Quả.

Như vậy, qua sự quan sát, nhìn sâu và kiểm nghiệm trên thực tế, chúng ta có thể nhận thấy, phần định nghĩa thêm vào sau về Nghiệp, không thể nào phát xuất từ một bậc Giác Ngộ như Đức Phật, một người đã chỉ dậy phương pháp Tứ Diệu Đế để đi tìm ra sự thật, lại có một định nghĩa thiếu sự chính xác cũng như không hợp lý như vậy.

Nếu chúng ta có dịp quan sát về sự phát triển của đạo Phật, chúng ta có thể hiểu, phần thêm vào này có thể phát xuất từ những vị đệ tử của đức Phật, trong qúa trình đi tìm sự thật, các vị đã sử dụng Trí, để đưa ra những sự phỏng đoán, mà lại không dựa vào Tuệ, dựa vào sự nhìn sâu và áp dụng phương pháp Tứ Diệu Đế để tìm ra sự thật.

Chính vì vậy, nên phần định nghĩa thêm vào sau, thiếu đi sự chính xác, không hợp lý, và không đúng với sự vận hành của các Thức.

Nếu đức Phật còn tại thế, Ngài sẽ định nghĩa lại Nghiệp theo ngôn ngữ mới, sẽ dễ hiểu hơn.

Nghiệp là hành động hay việc làm, phát xuất từ sự khởi niệm, suy nghĩ, hay cảm xúc/giác từ Ngã Thức. Nghiệp, có thể tạo ra Hậu Quả hay Kết Quả, tùy theo cái Nhân trong Ngã thức, đang kết hợp với nguồn năng lượng nào: tiêu cực hay tích cực.

Nếu cái nhân ban đầu kết hợp với những nguồn năng lượng tiêu cực thì Nghiệp sẽ tạo ra Hậu Quả. Khi là Hậu Quả thì sẽ tạo ra những Nhân mới và sẽ sinh ra những Hậu Quả, hay Kết Quả mới, tùy thuộc vào sự kết hợp các nguồn năng lượng trong Ngã Thức, và Nghiệp cũng bị ảnh hưởng bởi Ngã Thức khi Ngã Thức đang sử dụng Ý Thức thuộc về Trí hay Tuệ. Nếu là Trí thì sinh ra hậu Quả, nếu là Tuệ thì sinh ra Kết Quả.

Nếu cái nhân ban đầu, kết hợp với những nguồn năng lượng tích cực như Tuệ Giác thì Nghiệp sẽ tạo ra Kết Quả. Khi là Kết quả thì sẽ không tạo ra những nhân mới hay tạo ra các hậu quả khác.

Nghiệp sẽ không là phải là lực tạo ra sự tái sinh hay luân hồi mà sự tái sinh hay luân hồi của con người lệ thuộc vào nguồn năng lượng hay lực từ những nhận thức sai lầm, những tư tưởng, những ý niệm, hay cảm xúc/giác phát sinh trong Ngã Thức.

Sự tái sinh, hay luân hồi chỉ có thể xẩy ra khi Ngã Thức của cá nhân sử dụng là Trí thay vì là Tuệ. Luân hồi hay Nghiệp, sẽ chấm dứt khi cá thể đó dùng Tuệ Giác để tiếp xúc được với sự thật, qua việc quan sát và nhìn sâu mà không có sự phỏng đoán.

Khi Tuệ Giác luôn được sử dụng, từ cách tìm ra nguyên nhân, gốc rễ của vấn đề, và áp dụng trong cách tìm ra những phương pháp giải quyết vấn đề từ gốc rễ, thì cá thể đó đạt được sự giải thoát khỏi Nghiệp và Luân Hồi.

Như tôi đã nói, Nghiệp và Luân Hồi là một đề tài rất lớn, nếu chúng ta muốn nhặt những hạt sạn trong kinh điển của các tôn giáo thì rất tốn thời gian, và cũng là việc làm vô ích. Vì sao?

Vì ai trong chúng ta cũng đều có niềm tin. Chúng ta tin, nhưng chúng ta lại ít khi nào đi kiểm chứng hay trải nghiệm để chứng thực cho niềm tin đó có đúng sự thật hay không? Chúng ta cứ tin, và cứ tiếp tục bảo vệ niềm tin đó. Cho dù, niềm tin đó chỉ là sản phẩm từ sự phỏng đoán, thiếu chính xác, và không đúng với sự thật.

Niềm tin đó, không ai có thể làm lung lay hay chuyển đổi, mà chỉ có chính chúng ta mới là người có quyền thay đổi niềm tin lệch lạc đó mà thôi.

Ngày nào, Ngã Thức của chúng ta còn tin rằng, những kinh nghiệm mà chúng ta tích lũy còn làm lợi cho chúng ta thì chúng ta sẽ mãi mãi không bao giờ thay đổi.

Giáo Pháp của đức Phật đã truyền qua hơn 26 thế kỷ, nhưng có bao nhiêu người trong chúng ta có thể học hỏi để chỉnh sửa lại những nhận thức sai lầm.

Cho nên, chúng ta sẽ dừng lại phần quan sát về Nghiệp. Hy vọng với một vài nét căn bản mới, dựa trên sự quan sát và vận hành của các Thức có thể giúp chúng ta có một hướng nhìn mới, tiếp cận với sự thật dễ dàng hơn.

Bây giờ, chúng ta hãy quan sát và nhìn sâu vào Luân Hồi, xem học thuyết này của đạo Bà La Môn, hay Vệ Đà giáo, ngày xưa, sẽ như thế nào, qua bài khảo cứu, “Bản Chất Triết Học Bà La Môn  Dưới Cái Nhìn Của Đạo Phật”, của Tỳ Kheo Thích Quảng Nguyên, trong Thư Viện Hoa Sen.

Theo khảo cứu, tư tưởng Triết học của Vệ Đà giáo, vào thời kỳ đầu, với trình độ nhận thức của con người còn thấp kém, nên tư tưởng triết học của Bà La Môn Giáo, chủ yếu dựa vào hình thức tế lễ, mang đậm tính chất đa thần. Vì sao?

Vì họ tin tưởng rằng, nhờ những nghi thức tế lễ, mà người ta có thể thông cảm với thần linh, được thần linh che chở, và giúp đỡ cho giải thoát. Tới khi trình độ nhận thức của con người càng ngày càng cao, con người bắt đầu ý thức về sự tồn tại của mình. Họ suy ngẫm về cuộc đời, số phận, và đi tìm lẽ sống cho con người.

Để đáp ứng nhu cầu đó, nên tư tưởng triết học Áo Nghĩa Thư đã ra đời. Đây là đỉnh cao của Triết học Bà La Môn giáo.

Theo Áo Nghĩa Thư, cứu cánh của mọi Triết học, tôn giáo, chính là vấn đề giải thoát. Theo chuyên luận về Áo Nghĩa Thư (Brihadaranyaka Upanishad): “Bậc chân tri sau khi chết sẽ vượt qua không gian lên tới cõi hạnh phúc vĩnh hằng”.

Cõi hạnh phúc vĩnh hằng là cảnh giới dành cho những người đạt giải thoát thực sự. Còn những kẻ tội lỗi thì phải chịu sự chi phối bởi định luật nghiệp báo, bị đọa đày khổ sở trong vòng luân hồi cho tới khi dứt nghiệp, và đạt được chân tri.

Ngoài ra trong Chândogya của Áo Nghĩa Thư cũng nói đến hai nẻo đường giải thoát: đường của Tố Phụ, và đường của Thần Linh. Đường của Tố Phụ dành cho những người ra sức hành thiện, những người ấy sau khi chết sẽ được vào cõi trời (thiên đường). Nhưng khi hưởng hết phước báo trong một khoảng thời gian tương ứng, họ sẽ trở lại trần gian.

Chỉ khi nào con người đi vào nẽo đường của Thần Linh, không bị nô lệ bởi vật chất, đồng nhất được Phạm Thiên đại ngã với tiểu ngã ngay tại chính mình, bấy giờ mới được giải thoát, và được hưởng hạnh phúc viên mãn vĩnh hằng.

Nhưng, muốn được giải thoát thì phải trải qua tiến trình tu tập. Phải toàn tâm kiên trì tu luyện đạo đức, và tu luyện tri thức, nhằm diệt mọi dục vọng, lo âu, phiền não, rũ bỏ hết mọi ràng buộc, lôi kéo bởi thế giới vật dục biến ảo, vô thường của thế giới trần tục; dày công thiền định, suy tư chiêm nghiệm nội tâm, “thực nghiệm tâm linh” bằng trực giác; nhận cho ra chân bản tánh của mình, để đạt chân lý tối thượng hòa nhập vào bản thể tuyệt đối.

Đó chính là sự giải thoát, ý nghĩa tối cao của cuộc sống. Nhưng nhận thức được sự đồng nhất đó với linh hồn bất tử, không phải là điều cảm giác, hay trí tuệ thông thường có thể đạt được. Nó có thể đạt được nhờ vào sự thực nghiệm tâm linh.

Thực nghiệm tâm linh là sự thực nghiệm ngay trong sâu thẳm tâm hồn mình. Phải trải qua mức cảm nghiệm, nhưng trước hết là phải đưa nhận thức quay về chính mình.

Kinh Áo Nghĩa Thư cho rằng: “Tiểu ngã chẳng có thể nhận biết được bởi học vấn, bởi sức mạnh của trí óc. Tiểu ngã chẳng thể nhận thức được bằng giác quan. Tự ngã mở các giác quan ra ngoài, bởi thế, người ta chỉ trông ra thế giới bên ngoài mà không nhìn về bản ngã”. Có 3 con đường chính để đạt đến giải thoát:

  • Con đường tri thức đòi hỏi tu hành khổ hạnh, chuyên tâm rèn luyện, sẵn lòng thoát ly thế giới trần tục.
  • Con đường hành động theo nguyên tắc tâm linh vị tha, vì lợi ích chung, vì cái thiện, vì đại ngã.
  • Con đường cuối cùng, rộng rãi nhất, dành cho mọi người đó là con đường sùng tín, hết lòng tin yêu, tôn kính đấng tối cao – Tiểu Ngã có thể hoà nhập với Đại Ngã trong tình yêu và bằng tình yêu cao cả thiêng liêng.

Như vậy, theo quan điểm của Áo Nghĩa Thư thì Luân Hồi là qúa trình của “Bậc chân tri sau khi chết sẽ vượt qua không gian, lên tới cõi hạnh phúc vĩnh hằng”.

Cõi hạnh phúc vĩnh hằng, là cảnh giới dành cho những người đạt giải thoát thực sự. Còn những kẻ tội lỗi thì phải chịu sự chi phối bởi định luật nghiệp báo, bị đọa đày khổ sở trong vòng luân hồi cho tới khi dứt nghiệp, và đạt được chân tri.

Chúng ta hãy quan sát và nhìn sâu vào lý luận này qua sự vận hành của các Thức xem có thật đúng như vậy không?

Trong câu đầu tiên, chúng ta thấy, kinh Áo Nghĩa Thư nhấn mạnh đến vấn đề sinh tử về sự diệt sinh của một bậc Chân Tri từ một kiếp này qua một kiếp khác. “Bậc chân tri, sau khi chết, sẽ vượt qua không gian, lên tới cõi hạnh phúc vĩnh hằng.”

Đứng trên góc độ của sinh tử, về bản chất, chúng ta thấy sinh tử có hai phạm trù riêng biệt, gồm:

  • Sinh tử theo vật chất
  • Sinh tử theo tinh thần

Sinh tử theo vật chất, về bản chất “Chân Thật Như Là” của vật chất, thì hễ có hình tướng được tạo ra, hay sinh ra, thì luôn có sự chuyển hóa. Thời gian chuyển hóa của mỗi hình tướng, ngoài việc tuân theo sự vận hành của Bản chất Chân Thật Như Là thì còn chịu ảnh hưởng của môi trường, hoàn cảnh, tình trạng, năng lượng, v.v.

Thí dụ, theo các nhà hóa học, một miếng vàng, được hợp thành từ những nguyên tố được đặc trưng bởi số lượng Proton có trong hạt nhân của mỗi nguyên tử của nó. Trong đó, Vàng là nguyên tố mà mỗi hạt nhân có chứa 79 Proton.

Proton là tên gọi cho một loại hạt tổ hợp, bao gồm, hạt hạ nguyên tử. Proton và Neutron là hai loại hạt chính cấu tạo nên hạt nhân của nguyên tử.

Có những nguyên tử chỉ có Proton, và không có Neutron, như nguyên tử Hydrogen, nhưng đa phần, các nguyên tử đều có hai hạt Proton và Neutron.

Bản thân của một hạt Proton được tạo thành từ 3 hạt Quark nhỏ hơn,  gồm: 2 Quark lên và 1 quark xuống, còn Neutron thì cũng có 3 hạt Quark nhỏ hơn, nhưng: 2 Quark xuống và 1 Quark lên.

Trong nguyên tử trung hòa về điện tích, số lượng hạt Proton có trong hạt nhân, thường bằng đúng với số lượng hạt Electron của lớp vỏ nguyên tử. Số Proton có trong nguyên tử của 1 nguyên tố, luôn bằng với số điện tích hạt nhân của nguyên tố đó.

Để tách hay cộng thêm một Proton hoặc Neutron ra khỏi hạt nhân, chúng ta cần một nguồn năng lượng cực lớn.Theo bảng phân loại tuần hoàn của hóa học, nếu chúng ta có thể cộng thêm một Proton vào nguyên tố Vàng, thì nguyên tố Vàng sẽ biến thành nguyên tố Thủy Ngân (80), và nếu lấy ra một Proton, thì Vàng lại biến thành nguyên tố Bạch Kim (78).

Như vậy, nếu đứng trên góc độ về bản chất Đang Thật Là của vật chất, chúng ta thấy, tất cả các nguyên tố, từ thể khí như Hydrogen hay Oxygen, đến thể rắn như, vàng, bạc, hay vừa thể khí và thể rắn như con người, động vật, và thực vật v.v. đều có cấu tạo như nhau, gồm phân tử, nguyên tử, hạt nhân và các điện tích âm quay chung quanh hạt.

Khi phân tử, nguyên tử, hay hạt nhân bị sự tác động của một nguồn năng lượng mạnh khác, như thêm vào, hay lấy đi, thì sẽ chuyển hóa sang thành một vật chất khác hay một danh xưng khác.

Nếu đứng trên góc độ về bản chất của Thực Tánh Đang Là, tuy là có sự biến dạng từ hình thể, nhưng số hạt Proton và Neutron bên trong của nguyên tử, vẫn không hề bị diệt.

Cơ thể của con người, các động vật hay thực vật, hay ngay cả vũ trụ, đều có chung một bản chất về sự cấu tạo của nguyên tử. Cho nên, cái mà chúng ta gọi là sinh tử của cơ thể, nếu nói đúng hơn, chỉ là qúa trình chuyển hóa từ vật này qua vật kia, mà không hề có sự chết, tử hay diệt.

Và trong qúa trình chuyển hóa tạo ra một vật mới khác, khó có thể nào theo quy trình của Luân Hồi.

Chúng ta hãy quan sát và nhìn sâu vào thành phần cấu tạo cơ thể của con người theo khoa hóa học. Trên căn bản, gần 99% khối lượng của cơ thể của chúng ta được cấu thành từ sáu nguyên tố: Oxygen, Carbon, Hydrogen, Nitrogen, Calcium và Phosphorus. Trong đó Oxy chiếm 65%, Carbon 18.5% và Hydro 9.5%.

Giả sử như, khi chúng ta chết, và thân thể của chúng ta bị phân hủy, thì các nguyên tố như Oxy và Hydro chiếm 75%, thuộc về dạng khí, sẽ bay lên hòa nhập với dạng khí trong không gian. Nếu lúc đó, có sấm chớp do sự va chạm giữa hai luồng khí nóng lạnh, thì Oxy và Hydro của chúng ta có thể kết hợp thêm với Nitrogen, tạo thành axít nitric hay những hạt mưa. Những hạt nước mưa này, lại được các động, thực vật khác sử dụng thành các nguồn năng lượng khác cho sự sống còn.

Vậy, làm sao một Bậc chân tri, sau khi chết, sẽ vượt qua không gian lên tới cõi hạnh phúc vĩnh hằng, và những kẻ tội lỗi, sau khi chết thì phải chịu sự chi phối bởi định luật nghiệp báo, bị đọa đầy, khổ sở trong vòng luân hồi, cho tới khi dứt nghiệp.

Rõ ràng, nếu đứng trên góc độ về bản chất của vật chất thì sự cấu tạo về cơ thể của bậc Chân Tri và người tội lỗi đều giống nhau.

Và nếu nhìn sâu hơn, chúng ta cũng không thấy được sự Luân Hồi có mặt trên lĩnh vực vật chất. Bởi vì, trong quá trình chuyển hóa theo bản chất, thì vật chất sẽ không trở về dạng cũ được, mà có thể liên tục biến hóa, tùy theo môi trường, hoàn cảnh, hay những nguồn năng lượng chung quanh, tác động.

Hơn nữa, chúng ta cũng chẳng thấy có lực nghiệp báo nào của cá nhân tội lỗi lại bị đọa đầy khổ sở trong vòng luân hồi cả, nếu chúng ta nhìn dưới góc độ của hai khí Hydrogen và Oxygen thoát ra từ thân thể của chúng ta khi chết.

Nếu có nguồn năng lực tác động chăng thì đó chỉ là nguồn năng lượng tạo ra từ sự va chạm của hai nguồn khí, nóng và lạnh từ thiên nhiên.

Cho nên, thuyết Luân Hồi để phải chịu tội khổ sở đầy đọa, trả nghiệp cho tội lỗi kiếp trước gây ra sẽ không đúng với sự thật, khi chúng ta đứng trên góc độ Bản Chất về Vật chất Đang Như Là.

Vậy thì sự sinh tử, tái sinh, trả nghiệp, luân hồi chỉ liên quan đến tinh thần. Hay chính xác hơn, là liên quan đến những nhận thức của Ngã Thức về sinh tử, trả nghiệp, luân hồi, tái sinh v.v.

Nói đến Ngã Thức, thì chúng ta lại phải dùng đến sự vận hành của các Thức để quan sát xem có sinh tử, trả nghiệp, luân hồi, tái sinh hay không?

Trên căn bản, khi Ngã Thức của chúng ta khởi một niệm hay một vấn đề nào đó, cần đến Ý Thức để phân tích, quan sát, hay so sánh, thì vấn đề đó, chúng ta gọi là sinh (ý niệm sinh); và khi Ý thức của chúng ta, đã tìm ra phương pháp giải quyết vấn đề, và đưa về Tiềm Thức lưu giữ vào kho của Ngã Thức, và Ngã Thức của chúng ta sử dụng các phương pháp để giải quyết vấn đề đó xong, thì coi như, vấn đề đó chấm dứt hay gọi là diệt, tử.

Trong qúa trình giải quyết vấn đề này sẽ có hai trường hợp xẩy ra:

Trường hợp 1: Nếu Ngã Thức ra lệnh cho Ý thức sử dụng Trí, thì vấn đề chỉ được giải quyết trên ngọn. Vì vậy, vấn đề có thể tái sinh trở lại, và bắt Ngã Thức phải sử dụng Ý Thức để tìm các giải pháp khác.

Nếu như vấn đề này, cứ trở đi trở lại, vì cứ sử dụng cách giải quyết tạm thời, thì chúng ta gọi đó là luân hồi (trở đi trở lại, theo hình thức vòng tròn). Và cứ mỗi lần, Ngã Thức phải làm lại các hành động cũ, hay thêm vào một vài hành động mới thì những hành động đó gọi là Nghiệp.

Khi những hành động/ Nghiệp tác động lên những nguồn năng lượng tiêu cực khác như: bực bội, tức giận, chán nản, thất vọng.v.v, thì sẽ tạo ra cảm giác khó chịu. Nếu những cảm giác khó chịu này kéo dài trong cuộc sống thì gọi là trả nghiệp, hay thọ nghiệp báo.

Trường hợp 2: Nếu Ngã Thức ra lệnh cho Ý thức sử dụng Tuệ thì vấn đề được giải quyết tận gốc rễ. Cho nên, sẽ không có sự tái sinh của vấn đề. Vì không có tái sinh, nên không có sự lập đi lập lại, vì vậy, cũng không có luân hồi. Nhưng ở đây, vẫn có Nghiệp, là những hành động như Quan sát, nhìn sâu, để giải quyết vấn đề. Khi vấn đề đó được giải quyết xong thì Nghiệp/ hành động quan sát, và nhìn sâu cũng chấm dứt.

Như vậy, qua trường hợp một, chúng ta thấy, định nghĩa trên khá chính xác khi diễn giải về sinh tử, tái sinh, luân hồi và trả nghiệp. Nhưng có một điều vô cùng quan trọng cần chỉnh, đó là những diễn biến này, chỉ xẩy ra trong Ngã Thức thuộc về tinh thần, chứ không phải thuộc về vật chất. Trong khi, định nghĩa trong kinh lại hướng về bản chất của vật chất, mà không phải là bản chất của tinh thần.

Điều này, chúng ta nhận thấy rất rõ qua câu, “Bậc chân tri, sau khi chết, sẽ vượt qua không gian lên tới cõi hạnh phúc vĩnh hằng.” Thật ra, nếu là bậc Chân Tri, và Ngã Thức của bậc đó đã sử dụng Tuệ Giác để giải quyết vấn đề, thì bậc Chân Tri đó, không cần đợi đến chết mới tái sinh vượt qua không gian để tới cõi hạnh phúc vĩnh hằng, mà bậc Chân Tri đó, có thể đạt đến cõi hạnh phúc vĩnh hằng ngay khi còn sống.

Điều này, cũng tương tự như những người được gọi là có tội lỗi. Họ chỉ chịu sự chi phối bởi định luật nghiệp báo, bị đọa đày khổ sở trong vòng luân hồi cho tới khi dứt nghiệp, khi họ sử dụng Trí. Nếu họ sử dụng Tuệ thì điều đó sẽ không xẩy ra. Và họ cũng có thể đến được cõi hạnh phúc vĩnh hằng ngay khi còn sống như các bậc Chân Tri.

Vậy tại sao Áo Nghĩa Thư lại có giải nghĩa, diễn dịch, một cách mập mờ, không đúng với sự thật như vậy?

Điều này cũng dễ hiểu, bởi vì, khi trình độ nhận thức của con người càng ngày càng cao, con người bắt đầu ý thức về sự tồn tại của mình. Họ suy ngẫm về cuộc đời, số phận, và đi tìm lẽ sống cho con người. Cho nên, có những câu hỏi, những thắc mắc của họ liên quan đến những sự việc xẩy ra trong đời sống hằng ngày như: tại sao tôi khổ, tại sao tôi sống là một người tốt mà cuộc sống cứ nghèo khổ v.v.

Những câu hỏi khó đó, Nếu các vị Bà La Môn chưa đạt đến trình độ Chân Tri, tiếp xúc được với sự thật thì không thể giải thích được. Cho nên, họ đã đem sự sinh tử, tái sinh, luân hồi, thuộc về tinh thần, hướng qua vật chất để giải thích.

Thí dụ, nếu có một người, mà người đó tự cho là một người tốt, nhưng cứ luôn luôn gặp chuyện xấu, bị người khác lợi dụng, và luôn gặp chuyện không may xẩy ra trong đời. Nếu người này đến gặp các vị Ba La Môn để thỉnh giáo đáp án vì sao họ bị như vậy. Chuyện gì sẽ xẩy ra, nếu như vị Bà La Môn đó không thể đưa ra một câu trả lời thỏa đáng?

Chắc chắn, nếu vị Bà La Môn đó không thể trả lời được thì sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi, bị mất mặt, bị coi thường, không còn được tôn trọng. Cho nên, muốn giải quyết vấn đề đó, vị Bà La Môn đó sẽ phải “diễn rộng: sự sinh tử, tái sinh, luân hồi, nhân quả, trả nghiệp thuộc về tinh thần qua vật chất, để lý giải nguyên nhân tại sao người kia đang sống là một người tốt nhưng toàn gặp chuyện không may.

Đó cũng là một trong nhưng nguyên nhân, tại sao lại phải có kiếp trước kiếp sau, vì nếu không có kiếp trước và kiếp sau thì không thể có tái sinh. Mà nếu không có tái sinh, thì không có Luân Hồi, và cũng sẽ không có nghiệp kia phải trả.

Vậy thì làm sao có thể giải thích được những việc không may đang xẩy ra với người kia. Bởi vậy, tạo ra tư tưởng có kiếp trước và kiếp sau là hoàn toàn hợp lý. Vì chỉ cần vin vào kiếp trước của người đó đã có những hành động tội lỗi, nên kiếp này phải trả là chuyện tất nhiên.

Nếu như người đó cắc cớ, không chấp nhận kiếp trước và kiếp sau, thì vị Bà La Môn có thể dẫn chứng cả ngàn câu chuyện qua phỏng đoán, suy tưởng, nhằm thuyết phục, hay răn đe, qua sự trừng phạt hay đọa đầy của Thần linh, hay đưa ra một số những dữ kiện về một số người có thể nhớ lại kiếp trước để bảo vệ cho sự lý giải này.

Trong khi, tất cả kinh điển đều không có bất cứ một chứng minh nào về kiếp trước. Và cũng không ai biết được kiếp trước họ là ai, họ đã tạo ra lỗi lầm gì? Ngoài những câu giải thích miễn cưỡng như: gieo nhân nào thì gặt qủa đó. Hay vì nặng nghiệp của kiếp trước nên kiếp này phải trả.v.v.

Nhưng sự thật có phải vậy không? Chúng ta chỉ cần quan sát lại sự vận hành của các thức thì sẽ rõ.

Các nhà Tâm Lý học ngày nay đã chứng minh rằng: Trong một giây, Tiềm Thức của chúng ta tiếp nhận 11 triệu thông tin, trong khi đó, chỉ có 40 thông tin được Ý Thức nhận dạng.

Như vậy, trong hai mươi bốn giờ, Tiềm Thức của chúng ta tiếp nhận khoảng 15,840 tỷ thông tin. Có những thông tin hoàn toàn mới, có những thông tin liên quan đến những vấn đề mà chúng ta chưa giải quyết, có những thông tin liên quan đến sự khổ đau mà chúng ta đang trốn chạy.

Qua sự thực nghiệm của các nhà tâm lý, chúng ta thấy, một người luôn gặp chuyện xui xẻo, không may mắn trong cuộc sống, chẳng mắc mớ gì đến nghiệp phải trả từ kiếp trước, hay phải chịu sự khổ đau về tinh thần, mà những việc xẩy ra mang đến sự xui xẻo, bất hạnh trong cuộc sống, phát xuất từ sự trốn tránh giải quyết các vấn đề, và nếu có giải quyết, họ chỉ sử dụng Trí. Họ chỉ giải quyết mang tính cách tạm thời. Họ chỉ giải quyết trên ngọn mà không xuống tận gốc rễ.

Hãy lấy một thí dụ để minh họa;

Một người thiếu tiền để trả tiền nhà, Ngã Thức của anh chàng này đã quyết định dùng Trí để giải quyết vấn đề thiếu tiền như sau: đi mượn tiền bạn để trả.

Khi người bạn cho mượn tiền, người đó có cái An tạm thời, không lo bị chủ nhà đuổi. Nhưng người đó lại không nghĩ cách để kiếm ra tiền, trả lại cho người bạn. Ngược lại, khi có tiền, lại tiêu xài hoang phí, đi ăn chơi cho thỏa thích. Đến tháng sau, lại thiếu tiền, lại đi gọi người bạn để mượn tiền. Nếu người bạn không cho mượn tiền, và đòi lại số tiền cho mượn tháng trước, thì người đó nổi giận, cho rằng, người bạn đó là người xấu.

Và nếu, không mượn được tiền của ai khác nữa thì sự bất an vì bị người chủ đuổi nhà, cộng thêm cơn giận người bạn không chịu thỏa mãn cho mình. Cho nên, đặt điều đi nói xấu người bạn, và viện lý do, người bạn là người xấu, nên cũng không chịu trả lại số tiền đã mượn, coi như là một sự trừng phạt.

Nếu có ai đó, hỏi người đi mượn nợ là người như thế nào, thì chắc chắn người đó sẽ nói rằng, họ là người tốt, họ đã luôn trả tiền khi hai người đi ăn chung, hay khi người đó đi mua quần áo cũng đã mua cho người kia v.v.

Điều mà người đi mượn tiền tự diễn dịch định nghĩa những việc làm của người đó theo Ngã Thức của người đó muốn, và dựa vào những hành động đó, gọi là người tốt; thì người đó, có thật sự là một người tốt không?

Và nếu người tốt đó, cứ tiếp tục hành động như vậy thì có còn ai muốn chơi với người đó không?, và khi người đó gặp khó khăn thì có ai muốn giúp không?

Nếu không có ai giúp thì “người tốt” đó sẽ than van rằng: cuộc đời của họ sống là một người tốt, nhưng sao toàn gặp chuyện xui xẻo, kém may mắn, luôn bị người khác lợi dụng.

Và nếu người này, tin vào có kiếp trước, kiếp sau, có  luân hồi, nhân quả, có trả nghiệp, vì kiếp trước đã gây ra lỗi lầm để tự an ủi mình, thì vĩnh viễn, người này sẽ không bao giờ gặp may mắn được, và cũng không thể nào đạt đến sự giải thoát được.

Vì vấn đề của người này, bắt đầu tự sự diễn dịch định nghĩa “uốn nắn” theo Ngã Thức, đưa đến những sự suy nghĩ, nhận thức sai lầm, từ đó, đưa đến cách hành xử vụng về, và tạo ra sự đau khổ cho chính mình, ngay trong kiếp này, chứ không phải từ kiếp trước hay kiếp sau nào cả. Và cái giá phải trả cho những hành động vụng dại, cũng bắt đầu ở kiếp này, chứ không phải từ kiếp trước.

Nếu chúng ta hiểu sự vận hành của các Thức, chúng ta biết, bất cứ một vấn đề nào xẩy ra trong cuộc sống của chúng ta, nếu là xấu thì bắt đầu bằng sự trốn chạy, đè nén, hay chọn cách giải quyết vấn đề một cách tạm thời của chúng ta trong cuộc sống đã tạo nên.

Có thể, vì chúng ta, qua quá trình đè nén, nên tưởng rằng, chúng ta không có vấn đề. Nhưng khi Tiềm Thức của chúng ta tiếp nhận thông tin, sắp xếp, và liên kết sẽ đưa vấn đề đó trở lại và đòi cách giải quyết.

Vì Ngã Thức của chúng ta đã từng thất bại không có cách giải quyết trước đây, nếu lần này, lại tăng thêm ngưồn năng lượng mới sẽ khiến Ngã Thức của chúng ta bị “đuối”, và dần rơi vào chỗ tê liệt, không còn sử dụng được Ý Thức, nên sẽ tạo ra những hành động vụng dại, và tạo ra vô số nhân mới, cũng như tạo ra những hậu quả mới.

Một người, nếu cứ liên tục gánh và chịu những nhân mới và hậu quả mới trong cuộc đời thì chúng ta quen gọi là người xấu số, hay bất hạnh, hay kém may mắn là chuyện tất nhiên, chẳng liên quan gì đến kiếp trước họ có gây ra lỗi lầm gì hay không? Và cũng chẳng liên quan gì đến vấn đề, họ có là người tốt hay người xấu hay không?

Sự thật, cái họ đang trả Nghiệp là do sự đè nén, trốn tránh giải quyết vấn đề trong chính Ngã Thức của họ, chứ không phải họ là người xấu hay người tốt.  Người nào, dù tốt hay xấu, khi có vấn đề, chỉ lo trốn chạy, hay tìm cách đè nén, thì người đó luôn gặp bất hạnh, kém may mắn trong cuộc đời.

Qua sự quan sát này, chúng ta có thể giải thích luôn, tại sao một người sống đầy tội lỗi nhưng vẫn hưởng được sự may mắn giầu sang, hạnh phúc.

Đơn giản, là vì họ chịu đi giải quyết vấn đề của họ, còn người tốt thì không. Chứ không liên quan gì đến kiếp trước của họ đã làm điều tốt, nên kiếp này họ hưởng. Và nếu như kiếp trước họ đã làm việc tốt rồi, thì kiếp này, họ phải mang theo những điều tốt đó, họ phải sống có đạo đức hơn, chứ sao họ lại sống có tội lỗi hơn.

Cho nên, nếu chúng ta muốn cuộc sống của chúng ta có An Lạc, hạnh phúc, may mắn, thì chúng ta chỉ cần đương đầu với các vấn đề của chúng ta, mà không trốn chạy hay tìm cách đè nén. Và khi giải quyết thì nên ứng dụng phương pháp Tứ Diệu Đế, hay Bốn Bước để tìm ra nguyên nhân, gốc rễ của vấn đề, và đi giải quyết ngay tại gốc rễ đó.

Vì vậy, đem sự sinh tử, tái sinh, luần hồi, nhân quả, trả nghiệp của tinh thần, hay đúng hơn là của Ngã Thức, qua áp dụng cho vật chất là một tư tưởng không chính xác, hợp lý và cần chỉnh sửa.

Vậy còn quan điểm của Đạo Phật khi giảng giải về Luân Hồi thì sao? Theo Thư Viện Mở thì:

“Luân hồi còn gọi là vòng luân hồi hay bánh xe luân hồi, có khi được gọi là hữu luân, vòng sinh tử, hoặc giản đơn là Sinh Tử. Thuật ngữ này, chỉ những lần đầu thai tiếp nối nhau, trạng thái bị luân chuyển của một loài hữu tình, khi chưa đạt giải thoát, chứng ngộ Niết-bàn.

Theo Phật giáo, nguyên nhân trói buộc trong luân hồi là tam độc: tham, sân và si. Tùy vào nghiệp của chúng sinh đã tạo trong quá khứ, mà chúng sinh đó sẽ tái sinh vào một trong sáu cõi: trời, thần (a-tu-la), người, súc sinh, quỷ đói (ngạ quỷ), địa ngục.

Sáu cõi luân hồi là thuật ngữ trong Phật giáo, dùng để chỉ về những con đường mà chúng sinh sẽ tái sinh vào, sau khi chết. 6 cõi luân hồi bao gồm:

  • Cõi trời
  • Cõi thần
  • Cõi người
  • Cõi súc sinh
  • Cõi ngạ quỷ
  • Cõi địa ngục

Đặc điểm chung của các cõi luân hồi là vô thường, chúng sinh sau khi chết sẽ được tái sinh vào một trong 6 cõi này.

Tùy theo nghiệp của chúng sinh đã làm được nhiều việc tốt hoặc cố tình làm nhiều việc xấu sẽ được tái sinh vào các cõi trên là các cõi trời, cõi thần, cõi người (dành cho chúng sinh có nhiều việc làm tốt) hoặc sẽ tái sinh vào các cõi dưới là cõi súc sinh, cõi ngạ quỷ, cõi địa ngục (dành cho chúng sinh có nhiều việc làm xấu). Còn những chúng sinh đã chứng quả A-La-Hán thì sẽ không phải luân hồi sau khi chết nữa.

Sau khi tái sinh, phần lớn các chúng sinh sẽ không còn nhớ gì về kiếp trước đó. Các chúng sinh sẽ có một cuộc đời mới. Việc chúng sinh sẽ tái sinh vào cõi nào sau khi chết có thể dự đoán được nếu quan sát cận tử nghiệp của chúng sinh đó.”

Qua quan sát và nhìn sâu vào quan điểm về Nghiệp và Luân Hồi của đạo Phật, chúng ta thấy, những tư tưởng về Nghiệp và Luân hồi, gần giống hoàn toàn với Ấn Độ giáo.

Vì vậy, ngoài việc sử dụng và diễn nghĩa của Áo Nghĩa Thư như: có kiếp trước kiếp sau, tái sinh, luân hồi trả nghiệp ra, thì ở đây, đạo Phật cũng dùng đến một cõi đặc biệt, đó là cõi địa ngục.

Trong Tiểu Thừa Phật Giáo Tư Tưởng Luận của Hòa Thượng Thích Quảng Độ dịch, có đoạn viết về địa ngục như sau:

Tư tưởng địa ngục, tuy đã manh nha từ thời đại Lê Câu Vệ Đà, nhưng vẫn chưa rõ ràng, đến A Thát Bà Vệ Đà, và Phạm Thư, nó mới được biểu hiện dần dần, và cuối cùng, đến thời đại Phật giáo, thì tư tưởng đó trở nên rất thịnh. Những kỷ tải của nó, liên tục trải qua các niên đại, và dần dần đã được phô bày một cách tinh tế. Trong các kinh điển nguyên thủy của Phật giáo, hoặc Ma Ha Bà La Đa thứ 12 cũng đều đã nói đến.

Trên căn bản, về định nghĩa của địa ngục có 28 loại, nhưng ở đây, chúng ta chỉ quan sát về 7 Định nghĩa của địa ngục, như sau:

  • Khiếu Hoán Địa Ngục, là chỗ đi đến của những người chỉ biết lợi mình, không đoái hoài gì đến lợi của chúng sanh. Nỗi khổ là do rắn hành hạ.
  • Bình Chử Địa Ngục, là nơi ở của những kẻ giết người hay thú vật. Nổi khổ là bị chưng trong chảo dầu.
  • Hắc Thằng Địa Ngục, là nơi đi đến của những người giết cha mẹ hay giết Bà La Môn. Địa ngục này rộng một vạn do tuần, trên dưới do đồng nóng đốt cháy. Tội nhân chịu khổ trải qua vô số kiếp.
  • Đao Diệp Lâm Địa Ngục, là nơi đi đến của những người bỏ kinh Vệ Đà để chạy theo những kẻ mê tín dị đoan.
  • Thực Trùng Địa Ngục, là nơi đi đến của những người không tế lễ, không bố thí cho người khác. Nỗi khổ là bị ác trùng ăn thịt.
  • Ngục Khuyển Địa Ngục, là chỗ ở của những kẻ làm nghề giặc cướp, bóc lột người khác. Nỗi khổ là do 720 con chó của sứ giả Diêm Ma cắn xé.
  • Vô Gián Địa Ngục là nơi của những kẻ giả dối, lừa gạt. Nổi khổ là đứng trên một mỏm đá cao 100 do tuần mà lộn nhào xuống, và cứ thế tiếp tục, không bao giờ ngừng.

Qua 7 định nghĩa về địa ngục này, chúng ta thấy, hầu như những hình phạt này, dựa hoàn toàn vào luật pháp của thế gian, sau đó, qua sự suy luận, phỏng đoán, và phóng đại lên thành một cõi, dùng để trừng phạt những người vi phạm sau khi chết. Trong đó, Đao Diệp Lâm Địa Ngục là nơi trừng phạt những ai bỏ kinh Vệ Đà để chạy theo mê tín dị đoan.

Đây có thể nói là một sự đe dọa cực kỳ vô lý, và là sự phóng đại, suy diễn, phỏng đoán, một cách vô cùng thiếu chính xác và đi ngược lại những gì mà giáo lý của đức Phật đã chủ trương.

Giáo lý của Đức Phật là những phương pháp, giúp cho người thực tập chú tâm đến việc sử dụng Tuệ nhiều hơn Trí.

Là một bậc Giác giả, đức Phật không thể nào không phân biệt được sự khác biệt giữa Trí và Tuệ, cũng như không thể nào, Ngài không biết cách giải quyết một vấn đề một cách rốt ráo, để đạt đến sự An Tịnh, không khổ đau.

Rõ ràng, bài pháp thoại đầu tiên khi truyền sự trải nghiệm cho năm anh em Kiều Trần Như, Ngài đã truyền lại Tứ Diệu Đế. Một phương pháp tuyệt vời để phát triển Tuệ Giác, và cách thức giải quyết vấn đề một cách rốt ráo để đạt sự An Lạc, giải thoát khỏi khổ đau.

Cho nên, không thể nào Ngài lại không biết sinh tử, tái sanh, luân hồi, nhân quả, trả nghiệp chỉ thuộc về tinh thần hay Ngã Thức, chứ không thuộc về vật chất.

Chính vì vậy, không thể nào, Ngài lại sử dụng một cõi như địa Ngục để đe dọa, trừng phạt con người, nếu họ phạm tội nơi trần gian nhưng lại trả Hậu Quả nơi Địa Ngục.

Qua đó, chúng ta có thể thấy, đứng trên góc độ về Nghiệp và Luân Hồi của đạo Phật, thì hệ thống tư tưởng này gần như sử dụng 99% tư tưởng của Kinh Vệ Đà. Duy nhất 1% khác biệt, đó là xác định ai đạt được quả A La Hán thì được giải thoát khỏi luân hồi.

Cho nên, chúng ta có thể khẳng định, hệ tư tưởng về Nghiệp và Luân hồi sẽ không do đức Phật giảng dậy, mà đây là do các đệ tử của ngài, vốn đã lầu thông kinh điển Vệ Đà, và Áo Nghĩa Thư đã thêm vào trong những lần kiết tập, sau khi Đức Phật Nhập Diệt.

Chính vì vậy, tai sao trong đạo Phật lại có thêm Thiền Tông?

Nguyên do, là vì, các vị Thiền Tổ đã thấy có qúa nhiều “sạn” trong giáo nghĩa, kinh văn của đức Phật được truyền lại sau này. Vì vậy, tông chỉ của Thiền Tông là:

Bất Lập Văn Tự

Giáo Ngoại Biệt Truyền

Trực Chỉ Chân Tâm

Kiến Tánh thành Phật

Nghĩa là, không lập thành văn tự giáo nghĩa, chỉ thẳng vào tâm người, thấy tánh thành Phật.

Quả thật như chú nói Nghiệp và Luân Hồi là một đề tài qúa lớn, dù cho có diễn giải như thế nào cũng có người chấp nhận, người không.

Nhưng qua các chia xẻ dưới góc nhìn sự vận hành của các Thức, cháu đã hiểu rõ hơn về Nghiệp là Luân Hồi. Nhật Minh lên tiếng.

Diệu Hiền nhìn đồng hồ, rồi nói:

Giời ạ, đã hơn chín giờ, chúng cháu xin phép đi về, chiều mai, chúng ta sẽ “luân hồi” tiếp nha chú.

Nghe Diệu Hiền đùa về hai chữ Luân Hồi, ông chú cười vang.

MỘT VỐN BỐN LỜI

album-art

00:00

TẢI MP3 – TRẦN THIỆN TÍCH
TẢI MP3 – MỸ LINH P1
TẢI MP3 – MỸ LINH P2

Bạn Thân Mến,

Chủ đề hôm nay chúng tôi muốn chia xẻ với bạn một góc độ nhìn về kinh doanh Thức Ăn Nhanh của Việt Nam, mà người quen chúng tôi đang muốn phát triển.

Trong qúa trình nghiên cứu và rút ra những bài học trong ứng dụng, để chia xẻ với người quen của chúng tôi, chúng tôi cũng chia xẻ lại với bạn. Biết đâu, với những góc độ nhìn mới này, bạn sẽ trở thành một ông trùm trong nghành Thức Ăn Nhanh sau này, thì sao.

Phần đông, những người có kinh nghiệm về nhà hàng đều có chung một quan điểm: kinh doanh nhà hàng là lối “kinh doanh vĩnh cữu – một vốn bốn lời.”

Ngày nào, còn có người sống thì ngày đó còn có người ăn. Mà hễ còn có người ăn thì còn có thể kinh doanh sinh ra lợi nhuận.

Nếu như bạn cũng đồng quan điểm với họ thì khi nhìn vào những nhà hàng đông nghẹt khách, bạn có nhen nhúm ý định muốn làm giầu từ ngành này không?

Hay bạn đã có sẵn vốn và một địa điểm lý tưởng để kinh doanh, nhưng còn phân vân vì nhiều lý do khác? Bạn e rằng, bạn chưa nắm được đầy đủ thông tin về công việc thú vị nhưng cũng đầy mạo hiểm này; hay là, việc kinh doanh này có thể sẽ ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình bạn?

Dù với lý do nào, kinh doanh nhà hàng cũng là một nghành kinh doanh đáng cho bạn suy ngẫm. Chỉ cần bạn có một tư duy đúng đắn, một kế hoạch rõ ràng, một sách lược hợp lý thì lo gì bạn không thành công.

Người xưa có câu: “thất bại là mẹ thành công”. Vậy, nếu muốn thành công thì không có gì hay hơn bằng, bạn hãy học từ những điều thất bại.

Sau đây là 12 sai lầm nghiêm trọng, mà các doanh nhân khởi nghiệp trong nghành ẩm thực nhà hàng thường mắc phải.

  1. Thiếu Kế Hoạch Kinh Doanh
  2. Thiếu Kinh Nghiệm Quản Lý
  3. Thiếu Vốn
  4. Tin Tưởng Sẽ Kiếm Được Tiền Ngay Sau Khai Trương
  5. Thiếu Xây Dựng Quy Chế Làm Việc Và Đào Tạo Nhân Viên
  6. Chọn Sai Địa Điểm
  7. Làm Theo Sở Thích Của Mình
  8. Cố Gắng Làm Hài Lòng Mọi Người
  9. Thiếu Sự Chuẩn Bị Cho Ngày Khai Trương
  10. Không Biết Mình Là Ai?
  11. Kinh Doanh Đa Nghành Nghề
  12. Sợ Thất Bại

Vậy làm sao bạn có thể tránh được 12 sai lầm nghiêm trọng nêu trên?

Muốn khắc phục những sai lầm này thì đây là 10 điều căn bản bạn cần phải có để đạt đến thành công:

  1. Có Sự Tư Duy Đúng Đắn
  2. Biết Mục Đích Rõ Ràng
  3. Biết Lắng Nghe và Có Đầu Óc Cởi Mở
  4. Biết Bạn Muốn Gì?
  5. Biết Bạn Cần Gì?
  6. Thực Sự Mong Muốn Tự Chủ
  7. Đam Mê Trong Công Tác Điều Hành Doanh Nghiệp
  8. Có Hoặc Luôn Cố Gắng Trau Dồi Học Hỏi Kinh Nghiệm Kinh Doanh
  9. Có Kiến Thức Cơ Bản về Kế Toán và Kiểm Soát Tài Chính
  10. Thông Hiểu Tâm Lý Khách Hàng

Dĩ nhiên, không phải ai khởi nghiệp kinh doanh cũng có đầy đủ 10 điều nêu trên, mà bạn cần phải có thời gian dài để bạn tự học hỏi và trau dồi.

Nhưng cách nhanh nhất, vẫn là nhờ sự cố vấn hay giúp sức từ những người có kinh nghiệm. Vì sao?

Bởi vì, họ đã bỏ ra thời gian và tiền bạc để đầu tư và tích lũy kinh nghiệm cho bạn. Cho nên, hãy sử dụng những “sở trường” của họ để bổ khuyết cho những “sở đoản” của bạn.

Như vậy, thành công của bạn sẽ nhanh và có hiệu quả hơn nhiều. Hãy lấy một thí dụ đơn giản như khi bạn bị bịnh thì bạn sẽ làm gì?  Có bốn giải pháp như sau:

  1. Bạn không làm gì cả
  2. Bạn tự chữa cho bạn
  3. Bạn bỏ thời gian và tiền bạc ra, học làm bác sĩ để tự chữa cho bạn
  4. Bạn trả tiền cho bác sĩ khám bịnh cho bạn

Với giải pháp 1, chỉ xẩy ra khi bạn không còn có cơ hội, hay tiền bạc.Với giải pháp 2, chỉ áp dụng khi bịnh của bạn không nghiêm trọng. Với giải pháp 3, bạn phải tốn rất nhiều thời gian và tiền bạc, chắc chắn, bạn chỉ chọn phương án này khi đó là niềm đam mê của bạn.

Vì vậy, thông thường, 95% chúng ta sẽ chọn giải pháp 4, nghĩa là, trả tiền cho bác sĩ khám, và trị bịnh cho chúng ta. Việc đó xẩy ra quá quen thuộc, đến độ, ai trong chúng ta cũng đều tâm niệm rằng “hễ bịnh thì đi bác sĩ”.

Tại sao, khi bịnh, bạn phải đi bác sĩ? Bởi vì, bạn không muốn chết sớm. Bởi vì, bác sĩ là người được đào tạo để chẩn đoán, và đưa ra giải pháp điều trị, giúp cho bạn chiến thắng bịnh tật, đạt được sức khỏe lâu dài.

Trong kinh doanh của bạn cũng vậy, nếu như bạn không có đủ những yếu tố để đem đến thành công cho bạn thì bạn cũng đừng nản lòng. Cách hay nhất là, bạn nên đi tìm những nhà cố vấn có kinh nghiệm về đầu tư trong kinh doanh và nhờ họ giúp bạn.

ĐẦU TƯ NHÀ HÀNG THỨC ĂN NHANH VIỆT NAM

Văn Hóa Ẩm Thực Hoa Kỳ

Ngày xưa, vào thời kỳ tiền sử, khi con người còn sống trong giai đoạn ăn lông ở lỗ, thì ăn chỉ mang một ý nghĩa đơn giản là duy trì sự sống.

Nhưng từ khi tri thức của con người phát triển; từ khi con người đã tìm ra lửa, biết trồng ngũ cốc, nuôi gia súc, gia cầm, tạo ra những gia vị v.v, thì ăn đã tạo ra một nét văn hóa riêng, gọi là văn hóa ẩm thực.

Càng ngày nền văn hóa ẩm thực càng trở nên tinh xảo hơn, và mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, lại có một nền văn hóa ẩm thực đặc thù. Nếu đem so sánh với thời kỳ ăn lông ở lỗ,  “ăn để sống”, thì ngày nay, với nền văn hóa ẩm thực hiện đại, con người không phải chỉ có “ăn để sống” không thôi, mà khối người: “sống để được ăn.”

Riêng tại Hoa Kỳ, nền văn hóa ẩm thực đã trở nên “thiên biến vạn hóa”, phong phú, đa dạng, đa thể, và khác thường.

Nguyên do là vì, mỗi sắc dân đến định cư tại Hoa Kỳ, họ đều mang theo nền văn hóa ẩm thực của xứ sở họ để đóng góp vào nền văn hóa ẩm thực chung của Hoa Kỳ.

Từ đó, tạo nên một nền “văn hóa ẩm thực hợp chủng-đa hệ”, không có một nước nào trên thế giới có được.

Thống Kê

Với dân số hơn ba trăm triệu người, và chỉ số lương bổng hằng năm khá cao so với toàn thể thế giới; kinh doanh trong nghành ẩm thực tại Hoa Kỳ được xem là nghành kinh doanh khá ấn tượng, chiếm 2.5% tổng sản lượng thu nhập của toàn quốc.

Theo dự báo của Hiệp hội Nhà hàng Quốc Gia, doanh số bán hàng tại các địa điểm ăn uống của Hoa Kỳ sẽ tăng 10,2% vào năm 2021, và doanh thu ước tính lên đến gần 900 tỷ USD, do người tiêu dung được thỏa mãn nhu cầu dồn nén về trải nghiệm nhà hàng, mà họ đã bị từ chối trong đại dịch. Với:

  • 12,5 triệu nhân viên ngành nhà hàng vào cuối năm 2020, giảm 3,1 triệu so với mức dự kiến
  • 9/10 nhà hàng có ít hơn 50 nhân viên
  • 7 trong 10 nhà hàng là hoạt động đơn lẻ
  • 8 trong 10 chủ nhà hàng bắt đầu sự nghiệp trong ngành của họ ở các vị trí cấp thấp

Thì, ngành nhà hàng phục vụ nhanh (fast food) ở Hoa Kỳ, được dự báo sẽ đạt 281,68 tỷ đô la, vào năm 2021. So với doanh thu đạt hơn 200 tỷ đô la vào năm 2020.

Và đây là 7 ông trùm bán thức ăn nhanh lớn nhất thế giới.

Không phải McDonald’s, KFC, hay Pizza Hut, mà ngôi vị đứng đầu trong làng thức ăn nhanh thế giới lại là Subway.

  1. SUBWAY – 41,000 CỬA HÀNG

Được sáng lâp bởi Fred Deluca năm 1965, tại Miford Connecticut, với số vốn khởi đầu là $1,000 USD. Subway là một trong những chuỗi thức ăn nhanh phát triển nhanh nhất thế giới, khi đã có mặt ở 105 quốc gia khác nhau. Subway chủ yếu bán bánh sandwich và salad. Trên 25.000 cửa hàng ở Mỹ, và hơn 14,900 cửa hàng khác ở ngoài biên giới quốc gia. Tại các thị trường mới nổi, Subway có trên 3,000 cửa hàng.

  1. MCDONALD’S – 39,198 CỬA HÀNG

Mặc dù, đứng thứ hai về số lượng cửa hàng, nhưng McDonald’s lại xếp thứ nhất ở mặt hàng bánh Hamburger ở 119 quốc gia khác nhau. Được thành lập từ năm 1954, hiện nay McDonald’s có 18.332 cửa hàng ở Bắc Mỹ, và hơn 20,000 cửa hàng ở các nước khác. Trong đó có 5.942 cửa hàng ở các thị trường mới nổi. Cuối năm 2020, giá trị thương hiệu doanh thu ước tính khoảng 129,32 tỷ đô la Mỹ. Trong đó, lợi nhuận ròng vào khoảng 19.2 tỷ USD.

  1. KENTUCKY FRIED CHICKEN (KFC) – 25,000 CỬA HÀNG

Có trụ sở chính tại Louisville, Kentucky, bên cạnh mặt hàng chủ lực là gà chiên, KFC cũng bán cả bánh Hamburger, salad, gà chiên Pháp và nhiều đồ ăn khác nữa. Tại Mỹ, hiện KFC đang có 4,062 cửa hàng, và hơn 20,000 cửa tiệm tại nước ngoài.

  1. BURGER KING – 18,625 CỬA HÀNG

BK là từ viết tắt của Burger King đã là cái tên quen thuộc trong thị trường thức ăn nhanh của Mỹ thành lập từ năm 1953. Hiện nay, chuỗi cửa hàng của BK đã vươn tói 73 quốc gia khác nhau, bên cạnh 7.257 cửa hàng tại quê nhà.

  1. DOMINO’S PIZZA – 17,644 CỬA HÀNG

Domino’s Pizza có trụ sở chính tại Charter Township, Michigan, được thành lập từ những năm 60 của thế kỷ trước. Hiện Domino Pizza đã mở rộng mô hình kinh doanh ra 70 quốc gia khác nhau, gồm 6,355 cửa hàng trong nước Mỹ, và hơn 11,000 cửa hàng tại nước ngoài.

  1. PIZZA HUT – 11,000 CỬA HÀNG

Pizza Hut thực ra là công ty con của Yum!, thương hiệu rất được giới trẻ yêu thích. Kể từ ngày thành lập năm 1958, hiện Pizza Hut đã có mặt ở 94 quốc gia khác nhau, trong đó, có 6,685 cửa hàng được mở tại Mỹ. Mặt hàng kinh doanh chủ yếu của Pizza Hut là bánh Pizza, bên cạnh bánh mì, mì ống, salad và các thức ăn nhẹ khác.

  1. WENDY’S – 5,888 CỬA HÀNG

Wendy là chuỗi cửa hàng Hamburger lớn thứ ba thế giới, sau McDonald’s năm 2010. Wendy‘s được thành lập năm 1969 bởi Dave Thomas và có trụ sở tại Ohio, Mỹ. Ở bên ngoài biên giới xứ cờ Hoa, Wendy’s chỉ có khoảng gần 700 cửa hàng – khá chênh lệch so với thị trường nội địa.

ĐÓNG CỬA

Nếu 7 ông trùm trong nghành kinh doanh ẩm thực mỗi ngày một bành trướng đến chóng mặt, thì không ít những doanh nhân đầu tư trong nghành ẩm thực nhà hàng lại đành phải “ngậm cười nơi chín suối.”

Theo kết quả nghiên cứu của trường đại học Ohio, tỷ lệ đóng cửa cao nhất của các nhà hàng là 26% trong năm đầu tiên, 19% trong năm thứ hai, và 14% trong năm thứ ba.

Như vậy, trong vòng 3 năm thì có khoảng 59% nhà hàng sẽ đóng cửa. Nguyên do là vì họ đều vướng vào trong 12 thiếu sót, sai lầm sau đây.

PHÂN TÍCH 12 THIẾU SÓT SAI LẦM CỦA CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ HÀNG

  1. THIẾU KẾ HOẠCH KINH DOANH

Kế hoạch kinh doanh là yếu tố sống còn của một doanh nghiệp. Nhiều chủ doanh nghiệp nhà hàng đã thất bại, vì yếu tố này.

Một kế hoạch kinh doanh được xem là tốt, khi kế hoạch đó mang tính thực tế, khả thi, và phải dựa trên những thông tin chính xác và cập nhật nhất, đồng thời, phải mang tính chiến lược. Một kế hoạch kinh doanh được xem là hoàn chỉnh, cần phải bao gồm các yếu tố sau:

  • Mô tả tầm nhìn, mục tiêu và những yếu tố dẫn đến thành công của doanh nghiệp
  • Nhu cầu lao động
  • Các vấn đề và các giải pháp tiềm ẩn
  • Tài chính: vốn trang thiết bị, bảng cân đối thu chi, phân tích lợi tức, phân tích lưu chuyển tiền mặt, dự báo chi phí và dự báo doanh thu
  • Phân tích cạnh tranh
  • Tiếp thị, quảng cáo và các hoạt động khuyến mãi
  • Quản lý ngân sách và quản lý tăng trưởng của doanh nghiệp

Thiếu một kế hoạch kinh doanh trong doanh nghiệp thì cũng giống như đời người, sống không có mục đích, hay không có định hướng vậy. Có mấy ai trong đời sống không có mục đích, hay định hướng mà thành công lớn đâu? Kinh doanh của bạn cũng vậy.

  1. THIẾU KINH NGHIỆM QUẢN LÝ

 Đây là lý do hàng đầu dẫn đến thất bại của các doanh nghiệp mới thành lập. Các chủ doanh nghiệp mới thường thiếu những kiến thức và kinh nghiệm liên quan đến trình độ quản lý và điều hành như: tài chính, phục vụ, bán hàng, tiếp thị, thuê mướn, huấn nghệ, và điều hành nhân công, v.v.

Nguy hiểm hơn, họ lại không tự nhận ra những lỗ hổng, hay thiếu kém về những kiến thức cũng như kinh nghiệm này. Đồng thời, họ cũng không chịu tìm sự hỗ trợ từ những người chuyên nghiệp, nên các chủ doanh nghiệp đã sớm phải đối mặt với những khó khăn lớn.

Sự thiếu thường xuyên nghiên cứu, tổ chức sắp xếp, lên kế hoạch, và kiểm soát tất cả mọi hoạt động của doanh nghiệp, bao gồm cả hoạt động nghiên cứu thị trường, cập nhật dữ liêu khách hàng, v.v, thì dễ dẫn đến suy sụp nhanh chóng, đâu phải là chuyện lạ.

  1. THIẾU VỐN

Đây là việc rất thường thấy ở những doanh nhân kinh doanh nghành nhà hàng, và nó cũng là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến thất bại nhanh chóng của các nhà đầu tư trong lĩnh vực ẩm thực.

Thông thường, khi bạn muốn kinh doanh trong lĩnh vực nhà hàng, bạn phải dự trữ ít nhất khoảng 20% đến 30% kinh phí đầu tư làm quỹ dự phòng. Vì trong 6 tháng đầu hoạt động, chắc chắn, nhà hàng của bạn sẽ không thể đông khách như bạn mong muốn.

  1. HY VỌNG SẼ KIẾM ĐƯỢC TIỀN NGAY SAU KHAI TRƯƠNG

Thông thường, khi bạn đã bỏ vốn ra kinh doanh, bạn luôn mong muốn sẽ kiếm được lời nhanh chóng. Tuy nhiên, nếu bạn nghĩ việc kinh doanh nhà hàng có thể sinh lời ngay sau ngày đầu khai trương, chắc chắn, bạn đang sống trong mơ.

Thực tế, ngày nay, có một số nhà hàng hoạt động rất tốt, nhưng vẫn phải bù lỗ trong những tháng đầu tiên. Thậm chí, nếu bạn đạt doanh thu tốt trong thời gian đầu, bạn cũng phải dùng số tiền đó để trang trải cho việc đầu tư ban đầu. Do đó, bạn phải luôn theo sát và điều chỉnh sao cho thật hợp lý chi phí lao động và thực phẩm theo số lượng khách. Và điều quan trọng nhất, phải có đủ tiền để trang trải những khoản lỗ phát sinh trong thời gian đầu.

Đừng ảo tưởng và hy vọng, vì trong kinh doanh luôn đòi hỏi bạn phải có “một trái tim nóng (đam mê), và một cái đầu lạnh (biết tính toán), chứ không phải một “trái tim lạnh (tính toán) và cái đầu nóng (mong chờ).

  1. THIẾU XÂY DỰNG QUY CHẾ LÀM VIỆC VÀ ĐÀO TẠO NHÂN VIÊN

Ngoài chức trách đóng một vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng hình ảnh của nhà hàng của bạn ra, nhân viên của bạn còn là lực lượng nòng cốt, là tài sản của doanh nghiệp.

Nếu bạn cho rằng việc đào tạo nhân viên là mất thời gian, và tốn nhiều chi phí, thì đây là những quan niệm rất sai lầm.

Một nhà hàng, nếu bạn không xây dựng được quy chế làm việc rõ ràng, nghiêm chỉnh, thì chẳng mấy chốc, hình ảnh nhà hàng của bạn sẽ xấu đi trong mắt khách hàng.

Một khi đã xấu đi, dù cho bạn có tốm kém gấp năm, hay mười lần số thời gian, và chi phí cho việc đào tạo nhân viên lúc đầu, cũng khó mà lấy lại lòng tin nơi khách hàng được. Đừng để “mất trâu rồi mới làm chuồng.”

  1. CHỌN SAI ĐỊA ĐIỂM

Mặt bằng thuận lợi luôn là một yếu tố quan trọng, bởi vì, nó cũng đóng góp không nhỏ vào quyết định sự thành bại trong kinh doanh nhà hàng của bạn. Vì thế, bạn không nên thuê một địa điểm không phù hợp để tiết kiệm tiền.

Chỉ cần đặt một câu hỏi như sau: bạn muốn tiết kiệm một chút tiền thuê mặt bằng, hay thuê chỗ rẻ, để rồi một thời gian sau thì nhà hàng của bạn sẽ đóng cửa? hay là bạn chọn địa điểm thích hợp với gía mắc hơn một chút, nhưng bạn có thể tồn tại lâu dài, là bạn sẽ hiểu ra ngay, tại sao bạn phải chọn một mặt bằng tốt để thuê.

Nếu như bạn vẫn kiên quyết mở nhà hàng ở một nơi khuất thì bạn phải chắc rằng: nhà hàng của bạn là một nhà hàng rất nổi tiếng trong lĩnh vực kinh doanh ăn uống. Nếu không thì bạn đừng mong có người cất công đi tìm.

  1. LÀM THEO SỞ THÍCH CỦA MÌNH

Rất nhiều doanh nhân, khi mở nhà hàng thường quan niệm rằng, những cái họ thích, những cái họ thấy đẹp, thấy ngon thì khách hàng cũng sẽ cảm thấy như vậy.

Việc này đôi lúc không sai, nhưng bạn cần nhớ kỹ rằng, khách hàng mới chính là người quyết định, và bạn bắt buộc phải phục vụ theo nhu cầu của họ.

Có những nhà hàng, lúc nào cũng nườm nượp khách, bạn có tự hỏi, tại sao họ lại thành công như vậy không?

Đơn giản, vì người chủ của nhà hàng đó là một người nhạy bén, biết nắm bắt đúng nhu cầu của khách hàng một cách kịp thời, và nhanh chóng.

Nếu bạn cứ kiên trì rằng, chỉ có bạn mới biết thế nào là đẹp, là ngon, còn khách hang chỉ là thứ yếu, thì bạn cứ chuẩn bị ghi danh vào sách kỷ yếu thế giới “những nhà hàng thất bại nhanh nhất thế giới” là vừa.

  1. CỐ GẮNG LÀM HÀI LÒNG MỌI NGƯỜI

Phục vụ khách hàng giống như làm dâu trăm họ vậy. Mỗi khách hàng đều có sở thích, gu ăn uống, nêm nếm khác nhau.

Bạn không thể nào chiều hết ý của cả trăm khách hàng được. Vì thế bạn nên tập trung vào các món được cho là thế mạnh của nhà hàng, và phát triển nó lên, thay vì, cho ra một thực đơn cả trăm món, mà món nào cũng chỉ tầm thường.

  1. THIẾU SỰ CHUẨN BỊ CHO NGÀY KHAI TRƯƠNG

Đối với việc kinh doanh nhà hàng, ngày khai trương là một ngày rất quan trọng. Nó giúp cho bạn tạo được những ấn tượng đầu tiên đối với những khách hàng của bạn.

Để ngày khai trương được ấn tượng và chỉnh chu nhất, bạn nên mời bạn bè, người thân đến ăn thử trước, để thu thập ý kiến xem quán bạn còn có thiếu sót gì không?

Việc chuẩn bị kỹ lưỡng sẽ giúp cho bạn tránh được những sự cố không muốn có trong ngày đầu khai trương.

  1. KHÔNG BIẾT MÌNH LÀ AI?

Một người chủ nhà hàng giỏi là một người kinh doanh có hiệu quả và khéo léo. Nhưng không ít các chủ nhà hàng lại có thói quen hay đi “hỗ trợ” nhân viên trong việc phục vụ, nấu nướng, dọn dẹp.

Thật ra, đấy là một thói quen tốt, giúp cho nhân viên và quản lý được gần gũi với nhau hơn. Tuy nhiên, nếu bạn cứ chú trọng vào những việc này nhiều quá mà sao lãng đi công việc chính của bạn thì thật là nguy hiểm.

Nên nhớ, việc chính của người chủ là khả năng kiểm soát dòng tiền, phân tích chi phí và lợi nhuận. Từ đó, đưa ra những quyết định tác động tích cực đến việc kinh doanh để sinh lợi nhuận, chứ không phải là “trợ viên.”

  1. KINH DOANH ĐA NGHÀNH NGHỀ

Dĩ nhiên, sự đa dạng trong kinh doanh sẽ giúp cho các doanh nghiệp của bạn nhanh chóng gia tăng lợi nhuận.

Nhưng điều đó, chỉ thích hợp khi doanh nghiệp của bạn đã phát triển đến một mức nhất định nào đó. Còn khi khởi nghiệp, sự lựa chọn kinh doanh đa nghành nghề dễ tạo ra nhiều áp lực từ nhiều đối thủ và đối tác.

Từ đó, dễ dẫn đến những đánh giá lệch lạc, hay quyết định sai lầm. Trong kinh doanh, chỉ cần một quyết định sai lầm cũng có thể trở thành tay trắng như chơi.

  1. SỢ THẤT BẠI

Nếu 11 nguyên nhân nêu trên, phần lớn đều do tác động ở “bên ngoài”, thì nguyên nhân thứ 12 “sợ thất bại” lại do tác động trực tiếp ở “bên trong,” thuộc về tâm lý.

Sợ thất bại đóng một vai trò vô cùng quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến việc, đưa đến thất bại trong doanh nghiệp của các doanh nhân một cách nhanh chóng và “tàn bạo” hơn.

Vì sao? Vì khi doanh nhân sợ điều gì, thì doanh nhân đó hay co cụm lại. Mà khi co cụm lại thì luôn mang cảm giác gò bó.

Khi mang cảm giác gò bó thì dễ nẩy sinh bực bội, nóng nẩy. Khi bực bội, nóng nẩy thì hay quyết định vội vàng, thiếu suy xét. Thiếu suy xét cặn kẽ thì dễ dẫn đến sai lầm… và sai lầm liên tục thì dẫn đến thất bại nhanh chóng.

Thế nên, thất bại trong doanh nghiệp đâu phải là do thần thánh hay định mệnh nào trừng phạt các doanh nhân, mà đó là do họ lựa chọn hay mong muốn đấy chứ.

Thất bại thì như thế, còn thành công thì sao? Sau đây là 3 gương thành công mà bạn có thể tham khảo.

BA GƯƠNG THÀNH CÔNG

1-McDONALD’S

 Thật khó có thể tưởng tượng, một đế chế thức ăn nhanh đã phát triển như thế nào, kể từ khi, McDonald’s còn là một cửa hàng bán bánh hamburger tầm thường ở California. Chắc hẳn, McDonald’s đã có một công thức thành công cho riêng mình. Vậy công thức đó là gì?

NHẮM VÀO NHU CẦU THỊ TRƯỜNG

Vào năm 1940, hai anh em Mac và Dick McDonald đã mở một nhà hàng Barbecue để kinh doanh, nhưng không đạt được triển vọng. 8 năm sau (1948), niềm đam mê trong kinh doanh về nhà hàng vẫn luôn thôi thúc, Mac và Dick quyết định chuyển hướng sang kinh doanh Hamburger, và sử dụng công nghệ dây chuyền đơn giản để làm bánh. Sự định hướng “kỳ hoặc” này, đã giúp cho Mac và Dick khởi đầu một đế chế McDonald’s thống trị nghành thức ăn nhanh sau này.

Khoảng thập niên 50, sản xuất dây chuyền là một cái gì đó gắn liền với sản xuất ô tô hơn là với thực phẩm. Nhưng Mac và Dick đã chọn cách sản xuất Hamburger theo cách này, vì họ nhận ra rằng, khách hàng ăn bánh thường bị hạn hẹp về thời gian và tiền bạc.

Mong ước của các khách hàng là muốn có một loại thức ăn không cần phải cao lương mỹ vị, nhưng phải hợp với túi tiền, và họ chỉ cần phải mất một vài phút để có được một phần ăn.

 Nắm được “chỗ yếu tâm lý của khách hàng”, hai anh em nhà McDonald’s đã khai thác ý niệm về chiếc Hamburger với giá 15 xu, và họ đã bắt đầu hoạt động kinh doanh nhà hàng McDonald’s theo dạng này.

Về cơ bản, họ đã phân tích ra toàn bộ tiến trình chuẩn bị, chế biến, và rất nhiều công đoạn đã được loại bỏ, để toàn bộ tiến trình có thể trở nên đơn giản nhất.

Kết quả là, vào năm 1954, hai anh em nhà McDonald’s đã có cho mình một nhà hàng drive-in (loại nhà hàng cho phép khách hàng mua thức ăn mà không cần phải rời khỏi xe của mình), chuyên phục vụ Hamburger tại San Bernardino.

Nhà hàng này, lúc nào cũng có một hàng dài khách đợi bên ngoài, và đạt được doanh thu cao ngất ngưởng. Khách tiêu thụ thì rất hài lòng về quá trình phục vụ thức ăn được diễn ra nhanh gọn, cả về chất lượng thức ăn, lẫn hợp túi tiền.

Chiến Lược Nhượng Quyền Thương Mại Đầy Ngạo Mạn

Thành công của anh em nhà McDonald’s đã thu hút sự chú ý của Ray Kroc, một doanh nhân đầy tiềm năng đến từ Illinois, người liên tục săn đuổi những công ty có triển vọng nhất để đầu tư. Ray Kroc đã có những ý tưởng kinh doanh “cực kỳ lợi hại.”

 Ở thời điểm đó, ông đã nhìn ra viễn cảnh tương lai của McDonald’s. Ông tin rằng, sẽ có hàng trăm những cửa hàng Mcdonald’s được mở ra, rồi McDonald’s sẽ thâu tóm toàn bộ đất Mỹ trong tương lai.

Vì thế, Kroc bắt đầu liên lạc với hai anh em nhà McDonald’s, với ý tưởng nhượng quyền kinh doanh (franchise) cho những doanh nhân khác. Những doanh nhân này, sẽ tiến hành những bước đi gian nan, như: gây vốn, xây dựng nhà hàng, thuê nhân công, và quản lý hoạt động kinh doanh.

Điều duy nhất mà McDonald’s cần phải làm, đó là bảo đảm những nhà hàng vệ tinh (franchisee) có thể xây dựng thương hiệu một cách tốt nhất. Rồi sau đó, McDonald’s chỉ cần “hốt tiền bản quyền” từ những nhà hàng được nhượng quyền đó.

Hai anh em nhà McDonald’s đã đồng ý với kế hoạch của Kroc, và thế là, Kroc bắt đầu ý tưởng của mình. Kroc và hai anh em McDonald’s đã bắt tay vào sửa đổi lại mô hình nhượng quyền kinh doanh (franchise) để bổ sung thêm nhiều nguồn lợi nhuận.

Tập đoàn McDonald’s, cuối cùng, cũng thu được 1% doanh thu thuần, và trong nhiều vụ đã trở thành người sở hữu chính của hoạt động nhượng quyền thương mại.

Một bước tiến xuất sắc khác mà McDonald’s đã bổ sung vào mô hình nhượng quyền, đó là, cho thuê nhà đất. (McDonald sẽ mua những mảnh đất, mà một nhà hàng được nhượng quyền theo kế hoạch được xây dựng tại đó.) Sau đó, họ sẽ cho người chủ nhà hàng nhượng quyền thuê mảnh đất đó (tiền thuê hàng tháng được tính dựa trên doanh thu).

Hoạt động cho thuê nhà đất này, mang lại lợi nhuận khá khẩm, đến nỗi, một công ty riêng (Franchise Realty Corporation) đã được thành lập, chỉ để phục vụ cho việc quản lý các hoạt động của người chủ McDonald’s.

5 năm sau (1959), McDonald’s quyết định xây dựng và điều hành một vài chi nhánh riêng. Họ khai trương những chi nhánh này trong mối liên hệ với những hãng bảo hiểm, mà đã cho anh em McDonald’s vay 1,5 triệu đô la Mỹ để đổi lấy một phần trăm (1%) cổ phần của công ty. Điều này, đã thúc đẩy sự mở rộng nhanh chóng các chi nhánh của McDonald’s trên toàn nước Mỹ vào những năm 60.

Sự phát triển đầy “ngạo mạn” của McDonald’s đã hoàn toàn không bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng năng lượng kìm hãm nền kinh tế Mỹ, vào những năm 70. Khi đã về hưu, Kroc vẫn kinh doanh rất năng nổ, và ông coi cơn khủng hoảng như một cơ hội trong việc chi tiêu (vì khi đó giá cả đang đi xuống). Cũng vào thời điểm đó, Kroc và McDonald’s, thậm chí còn bắt đầu phi vụ nhượng quyền ở những nước khác.

22 năm sau, vào những năm 80, đế chế McDonald có khoảng 8,000 chi nhánh và có mặt ở 32 quốc gia trên toàn thế giới. Năm 2008, doanh thu thực tế của McDonald’s đạt tới hơn 70 tỷ đô la, và đạt 21 tỷ lượt khách. Như vậy, có thể tính, mỗi một người trên thế giới đã mua một thứ gì đó từ McDonald’s ít nhất 3 lần trong năm 2008.

ĐIỀU HÀNH CÓ HỆ THỐNG

Điều gì khiến McDonald’s giữ chân được khách hàng? Bí mật nằm trong công thức đồng bộ hóa mọi thứ của McDonald’s.

Khi Kroc lần đầu tiếp cận McDonald’s với ý tưởng của mình, chi nhánh thử nghiệm đầu tiên được ông sử dụng chính là chi nhánh của chính mình. Kroc lấy phong cách sản xuất đồ ăn theo dạng dây chuyền của anh em nhà McDonald’s, rồi mở rộng ý tưởng hệ thống hóa mọi thứ.

Mọi thứ cần phải được xác định rõ ràng và thực hiện trong cùng một cách thức. Cùng nguồn cung cấp thức ăn, cùng những thủ tục chuẩn bị, và cùng một hệ thống bố trí nhà bếp, đều phải được đặt đúng chỗ.

Tất cả những cơ chế tiết kiệm thời gian và hoạt động, từ việc nhận đặt thức ăn, chế biến, đóng gói, và giao sản phẩm đến khách hàng, đều phải như nhau. Ngay cả hoạt động tiếp thị sản phẩm và xây dựng thương hiệu, cũng phải được thực hiện như nhau.

Nhờ có sự chú tâm vào từng chi tiết của Kroc, chi nhánh MacDonald đầu tiên của ông ở Illinois đã đạt được lợi nhuận ngay trong ngày đầu tiên khi mở cửa kinh doanh. Với thành công trong tay, Kroc bắt đầu có hàng loạt những chi nhánh tiếp theo của McDonald mà có cùng một hệ thống vận hành.

67 năm sau (2021), những hình vòm màu vàng trứ danh đã xuất hiện trong mọi ngõ ngách trên địa cầu, nhờ vào công thức thành công “khủng” của McDonald, “Hệ thống hóa đồng bộ”. Cho đến bây giờ, vẫn chưa có bất kỳ một dấu hiệu nào cho thấy sự sụp đổ của đế chế khét tiếng này. Ngoài việc, mỗi một năm họ lại có thêm 1,500 đến 1,600 chi nhánh mới khai trương trên toàn thế giới.

2-JOE‘S REDHOTS

Công ty dịch vụ thức ăn nhanh của Joe’s, thành lập năm 1997, tại Illinois. Joe‘s Redhots là một công ty kinh doanh nhỏ, chuyên cung cấp thức ăn nhanh, chất lượng cao, bằng xe bán hàng (catering) của công ty, đến hàng loạt các trung tâm, văn phòng, công ty làm việc ở vùng đô thị.

Khởi đầu từ một chiếc xe hàng nhỏ chuyên bán những loại xúc xích có chất lượng cao, và các thức ăn trưa chế biến sẵn, nhằm phục vụ các doanh nhân, công nhân, tại các khu đô thị giao thông đông đúc.

Khác với những chiếc xe bán thức ăn rong trên đưòng phố, Joe’s Redhots được xem là “nơi lý tưởng nhất để ăn trưa nhanh.”

Có được như vậy, bởi vì, Joe’s Redhots là xe bán thức ăn sạch sẽ nhất, người phục vụ vệ sinh nhất, thức ăn tươi nguyên chất nhất, và cuối cùng là giá cả hợp lý nhất.

Nơi nào có mặt của Joe’s là nơi đó có đầy những lời khen thưởng. Cứ thế mà số lượng khách gia tăng ngày một nhiều. Đâu đó, đã nổi lên những tiếng than phiền là Joe’s không đến kịp nơi của họ để cung cấp cho họ những món ăn: vừa ngon, lại vừa rẻ.

Lắng nghe những lời than phiền đó, Joe’s đã lên kế hoạch, và quyết định vay 1 triệu USD từ ba ngân hàng, để mở rộng chiến lược tiếp thị và phân phối hàng vào trung tâm thương mại Chicago, bằng cách, mua thêm sáu chiếc xe bán hàng khác. Tỷ suất lợi nhuận đầu tư ròng trong 3 năm, dự tính là 243% cho 1 triệu USD đầu tư, sau khi đã hoàn vốn.

 Ước tính doanh thu của Joe’s Redhots năm 2000 lên tới 3 triệu USD, lãi ròng là $212.500 (7,1% doanh thu). Doanh thu dự kiến sẽ đạt 12 triệu USD, với lãi ròng là 1.280.100 USD (10,7%), vào cuối năm 2002.

Công ty Joe’s đã có sáu hợp đồng, và có thể có thêm 24 hợp đồng nữa từ các toà nhà văn phòng ở đại lộ Michigan, và một vài nơi khác ở Chicago để cung cấp dịch thức ăn quanh năm.

Khu vực đông đúc này, đem lại doanh thu trung bình hàng năm, tính theo mỗi đầu xe hàng là 300.000 USD (nghĩa là bán được 1.000 lần mỗi tuần và mỗi lần bán trung bình là $6.00).

Từ một xe bán hàng vào năm 1997, Công ty Joe’s tăng doanh thu hàng năm là 1,8 triệu USD trong ba năm, với lãi ròng là 128.900 USD (7,2%). 

Mỗi chiếc xe chở thức ăn đều mang một khẩu hiệu “Joe’s Redhots – Làm bạn hài lòng chỉ với giá $2.00! Bạn xứng đáng được thưởng thức nó!”

Bức thông điệp đó, nhằm vào những khách hàng đi đường muốn thưởng thức một xúc xích với giá rẻ.

Đó cũng là một thông điệp mời chào người ta “tự buông thả” một chút, vì phần lớn xúc xích đều có hàm lượng chất béo cao.

Kiểu chào hàng độc đáo này cũng nhắm chính vào đấy. Bởi vì, khi khách hàng thích ăn xúc xích, và cảm thấy họ xứng đáng được thưởng thức với giá rẻ, họ sẽ thấy rằng, bức thông điệp này hết sức có ý nghĩa với họ.

Ý nghĩa chính của bức thông điệp độc đáo này là: “giá rẻ + sự thích thú.”

Ưu điểm chính, và cũng là “lá ách chủ bài” của Joe’s, đó là, xúc xích của Joe’s Redhots không có hàm lượng chất béo cao, có chất lượng cao, tất cả đều nguyên chất, không có chất bảo quản, và các chất hoá học có hại.

Những nhân viên bán dạo trên đường phố của Joe’s Redhots, đều tuyên truyền cho khách hàng của họ thấy rằng, thưởng thức xúc xích vừa rẻ, lại vừa có lợi cho sức khỏe.

Mặc dù là lời chào hàng nhằm vào sản phẩm xúc xích, nhưng mỗi xe hàng chở thức ăn của Joe’s cũng có rất nhiều món ăn khác có lợi cho sức khoẻ và giá cả lại hợp lý.

CHIẾN LƯỢC TIẾP THỊ

Joe’s Redhots được hình thành và có được vị trí hàng đầu trong lĩnh vực dịch vụ thức ăn lưu động tại những trung tâm thương mại lớn ở đô thị, đó là nhờ Joe biết nhắm vào các đối tượng từ các nhân viên công sở, những người muốn ăn bữa sáng hay bữa trưa nhanh, thuận tiện và linh hoạt.

Joe’s tạo được sự khác biệt và định vị khác hẳn so với các đối thủ cạnh tranh như: các cửa hàng thức ăn nhanh, hay các cửa hiệu bán thức ăn sẵn mang về, đó là:

  • Sản phẩm của công ty cung cấp độ dinh dưỡng cao, 100% nguyên chất, không có chất nhân tạo, phẩm màu, chất phụ gia hay chất bảo quản; đồ ăn và khẩu phần hết sức tiện lợi
  • Sự quan tâm của công ty đến môi trường sinh thái (thùng chứa hàng và giấy gói đều làm bằng chất dễ phân huỷ, có thể tái chế, và đồng thời, công ty có mối quan hệ chặt chẽ với công chúng)
  • Dịch vụ của công ty bảo đảm với khách hàng, có thể trả lại hàng, đối với tất cả những sản phẩm bán ra mà không cần giải thích, và những nhân viên phục vụ của công ty là những người được đào tạo tốt nhất

Thực phẩm của Joe’s Redhots có giá cả bằng, hoặc cao hơn một chút so với mức giá của các hãng cạnh tranh khác, nhưng khách hàng không thể phân biệt được liệu thức ăn của các hang khác đó, có nguyên chất hay không.

Các hoạt động xúc tiến bán hàng bao gồm: tặng hàng mẫu miễn phí, và một số mặt hàng đặc biệt hàng ngày cho khách hàng. Nhờ đó, giúp khách hàng hiểu rằng, họ đang nhận được những sản phẩm chất lượng cao, dịch vụ nhanh chóng, lịch sự, tương xứng với đồng tiền họ bỏ ra.

Joe’s Redhots đã thành công trong việc ký hợp đồng với các công ty quản lý cho thuê bất động sản, để thuê địa điểm bán hàng lâu dài, trong và ngoài trụ sở chính của các toà nhà thương mại. Đồng thời, hợp tác bán thức uống, và các thức ăn thứ yếu, với các cửa hàng trên đường phố. Tất cả các hợp đồng thuê bất động sản, giúp cho Joe’s có nơi chốn an tâm để các xe bán hàng trong các toà nhà.

Nhằm khuyến khích sự trung thành của khách hàng với sản phẩm của mình, Joe’s Redhots luôn phát triển và tăng cường cung cấp những thực đơn mới, và quay vòng cho phù hợp theo mùa vào mỗi quý.

Đồng thời, cho khách hàng ăn thử, và tặng những phần quà đặc biệt hàng ngày. Việc đào tạo nhân viên, bao gồm: chương trình tuyển dụng, “những người có tính cách dễ thân thiện”, tối thiểu là sáu giờ đào tạo tại công ty, tham khảo ý kiến những người có kinh nghiệm và thực tập công việc.

TÌNH HÌNH THỊ TRƯỜNG VÀ BÁN HÀNG

Đem so sánh với những hiệu ăn và hệ thống xe bán thức ăn lưu động khác, công ty Joe’s Redhots có một lợi thế hết sức đặc biệt:

  • Sự linh hoạt về địa điểm bán hàng, ngay trong văn phòng hay bên ngoài
  • Tính hiệu quả của quy mô tổ chức
  • Chi phí quản lý thấp hơn
  • Các thức ăn được chia thành khẩu phần và được gói sẵn, không cần đầu bếp
  • Chi phí hàng bán thấp, không cần phải nấu nướng và các đồ dùng kèm theo
  • Loại bỏ những nhân viên phải chờ đợi để phục vụ

Tất cả những điều đó. giúp cho Joe’s Redhots tiết kiệm được khoản 50% tổng chi phí cho hàng hoá và dịch vụ dự tính, so với những nhà hàng thông thường khác có mức giá tương tự.

3-PANDA EXPRESS

Nói đến thức ăn Trung Hoa, không ai còn lạ lẫm gì với hình thể con gấu trúc Panda Express, trong những năm vừa qua.

Panda Express trực thuộc công ty mẹ là Panda Restaurant Group, được thành lập bởi vợ chồng Andrew & Peggy Cherng, và cha của Andrew là đầu bếp Ming Tsai Cherng.

Quê hương xứ sở của ông Ming ở khu vực Dương Châu, thuộc tỉnh Giang Tô của Trung Quốc. Năm 1973, Ming và con trai ông là Andrew đã bắt đầu mở nhà hàng Panda Inn đầu tiên của họ tại Pasadena, California.

Cũng như hầu hết các nhà hàng Tầu trên nước Mỹ, Andrew và cha ông, đầu bếp Ming, thành lập nhà hàng Panda Inn nhằm phục vụ các món ăn ngon nổi tiếng của Quan Thoại và Tứ Xuyên, trong một môi trường trang trí cao cấp, với bầu không khí giản dị, và món ăn ngon.

Họ nhanh chóng giành được một số khách hàng trung thành, với các món ăn ban đầu như: Trà hun khói vịt, tôm xào walnut với mật ong, và cơm lá sen.

Hơn 10 năm thành lập, Panda Inn cũng chỉ nằm trong dạng của một nhà hàng Tầu, như muôn ngàn nhà hàng Tầu khác trên nước Mỹ.

Năm 1983, Donahue Schriber, người quản lý bất động sản của Gendale Galleria (có lẽ là một thực khách quen thuộc của Panda Inn), đã mời Andrew và Ming vào Gendale Galleria để phát triển một phiên bản thức ăn nhanh của Panda Inn trong khu thực phẩm của Glendale Galleria.

Từ đó, đã cung cấp những ý tưởng và tạo bàn đạp, cũng như, nguồn cảm hứng cho sự ra mắt của Panda Express vào năm 1983, hoàn thành tầm nhìn phát triển thức ăn nhanh, và phát triển rộng khắp xứ cờ Hoa như ngày nay.

Panda Express đầu tiên được hình thành tại Glendale Galleria, CA.

Trong năm 2008, Panda Restaurant Group có doanh thu hàng năm trên 1.7 tỷ USD, có hơn 13.000 nhân viên, và có sự tăng trưởng liên tục trong vòng 13 năm liên tiếp.

Vị trí doanh thu cao nhất của Panda Express mang về hơn 4 triệu USD mỗi năm, được đặt tại trung tâm tòa án thực phẩm Ala Moana, tại Honolulu, Hawaii.

30 năm sau, 2013, Panda Express đã có hơn 1.600  địa điểm, và là chuỗi nhà hàng thức ăn nhanh của Trung Hoa lớn nhất tại Hoa Kỳ.

Mặc dù có hơn 1,600 địa điểm trên toàn nước Mỹ, nhưng Panda Express lại không chú trọng đến quyền nhượng chủ quyền kinh doanh (franchise) như McDonald’s, mà chỉ kêu gọi các chủ phố, hay những nhà đầu tư hợp tác kinh doanh.

NHỮNG BÀI HỌC TỪ GƯƠNG THÀNH CÔNG

1-MCDONALD’S

Chỉ trong vòng 67 năm, từ một nhà hàng bé nhỏ tầm thường chẳng ai biết đến, trong một xó xỉnh tại quận San Bernardino, hai anh em nhà họ McDonald’s đã khiến cho hơn 3.5 tỷ con người trên thế giới biết đến thương hiệu của họ, quả thật, đây là một điều đáng cho chúng ta học hỏi.

Mac và Dick McDonald’s đâu là phải những “thiên tài” về kinh doanh, mà ở họ, chỉ có hai yếu tố quan trọng nhất giúp cho họ thành công cho đến bây giờ, đó là: niềm đam mê và chịu khó học hỏi.

Sự thật đã chứng minh, họ đâu phải chỉ có thành công không đâu, mà họ cũng có thất bại đấy chứ. Căn nhà hàng Barbecue của họ mở năm 1940, chẳng phải là một bằng chứng sống hay sao? Tuy thất bại, nhưng họ chẳng hề nản lòng. Họ vẫn tiếp tục đam mê, họ vẫn kiên trì học hỏi, và họ vẫn luôn cố gắng tìm tòi và sáng tạo.

Đọc lại tiểu sử của đế chế McDonald’s, chúng ta thấy, họ đã phải mất đến 8 năm ròng rã (1948) mới tìm ra được một định hướng. Có được định hướng đúng đắn, cộng thêm nắm bắt được đúng tâm lý khách hàng rồi, họ mới bắt đầu phát triển.

Lại phải thêm 6 năm nữa (1954), họ mới định hình được thương hiệu McDonald’s, và phát triển thành công cho đến ngày nay. Tổng cộng trong 14 năm của họ chỉ thâu gọn trong 3 điều:

  1. Có một định hướng rõ ràng
  2. Biết được tâm lý khách hàng
  3. Đơn giản tối đa và hệ thống hóa toàn bộ

Từ đó cho đến nay, tuy đế chế McDonald’s có những thay đổi cho thích hợp với thị trường, nhưng họ vẫn luôn dựa trên ba nền tảng căn bản nêu trên làm phương châm cho sự phát triển.

Nếu bạn muốn thành công trong lĩnh vực kinh doanh, và cũng muốn biến thương hiệu nhà hàng của bạn thành một đế chế như McDonald’s, thì 3 trụ cột đó, không thể nào thiếu được trong mục đích cũng như kế hoạch của bạn.

2-JOE ‘S REDHOTS

Tuy sinh sau đẻ muộn, cũng không chú trọng đến phát triển kinh doanh của mình theo dạng cửa tiệm, và cũng không phải là ông trùm trong nghành thức ăn nhanh, nhưng Joe‘s cũng có những ưu điểm đáng quý, mà bạn cũng có thể học hỏi.

Nếu anh em McDonald’s chỉ dựa vào 2 yếu tố “tiết kiệm thời gian và tiền bạc” để “nắm chân” khách hàng, thì ngoài 2 điều đó ra, Joe‘s lại còn thêm vào công ty của anh là: thái độ phục vụ và phẩm chất tốt để đánh bại các đối thủ trong cùng nghành.

Phương pháp của Joe‘s đánh đúng được tâm lý của khách hàng hiện đại, họ đang lo sợ về những độc tố từ những sản phẩm hóa chất trong thức ăn. Từ đó, Joe‘s tạo được sự tin tưởng của khách hàng.

Thêm vào đó, chính sách sử dụng 5% đến 10% tiền lãi dùng cho tiếp thị đúng cách đã khiến cho thương hiệu của Joe’s Redhots ngày càng nổi bật. Bài học từ Joe‘s Redhots đó là:

  1. Biết lắng nghe và thoả mãn mong muốn của khách hàng
  2. Biết đầu tư tạo dựng thương hiệu bằng tiếp thị
  3. Biết thích nghi và thích ứng môi trường
  4. Biết quản lý tài chánh và đào tạo nhân viên đúng cách
  5. Có kế hoạch và định hướng phát triển rõ ràng
  6. Thiết lập hệ thống và tiếp tục học hỏi kiện toàn

3-PANDA EXPRESS

Trong 3 lựa chọn gương thành công, có 2 gương thành công thuộc về Mỹ, và gương thành công thứ ba, thuộc về Á Châu, tiêu biểu là nhà hàng Panda Express của người Trung Hoa.

Nước Trung Hoa, cũng là một nước có một nền ẩm thực khá độc đáo, được dựng lên bởi năm sắc dân chính, gồm: Hán, Mãn, Tạng, Mông, Hồi.

Với dân số hơn 1,4 tỷ, người Trung Hoa vẫn luôn coi mình “là cái rốn của các nước” (Trung Quốc), và luôn tự hào rằng, quốc gia của họ là cái nôi của văn hóa Á châu.

Có hai bộ kinh được xem là sách gối đầu giường cho các nhà y học, triết học, khoa học và quân sự trên thế giới. Đó là bộ kinh Dịch – Âm Dương Ngũ Hành, và bộ Tôn Tử Binh Pháp.

Hầu như, tất cả những gì liên quan đến văn hóa ẩm thực của Trung Hoa, đều “dính” đến tính chất Âm Dương và Ngũ Hành.

Cho nên, khi Andrew và cha mình là đầu Bếp Ming (Minh) mở nhà hàng Panda Inn đầu tiên, năm 1973, tại Pasadena, California, ông đầu bếp Ming cũng không quên mang theo “văn hóa ẩm thực Âm Dương” đóng góp vào nền văn hóa ẩm Thực của Hoa Kỳ. 

Trên nguyên tắc, nguyên lý của Âm Dương là nguyên lý cân bằng giữa hai lực lượng đối lập. Có lẽ, ông Andrew có bằng thạc sĩ về Toán học, và vợ của ông, bà Peggy cũng có bằng tiến sĩ về Toán.

Cả hai ông bà, đều là những người khoa bảng tốt nghiệp tại Mỹ, và lại là chuyên gia về “tính toán”, nhưng “không chuyên” về nguyên lý Âm Dương. Vì thế, họ cứ “loay hoay” không biết tính toán ra sao để phát triển nhà hàng Panda Inn thành một đế chế.

Mãi đến 10 năm sau (1983), khi gặp được Donahue thì đế chế Panda Express mới bắt đầu hình thành và phát triển cho tới ngày nay.

Trải qua 30 năm hình thành và phát triển, Panda Express chỉ có hơn 1600 tiệm, loanh quanh trong nước Mỹ. Trong khi, chỉ với 28 năm (1954-1982), McDonald’s đã có hơn 7,000 tiệm (gấp 4 lần Panda Express), và đã lan rộng ra hơn 32 quốc gia.

Cũng đều phát triển về dịch vụ bán thức ăn nhanh, nhưng tại sao Mcdonald’s lại có thể phát triển nhanh gấp 4 lần Panda Express?

Nguyên do đơn giản, McDonald’s đã biết sử dụng phương pháp nhượng quyền kinh doanh (franchise), mua bán và cho thuê bất động sản.

Mc Donald’s đã sớm biết, mượn “vốn” của các nhà đầu tư để tiếp tục xây dựng đế chế của mình. Ngược lại, Panda Express chỉ chú trọng đến “hợp tác” đầu tư, và cũng không chú trọng đến quá trình mua, bán, cho thuê bất động sản như McDonald’s. Vậy thì Panda Express sẽ dậy cho chúng ta bài học gì?

  1. Chớ nên kinh doanh nghành ẩm thực phục vụ, mà nên kinh doanh theo dạng thức ăn nhanh. Cả Panda Express và anh em McDonal’s đều chứng minh sự khó phát triển của nghành ẩm thực phục vụ (Panda Inn trong 10 năm cũng chỉ có 1 tiệm, và Mc donald’s với nhà hàng Barbecue trong 8 năm cũng chỉ có 1 tiệm, cuối cùng cả hai đành bỏ cuộc kinh doanh nhà hàng phục vụ)
  2. Khi kinh doanh nghành ẩm thực bán thức ăn nhanh nên đầu tư vào bất động sản
  3. Nên dùng hình thức nhượng quyền kinh doanh hơn hợp tác đầu tư
  4. Phải phát triển nhà hàng nhanh theo một hệ thống hoá đồng bộ
  5. Biết lắng nghe và bắt được tâm lý khách hàng
  6. Luôn tiếp thị đúng cách, thích ứng và hợp thời

Từ những bài học của 3 gương thành công nêu trên, nếu bạn muốn “chen chân” với họ, thì bạn phải làm gì?

Muốn biết bạn phải làm gì, trước tiên, mời bạn nên tìm hiểu chút ít về nền văn hóa ẩm thực đặc sắc của Việt Nam trước đã.

VĂN HÓA ẨM THỰC VIỆT NAM

Nét đẹp trong văn hóa ẩm thực của Việt Nam được bắt nguồn từ chính dấu ấn của nền văn hóa nông nghiệp lúa nước.

Bất cứ ở miền nào, cho dù là hội hè, đình đám, hay tiệc tùng gì thì trong thực đơn của người Việt cũng không thể thiếu hạt cơm.

Tục ngữ xưa có câu: “Người sống về gạo, cá bạo về nước”, hay “Ðói thì thèm thịt thèm xôi, hễ no cơm tẻ thì thôi mọi đường”.

Chính nền văn hóa nông nghiệp đã chi phối cơ cấu bữa ăn thiên về thực vật của người Việt. Bởi thế, trong bữa cơm của người Việt, người ta có thể thiếu thịt, thiếu cá, nhưng họ không thể thiếu rau, thiếu quả, bởi: “Ăn cơm không rau như nhà giầu chết không kèn trống”.

Mâm cơm của người Việt, nếu chỉ có một món thì khó được gọi là một mâm cơm. Và nếu chỉ có một người ngồi ăn thì cũng khó cảm nhận hết cái ngon của từng món.

Chính vì có tính tổng hợp và tính cộng đồng này đã tạo nên nét đẹp độc đáo nhất trong văn hóa ẩm thực của người Việt Nam.

Nếu như người phương Tây thưởng thức theo kiểu phân tích, ăn hết món này, rồi mới dọn ra món khác, thì mâm cơm của người Việt, bao giờ cũng phóng khoáng với tất cả các món được dọn lên cùng một lúc: nào cơm, nào rau, nào thịt, nào cá, thêm bát nước chấm con con.

Có thể nói, mỗi món ăn của người Việt Nam đã hội tụ đủ phương thức tổng hợp khi chế biến: hết luộc lại xào, lại ninh, tần, hấp, v.v, sao cho hài hòa, các yếu tố Nóng – Lạnh, Âm – Dương.

Ngồi trước mâm cơm, người Việt có thể chọn, cùng một lúc ăn các món ăn theo sở thích; hay các giác quan, cũng được cùng một lúc cảm nhận các món ăn kết hợp hài hoà: Mũi có thể ngửi thấy mùi thơm ngào ngạt, mắt có thể nhìn thấy mầu sắc tươi rói, lưỡi có thể nếm được những hương vị đặc trưng.

Chính vì thế, suốt bữa ăn là cả một quá trình tổng hợp. Mỗi bát cơm, mỗi miếng cơm là thành quả của cả quá trình tổng hợp đó.

Dù có đi gần, đi xa, ai cũng vẫn cố gắng thu xếp trở về nhà để xum họp cùng gia đình bên mâm cơm tối. Dù có đi muộn, về trễ, những người trong nhà cũng vẫn chờ đợi để có đủ mặt thành viên rồi mới dùng cơm.

Bất cứ buổi tiệc tùng, họp mặt nào, cũng không thể diễn ra mà chỉ có một người. Ðó là vì, trong văn hóa ẩm thực, người Việt luôn coi trọng tính cộng đồng.

Nếu như người phương Tây mỗi người dùng riêng một đĩa, một suất, thì người Việt Nam phải quây quần quanh mâm cơm mới ăn ngon miệng.

Với người Việt, thời điểm ăn là để mọi người cùng thực hiện văn hóa giao tiếp, cùng gặp mặt, trò chuyện, nắm bắt thông tin về cuộc sống của nhau.

Và không gian ăn, chính là nơi để gắn kết chặt chẽ những mối quan hệ giữa người với người trong gia đình cũng như ngoài xã hội.

Vì thế, các món ăn trên mâm, có thể, người này ăn món này, người kia chọn món kia, tùy theo sở thích. Nhưng nồi cơm và bát nước chấm thì lại là món ăn cộng đồng mà những người ngồi quanh mâm ai cũng dùng chung.

Và đôi đũa, vật dụng độc đáo không thể thiếu trong bữa ăn của người Việt. Vì sao? Vì đôi đũa chính là phương tiện linh hoạt nhất để nối dài cánh tay, giúp cho người quanh mâm, dù ngồi xa, ngồi vướng đến mấy, cũng vẫn gắp chung được thức ăn trên mâm như những người khác.

Thế nên, nói đến văn hóa ẩm thực Việt Nam là nói đến văn hóa của sự gắn kết, cộng đồng. Biểu hiện rõ nét nhất chính là phong cách kết hợp hài hòa, trung dung trong từng món ăn, thức uống. Mỗi một món ăn là một sự kết hợp Âm Dương thật tuyệt vời.

NHỮNG MÓN ĂN CỦA VIỆT NAM

Mặc dù, người Trung Hoa luôn coi mình là “chủ nhân” của bộ Kinh Dịch (Iching) Âm Dương-Ngũ  Hành lừng lẫy trên thế giới.

Nhưng càng ngày, càng có những chứng cớ rõ nét là bộ Kinh Dịch, học thuyết Âm Dương-Ngũ Hành lại là của dân tộc Việt Nam, mà các “chủ nhân” Trung Hoa, trong quá khứ, đã từng qua đô hộ và “chôm chỉa” mang về. 

Có lẽ, vì đã thông kinh Dịch, và biết được vận mạng của nước Việt phải gánh chịu “kiếp nạn”, mà tổ tiên của người Việt đã khôn khéo chia bộ kinh Dịch và Âm Dương-Ngũ Hành ra làm ba phần khác nhau; và chỉ giao cho các “chủ nhân” phần đầu và phần cuối, còn phần giữa thì đem dậy lại cho con cháu, qua phương pháp khẩu truyền, đậm nét nhất, vẫn tiềm tàng trong ca dao và tục ngữ của Việt Nam.

Chính vì vậy, mà Kinh Dịch và học thuyết Âm Dương-Ngũ hành của người Trung Hoa, thiếu một hệ thống lý luận hoàn chỉnh.

Ai có dịp nghiên cứu về kinh Dịch và học thuyết Âm Dương-Ngũ Hành của người Trung Hoa thì luôn rơi vào những lý luận mâu thuẫn, nghịch lý đến tức cười.

Vậy, kinh Dịch, học thuyết Âm Dương-Ngũ Hành có phải là của Việt Nam hay không thì xin dành lại cho các nhà nghiên cứu, khảo cổ Việt Nam đi minh chứng.

Điều mà chúng tôi muốn nhấn mạnh ở đây là, nếu học thuyết Âm Dương-Ngũ Hành thuộc về người Trung Hoa, và họ luôn tự hào về sự ứng dụng Âm Dương-Ngũ Hành trong Ẩm Thực của họ, thì chắc chắc, món ăn của họ phải đạt đến chỗ “quân bình Âm Dương.”

Nhưng trên thực tế, tất cả các món ăn của Trung Hoa, phần lớn lại mang đầy tính chất “thiếu quân bình”.

Thí dụ như món Vịt Bắc Kinh chẳng hạn. Theo đông y, Vịt  mang tính “hàn.” Muốn giải hàn, hay “quân bình Âm Dương” thì phải có một món mang tính “nhiệt” ăn kèm theo.

Nhưng trên thực tế, món Vịt Bắc Kinh lại chẳng có món “nhiệt” nào ăn kèm theo cả. Ngược lại, nước chấm bằng tương ngọt lại mang tính “hàn.” Đã hàn lại cộng thêm hàn, như vậy làm sao có thể làm “cha đẻ” ra học thuyết Âm Dương cho được.

Còn Việt Nam ăn món Vịt ra sao? Đơn giản là dùng nước mắm gừng. Độ mặn của nước mắm mang tính chất cực Nhiệt (Dương), nên cần phải thêm chút gừng thuộc Hàn (Âm), cộng với độ Hàn (Âm) của thịt Vịt, tạo thành thế quân bình âm dương.

Ngoài sự quân bình hài hoà, gừng lại mang tính chất giải độc, và làm ấm bao tử. Như vậy, so với thuyết Âm Dương, thì món thịt Vịt chấm nước mắm gừng, còn cao hơn một bước, nghĩa là, không phải chỉ biết quân bình Âm Dương không mà thôi, mà còn biết dùng thêm gừng, để giải được cả độc của thịt vịt. (Độc như thịt vịt)

Nhìn vào món ăn của Việt Nam, chúng ta luôn luôn thấy, có một sự kết hợp hài hoà Âm Dương đến mức độ lạ lùng.

Hễ cứ một món có thịt (dương), thì phải ăn kèm theo một món rau hoặc gia vị (âm) nào đó kèm theo. Điển hình nhất là câu ca dao ngộ nghỉnh như sau:

Con gà cục tác lá chanh

Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi

Con chó khóc đứng khóc ngồi

Mẹ ơi đi chợ mua cho tôi đồng giềng

Mới đọc sơ qua, xem ra chỉ là những câu hát ngô nghê của trẻ nhỏ. Nhưng nếu để ý kỹ hơn, rõ ràng, đây là cả một nghệ thuật nấu nướng theo “quân bình âm dương” thật rõ nét.

Luộc thịt gà và ăn gà (dương), mà muốn cho ngon thì phải cho lá chanh (âm) vào nấu, và phải chấm với muối (dương) cộng thêm tiêu chanh (âm) thì mới tuyệt.

Ngược lại, nhắm một miếng dồi chó (cực dương), mà không có củ giềng và lá mơ (cực âm) thì chỉ có chẩy máu cam, muốn cầm cũng khó.

Tuy chưa hề học về học thuyết âm dương, và cũng không cần biết về Âm Dương, nhưng những nhà đầu bếp Việt Nam, lại là “vua” về sự quân bình Âm Dương, trong nghệ thuật ẩm thực.

Bịnh tật của con người, theo học thuyết Âm Dương, chỉ là do mất quân bình giữa Âm và Dương mà ra. Khi Âm Dương quân bình thì đó là lúc con người khỏe nhất.

Theo thống kê mới nhất của Viện Phát triển Hải Ngoại Anh (ODI), thì nhân loại ngày nay đang vấp phải một “dịch bịnh” nghiêm trọng, đó là: “dịch béo phì và thừa cân”.

Số lượng người béo phì ở các nước đang phát triển đã vượt qua ngưỡng 900 triệu người, thậm chí, đã vượt mặt các nước phát triển, nơi xuất phát của các thương hiệu đồ ăn nhanh nổi tiếng trên thế giới.

Điều này cũng đồng nghĩa với việc, các nước này đang phải gánh chịu khoản chi phí y tế cực kỳ lớn, cho các bệnh đau tim, tiểu đường, béo phì, do lạm dụng thức ăn nhanh dưới sự phát triển của nhịp sống gấp gáp như hiện đại.

Nghiên cứu còn chỉ ra, một phần ba dân số trưởng thành trên thế giới (tức khoảng 1,45 tỷ người), bị bệnh béo phì hoặc thừa cân.

Nguyên nhân được cho là do sự thay đổi trong chế độ ăn uống ở các nước đang phát triển. Người tiêu dùng đang chuyển từ chế độ ăn ngũ cốc, và củ quả, sang một lượng lớn các thức ăn giàu chất béo, muối và đường.

Kết hợp với việc lười vận động đã làm bùng nổ dân số béo phì. Không những vậy, trách nhiệm của chính phủ bị buông lỏng, cũng được xem là một trong những nguyên nhân lớn nhất để xảy ra tình trạng này.

ODI nhận định, các chính trị gia dường như đang “sợ hãi trong việc can thiệp vào chế độ ăn uống, thiếu lành mạnh của người dân”.

ODI còn cảnh báo, nếu chính phủ các nước không hành động ngay thì sẽ phải đối mặt với “đại dịch” ung thư, tiểu đường, đột quỵ và đau tim, đặt gánh nặng rất lớn lên hệ thống y tế các nước, vốn đã nghèo, nay lại càng trở nên kiệt quệ hơn.

Nhiều người lại cho rằng, tốt nhất là chính phủ nên can thiệp trước khi một món thức ăn nhanh xuất hiện trên thị trường, chứ không phải, đợi đến khi ra lò rồi mới bắt đầu đi tuyên truyền hay hạn chế bằng pháp lệnh hành chính.

Trong khi đó, các thương hiệu đồ ăn nhanh vẫn tiếp tục nhởn nhơ, với hàng loạt quảng cáo đánh vào những đứa trẻ, chứ không phải người trưởng thành.

Theo nghiên cứu của Robert Wood Johnson Foundation, 99% quảng cáo từ McDonald’s cho đến Burger King, nhắm đến trẻ em.

Họ không còn đánh mạnh vào hình ảnh bữa ăn, mà dùng các chiêu dụ, hoặc thông qua nhân vật hoạt hình, trò chơi, các đoạn phim… để thu hút sự chú ý của trẻ em, khiến chúng quên đi những hình ảnh đáng sợ về căn bệnh béo phì, hay đau tim đang tiềm ẩn trong từng miếng gà chiên hay chiếc Hamburger béo ngậy.

Dù các nhà quảng cáo ngày nay, dưới áp lực của xã hội, cũng đã tung ra những quảng cáo “lành mạnh hơn”, nhưng điều quan trọng, không phải là nội dung quảng cáo, mà là những hình ảnh này càng khiến trẻ nhỏ, đặc biệt, những em vốn đã thừa cân, hay béo phì, càng nhớ lâu những cái tên như McDonald’s, Burger King, KFC… và vòi vĩnh cha mẹ dẫn đến những địa điểm này.

Quả thực, theo báo cáo của Ủy ban Thương mại Hoa Kỳ, 45% trẻ em tiếp xúc với những quảng cáo này, tiêu thụ nhiều thức ăn hơn so với những em không xem.

Thậm chí, 5 năm sau, khi được tiếp xúc với chương trình khuyến mãi của các loại thực phẩm không lành mạnh, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng, trẻ em tiếp tục mua ít trái cây, rau và ngũ cốc nguyên hạt hơn, song lại gia tăng lượng tiêu thụ về thức ăn nhanh, thức ăn chiên xào và thức uống ngọt.

Đằng sau những cánh cửa sáng loáng, các thức ăn, dù có được tô hồng là “lành mạnh” đến đâu, thì thức ăn nhanh vẫn chỉ là loại thực phẩm tiềm ẩn nhiều nguy cơ béo phì.

Những khẩu hiệu “đứng về phía sức khỏe của người tiêu dùng” không thể xóa đi thực tế rằng: McDonald’s, Burger King, KFC… vẫn phải dựa trên sản phẩm truyền thống của họ là, những thứ đồ ăn nhanh gây “nghiện”, có hại cho sức khỏe, mọi sự tuyên bố “thay đổi” của các hãng, trong lúc này chỉ là “mị dân”.

Bản báo cáo trên đây của ODI đã khiến cho các ông trùm trong nghành kinh doanh thức ăn nhanh không “hài lòng” cho mấy.

Nhưng bản báo cáo này, lại là chiếc chìa khoá vàng đang dành cho bạn, nếu bạn muốn “chen chân” và muốn xây dựng một đế chế thức ăn nhanh cho riêng bạn.

VẬY BẠN NÊN LÀM THẾ NÀO?

Trong 7 ông trùm của nghành ẩm thực nhanh thì hết 6 ông đều được liệt vào trong danh sách “gây hại cho sức khỏe”, tạo ra chứng béo phì và thừa cân cho nhân loại.

Chỉ riêng ông trùm Subway là thoát khỏi.

Tuy phát triển sau McDonald’s hơn 11 năm (1965), nhưng đến nay, Subway đã có hơn 41,000 chi nhánh khắp nơi trên thế giới.

Sản phẩm chính của Subway chỉ là bánh mì tự nướng, bán với các loại thịt ham, thịt viên, cheese và rau. Nếu đem so sánh giữa các thức ăn nhanh, về độ bổ dưỡng khỏe mạnh thì Subway có thể được gọi là thức ăn lành. Nhưng nếu nói đến độ ngon, thì bánh mì của Subway vẫn không có thể cạnh tranh với món McRib của McDonald’s.

Như chúng tôi đã trình bầy, con người hôm nay không phải chỉ có “ăn để sống”, mà họ còn “sống để ăn.”

“Ăn để sống” thì thực phẩm cần phải tươi lành, không độc hại. “Sống để ăn” thì thực phẩm cần phải nêm nếm hài hoà, ngon miệng.

Cho nên, tuy cả 6 ông trùm đều bị liệt vào danh sách nguy hiểm, nhưng vì ngon, nên người ta vẫn ủng hộ. Ngược lại, ông trùm Subway, tuy phát triển nhiều chi nhánh hơn, nhưng nếu đem so với cả 6 ông gộp lại thì Subway cũng chỉ chiếm được có 1/8 thị trường. 

Như vậy, con số thích ăn ngon (sống để ăn) vẫn chiếm đa số. Nhưng con số ăn lành (ăn để sống) cũng hết sức ấn tượng, khi Subway vẫn tiếp tục gia tăng các chi nhánh trên toàn thế giới.

Rõ ràng, con người hôm nay, họ không phải chỉ có thích ăn để sống (lành), mà họ còn đòi hỏi, sống để ăn (ngon) nữa.

Tiếc thay cho các ông trùm là, không có ông nào có thể thoả mãn được cả hai tố chất “ngon và lành” cùng một lúc. Thế nên, đây cũng chính là cơ hội “trăm năm” mới có một lần cho bạn.

Bởi vì, nền văn hóa ẩm thực của Việt Nam từ ngàn xưa cho đến nay đều mang 2 tính chất “ngon và lành”.

Chỉ cần bạn biết chọn ra những món thích hợp, có kế hoạch rõ ràng, biết giáo dục khách hàng, có tiếp thị đúng đắn, chắc chắc, các ông trùm cũng phải “toát mồ hôi hột” với bạn.

Sống trên đất Mỹ, hầu như tất cả những nền ẩm thực trên thế giới đều có mặt ở đây.  Nhưng hiếm có nền văn hóa ẩm thực nào có những nét độc đáo nắm vững được cả hai tố chất “ngon và lành” như Việt Nam.

Nhân loại hôm nay, đang hướng về, cũng như, đang đi tìm một nền văn hóa ẩm thực “ngon và lành”.

Bạn đã có sẵn trong tay. Vấn đề là, bạn có “thấy ra thời”, và có dám “tạo ra thời” hay không mà thôi.

HẬU QUẢ VÀ KẾT QUẢ

album-art

00:00

TẢI MP3 – MỸ LINH P1
TẢI MP3 – MỸ LINH P2
TẢI MP3 – KIM THU NGUYỄN P1
TẢI MP3 – KIM THU NGUYỄN P2

Bạn Thân Mến,

Chẳng ai trong chúng ta, khi muốn giải quyết một vấn đề lại muốn có hậu quả, thay vì có kết quả.

Hai chữ hậu quả và kết quả thì ai trong chúng ta cũng có thể hiểu khá rõ ràng, trong đó, hậu quả là cái quả mà sau cái qủa đó, còn những “di chứng” không mấy tốt đẹp, hay không được toại lòng. Hay nói đơn giản hơn, hậu quả là cái kết quả xấu, không như những gì chúng ta mong đợi.

Còn kết quả là khi gắn kết lại thành quả rồi thì không có những di chứng về sau, hay vắn tắt gọi là, kết quả tốt, đúng như những gì chúng ta mong muốn.

Câu chuyện chúng tôi muốn chia xẻ với bạn hôm nay, về hậu quả và kết quả, liên quan đến một người quen của chúng tôi đã trải qua, khi làm chủ một cơ sở kinh doanh về nghành làm móng.

Chị đã trải qua không biết bao khó nhọc, có ngày phải “chan cơm trong nước mắt”. Có những ức chế khi bị sử oan, có những tranh giành bè phái, đâm sau lưng nhau, nói xấu nhau, khiến cho chị luôn phải mặc “áo giáp” để đi làm.

Thời gian cứ trôi qua, chị đã quyết định, dành dụm đủ tiền để mua lại một tiệm Nail, và làm chủ.

Với những kinh nghiệm được tích lũy từ cách điều hành và quản lý của các chủ tiệm cũ, cộng thêm một số “sáng kiến” mới, chị rất tự tin mình sẽ thành công lớn.

Chị nghĩ, nếu chị làm chủ thì sức mấy mà thợ “bắt nạt” được chị. Chỉ cần chị quản lý tốt được thợ của chị theo cách mới của chị, thì tiệm của chị sẽ vươn tầm, lớn mạnh.

Thế là chị quyết định sang lại một tiệm Nail. Tiệm của chị lúc đó có 7 tới 8 người thợ. Vừa nhận được tiệm, chị đã tỏ ra “uy quyền” của người làm chủ ngay.

Thấy một người thợ làm cho khách chưa được vừa ý chị; trước mặt khách, chị mắng “xối xả” như “tát nước vào mặt người thợ” bằng “tiếng việt”, khiến người khách ngoại quốc đứng ngẫn ngơ, không biết chuyện gì.

Người thợ vì tự ái, “nóng mũi”, đứng cãi tay đôi với chị. Chị tức giận, đập bàn, rồi dùng quyền làm chủ, đuổi người thợ đó. Người khách đứng “chịu trận” giữa cơn thịnh nộ của chị với thợ của chị, sau đó ra về.

Mấy ngày sau, trên những trang mạng, người khách viết: “thề một đi không trở lại”. Thế là, trong một ngày, chị mất đi 2 “chủ lực” đem tiền đến cho chị, một là khách, hai là thợ.

Vài tháng sau, chị chỉ còn lại có 2 người thợ “yếu tay nghề” mà chị thích họ, vì họ rất biết “nịnh đầm”. Ngày những người thợ giỏi ra đi, cũng là những ngày tiệm của chị bắt đầu vắng khách. Cuối cùng, chị đã phải sang lại tiệm với giá “bèo”. Thua lỗ nặng, thiếu nợ nhiều, không còn cách nào khác, chị lại trở về tiếp tục làm thợ Nail… để trả nợ.

Ngày chị đến gặp chúng tôi, nước mắt chị chan hòa khuôn mặt. Bao nhiêu công sức, tiền của tích góp bấy lâu, bổng chốc không cánh mà bay. Chị thở than, cho rằng, đó là cái Nghiệp mà chị phải trả cho kiếp trước chị đã gây ra. Cho nên, bây giờ chị làm chuyện gì cũng thất bại. Đành phải chịu đựng, trả Nghiệp cho xong.

Là một người cũng có kinh nghiệm về kinh doanh, chúng tôi thấy, cái hậu quả mà chị gánh, không mắc mớ gì đến Nghiệp trong kiếp trước cả, mà bắt đầu bởi sự thiếu kinh nghiệm về nhiều điều kiện trong kinh doanh mà chị chưa hiểu rõ, nên thay vì, chị được kết qủa như chị muốn thì chị lại gánh lấy hậu quả đắng cay như bây giờ.

Vậy, làm sao có thể biến cái hậu quả của chị thành kết quả như chị muốn.

Nếu bạn là một người chủ trong kinh doanh, và bạn muốn đạt được sự thành công hay kết quả như bạn muốn, ít nhất bạn phải có 4 điều kiện “ắt có và đủ” như sau:

  1. Biết tư duy đúng đắn
  2. Biết mục đích rõ ràng
  3. Biết bạn muốn gì?
  4. Biết bạn cần gì?

IBIẾT TƯ DUY ĐÚNG ĐẮN

Biết tư duy đúng đắn, hay biết suy nghĩ đúng đắn là biết suy nghĩ không thiên lệch và thành kiến, nhằm mục đích bênh vực hay che dấu đi những cái chưa hay, hoặc chưa tốt của bạn. Mục đích của biết tư duy đúng đắn là “phơi bầy sự thực” về những sở trường và sở đoản của bạn một cách trung thực nhất. Chính nhờ sự trung thực này, bạn mới có thể biết được bạn có bao nhiêu sở trường cần phải “khoe”, và có bao nhiêu sở đoản cần phải “che”.

Ngoài cái giá trị “khoe” và “che” ra, “Biết tư duy đúng đắn” còn giúp cho bạn sửa sai, bổ khuyết, để biến những “sở đoản” của bạn thành những “sở trường” của bạn, và cũng giúp bạn biết làm sao sử dụng những “sở trường” của người khác để che các “sở đoản” của mình. Thí dụ:

Sở Trường Sở Đoản
Đắp Bột giỏi

Đắp Gel giỏi

Dũa đẹp và nhanh

Vẽ móng tốt

Giao tiếp với khách hàng tốt

Nói tiếng Anh giỏi

 

Dễ nổi cáu khi không vừa ý

Hay cãi lý

Hay ganh tỵ

Hay buôn chuyện, nói xấu người khác

Thiếu kinh nghiệm điều hành, quản lý

Thiếu kinh nghiệm bán hàng

Chính nhờ sự phân biệt được rõ ràng giữa sở trường và sở đoản của bạn, mà bạn có thể tìm ra được rất nhiều mục đích từ những sự phân biệt đó, như:

Bạn có thể: làm giảng viên để huấn nghệ cho những người thợ có tay nghề yếu cần tăng thêm lợi tức; làm quản lý cho một tiệm Nail; giáo dục khách hàng biết làm sao phân biệt bộ móng đẹp để giữ khách hàng, thêm tiền tip; mở một tiệm Nail v.v; hoặc bạn có thể kết hợp cả hai ba mục đích vào làm một.

Thí dụ: Bạn vẫn đi làm Nail, nhưng ngày nghỉ thì đi hướng dẫn, giảng dậy, huấn nghệ cho những người có tay nghề

yếu, giả dụ như, với giá $500 cho 1 tháng (4 ngày). Nếu bạn có 10 học viên, thì bạn có thêm $5,000/1tháng. Trừ tiền mướn chỗ, và quảng cáo $1,000, bạn đã kiếm thêm được $4,000/1 tháng hay $48,000/1 năm.

So với tiền bạn đi làm công: 6 ngày/1 tuần, 24 ngày/1 tháng, thì số tiền bạn kiếm được qua huấn nghệ cho người khác cũng tương đương, hoặc nhiều hơn so với số tiền bạn đi làm trong một tháng.  Khác biệt ở đây, là bạn chỉ làm có 4 ngày, thay vì 24 ngày trong 1 tháng như khi bạn làm Nail.

Như vậy, bạn có thể chọn: đi giảng dậy hay đi làm Nail; hoặc bạn có thể vừa đi làm Nail, vừa giảng dậy; tùy theo mục đích của bạn là gì?

Hoặc giả, bạn đang làm chủ tiệm Nail thì bạn cũng có thể mở lớp huấn nghệ để kiếm thêm gần $4,800/1tháng – $60,000/1 năm (chỉ tốn tiền quảng cáo mà không tốn tiền mướn chỗ). 

Nếu như tay nghề bạn không giỏi thì bạn cũng có thể kết hợp với thợ giỏi trong tiệm của bạn, hay thuê/mướn những người thợ có tay nghề giỏi, mở lớp huấn nghệ nâng cao tay nghề cho người khác.

Bạn vừa có thể kiếm thêm tiền (dĩ nhiên, bạn sẽ kiếm ít tiền hơn khi bạn tự mở lớp dậy, nhưng bạn lại “Biết” dùng sở trường của người khác để bổ sung cho sở đoản của bạn, mà bạn lại có thêm cơ hội để gia tăng lợi nhuận). Đồng thời, bạn còn có thể giữ được thợ giỏi (họ có thêm lợi tức từ việc giảng dậy), hay kéo người thợ giỏi về làm việc cho tiệm của bạn.

Dĩ nhiên, mục đích của mỗi bạn khác nhau, và sự quyết tâm của mỗi người khác nhau thì kết quả cũng khác nhau. Ở đây, chúng tôi chỉ dùng một vài thí dụ đơn giản, để giúp cho bạn hiểu rõ hơn về cách ứng dụng khi bạn biết rõ được sở trường và sở đoản của bạn là gì?  Và làm sao để “khoe” và “che” cho tốt nhất. 

Chỉ với một vài phát hiện “nhỏ nhoi” về sở trường và sở đoạn của bạn như thí dụ nêu trên, mà bạn đã có thể mở ra cho bạn ít nhất 4 cơ hội/mục đích mà bạn có thể làm được trong khả năng của bạn.

Thay vì, bạn chỉ biết ngồi đó “tự hào” về tay nghề giỏi của bạn, rồi không làm gì hết; thì nay, nhờ “Biết tư duy đúng đắn”, bạn đã phát huy hết sở trường của bạn, và biết cách làm sao để “che” những sở đoản của bạn cho “khéo”, mà vẫn tăng thêm lợi nhuận, hay gia tăng thêm mức độ thành công của bạn.

Đâu phải “Biết tư duy đúng đắn” chỉ quan trọng trong việc ứng dụng trong nghề Nail của bạn không đâu, mà nếu như bạn khôn khéo, lại còn biết dùng “Biết tư duy đúng đắn” trong tất cả mọi sự việc trong cuộc đời của bạn như: kết bạn, hôn nhân, giáo dục con cái, đầu tư v.v, thì sự thành công hay hạnh phúc của bạn đâu phải là chuyện khó làm, hay không tưởng; mà thật ra, nó nằm ngay trong tầm tay của bạn, há cần chi phải lệ thuộc vào sự mong cầu hay may mắn phải không bạn?

IIBIẾT MỤC ĐÍCH RÕ RÀNG

Khi bạn đã có thể trung thực “phán xét” chính bạn để tìm ra sở trường, sở đoản của bạn rồi thì bước kế tiếp là xác định mục đích rõ ràng. Muốn xác định mục đích rõ ràng thì bạn đừng quên phải hỏi thêm 3 chữ “ĐỂ LÀM GÌ?

Chẳng hạn như, mục đích của bạn là làm người huấn nghệ. Nếu bạn dừng lại ở đây, và không hỏi tiếp “để làm gì” thì kết quả lắm khi lại khiến bạn “dở khóc, dở cười”. 

Giả dụ, bạn đi dậy mà chả được đồng nào (miễn phí) vì chỉ có danh, mà không biết dùng tài để kiếm lợi. Nhờ hỏi tiếp 3 chữ “ĐỂ LÀM GÌ? sau mục đích của bạn, mà bạn sẽ biết được kết quả sẽ ra sao? và cần phải có những điều kiện gì để đạt được mục đích đó. 

Bạn nên nhớ:  Mỗi mục đích khác nhau thì bạn cần có những điều kiện khác nhau.  Cho nên, bạn phải rất cẩn thận khi xác định mục đích của bạn.  Hãy lấy một thí dụ sau đây cho dễ hiểu:

Hỏi: Mục đích của bạn mở tiệm Nail để làm gì?

Đáp: Để kiếm nhiều tiền

(Nhiều là nhiều bao nhiêu? $10,000? $20,000? $50,000? trong một tháng? hay trong 1 năm?

Bạn có thấy không, với cách trả lời này, không những “nó” đã không giúp cho bạn hiểu rõ mục đích của bạn là gì, mà “nó” còn khiến cho bạn thêm lúng túng, thiếu tự tin, tăng thêm thất vọng, và đó chính là nguyên nhân dẫn đến thất bại vậy. Hãy cẩn thận với lối trả lời chung chung này bạn nhé.

Đáp: Để kiếm $100,000/một năm

Khá hơn câu trả lời trước, những vẫn chưa chính xác, vì $100,000 đó là lợi tức hay lợi nhuận? Nếu là lợi tức trong 1 năm, thì sau khi trừ đi tất cả chi phí khoảng 70% (lợi tức= 70% chi phí & nhân công + $30% lợi nhuận) thì bạn chỉ còn đem về có $30,000 cho một năm. Như vậy, nếu đem so sánh

thời gian và tiền bạc của bạn để đầu tư vào tiệm Nail thì bạn tốn kém nhiều hơn, nhưng lương bổng làm ra thì lại ít hơn so với lương đi làm thợ. Vậy bạn có nên mở tiệm Nail không?

Đáp: Để kiếm $100,000 lợi nhuận/một năm

Rõ ràng nhất. Nhờ sự rõ ràng này, bạn mới biết được lợi tức 1 năm của bạn cần phải làm bao nhiêu? ($100,000/3= $33,000 x7= $221,000 + $100,000 = $321,000/ 1năm).

Nương trên con số tương đối này, bạn mới có thể tính toán xem: Bạn cần có bao nhiêu khách hàng?  Bạn cần có bao nhiêu thợ?  Mỗi phục vụ của bạn phải giá bao nhiêu?  Bạn cần làm bao nhiêu ngày? v.v. để có thể đạt được mục đích này.

Sau khi đã xác định được mục đích của bạn rõ ràng rồi thì bạn mới bắt đầu “phân tích sơ bộ” xem mục đích nào của bạn có thể thực hiện được nhanh nhất, và mục đích nào là chậm nhất.

Mục đích nào của bạn có thể kết hợp với mục đích khác cùng làm một lúc, hay bạn phải chờ đợi thêm một thời gian, và thời gian nào là thích hợp nhất v.v.

Sau đó, bạn sắp xếp những mục đích của bạn theo thứ tự ưu tiên: Cái nào quan trọng/có thể thực hiện nhanh nhất lên trên, và những mục đính nào ít quan trọng/khó thực hiện xuống dưới. 

Sự sắp xếp “cuối cùng” này sẽ giúp bạn đưa ra những quyết định đúng đắn, làm tăng thêm sự tự tin, và sự quyết tâm hoàn thành.  Ngoài ra, nó cũng còn giúp cho bạn biết “chụp” đúng cơ hội khi thời cơ “chín mùi”.

Thí dụ: Bạn là chủ tiệm Nail, ngoài mục đích mở tiệm kiếm tiền, bạn còn có một mục đích khác nữa là mở lớp huấn nghệ để kiếm thêm tiền phụ trội.

Tiếc thay, tay nghề của bạn lại không giỏi, và bạn lại không có thời gian để trau dồi, nên bạn chưa thể thực hiện được.

Đột nhiên, tiệm của bạn đông khách, và bạn cần thêm thợ. Thay vì, bạn mướn thợ có tay nghề trung bình thì bạn lại chọn mướn thợ có tay nghề giỏi.

Lý do, người thợ đó, không những có thể giúp bạn “che” đi sở đoản của bạn, mà còn có thể giúp bạn đạt được mục đích mở lớp huấn nghệ của bạn một cách dễ dàng. 

Nhờ biết sắp xếp và biết rõ ràng các mục đích của bạn, mà bạn đã biết “chộp” đúng thời cơ để đạt được mục đích mà bạn đã xác định ra. Nếu như không có sự xác định sắp xếp này thì bạn đã mất đi một lúc ba cơ hội: gia tăng lợi nhuận, tăng thêm khách hàng, và giữ được thợ giỏi.

IIIBIẾT BẠN MUỐN GÌ?

Mặc dù “Biết bạn muốn gì” được xếp ở hạng thứ ba, nhưng thông thường “nó” lại được chúng ta sử dụng nhiều nhất trong đời sống hằng ngày. Vì sao? 

Vì yếu tố thứ ba này biểu hiện động lực thúc đẩy sự quyết tâm hoàn thành mục đích của bạn.  Đứng trên góc độ tâm lý, có 4 loại động lực biểu hiện sự quyết tâm của bạn được sắp xếp theo thứ tự, từ nhẹ đến nặng như sau: thích, cần, muốn và đam mê. “Nặng đô” nhất chính là đam mê. 

Một người, khi đã đam mê về một vấn đề nào đó thì họ thường sẽ “sống chết” với vấn đề đó.  Các bậc vĩ nhân trên thế giới, đã để lại những tác phẩm, những phát minh vĩ đại cho con người hôm nay, đều bắt đầu sự nghiệp bằng sự đam mê.  Và niềm đam mê đó, càng lúc càng gia tăng mãnh liệt.  Thế nên, động lực quyết tâm của bạn càng cao thì sự thành công của bạn càng lớn là vậy.

Ở đây, chúng ta không xét đến góc độ “đam mê” của các bậc vĩ nhân, mà chỉ đứng trên góc độ  của những người bình thường thì Muốn là “động lực cao nhất” mà chúng ta hay sử dụng. 

Tại sao chúng ta lại sử dụng muốn?  Bởi vì, nhờ có động lực “Muốn” thúc đẩy, mà chúng ta mới có đủ năng lực, nghị lực, sự kiên trì, sự tin tưởng để hoàn thành mục đích, hay đạt được kết quả mà chúng ta đã đặt ra.

Thí dụ: Bạn muốn kiếm $100,000 lợi nhuận một năm. Vì có “muốn” nên bạn năng nổ, chịu thương, chịu khó làm việc, bỏ thời gian, tiền bạc học hỏi, nghiên cứu v.v để đạt được mục đích mà bạn đã đề ra. 

Nếu như không có động lực từ muốn thì bạn sẽ  sinh ra lười biếng, nghi ngại, lo âu, sợ hãi, chán nản, thất vọng, ngần ngại, v.v. và cuối cùng dẫn đến sự thiếu tự tin, không kiên nhẫn, nên thường khiến bạn hay bỏ cuộc nửa chừng. 

Cứ một lần bạn bỏ cuộc là một lần bạn làm giảm sút sự tự tin của bạn xuống một nấc, và gia tăng thêm sự nghi ngờ, lo sợ thêm một bậc. 

Dần dần, bạn sẽ trở nên người thiếu tự tin, không quyết đoán.  Và khi cần làm một việc gì thì bạn sẽ chần chừ, nghi ngờ, lo sợ. Rồi cuối cùng, bạn lại bỏ cuộc giữa chừng. 

Chính những “cảm giác ăn theo” này, đã biến thành những “rào cản” khiến cho bạn trù trừ, do dự, ngần ngại, không quyết đoán, và từ đó bạn buông bỏ, không thực hiện được mục đích của bạn đã lập ra. Nguy hiểm hơn nữa là, những “cảm giác ăn theo” này, còn ngăn chặn bạn, không cho bạn thực hiện những mục đích kế tiếp của bạn.

Vậy làm sao để bạn có thể đạt được cái muốn của bạn đây? Cách đơn giản và hữu hiệu nhất là phân chia cái muốn thành nhiều phần.

Thí dụ: Bạn muốn kiếm $100,000 lợi nhuận cho 1 năm, nhưng bạn chỉ kiếm được $70,000. Thông thường, vì không đạt được mục đích thì bạn sẽ nẩy sinh ra “cảm giác thất bại”.  Với phương pháp ‘chia nhỏ”, bạn có thể chuyển đổi “cảm giác thất bại” của bạn thành “cảm giác thành công” như thí dụ sau:

  1. Bạn muốn dùng $50,000 cho chi phí gia đình
  2. Bạn muốn để dành $20,000 cho con bạn đi học đại học
  3. Bạn muốn để dành $20,000 để sửa sang tiệm
  4. Bạn muốn dùng $10,000 để đi du lịch hay giúp đỡ người thân, v.v.

Thay vì, như lúc đầu, bạn chỉ đưa ra một cái muốn là kiếm ra $100,000, và cái muốn đó sẽ dễ dẫn bạn đến “cảm giác thất bại”; thì nay, bạn lại chia làm 4 cái muốn khác nhau.

Tùy theo cái muốn nào mạnh nhất thì bạn để lên trên, và cái nào yếu nhất thì bạn để xuống dưới. Nhờ sự sắp xếp này, mà bạn có thể chuyển đổi từ cảm giác “thất bại” như ban đầu, thành cảm giác” thành công.”

Nương theo thí dụ nêu trên, nếu như bạn chỉ kiếm được $70,000 (thay vì $100,000) thì rõ ràng, bạn đã thành công được 2 cái muốn quan trọng nhất rồi (70%), chỉ còn lại 2 phần kém quan trọng hơn (30%) mà thôi.  Chính nhờ vào sự thành công của 2 cái muốn đó, mà bạn đã không cho “ngã thức” của bạn nẩy sinh ra những “cảm giác ăn theo”. 

Từ đó, bạn sẽ tự tin hơn, kiên trì hơn, để có thể thay đổi những cái cần thiết thích đáng, hầu có thể đạt được mục đích của bạn một cách hoàn toàn.

Điều quan trọng nhất trong phương pháp “chia nhỏ” này là, nhờ đạt được sự thành công, mà bạn không nẩy sinh ra “cảm giác thất bại”, đồng thời kéo theo những “cảm giác ăn theo” như: nghi ngờ, chán nản, thất vọng v.v, làm ngăn trở những mục đích theo sau của bạn. 

Dĩ nhiên, ngoài cách này, bạn cũng có thể thay đổi mục đích của bạn để đạt được “cảm giác 100% thành công. Thay vì, kiếm $100,000 thì chỉ kiếm $70,000 chẳng hạn. 

Biết bạn muốn gì, và làm sao xử dụng cái “muốn” đó đúng cách, để không tạo ra những “cảm giác rào cản” là cả một nghệ thuật, đòi hỏi bạn phải kiên trì thực tập thành một thói quen. Có được như vậy, thì bạn mới có thể đạt được mục đích của bạn đến mức hoàn hảo và dễ dàng.

IV- BIẾT BẠN CẦN GÌ?

Tuy được sắp xếp đứng vị trí thứ tư, nhưng “cần” lại đóng vai trò quyết định quan trọng xem những phương tiện nào, điều kiện nào “cần phải có” để thoả mãn cho mục đích và cái muốn của bạn.

Thiếu yếu tố “cần” này thì bạn khó mà có thể hoàn thành được 3 yếu tố nêu trên. Tiếc thay, không ít các bạn chủ tiệm Nail thường “quên” hay thiếu sót trầm trọng phần này.

Vậy Cần là gì?

Cần là một trạng thái tâm lý, nằm trong ngã thức, nhằm biểu hiện những điều kiện, hay phương tiện “phải có và đủ để sống còn.

Nếu bạn để ý kỹ, bạn sẽ thấy giữa định nghĩa của “cần” và “muốn” khá giống nhau. Cả hai đều mang cùng một tính chất: “không có là không được.” Nhưng nếu cần phân biệt rạch ròi thì cũng không khó lắm.

Thí dụ: Bạn muốn sống thì bạn cần không khí để thở. Như vậy, không khí đóng vai trò điều kiện hay phương tiện cho cái muốn của bạn. Không có không khí của “cái cần” thì “cái muốn” sống của bạn, cũng không thể thoả mãn được.

Vậy bạn cần gì để kiếm nhiều tiền hơn từ tiệm Nail của bạn?

Nếu nói đến Cần, thì nó có thể lên đến cả trăm, tùy theo môi trường và hoàn cảnh. Nhưng nếu tóm gọn lại, thì bạn chỉ Cần có 4 điều sau đây:

  1. Cần có nhiều khách hàng mới
  2. Cần khách trung thành tiêu xài nhiều tiền hơn cho các dịch vụ
  3. Cần khách hàng trung thành giới thiệu khách hàng mới
  4. Cần một hệ thống hoàn chỉnh

1- Cần Có Nhiều Khách Hàng Mới

Bất cứ một thương nghiệp nào, nếu không có khách hàng thì không thể tồn tại. Thống kê của Bộ Lao Động Mỹ đã đưa ra một con số khiến bạn dễ nản lòng. Theo thống kê, cứ 100 tiệm mở đầu năm, thì có đến 67 tiệm phải đóng cửa trong vòng 5 năm. Còn lại 34 tiệm thì đến 25 tiệm sẽ đóng cửa trong vòng 10 năm.

Nghĩa là, trong 100 tiệm thì có đến 91 tiệm phải đóng cửa trong 10 năm, và chỉ còn lại 9 tiệm. Trong 9 tiệm này, chỉ có 4 tiệm là có thể phát triển thêm, còn lại, thì “sống lây lất qua ngày”. 

Tại sao con số thất bại lại lên cao đến vậy? Nguyên do chính là vì, tất cả các chủ thương nghiệp đều không biết cách làm thế nào để có được nhiều khách hàng.

Vậy làm sao tiệm của bạn có thể kiếm được nhiều khách hàng? Muốn có được nhiều khách hàng, bạn cần phải nắm vững 4 yếu tố sau đây:

  • Địa điểm
  • Biết được giá trị khách hàng
  • Biết được khách hàng của bạn muốn gì và cần gì?
  • Biết làm sao tiếp thị
  1. Địa Điểm

Theo thống kê, 95% các chủ tiệm Nail Việt Nam thường dựa trên 2 tiêu chuẩn sau đây để chọn địa điểm: “Nhất vị trí, nhì cự ly”, mà quên hẳn những yếu tố vô cùng quan trọng khác như: Dân số khu vực đó bao nhiêu? Có bao nhiêu người có thể sử dụng dịch vụ Nail? Lương bổng một năm của họ thế nào? Họ có khả năng trả bao nhiêu? Họ thuộc thành phần nào? Họ muốn và cần gì? v.v… nên cơ hội thành công, kiếm thêm nhiều khách hàng mới, thường trở nên khó khăn hơn.

Vậy tại sao các chủ tiệm Nail Việt Nam lại chỉ dùng “Nhất vị trí, nhì cự ly” mà ít dùng thêm những yếu tố vô cùng quan trọng khác? và ý nghĩa của “Nhất vị trí, nhì cự ly” là gì?

Trước khi trả lời câu hỏi tại sao thì chúng ta thử tìm hiểu ý nghĩa của “Nhất vị trí, nhì cự ly” là gì:

“Nhất vị trí” là địa điểm mở tiệm của bạn phải là nơi thuận tiện trong các khu thương xá, khu chợ sầm uất, có parking ra vào dễ dàng và dễ tìm, dễ thấy. Còn “Nhì cự ly” có nghĩa là khoảng cách từ nhà bạn đến tiệm không quá xa, vì xa quá sẽ khó khăn về việc đi lại, đưa đón thợ, việc hư hao xe cộ, sự rủi ro trên đường đi và về, v.v.

Từ ý nghĩa này, chúng ta có thể trả lời tại sao các chủ tiệm Nail lại chỉ dùng “Nhất vị trí, nhì cự ly” bởi vì, hầu hết các chủ tiệm Nail Việt Nam chỉ có kinh nghiệm và giỏi về nghề Nail, nhưng thiếu hẳn kinh nghiệm về kinh doanh, điều hành và tiếp thị.

Thí dụ như, chọn địa điểm trong các khu thương xá, hay chợ sầm uất, có ưu điểm là tiệm của bạn sẽ có nhiều người biết đến, mà bạn ít phải tốn tiền quảng cáo, tiếp thị. Nhưng các khuyết điểm thì lại quá nhiều:

  • Tiền mướn quá cao thường gấp đôi so với những cơ sở thương mại khác
  • Chịu tiền bảo trì cơ sở thương mại nhiều hơn (CAM: Common Area Maintenance)
  • Tiền thuê tăng hàng năm cao hơn
  • Những điều khoản thuê mướn đòi hỏi, và ngăn cấm nhiều hơn
  • Chủ phố có thể không ký gia hạn hợp đồng thuê mướn, lấy lại địa điểm cho người khác mướn tùy theo môi trường “cung, cầu”
  • Chưa chắc khách hàng qua lại sẵn sàng sử dụng dịch vụ
  • Chi phí thuê mướn nhiều hơn nên khó cạnh tranh về giá cả
  • Kiếm thợ cũng khó hơn, nếu không đông khách, và có giá phục vụ không cao

Nếu bạn là người có kinh nghiệm về quản lý, điều hành, và tiếp thị thì bạn sẽ nghiên cứu thị trường kỹ càng. Sau đó, bạn có thể chọn một địa điểm thích hợp để thuê mướn với giá rẻ hơn, rồi dùng số tiền dư ra (so với mướn chỗ ở thương xá) để đưa ra cách tiếp thị hữu hiệu, lôi kéo khách hàng đến tiệm của bạn.

Giả dụ: bạn mướn tại thương xá 1 cơ sở: 1,500 sqft -$2/sqft/1tháng = $3,000 + $450  ($750) (3% – 5% CAM)= $3,450 – $3,750/1 tháng, thì bạn có thể chọn địa điểm khác, không nằm trong các thương xá với cùng một diện tích: 1,500 sqft – $1/sqft/1tháng= $1,500 + $450 ($750) (3% – 5% CAM) = $1,950 – $2,250/1 tháng.

Có nghĩa là, bạn có thể dùng tối đa $1,500 dư ra (thay vì mướn trong thương xá) để quảng cáo và tiếp thị. Bạn có thể dùng $1,500 để giảm giá, khuyến mãi, hay tặng quà cho khách hàng v.v. để giữ khách hàng. Nếu như bạn không muốn dùng để tiếp thị thì số tiền $1,500 đó sẽ thành tiền dư ra hàng tháng, hay thành tiền lời của bạn.

Cho nên, nếu bạn biết dùng đúng phương pháp chọn địa điểm thì bạn đã có dư khả năng để cạnh tranh với các đối thủ của bạn (quảng cáo, tiếp thị liên tục, giảm giá, tặng quà v.v), mà bạn còn có thể tăng thêm lợi nhuận khi bạn quyết định không dùng đến tiền đó để quảng cáo hay tiếp thị nữa.

Vậy làm thế nào để bạn chọn địa điểm đúng?

Có hai cách:

Thứ nhất: Bạn phải tự nghiên cứu, phân tích xem khu vực tiệm của bạn dân số là bao nhiêu? có bao nhiêu người nữ/nam? độ tuổi của họ là tuổi nào? Họ muốn và cần gì? Lợi tức thu nhập hàng năm của họ là bao nhiêu? Khách hàng của bạn là ai? Mỹ Trắng, Mỹ Đen, Mễ ?

Họ có thể xài bao nhiêu tiền cho dịch vụ Nail của bạn? Bao lâu thì họ có thể sử dụng phục vụ Nail của bạn trong 1 năm? Bạn có bao nhiêu đối thủ trong vòng 1-5 dặm? Có bao nhiêu cơ sở thương mại còn trống đang cho thuê? Hợp đồng thuê/mướn của họ như thế nào? Giá bao nhiêu một sqft? v.v.

Thứ hai: Tìm người môi giới (chuyên viên) địa ốc có kinh nghiệm: chuyên mua, bán, mướn các cơ sở thương mại.

Muốn tìm được một người môi giới có kinh nghiệm và giỏi, bạn phải tìm, phỏng vấn và đòi hỏi người môi giới đại diện cho bạn phải có ít nhất 5 kinh nghiệm sau đây:

  1. Có khả năng nghiên cứu và phân tích địa điểm một cách chính xác
  2. Có khả năng đọc và hiểu các bản hợp đồng
  3. Có khả năng điều chỉnh các điều khoản hợp đồng sao cho có lợi cho cơ sở của bạn
  4. Có khả năng điều đình giá mướn và hợp đồng gia hạn
  5. Có khả năng hướng dẫn và giải thích các hợp đồng cho bạn một cách rõ ràng

Và quan trọng nhất là, không tính tiền khi đại diện cho bạn ký hợp đồng (Nếu có cũng chỉ là vài trăm đô, đây là những công ty lớn, họ sẽ không chịu làm miễn phí cho bạn).

Nhiều chủ tiệm Nail đã hiểu lầm rằng, khi dùng đến những người môi giới đại diện cho bạn, thì bạn sẽ phải tốn rất nhiều tiền. Nhưng sự thật, bạn sẽ không tốn một đồng nào cả.

Vì sao? Vì những người môi giới đại diện cho bạn sẽ chia tiền hoa hồng với người môi giới đại diện cho chủ phố. Nên chủ phố sẽ không phải trả thêm tiền cho người đại diện cho bạn. Do đó, sẽ không có việc người chủ phố sẽ tăng tiền mướn chỗ của bạn khi bạn có người môi giới đại diện cho bạn.

Có một số chủ tiệm Nail lại nghĩ rằng, nếu tự mình đi thương lượng thì chủ phố vì không phải trả tiền cho người môi giới sẽ giảm tiền mướn cho mình.

Sự thật thì không phải vậy.Vì khi bạn đi thương lượng, bạn sẽ gặp người môi giới đại diện cho người chủ phố với những bản hợp đồng soạn sẵn. Họ có nhiều kinh nghiệm về thị trường và luật pháp hơn bạn, nên họ được mướn để “ép” bạn, tuân theo những điều khoản hợp đồng mà quyền lợi về cho chủ phố sẽ nhiều hơn bạn.

Đó là chưa kể, họ được đào tạo rất kỹ về khoa tâm lý. Họ có thể nhận ra những “cảm xúc ưa thích” của bạn để “ép” bạn đến cùng. Muốn đối phó với những người môi giới đó, cách hay nhất vẫn là để cho những người cùng nghành với họ, giúp cho bạn là tốt nhất.

Còn có một số các bạn chủ Nail khác, vì sợ tốn tiền, hay vì thiếu kinh nghiệm thì đã liên lạc trực tiếp với người môi giới của chủ phố, nhờ đại diện cho mình. Đây là một sai lầm nghiêm trọng, vì người môi giới (đăng số phone trên những bảng cho mướn) đã được người chủ phố thuê họ làm dịch vụ cho mướn, nên họ sẽ phải bảo vệ quyền lợi của chủ phố hơn là bảo vệ quyền lợi cho bạn. Cho nên, cuối cùng, sự thiệt thòi cũng sẽ về phần của bạn.

Lựa chọn được người môi giới đại diện cho bạn là điều vô cùng quan trọng, vì khi ký một hợp đồng thuê mướn mà không đúng cách thì bạn sẽ có thể mất đi cơ sở mà bạn đã phải dầy công xây dựng. Không những tốn kém vì phải xây dựng lại một tiệm mới từ đầu, mà nguy hiểm nhất, chính là bạn sẽ mất đi lợi tức, khách hàng, và nhân viên.

Có một người quen khác của chúng tôi, anh/chị đã bỏ ra 3 năm để xây dựng một tiệm Nail rất thành công (đông khách, đông thợ).

Khi khởi nghiệp, vì đặt hết tâm trí vào việc xây dựng tiệm Nail, nên anh/chị đã “coi thường” việc ký kết hợp đồng. Khi hợp đồng thuê mướn hết hạn, chủ phố nhất định lấy lại, vì có người khác mướn giá cao hơn.

Anh/chị lúc đó mới “té ngửa” đi nhờ luật sư xem lại hợp đồng. Vì không rõ luật, những điều khoản trong hợp đồng đều cho quyền người chủ phố thu hồi hợp pháp với sự ký tên đồng ý của anh/chị. Luật sư cũng đành chịu.

Tốn thêm một mớ tiền cho luật sư, cuối cùng, anh/chị cũng đành phải chấp nhận, dọn qua chỗ khác. Vừa ức, vừa tức, vừa tốn kém thêm tiền xây dựng cơ sở mới, lại mất đi một số lượng khách hàng. Cuối cùng, qua khu mới quá ế ẩm, anh/chị đó đành phải bán địa điểm mới, và chấp nhận thua lỗ nặng nề.

Chỉ vì thiếu kinh nghiệm khi ký hợp đồng, mà đang từ một chủ nhân có cơ sở thành công lại trở thành tay trắng. Bài học này, nhắc nhở các bạn làm chủ Nail, phải hết sức thận trọng, nếu không, bao nhiêu “mồ hôi và nước mắt”, tiền bạc, công sức đổ vào xây dựng tiệm Nail của bạn, cuối cùng lại là tay không.

Nếu như bạn cảm thấy tìm một người môi giới có kinh nghiệm quá khó, hay không tìm được, hoặc bạn rất tự tin vào chính bạn, và muốn tự làm lấy một mình, thì ít nhất 10 điều khoản sau đây trong bản hợp đồng, trước khi ký, bạn cần phải hết sức để ý:

  1. Mục đích sử dụng (purpose of Premise)
  2. Tỷ lệ phần trăm tiền phải trả thêm lợi tức cho chủ phố (CAM)
  3. Quyền điều chỉnh tiện nghi
  4. Quyền hạn và phạm vi giới hạn của việc tân trang tiệm hay mua bán tiệm về sau
  5. Quyền hạn đặt bảng quảng cáo cho tiệm tại địa điểm kinh doanh và trong khu vực lân cận
  6. Thời hạn hiệu lực và chấm dứt hiệu lực của hợp đồng thuê mướn địa điểm.
  7. Mức phạt (Penalty): tỉ lệ phần trăm và các điều khoản ấn định về mức phạt.
  8. Tiền phạt phải trả sau thời gian hạn định (Late Payment Penalty).
  9. Điều khoản tái ký hợp đồng (Renewal option)
  10. Những điều khoản có liên quan về bảo quản tiệm, kinh doanh an toàn tại tiệm và tiền bảo hiểm của tiệm (Insurance required of tenant)
  1. Biết Được Giá Trị Khách Hàng

Biết được giá trị khách hàng đóng một vai trò quan trọng, không những được dùng để đưa ra những sách lược, chiến thuật tiếp thị hữu hiệu, nhằm giữ gìn, và phát triển thêm khách hàng mới và cũ, mà còn được dùng để đưa ra giá cả hợp lý; tuyển chọn nhân viên; trả lương cho nhân viên sao cho hợp lý; biết được lợi tức thu nhập, và còn có thể tăng thêm lợi nhuận.

Cho nên, khi bạn “Biết được giá trị của khách hàng” thì bạn có thể biết được mục đích của bạn có thành công hay không? Công thức tính giá trị khách hàng cũng rất đơn giản như sau:

Chi Tiết Bảng 1 Bảng 2
Số tiền khách hàng xài trong 1 tháng $40/1 giờ $50/1 giờ
Số tiền khách hàng xài trong 12 tháng $40×12=$480 $50×12=$600
Tổng số tiền bạn kiếm muốn 1 năm $480,000 $600,000
Tổng số khách hàng trung thành cần có $480,000/$480=

1000 khách

1000
Số giờ khách hàng phục vụ 1 năm 1000 x 12= 12,000 giờ 12,000
Số giờ nhân viên làm trong 1 năm 50 giờ x 50 tuần=2,500 giờ 2,500 giờ
Số nhân viên cần có 12,000/2,500 giờ = 5 thợ     5 thợ
Số tiền trả cho nhân viên $800 x 50 tuần x5 thợ = $200,000 $200,000
Số tiền linh tinh (Thuê+Điện/Nước) $100,000 $100,000
Số tiền lợi nhuận $480,000-($200,000 +100,000=$180,000 $300,000

Trong Bảng 1, nếu 1 người khách có khả năng xài $40 trong 1 tháng, và tiếp tục xài $40 mỗi tháng liên tục trong 1 năm, thì giá trị của mỗi người khách hàng của bạn là $480.

Bạn có thể dùng con số này để đưa ra những sách lược, hoặc chiến thuật khác nhau để có thể giữ khách ở tiệm của bạn lâu dài hơn, hay biến họ trở nên khách trung thành với tiệm của bạn như: làm 6 tháng thì tháng thứ 7 free, hay mua những tặng phẩm khác để tặng cho khách, hoặc cho 15% discount mỗi lần phục vụ, hoặc dẫn bạn bè đến được giảm ½ giá v.v. tùy theo bạn biết khách hàng của bạn hứng thú chiến thuật nào.

Bạn làm sao phải khiến cho khách của bạn phải luôn ngạc nhiên với những chiến thuật của bạn thì bạn sẽ thành công trong việc giữ khách hàng của bạn lâu dài.

Từ việc biết được giá trị của khách hàng, và mục đích của bạn muốn kiếm bao nhiêu tiền trong 1 năm, bạn có thể tính ra bạn cần có bao nhiêu khách hàng để đạt được mục đích của bạn.

Khi tính ra bao nhiêu khách hàng bạn cần thì bạn cũng tính ra bạn cần bao nhiêu thời gian để phục vụ cho tất cả khách hàng của bạn. Tính được ra bao nhiêu thời gian cần có để phục vụ cho khách hàng, cho phép bạn tính được có bao nhiêu nhân viên bạn cần phải có, và họ sẽ phải làm bao nhiêu giờ trong 1 tuần.

Có được số nhân viên, và số giờ của nhân viên có thể làm trong 1 tuần/1 năm, bạn có thể biết được bạn phải trả bao nhiêu lương cho thợ.

Biết được số tiền phải trả ra cho thợ mỗi tuần sẽ giúp bạn biết được tổng số tiền bạn phải chi trả cho nhân viên là bao nhiêu? Có được số tiền trả cho nhân viên cộng thêm những tiền chi phí khác, bạn sẽ biết 1 năm bạn phải chi ra thế nào.

Muốn biết bạn sẽ có lợi tức thế nào thì dùng số tiền thu được từ khách trừ đi số tiền chi phí. Như vậy, nếu một tiệm Nail có 5 người thợ lương $40,000/1 năm và có 1,000 khách hàng trung thành trong 1 năm thì có thể kiếm khoảng  ít nhất $150,000 – $200,000/1 năm.

Qua đến Bảng 2,  bạn sẽ thấy, cũng có bao nhiêu khách hàng, cũng cần có bao nhiêu nhân viên, nhưng khác biệt ở đây, là giá phục vụ mỗi tháng thay vì $40, nay thành $50. Khác biệt $10 cho một lần phục vụ có thể tăng lợi tức hằng năm lên đến 67% =$120,000.

Hay đơn giản, bạn cứ tăng giá phục vụ lên $1 thì lợi tức được tăng thêm 6.7%. Ngược lại, nếu bạn giảm giá phục vụ của bạn xuống $1 thì bạn cũng giảm lợi tức của bạn xuống 6.7%.

Nhờ cách tính này, mà bạn có thể biết bạn cần phải có bao nhiêu khách hàng để tồn tại. Thay vì, bạn cứ lo giảm giá để cạnh tranh, và phải làm thật nhiều khách với giá hạ, bạn có thể tập trung vào việc kiếm khách trung thành, và có khả năng trả tiền đúng, hay hơn, theo giá của bạn qui định. Người môi giới giỏi của bạn có thể  giúp cho bạn biết, khu vực nào có những loại khách mà tiệm bạn đang cần, và bạn cần phải biết tiếp thị thế nào, để khách hàng của bạn có thể đến tiệm của bạn, và tiêu xài đúng giá như bạn muốn.

Thống kê còn đưa ra một con số đáng kinh ngạc khác, là cứ 1 người thì họ có ảnh hưởng, liên hệ và tác động trực tiếp, hoặc gián tiếp đến 250 người. Nếu bạn biết phục vụ đúng cách, biết cách tiếp thị hữu hiệu thì đôi khi chỉ cần mươi, mười lăm người khách trung thành cũng khiến cho bạn làm việc “mệt xỉu.”

c,d. Biết được khách hàng của bạn Muốn gì và Cần gì? Và Tiếp Thị ra sao?

Nếu người môi giới của bạn giỏi thì họ có thể giúp cho bạn biết được lợi tức thu nhập khách hàng của bạn là bao nhiêu? Và họ đang cư ngụ trong khu vực nào? Thông thường, mỗi khu vực đều luôn có 3 loại khách khác nhau, bất kể là khu vực nào:

  • Khách Thượng Lưu
  • Khách Trung Lưu
  • Khách Bình Dân

Khách Thượng Lưu Muốn gì và Cần gì?

Vì là khách thương lưu, cho nên, cái muốn của họ chính là “Xác Định Đẳng Cấp của họ”. Vì vậy, cái cần của khách thượng lưu hoàn toàn không giống như khách hàng trung lưu hay bình dân. Vậy họ cần gì?

  1. Dịch vụ phải ở nơi thật an ninh và an toàn (càng giầu càng sợ chết) (20%)
  2. Dịch vụ phải có nội, ngoại thất, trang trí cao cấp (xác định đẳng cấp) (20%)
  3. Thiết bị phải thật sạch sẽ, vệ sinh (20%)
  4. Phong cách phục vụ phải chuyên nghiệp (20%)
  5. Phẩm chất cao cấp có bảo đảm an toàn (20%)

Nếu tiệm của bạn chọn loại khách thượng lưu để phục vụ, chắc chắn, bạn phải chuẩn bị một số tiền đầu tư khá lớn.

Ngoài vấn đề về tài chánh ra, bạn còn phải chuẩn bị tinh thần là số lượng khách thượng lưu không nhiều. Tuy không nhiều như khách trung lưu hay bình dân, nhưng đối với khách thượng lưu thì giá cả không bao giờ thành vấn đề với họ.

Họ có thể trả giá gấp 4 đến 5 lần hơn giá bình thường cho sự phục vụ, và họ thường có thể sử dụng nhiều lần trong một tháng. Cho nên, tuy họ ít, nhưng họ lại xài nhiều tiền hơn, và xài nhiều lần hơn.

Dù số lượng hơi ít, nhưng lợi tức của bạn có khi còn nhiều hơn cả các tiệm chuyên phục vụ cho khách trung lưu. Ngoài ra, vì ít có tiệm phục vụ cho khách thượng lưu, cho nên, bạn ít bị cạnh tranh hơn.

Thêm vào đó, vì có quá ít tiệm phục vụ cho khách thượng lưu, nên khi đã chọn tiệm của bạn thì họ sẽ trung thành với bạn, và sẵn sằng giới thiệu những bạn bè của họ đến với dịch vụ của bạn.

Điều tiếp thị cấm kỵ: Đối với khách thượng lưu mà bạn cứ dùng “chiêu”: đưa ra giá hạ, hay dùng chiến thuật giảm giá, coupon thì bạn sẽ “sớm phải đóng cửa”. Muốn tiếp thị với khách thượng lưu thì chỉ cần chú trọng đến “đẳng cấp mà họ muốn.” là đủ.

 Khách Trung Lưu Muốn và Cần gì?

Khác với khách thương lưu, khách trung lưu lại muốn đạt được “Giá Trị Cao Nhất.” Vậy khách trung lưu cần gì:

  • Phong cách phục vụ (40%)
  • Phẩm chất phục vụ (30%)
  • Trang trí, Vệ sinh (20%)
  • Giá cả (10%)

Đối với khách trung lưu, quan niệm của họ rất rõ ràng, mỗi một đồng của họ bỏ ra thì họ phải nhận lại một giá trị tương xứng, hoặc hơn số tiền của họ bỏ ra cho dịch vụ, hay sản phẩm mà họ tiêu dùng. Cho nên, những cái cần của họ lại không giống như cái cần của khách thượng lưu.

40% trong bảng giá trị của họ sẽ thuộc về phong cách phục vụ. 30% cho phẩm chất phục vụ; 20% cho trang trí, vệ sinh; và 10% cho giá cả.

Khi phong cách phục vụ của bạn đạt đủ tiêu chuẩn, cộng thêm phẩm chất phục vụ tốt, với trang trí nhẹ nhàng, vệ sinh sạch sẽ (90%), thì phần giá cả không còn là vấn đề đối với họ. Không ít khách trung lưu còn cảm thấy giá trị của họ nhận được nhiều hơn. Đó cũng chính là lý do, tại sao họ sẵn sàng cho tiền tip hậu hĩnh hơn, gọi là “đền bù”.

Ngược lại nếu phong cách phục vụ của tiệm bạn không đạt đủ tiêu chuẩn, thí dụ chỉ được 10% thay vì 40%, thì 30% trong phong cách phục vụ đó, được chuyển xuống rồi cộng vào phần giá cả, khiến phần giá cả tăng thành 40%. Khi phần giá cả đã lên đến 40%, thì dù tiệm bạn có làm đẹp, trang tri cao cấp, vệ sinh sạch sẽ, thì cũng chỉ chiếm được 60%.

Khi chỉ số phần trăm tụt dưới 75%, thì khách trung lưu sẽ dùng giá cả để thẩm định giá trị mà họ nhận được từ tiệm bạn có xứng đáng hay không?

Nếu số phầm trăm giá cả cao thì họ cho rằng tiệm của bạn giá cả phục vụ quá mắc, và họ sẽ đi tìm tiệm khác.

Không ít, những khách hàng trung lưu đã từng chê bai đủ điều về phong cách phục vụ của những tiệm Nail với giá hạ. Ngược lại, họ lại không tiếc lời khen thưởng, và chấp nhận giá của một tiệm khác cao hơn, vì phong cách phục vụ tốt hơn.

Cho nên, bạn đừng nghĩ rằng, vì cạnh tranh, bạn cứ xuống giá là bạn sẽ có khách trung lưu trung thành với bạn. Chiến thuật đó, chỉ có thể áp dụng hữu hiệu cho khách bình dân mà thôi.

Muốn có khách trung lưu trung thành với bạn thì bạn chỉ cần tập trung vào phong cách và phẩm chất phục vụ là đủ. Bởi vì với phong cách phục vụ khách hàng tốt, sẽ có những tác động tích cực như sau:

  • Có thể giữ được khách hàng lâu dài, và khách hàng của bạn sẽ giới thiệu tiệm của bạn với những người khác
  • Khách hàng sẽ hứng thú vào sự phục vụ của tiệm bạn, sẽ sử dụng sự phục vụ của bạn nhiều hơn, hay sẽ mua sản phẩm nhiều hơn
  • Bạn sẽ nổi bật so với đối thủ cạnh tranh của bạn
  • Làm cho nơi làm việc thú vị hơn để giữ nhân viên giỏi ở lại
  • Tạo ra quảng cáo miệng nhanh nhất, đỡ tốn kém, và dễ dàng gia tăng lợi nhuận

Gần đây, theo sự nghiên cứu và khảo sát của công ty Katzenbach, họ đã đưa ra những con số phần trăm khá ấn tượng như sau:

  • 94% người (được phỏng vấn) đều cho rằng: phục vụ khách hàng tốt là quan trọng với họ.
  • 82% người nói rằng: họ sẽ chi tiêu nhiều tiền hơn tại các cửa hàng hay dịch vụ mà nơi đó, họ nhận được sự phục vụ khách hàng tốt hơn.
  • 80% người nói rằng: trong vài năm qua, họ đã không nhìn thấy bất kỳ sự cải thiện về sự phục vụ khách hàng nào, ngược lại, hơn một nửa của nhóm này cho biết, điều này đã trở nên tệ hơn trước.
  • 62% người cho rằng: nếu họ đã có một kinh nghiệm xấu với một dịch vụ hay món hàng nào đó, họ sẽ không sử dụng người phục vụ đó, hay mua từ cửa hàng đó, thêm một lần nữa.

Cho nên, phục vụ khách hàng tốt là điều quan trọng đầu tiên và quan trọng nhất, bởi vì nó giúp cho tiệm của bạn tạo ra lòng trung thành của khách hàng, những người sẵn sàng chịu trả tiền nhiều hơn, mà còn tạo ra các mối quan hệ khách hàng độc đáo, bền vững, khiến cho các đối thủ cạnh tranh của bạn cũng sẽ gặp khó khăn hơn nếu họ muốn lôi kéo khách hàng của bạn.

Vì vậy, đối với khách trung lưu, bạn đừng đem những giảm giá, coupon ra nhữ họ. Bạn chỉ có 30% cơ hội thành công khi kéo họ đến với tiệm của bạn lần đầu mà thôi.

Nhưng nếu phong cách phục vụ của tiệm bạn quá tệ, thì chắc chắn bạn sẽ không bao giờ gặp lại họ lần thứ hai.

Không những bạn vừa tốn tiền quảng cáo, mất đi lợi tức, mà bạn còn mất luôn một hoặc nhiều khách khác quen biết với họ, vĩnh viễn. Cách hay nhất để tiếp thị với họ là: hãy nói với họ về phong cách và phẩm chất phục vụ của tiệm bạn.

Khách Bình Dân Muốn gì và Cần gì?

Khách bình dân chỉ muốn duy nhất có một điều là “Giá Hạ,” và họ đòi hỏi những điều cần có sau đây:

  • Giá cả (50%)
  • Phẩm chất phục vụ (20%)
  • Phong cách phục vụ (20%)
  • Trang trí Vệ Sinh (10%)

Đối với khách bình dân, giá cả đóng vai trò quyết định chính cho việc chọn lựa phục vụ của họ. Nếu tiệm của bạn dù có làm tốt, phục vụ tốt, trang trí dễ coi, vệ sinh sạch sẽ thì cũng chỉ mới chiếm được 50%, còn 50% thuộc về giá cả.

Nếu giá của bạn lại mắc hơn đối thủ của bạn thì khách bình dân sẽ sẵn sàng bỏ bạn, và chọn đối thủ của bạn. Dù rằng, phong cách và tiêu chuẩn phục vụ của họ có thể kém hơn so với tiệm của bạn rất nhiều.

Khi bạn đã quyết định, tiệm Nail của bạn chuyên phục vụ cho khách bình dân thì bạn cũng nên chuẩn bị tinh thần để chấp nhận sự “phản bội” của khách bình dân.

Họ sẽ không bao giờ trung thành với tiệm của bạn, dù cho bạn có đối xử với họ tốt bao nhiêu, cũng bằng thừa. Đừng bao giờ bạn đặt quá nhiều niềm tin vào sự trung thành của khách bình dân, mà có ngày, bạn rơi vào “đại thất vọng”.

Không phải khách bình dân là người xấu, nhưng vì tài chánh của họ có giới hạn, nhưng lại thích “bằng chị bằng em”, nên những gì họ có thể làm là tiết kiệm tối đa.

Không cần phải nói, khi bạn chấp nhận phục vụ cho khách bình dân thì bạn cũng phải chấp nhận luôn: lợi tức thu vào của bạn sẽ ít đi; bạn khó kiếm nhân viên hơn; phải phục vụ nhiều khách hơn; phải đối đầu với nhiều đối thủ cạnh tranh hơn v.v.

Nhưng điều làm cho bạn nhức đầu nhất, đó chính là thái độ kỳ kèo, cãi cọ, than phiền, và nói xấu của khách bình dân sẽ khiến cho bạn thêm mệt mỏi, và danh tiếng tiệm của bạn cũng bị ảnh hưởng khá nhiều.

Cho nên, nếu bạn chưa có một tinh thần “thép” thì bạn đừng nên chọn lựa phục vụ khách bình dân. Trừ khi bạn muốn “dẹp” tiệm sớm. Dĩ nhiên, cách tiếp thị hay nhất với khách bình dân đó chính là “Giá Hạ”.

2- Cần Khách Trung Thành Tiêu Xài Nhiều Tiền Hơn Cho Các Dịch Vụ

Các nhà cố vấn thương nghiệp đều cho rằng, khách hàng trung thành chính là tài sản quý giá của tất cả cơ sở thương mại, và hơn 95% các nhà doanh nghiệp cũng đồng tình như vậy. Vì sao? Bởi vì:

  • Khách hàng trung thành là những khách hàng trở lại (repeat). (mang nhiều lợi tức ổn định cho bạn)
  • Khách hàng trung thành sẽ sẵn sàng sử dụng dịch vụ mới và mua nhiều sản phẩm hơn. (Vì họ “biết” bạn và “tin” bạn, nên họ dễ dàng sử dụng các dịch vụ hay sản phẩm mới từ tiệm của bạn hơn so với khách hàng mới.)
  • Khách hàng trung thành sẵn sàng giới thiệu khách mới (khi khách hàng có sự tin tưởng vào tiệm của bạn thì họ sẵn sàng giới thiệu thân nhân, họ hàng, bạn bè, đồng nghiệp của họ cho bạn.)

Vì vậy, xây dựng niềm tin với phong cách phục vụ ưu đẳng, sẽ giúp bạn biến những người khách “vãng lai” trở thành khách “thường trực”. Sau đây là 6 bước căn bản, giúp bạn biến khách hàng trở nên trung thành với tiệm của bạn:

1-Tạo ra một ấn tượng tích cực đầu tiên

Lòng trung thành của khách, bắt đầu bằng một ấn tượng đầu tiên của họ đối với phong cách phục vụ của bạn. Nếu khách hàng tiềm năng (prospect) của bạn, có một phản ứng tiêu cực về bạn thì phản ứng đó sẽ tác động đến tất cả các tương tác trong tương lai. Vì vậy, bạn phải tạo được một ấn tượng tích cực đầu tiên với khách của bạn, bằng sự chuyên nghiệp và lịch sự.

2-Nghe

Nghe là một nghệ thuật. Có hai phương pháp nghe: Nghe bằng Âm và Nghe bằng Tâm. Nghe bằng Âm là nghe những âm thanh phát ra từ người đối diện. Nghe bằng Tâm là nghe những khát khao, mong muốn từ người đối diện.

Giả dụ: có một người khách muốn làm một bộ móng tay như thế này…Nếu bạn nghe bằng Âm, thì bạn thấy là nó không được đẹp cho lắm.

Bạn lập tức chê bai, hay không nói gì, nhưng khi làm, bạn lại làm theo ý bạn. Khách không những không hài lòng, mà còn thấy bị “sỉ nhục”, nên họ sẽ phàn nàn, trách mọc hay nặng hơn là cãi vã và chửi rủa, khiến cho bạn bực mình, cãi lại họ, và cuối cùng, bạn mất đi người khách đó vĩnh viễn.

Ngược lại, nghe bằng Tâm thì bạn sẽ cư xử khác. Câu trả lời “thông minh” sẽ khiến cho khách của bạn, không những họ thấy họ được tôn trọng, mà còn thấy được tính chuyên nghiệp của bạn, khiến cho họ nể phục, và tin tưởng vào tiệm của bạn nhiều hơn. Vậy câu trả lời thông minh đó là gì? Cũng dễ phải không bạn.

“Thưa bà/cô, tôi hoàn toàn đồng ý với bà/cô là làm bộ móng tay như bà/cô nghĩ thì đẹp, nhưng nếu bà/cô làm bộ móng tay như thế này … này, thì bà/cô sẽ có một bộ móng tay mà nhiều người khác sẽ ganh tỵ. Không biết bà/cô có muốn làm như thế hay không?”

Nếu họ muốn thì họ càng nể phục bạn, vì bạn rất chuyên nghiệp. Nếu như họ không muốn thì bạn làm theo ý họ, tạo cho họ cảm giác: bạn tôn trọng họ.

Khi được thoả mãn những gì họ muốn, tuy không đồng ý làm theo cách của bạn, nhưng ít nhiều gì, họ cũng nể phục bạn, vì bạn có kinh nghiệm của một chuyên gia.

3-Tìm Ra Những Gì Quan Trọng Nhất

Quan trọng nhất của khách hàng, cuối cùng cũng chỉ là cái muốn và cái cần của họ, nhưng ít khi họ nói ra, trừ khi bạn hỏi đến. Cho nên, thay vì cứ “đoán mò” và hay “đoán sai” thì tại sao bạn lại không hỏi khách hàng của bạn một cách trực tiếp. Và đây là câu “thần chú” giúp cho bạn mở tung 2 cánh cửa muốn và cần của khách hàng.

“Madam, what can I do for you to satisfy your want today?” (Thưa bà/cô, chúng tôi có thể làm gì để Thỏa Mãn Mong Muốn của bà hôm nay?

Thay vì, What can I do for you today? Or What do you want today?

Chữ Madam, nếu có thể thay vào tên của người khách thì thật tuyệt vời

Hay,

“Madam, what’re your sugestions for our salon to do the best service for you?”

(Thưa bà/cô, theo ý bà/cô thì tiệm của chúng tôi nên thay đổi thế nào để có cách phục vụ tốt nhất cho bà/cô)

4- Đáp Ứng Kịp Thời

Bất cứ khi nào, một người khách nào đó gọi điện thoại đến cho bạn thì đừng nên để chuông reng quá lâu. Qua 3 tiếng reng là bạn phải trả lời. Tại sao? 

Bởi vì, điều đó nói lên sự quan tâm của bạn đối với khách hàng của bạn.

Sống ở trên đời, không ai mà không cần đến sự quan tâm của người khác. Khi bạn cho khách hàng của bạn thấy được sự quan tâm cuả bạn thì bạn đã chiếm được tình cảm của họ rồi vậy. Tương tự, khi bạn trả lời email, đừng để trễ hơn 12 tiếng. Khách walk-in của bạn luôn cần sự đáp ứng kịp thời, dù bận cách mấy, bạn cũng đừng nên để cho họ đứng chờ lâu hơn 5 phút.

5- Giải quyết khiếu nại một cách nhanh chóng  

Chắc chắn, nếu bạn làm việc với một ai đó lâu dài thì bạn cũng sẽ phải đối mặt với các vấn đề và trở ngại. Bạn phải biết cách giải quyết những vấn đề đó một cách nhanh chóng và dịu dàng.

Khi một người khách phàn nàn về một điều gì đó trong công việc phục vụ của bạn, thì bạn đừng cho họ là sai, và tìm cách biện minh, lý giải cho việc làm của bạn.

Cách hay nhất là bạn hãy đồng ý với họ trước. Bởi vì, khi họ phàn nàn, họ luôn luôn nghĩ là họ đúng. Nếu bạn không đồng ý là họ đúng thì họ sẽ cãi lý đến cùng.

Cho nên, muốn chấm dứt cơn “thịnh nộ” đang kéo tới của họ thì bạn phải đồng ý với họ trước. Rồi khi họ “tịt ngòi” thì bạn mới có thể “phân trần”. Thí dụ:

“Thưa bà/cô, nếu tôi là bà/cô, tôi cũng sẽ giận như vậy, mà có khi, tôi còn giận hơn thế nữa cơ. Nếu bà/cô có thể cho tôi 5 phút, cả hai chúng ta cùng bình tỉnh, ngồi xuống và xin bà/cô chỉ cho tôi biết, tôi phải làm như thế nào để bà/cô có thể hài lòng, và tiếp tục sử dụng phục vụ của chúng tôi. Chúng tôi thành thật cám ơn bà/cô rất nhiều”.

Nếu bạn đã biết giá trị khách hàng là bao nhiêu thì đây là cơ hội cho bạn giữ lại người khách này lâu dài. Nếu họ là khách mới, họ cũng có dịp thưởng thức phong cách phục vụ về tiệm của bạn.

6-Tìm Hiểu Lý Do Tại Sao Khách Hàng Không Dùng Phục Vụ Của Tiệm Bạn

Nếu bạn có khách hàng trong quá khứ, đã không còn sử dụng dịch vụ của bạn, hãy tìm hiểu lý do tại sao. Nhiều khách hàng sẽ không tìm tiệm khác, chỉ vì giá cả (trừ khách bình dân). Thông thường, họ chuyển đổi, bởi vì họ không hài lòng với dịch vụ của bạn, hoặc không cảm thấy dịch vụ của bạn có giá trị tương xứng với số tiền của họ bỏ ra. Bạn hãy thử dùng câu này xem sao.

“Thưa bà/cô, đã lâu lắm không thấy bà/cô trở lại tiệm của chúng tôi. Chúng tôi biết, có thể chúng tôi đã làm một điều gì đó không đúng ý bà/cô, khiến bà/cô không vui, và hiểu lầm về chúng tôi chăng? Tôi điện thoại đến cho bà/cô chỉ xin có hai điều:

Điều thứ nhất: bà/cô có thể vui lòng chỉ ra cho chúng tôi biết, chúng tôi đã phạm phải sai lầm gì, mà mất đi lòng tin cậy của bà/cô đối với chúng tôi.

Điều thứ hai: Nếu chúng tôi sẽ sửa đổi theo cách bà/cô đã chỉ dậy, thì bà/cô có thể trở lại tiệm của chúng tôi không? Nếu như không, thì bà/cô có vui lòng giới thiệu bạn bè hay đồng nghiệp của bà/cô đến tiệm chúng tôi không? Chúng tôi vô cùng biết ơn bà/cô đã tận tình chỉ giáo và giúp đỡ. Nếu bà/ cô cho phép, chúng tôi xin gởi đến bà/cô một món quà để bầy tỏ lòng biết ơn của chúng tôi.

Bạn nên nhớ: Lòng trung thành của khách hàng thường thay đổi theo thời gian, và dựa trên cách khách hàng có hài lòng với sản phẩm và dịch vụ của bạn hay không.

Đừng quá ỷ y là khách trung thành của bạn sẽ trung thành mãi mãi với bạn mà lơ là phong cách phục vụ. Hãy luôn quan sát, và chịu khó thay đổi phong cách phục vụ của bạn, sao cho thích ứng với những cái muốn và cần của khách hàng. Cách hay nhất, vẫn là cung cấp các giải pháp chất lượng cao, và dịch vụ phục vụ khách hàng tuyệt vời. Chắc chắn, bạn sẽ có được nhiều khách hàng trung thành hơn nữa.

Khi bạn đã có khách trung thành rồi, và bạn muốn gia tăng thêm lợi tức, thì ngoài phần khách hàng trở lại thường xuyên đem đến cho bạn tài chính ổn định, bạn còn có thể ứng dụng 3 phương pháp sau đây:

  • Add on Sell (Bán Thêm Dịch Vụ)
  • Upsell (Bán Nâng cấp Dịch Vụ)
  • Cross Sell (Bán Dịch Vụ hay Các Sản Phẩm Khác)

3- Cần Khách Hàng Trung Thành Giới Thiệu Khách Hàng Mới

Phần đông các chủ tiệm Nail Việt Nam, thường ngại và ít khi sử dụng phương pháp “giới thiệu-Referral”.

Thống kê đưa ra rằng, muốn có được một người khách mới thì khó khăn có thể tăng lên từ 5 đến 7 lần so với khách cũ.

Nguyên do cũng dễ hiểu, bởi vì, người khách mới hoàn toàn xa lạ với tiệm của bạn, cho nên, họ chưa biết gì, nên cũng sẽ không biết thích gì từ tiệm của bạn. Vì thế, họ khó lòng có thể tin tưởng vào tiệm của bạn.

Đó cũng là lý do, không ít các chủ tiệm Nail, khi vắng khách thì quăng một mớ tiền ra quảng cáo để kéo thêm khách mới. Phần lớn thì tốn kém rất nhiều, mà khách mới cũng chẳng được là bao nhiêu. Cuối cùng, tiệm vẫn vắng khách. Đây là một câu chuyện điển hình:

Hỏi: Lúc này anh/chị làm ăn ra sao rồi?

 Đáp: Ế quá, dù đã quảng cáo nhưng cũng không có bao nhiêu khách.

Hỏi: Vậy anh/chị tốn bao nhiêu tiền quảng cáo?

Đáp: $750/ 1 tháng, mà chỉ có được khoảng 10 người khách thôi.

Hỏi: Như vậy, mỗi người khách của anh/chị là $75. Vậy làm sao anh/chị lấy lại vốn?

Đáp: Thì vậy mới khổ, “mất cả chì lẫn chài”. Trong 10 người thì chỉ còn có một người còn ở lại. Không biết bao giờ “nó” đi nữa. Thiệt khổ ghê.

Ngoài ra, một số chủ tiệm Nail khác cũng dùng hình thức quảng cáo “20% discount” để kéo khách. Các bạn chủ tiệm đó nghĩ là: họ có thể kiếm được nhiều khách, và tiền họ bỏ ra quảng cáo có giá trị. Nhưng sự thật khi tính toán lại thì …

Hỏi: Anh/chị tốn hết bao nhiêu tiền quảng cáo 1 tháng?

Đáp: $900

Hỏi: Vậy anh/chị có được bao nhiêu khách hàng mới?

Đáp: Khoảng 30

Hỏi: Vậy, vị chi, mỗi người khách của anh/chị trị giá $30, và trong 30 người đó họ dùng 20% discount cho dịch vụ nào?

Đáp: Full set khoảng $25.

Hỏi: 20% disount của $25 là $5, vậy là một người khách của anh/chị trị giá lên $35, mà anh/chị chỉ thu về có $20. Tổng cộng 30 người khách thì anh/chị lỗ $450 cho lần đầu tiên. Vậy hiện giờ anh/chị còn bao nhiêu người khách?

Đáp: Khoảng 3 người.

Hai dẫn chứng sự thật trên đây, cho thấy, tìm một khách mới thì vừa tốn kém, mà cũng không dễ dàng. Như phần trên chúng tôi đã phân tích: giảm giá chỉ thích hợp cho khách bình dân nhiều hơn. Và tính chất của khách bình dân vốn dĩ không trung thành.

Cho nên, nếu bạn không cẩn thận trong những chương trình quảng cáo, và bạn cũng không biết dùng “ngôn ngữ” của quảng cáo thì bạn chỉ có từ “lỗ nhẹ” cho tới “lỗ nặng” mà thôi.

Muốn tiết kiệm những tiền quảng cáo không đúng cách, và tạo ra lợi nhuận thì cách hay nhất là, bạn dùng số tiền quảng cáo để kiếm khách mới đó, đem chia đều cho khách trung thành của bạn.

Đôi khi nghĩ cũng bất công, mỗi người khách trung thành của bạn là một viên gạch vững chắc bảo vệ “giang san” của bạn thì bạn cứ coi họ như “cỏ rác”. Ngược lại, những “cục bùn, phấn vôi” trong xó xỉnh thì lại được hưởng ân huệ tôn sùng.

Hãy tạo ra những “kinh ngạc” cho khách trung thành của bạn, rồi bạn khích thích họ giới thiệu những bạn bè, đồng nghiệp, thân nhân cho bạn. Có hai điều “cực lợi” mà bạn có được từ giới thiệu của họ:

Những bạn bè của họ đã tin tưởng họ, nên họ cũng tin tưởng vào tiệm của bạn, và tiếp tục sử dụng dịch vụ của bạn, mà bạn không cần phải tốn quá nhiều thời gian và tiền bạc để xây dựng lòng tin nơi người khách mới.

Nếu số lượng khách trung bình của bạn tăng 5% thì lợi tức của bạn có thể gia tăng từ 25% đến 100%. Đây là thông kê của trường đại học kinh tế nổi tiếng trên thế giới: Harvard.

Nếu bạn muốn tồn tại lâu dài và càng ngày càng gia tăng lợi nhuận, thì bạn hãy bắt đầu ngay bằng cách xây dựng khách trung thành cho tiệm của bạn, và luôn luôn nhờ họ giúp bạn.

Bạn còn nhớ không: cứ 1 người thì họ có sức ảnh hưởng đến 250 người đấy. Nếu bạn giỏi, và bạn có thể làm vui lòng khách hàng của bạn thì biết đâu chỉ cần năm, mười người thôi, họ cũng có thể giúp cho tiệm của bạn đánh bại tất cả đối thủ trong vùng.

4- Cần Một Hệ Thống Hoàn Chỉnh

Nếu bạn là người suy nghĩ cẩn trọng, thì bạn sẽ nhận ra rằng, muốn duy trì được 3 điều cần có nêu trên một cách hoàn hảo, thì nhất định bạn phải có một hệ thống hoàn chỉnh.

Bởi vì, nếu thiếu một hệ thống hoàn chỉnh thì bạn sẽ không biết: cái gì nên làm trước, cái gì nên làm sau? Cái nào có thể làm được, và cái nào không thể làm được? Cái nào bạn thiếu, và cái nào bạn dư?

Thiếu một hệ thống hoàn chỉnh thì giống như thiếu đường rầy cho xe lửa vậy. Xe lửa có thể chuyên chở rất nhiều “cơ hội quý giá” cho bạn giầu sang, nhưng nếu không có đường rầy cho xe lửa lăn bánh thì xe lửa kia mãi mãi vẫn ở tại sân ga. Bạn có muốn cơ sở thương mại của bạn cứ “dậm chân tại chỗ” không?

Muốn thiết kế một hệ thống hoàn chỉnh cho tiệm Nail của bạn, thì ít nhất bạn phải cần có 7 điều sau đây:

  • Hệ Thống Điều Hành
  • Hệ Thống Quản Trị
  • Hệ Thống Nhân Viên
  • Hệ thống Tài Chánh
  • Hệ thống Tiếp Thị
  • Hệ Thống Huấn Nghệ
  • Hệ thống Nhân Sự

Mỗi hệ thống sẽ là những mắt xích, liên kết lại với nhau thành một sơi dây thừng vững chắc, không những có thể giúp cho tiệm Nail của bạn vững vàng vượt qua sóng gió, mà còn giúp cho bạn có cơ hôi mở rộng thị trường. Lúc đó, bạn không cần phải làm gì hết, chỉ ngồi thu tiền là đủ.

Vì mang tính hệ thống nên đây là một đề tài rất dài, vì vậy, chúng tôi sẽ chỉ chọn về cách Quản Trị để chia xẻ, trong đó liên quan đến làm sao quản lý thợ và làm sao tìm thợ?

LÀM SAO QUẢN LÝ THỢ NAIL?

Có thể nói, trong thương trường, là một người chủ, dù  người chủ đó kinh doanh trong bất cứ một nghành nghề nào, nếu muốn tồn tại và phát triển cơ sở kinh doanh thì người chủ đó cần phải có ít nhất 2 điều vô cùng quan trọng sau đây. Đó là:

  • Có Khách và
  • Có Thợ

“Có khách” để có đủ “sở hụi” cho cơ sở/tiệm được tồn tại, và “có thợ” để phát triển doanh nghiệp một cách lớn mạnh hơn.

Phần đông, các chủ tiệm Nail thường chỉ chú trọng đến yếu tố thứ nhất là “có khách,” mà quên đi yếu tố thứ hai là “có thợ.”

Nếu bất đắc dĩ, phải đặt lên bàn cân xem “có khách” quan trọng hơn, hay có thợ” quan trọng hơn, thì chắc chắn, bàn cân sẽ nghiêng về phía “có thợ.”

Tại sao?

Thứ nhất: Vì không có thợ thì khách có đông bao nhiêu, cũng vô dụng. Vì sao?  Vì không có người phục vụ thì khách cũng bỏ đi.

Thứ hai: Dù có đông khách bao nhiêu, mà nếu thợ “quậy” làm mất lòng khách thì khách cũng sẽ bỏ đi.

Như vậy, cả 2 trường hợp nêu trên, đều dẫn đến tình trạng cơ sở/tiệm sẽ rơi vào tình trạng thiếu khách, rồi rơi vào cảnh thiếu hụt tài chánh xoay sở, rồi dẫn đến lụn bại, và cuối cùng là đóng cửa.

Ngược lại, tuy tiệm có ít khách, nhưng có đủ thợ, và thợ biết cách chiều lòng khách thì khách sẽ giới thiệu thêm người quen, bè bạn của họ cho cửa tiệm, khiến cho cơ sở/tiệm ngày càng gia tăng lợi nhuận, phát triển lớn mạnh trong tương lai.

Nếu phải ví “có khách” và “có thợ” như 2 con gà “đẻ trứng vàng”, thì con gà “thợ” là vàng 24, còn “khách” chỉ là vàng 14 mà thôi.

Giá trị của “có thợ” so với giá trị của “có khách” thì “cao” hơn một bậc, hay nói một cách đơn giản hơn là quan trọng hơn “một cấp.”

Tiếc thay, các chủ tiệm Nail vì không hiểu, hay vì không thể thẩm định được đúng mức giá trị trên bàn cân, nên thường, chỉ biết chú trọng đến phần “có khách,” mà quên mất phần “có thợ.”

Có thể nói, 95% các chủ tiệm Nail Việt đều xuất thân từ thợ mà ra. Cho nên, đứng về góc độ hiểu được tâm lý của một người thợ như thế nào thì người chủ tiệm Nail Việt là rành nhất.

Nhưng khổ thay, khi đi làm thợ cho người khác thì chúng ta có khi phải ‘ăn cơm chan trong nước mắt”, nhưng khi làm chủ thì chúng ta cũng khiến cho thợ phải “nước mắt chan cơm”. 

Nói một cách khác, chúng ta một khi trở thành chủ, lại vô tình hay cố tình quên đi giai đoạn khó khăn khi đi làm thợ của mình, để hôm nay không đối sử tốt với thợ của mình.

Và đây là 4 lỗi lầm lớn mà các chủ tiệm Nail thường mắc phải trong quá trình quản lý nhân sự (thợ).

1-Hách Dịch

Cho dù bạn có quyền cao đến mấy, học vấn cao đến đâu, giỏi đến thế nào thì một người chủ/quản lý hách dịch, chỉ khiến cho thợ “sợ” trước mặt chứ không thể khiến cho họ “tâm phục” sau lưng.

Quan hệ giữa chủ/quản lý và thợ cũng như “thuyền” với “biển”. Khi được “nước” thì thuyền “cưỡi” biển. Nhưng khi có “thế” là “biển” nhận chìm “thuyền”.

Khổ thay, các chủ tiệm Nail thường chỉ biết vênh mặt, coi thường thợ; chỉ biết ra oai, không biết quý trọng thợ; chỉ yêu cầu thợ tôn trọng mình, mà không bao giờ tôn trọng lại thợ; chỉ biết phê bình, chửi mắng thợ, nhưng không cho phép thợ bình luận, phê phán về mình.

Đó chính là nguyên nhân đầu tiên, đưa cửa tiệm bước vào con đường suy sụp và thất bại.

 2-Nóng Giận Vô Cớ

Thống kê cho thấy, cứ một lần nóng giận vô cớ của người chủ thì có thể ảnh hưởng rất xấu đến tâm lý làm việc của thợ.

Thế mà, phần lớn các chủ tiệm Nail Việt lại không ý thức được việc này. Họ hay nổi cáu với thợ của họ, và đôi khi, còn coi thợ của họ là chỗ để họ trút những cơn thịnh nộ/giận.

Khi thợ bị xúc phạm, người chủ sẽ rất khó để mà sửa sai và làm cho quan hệ chủ-thợ hòa thuận được như cũ. Hay nói một cách khác hơn, khi đã khứa vào da một lằn sâu rồi thì cho dù có lành lặn sau đó, trên làn da vẫn còn vết sẹo. Và đây cũng chính là nguyên nhân thứ hai đưa tiệm đến vắng khách và vắng thợ.

3-Không Giữ Thể Diện Cho Thợ

Điều tối kỵ của nhà quản lý/chủ tiệm Nail Việt thường vấp phải là: trách mắng thợ ngay trước mặt khách hàng, hoặc trước mặt người thứ ba.

Các nhà tâm lý đều cho rằng, là một người chủ, cần phải tôn trọng thể diện của thợ trước mặt người khác, vì đây chính là điều kiện không thể thiếu, trong việc thiết lập mối quan hệ gần gũi hòa đồng giữa chủ và thợ. Tiếc thay, hình như đây lại là việc hết sức bình thường, xẩy ra liên tục trong các tiệm Nail Việt. Mắng thợ trước mặt khách, hay người thứ ba, là chuyện bình thường.

4-Chia Tua/Phiên

Chia tua/phiên khách cho thợ đã trở thành “vấn nạn” trong quá trình quản lý nhân sự của các tiệm Nail Việt.

Sự phân chia không đồng đều của người quản lý/chủ, sẽ khơi dậy sự thù hằn, oán ghét, đố kỵ giữa các người thợ với nhau, cũng như giữa thợ với chủ. 

Cũng từ sự chia tua/phiên này, tạo ra sự phục vụ cẩu thả để giành khách “sộp”, hoặc chủ muốn dồn khách cho thợ bao trước, khiến cho tiêu chuẩn phục vụ trở nên tồi tệ, dẫn đến mất khách hàng, và cửa tiệm suy sụp.

Và đây là 6 sai lầm không kém nghiêm trọng khác:

Sai Lầm Thứ 1: Không Trao Quyền

Chìa khóa dẫn đến thành công là phải học cách trao quyền hiệu quả, bao gồm cả trách nhiệm, hoàn thành nhiệm vụ, và thẩm quyền cần thiết để thực hiện công việc một cách suôn sẻ.

Tiếc thay, các chủ tiệm Nail Việt thì chả thích tin ai, ngoài mình.

Sai Lầm Thứ 2: Không Thiết Lập Các Mục Tiêu

Không chỉ giao những mục tiêu, chỉ tiêu, trực tiếp cho thợ, mà người quản lý/chủ còn phải bảo đảm, thợ của mình phải đang làm việc hướng đến mục tiêu chung của tiệm. Thiết lập mục tiêu cho thợ là một công việc then chốt của bất cứ một nhà quản lý/chủ tiệm nào muốn thành công.

Tiếc thay, không có bao nhiêu chủ tiệm Nail biết được mục tiêu/mục đích của tiệm mình là gì?

Sai Lầm Thứ 3: Tìm Giải Pháp Vội Vàng

Bất kể vấn đề có khó khăn đến đâu, bao giờ cũng có có một giải pháp để giải quyết. Vấn đề nằm ở chỗ, các chủ tiệm Nail thường nóng lòng đi tìm những giải pháp nhanh gọn, để đốt cháy giai đoạn, mà bỏ qua những biện pháp lâu dài, có thể tốn thời gian hơn để giải quyết đúng đắn hơn. Vì vậy, sau những giải quyết nóng vội là những hậu quả tai hại khôn lường.

Sai Lầm Thứ 4: Không Khuyến Khích Học Hỏi

Tất cả các thợ, dù tài năng hay cẩn thận đến mức nào, cũng có khi mắc phải sai lầm. Sự khác biệt giữa thợ tốt và thợ dở, chính là ở khả năng học hỏi từ lỗi lầm của họ.

Tiếc thay, các chủ tiệm Nail lại không biết tạo ra những môi trường, hoàn cảnh để giúp cho thợ không ngại chấp nhận rủi ro, ngay cả khi, đó là những thất bại liên tục.

Sai Lầm Thứ 5: Không Dành Thời Gian Cho Thợ

Khi một người thợ cần nói chuyện với người quản lý/chủ, với bất kể lý do nào thì người quản lý /chủ phải bỏ hết các công việc sang một bên, và tập trung quan tâm đến người thợ đó.

Nếu như người quản lý/chủ bận, không thể giải quyết ngay thì phải thu xếp một cuộc hẹn khác để nói chuyện với người thợ đó, càng sớm càng tốt.

Tiếc thay điều này lại hiếm xẩy ra trong các tiệm Nail Việt.

Sai Lầm Thứ 6: Không Công Nhận Và Khen Thưởng

Có rất nhiều cách để giúp cho người quản lý/chủ có thể đánh giá và hiểu rõ được thợ của mình.

Đôi khi, chỉ với một chi phí rất nhỏ, hay thậm chí, chẳng mất đồng nào, lại rất dễ thực hiện, và chỉ cần vài phút để hoàn thành. Đó là: nhà quản lý/chủ phải biết dành chút thời gian để công nhận thành tích của thợ đã đóng góp cho tiệm của mình.

Những nhà quản lý/chủ thành công, thường biết những việc gì mà thợ mình làm tốt nhất, và có sự ghi nhận kết quả một cách xứng đáng.

Bạn không nên chỉ biết khuyến khích thợ của bạn bằng tiền thưởng, mà còn phải biết khuyến khích họ bằng những lời khen ngợi khi họ hoàn thành xuất sắc công việc, hoặc có một ý tưởng mới, hay một phương án kinh doanh sáng tạo v.v.

Một lời khen chân thành của bạn, sẽ có tác dụng khích lệ, khuyến khích những người thợ làm việc chủ động, sáng tạo, say mê với công việc hơn. Việc lựa chọn thời điểm, từ ngữ thích hợp sẽ giúp cho việc truyền tải “những lời có cánh” tới thợ của bạn một cách nghệ thuật.

Bạn nên nhớ, là con người, ai cũng thích được người khác biết đến công lao, và đóng góp của mình. Biết khen thưởng đúng cách, đôi khi, chỉ cần vài lời nói chân thành, sẽ khiến cho người thợ đó, có một tinh thần vui vẻ, và gia tăng hiệu suất làm việc, cũng như lòng trung thành với cửa tiệm.

Tiếc thay, những chủ tiệm/quản lý lại không bao giờ làm việc này.

Như vậy, muốn làm nhà quản lý/chủ giỏi, hay thành công thì việc sửa sai 10 điều nêu trên là việc cần phải thực hiện, và phải kèm theo 11 điều cần làm tiếp sau đây:

1-Khiến Trách Đúng Cách

Khen chê là cả một nghệ thuật. Nhiều người quản lý/chủ thường nghĩ rằng, nếu mình nhắm mắt làm ngơ những lỗi lầm của thợ thì sẽ nhận được sự kính trọng của họ.

Đây là sự suy nghĩ sai lầm. Sự suy nghĩ sai lầm này, không những sẽ kéo tiệm của bạn đi xuống, mà còn khiến cho các người thợ khác noi theo, tiếp tục làm lỗi.

Vì vậy, đừng ngần ngại khi phê bình những người thợ không làm tốt công việc được giao. Cùng với đó, bạn cũng nên tìm hiểu nguyên nhân tại sao họ lại làm không tốt nhiệm vụ, tránh đưa ra những nhận xét cá nhân, gây ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa chủ và thợ.

2-Làm Chủ Cảm Xúc

Đây là một kỹ năng, đòi hỏi bạn cần phải thường xuyên rèn luyện. Bởi cảm xúc là thứ khó điều khiển và kiểm soát nhất.

Một phút nóng giận, hay một quyết định cảm tính của bạn, có thể khiến một kế hoạch thất bại, tiệm gặp khó khăn. Vì vậy, kể cả trong lúc bực tức, bạn cũng nên giữ bình tĩnh, tìm ra cách giải quyết, chứ không nên la lối, trút giận vào người khác.

Trút giận lên người khác, chỉ khiến thợ của bạn bị thêm ức chế, và mất hứng thú làm việc mà thôi. Một người quản lý/chủ giỏi phải là người biết kiểm soát tốt cảm xúc của mình.

 3-Xây Dựng Niềm Tin Và Sự Tôn Trọng Lẫn Nhau

Mỗi người thợ của bạn đều khác nhau từ nhân cách, cá tính cho đến cách hành xử. Cho nên, khi bạn là người quản lý/chủ, bạn phải biết cách linh động, điều chỉnh cách thức quản lý sao cho thích hợp để giúp họ thành công.

Hãy đối xử với thợ của bạn bằng sự tôn trọng. Cung cấp những hướng dẫn và cách thức quản lý sao cho hợp lý, hợp tình.

Bất cứ ai, nếu giao tiếp với tinh thần tin tưởng và tôn trọng lẫn nhau, đều thấy rằng, hiệu quả công việc sẽ tốt hơn. Xây dựng niềm tin với thợ của bạn sẽ giúp bạn rút ngắn được khoảng cách giữa mọi người trong khi làm việc.

 4-Đưa Ra Nhiều Lựa Chọn

Chắc chắn khi làm việc, không thể tránh khỏi những lúc bất đồng quan điểm giữa bạn và thợ của bạn. Vì vậy, để giải quyết được vấn đề này, bạn không nên khăng khăng giữ nguyên ý kiến của mình, và bắt thợ của bạn phải làm theo.

Hãy đưa ra nhiều lựa chọn để cả nhóm có thể thảo luận, và cùng chọn ra phương án tốt nhất. Như vậy, không những bạn có thể tháo gỡ được những sự khó khăn, bực dọc của thợ, mà còn tránh gây ra mâu thuẫn và xung đột gia tăng.

 5-Thấu Hiểu Thợ

Để làm được điều này, bạn phải thật sự là một quản lý/chủ luôn theo sâu sát với thợ của mình. Bạn phải biết được năng lực, sở trường, và cách khắc phục những yếu điểm của họ.

Đồng thời, bạn cũng cần tìm hiểu về những khó khăn, trở ngại trong công việc, và những đề nghị của thợ. Từ đó, bạn có thể đặt ra những điều chỉnh phù hợp, cả về cơ cấu tổ chức, cũng như vai trò nhiệm vụ, cụ thể của từng người.

Nếu làm được việc này, chắc chắn, bạn sẽ được thợ tin tưởng và nể trọng, đồng thời, góp phần xây dựng sự đoàn kết trong tiệm, tạo động lực để mọi người cùng tiến lên.

6-Tạo Không Khí Vui Vẻ

Một người quản lý/chủ chuyên nghiệp, luôn có cách để tạo bầu không khí vui vẻ, thoải mái trong mọi tình huống.

Trong những cuộc họp, hay tranh luận căng thẳng về một vấn đề nào đó, nếu có một lời khích lệ, một câu nói hài hước, dí dỏm từ bạn thì sẽ khiến mọi người thoải mái hơn, và biết đâu, công việc sẽ đạt hiệu quả cao hơn.

Bên cạnh công việc, bạn nên học cách gần gũi lại với mọi người, thông qua các hoạt động như vui chơi, giải trí,v.v.

Tình cảm giữa các thợ trong tiệm là một trong những đóng góp quan trọng vào thành công của tiệm, và giúp giảm thiểu các xung đột khi làm việc.

7-Đưa Ra Lời Khuyên Hữu Ích

Là người quản lý/chủ giỏi, bạn cũng cần phải có kỹ năng lắng nghe những ưu tư, thắc mắc của thợ, và chia xẻ với họ bằng những lời khuyên hữu ích.

Khi có vấn đề rắc rối, bạn phải đặt mình vào hoàn cảnh cụ thể, để từ đó đưa ra lời khuyên, và có hướng giải quyết hợp tình, hợp lý.

Như vậy, sự tương tác giữa bạn với thợ sẽ tăng lên đáng kể, và họ sẽ cảm thấy gần gũi hơn với bạn. Khi đó, bạn không chỉ thu được những thông tin cần thiết, thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng của thợ, mà còn là hình thức khích lệ, khuyến khích để họ làm việc tốt hơn.

 8-Công Bằng

Khi làm việc, bạn hãy bỏ qua hết sự thù hằn, ý kiến cá nhân, không chấp nhất những chuyện nhỏ, tỵ nạnh để giảm thiểu tối đa sự va chạm, mâu thuẫn… với thợ.

Một người quản lý/chủ tốt, sẽ biết cách làm việc và đưa ra những quyết định công bằng để dẫn dắt mọi người cùng hăng say làm việc, và hướng đến những mục tiêu chung; chứ không phải chăm chăm xét nét, và phán đoán dựa trên cảm tính cá nhân.

Sự công bằng của bạn, còn khuyến khích mỗi thợ nỗ lực làm việc, để phát huy hết khả năng của mình đem lại thành công trong công việc.

Việc giao tiếp hiệu quả với thợ của bạn, không phải từ “trên trời rơi xuống”, hay một sớm một chiều mà được. Mà đó là, cả một quá trình dài, tích luỹ liên tục trau dồi và rèn luyện.

Đây cũng là một công cụ hỗ trợ đắc lực cho công việc và sự nghiệp lâu dài của bạn. Vì vậy, nếu bạn muốn trở thành một người quản lý/chủ được thợ yêu quý và tôn trọng, hãy luyện cho mình kỹ năng trên, thành công sớm sẽ mỉm cười với bạn.

9-Lắng Nghe

Có hàng ngàn lý do khiến thợ của bạn trở nên căng thẳng, không hài lòng với tiệm. Nếu không được giải toả sớm, việc các thợ của bạn sẽ ra đi là điều không tránh khỏi. Có một nghịch lý là, càng ở vị trí cao, bạn càng khó nghe được ý kiến phản hồi từ thợ. Hãy dành chút thời gian để trực tiếp lắng nghe mọi nguyện vọng của thợ.

Đây là cách dễ dàng nhất, thể hiện sự quan tâm và phá bỏ rào cản không đáng có giữa chủ và thợ.

10-Tạo Mục Tiêu Chung, Cùng Thợ Hướng Tới

Thợ sẽ vô cùng thích thú và vui vẻ, nếu biết việc mình làm đang đóng góp, hướng đến một sứ mệnh lớn lao.Việc truyền những thông tin cụ thể, mạnh mẽ như “tốt nhất”, ” lớn nhất”, “giỏi nhất”, thường tạo động cơ làm việc nhanh và hiệu quả cho mỗi thợ.

Qua mục tiêu chung hướng đến, kích thích sự sáng tạo của thợ qua các ý tưởng, đề xuất, đóng góp. Điều quan trọng, hãy luôn để thợ biết ý tưởng đóng góp của họ luôn được lắng nghe và đánh giá cao.

11-Chiêu Đãi Thợ

Việc thỉnh thoảng được bạn chiêu đãi đi ăn, mua quà tặng, nhìn có vẻ đơn giản, nhưng dễ dàng mang lại hiệu quả cao.

Đây là cách thức dễ nhất để thợ cảm nhận được sự quan tâm của bạn dành cho họ. Vài ý tưởng như, thỉnh thoảng mời thợ ăn trưa, mời về nhà dự tiệc cuối tuần, cũng là cách thức khích lệ thợ, mở rộng giao lưu ngoài công việc, họ nên gắn bó với nhau hơn.

Quản trị nhân sự luôn là bài toán khó khăn nhất đối với người quản lý/chủ doanh nghiệp. Tiệm càng lớn bao nhiêu, càng khó quản lý thợ bấy nhiêu.

Sự thật, dù bạn có toàn quyền sa thải thợ, nhưng sự ổn định nội bộ là yếu tố tiên quyết để tiệm phát triển. Nhân tài cũng không dễ kiếm chút nào. Do đó, trước khi ra quyết định cuối cùng, có lẽ bạn nên nỗ lực để giúp những thợ “khó nhằn” này thích ứng với tiệm.

Sau đây là 5 cách ứng phó với thợ “khó nhằn” của bạn.

Khi phải đối diện với các vấn đề liên quan đến tính cách của thợ, các nhà quản lý/chủ thường có hai hướng giải quyết. Một là đối đầu, dẫn đến thái độ thù nghịch ngày càng gia tăng, hai là mặc kệ, và để tình hình trở nên tồi tệ hơn.

Thay vì, cứng nhắc áp dụng các quy định, bạn có thể sử dụng vài cách mềm dẻo hơn để hướng thợ theo cách có lợi cho bản thân họ, cho đồng nghiệp lẫn cho tiệm.

1-Thợ Tự Kiêu

Thợ tự kiêu là thợ, hay thổi phồng tầm quan trọng của mình, khao khát sự chú ý và khen ngợi. Họ tự kiêu và thiếu năng lực đồng cảm với người khác. Họ sẽ không quan tâm những gì người khác đang cảm thấy, và đó là một nhược điểm rất lớn tại nơi làm việc.

Ưu Điểm

Điều thú vị là, họ sẽ làm tốt khi nắm giữ các vị trí quyền lực. Bởi vì, họ rất nghiêm túc với thành quả công việc, và đánh giá cao quyền lực. Sự thực là, hầu hết những người có tố chất quản lý/chủ đều có ít nhiều chút tự kiêu.

Nên Tránh:

Nếu bạn chọn cách nói thẳng với họ rằng: hành vi của họ sẽ làm cho người khác cảm thấy khó chịu, hoặc việc đó gây thiệt hại cho tiệm, (có thể có hiệu quả với một số thợ khác), nhưng với những người thợ tự kiêu này thì không nên. Bởi vì, những thợ tự kiêu này, họ rất nhạy cảm với những lời chỉ trích, và có khả năng phản trả lại bạn rất mạnh mẽ.

Cách Giải Quyết:

Nếu bạn muốn giữ những người này, và muốn họ cống hiến cho công việc, bạn phải đưa ra những lợi ích đi kèm với trách nhiệm. Đó là thứ duy nhất khiến họ chú ý, và đánh giá cao.

2-Thợ Thụ Động

Thợ thụ động, là thợ sẽ hứa hẹn giúp bạn hoàn tất công việc, nhưng sau đó lại không, hay họ sẽ xuất hiện vào những giây phút cuối cùng. Người thợ thụ động hay tạo ra gây hấn như một hình thức biểu hiện của sự tức giận gián tiếp.

Nếu bạn muốn thử tìm hiểu lý do khiến họ tức giận và cố gắng giải quyết vấn đề thì bạn sẽ thất vọng. Vì đó là một dạng, rối loạn tính cách, nên bạn phải tính toán cẩn thận.

Ưu Điểm

Không giống như thợ tự kiêu, thợ thụ động có khả năng đồng cảm khá cao và họ cũng muốn thăng tiến trong môi trường làm việc. Cho nên, bạn có thể sử dụng cả hai đặc điểm này để thúc đẩy họ. Chủ yếu là bạn phải đặt kỳ vọng rất rõ ràng cho họ.

Một điều cần chú ý là phản ứng của riêng bạn với những người này. Họ sẽ khiến cho bạn “tiến thoái lưỡng nan”, khiến cho bạn cảm thấy vô dụng, vì không kiểm soát được tình hình, và không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Họ có thể kiểm soát bạn, mà bạn không hề biết.

Cách Giải Quyết:

Cách duy nhất là, nói rõ những gì bạn cần từ họ, và khi nào là thời hạn phải hoàn thành. Ví dụ như: tuần này có khách A, B, C cần làm, và họ phải tường trình lại cho bạn hàng ngày.

Bạn cần kiểm soát chặt chẽ tiến độ công việc của những người này, nếu không họ sẽ khiến tất cả sẽ “phát điên”.

3-Thợ Nhiều Chuyện

Tiệm nào cũng sẽ có một số thợ thích nhiều chuyện. Nhưng nếu một trong những thợ của bạn thường xuyên nói xấu về bạn, nói xấu những người khác trong tiệm, và gây ra mâu thuẫn nội bộ thì đó là hành vi phá hoại, và bạn cần phải giải quyết chuyện này.

 Ưu Điểm

Về mặt tích cực, những người nhiều chuyện này thường có kỹ năng giao tiếp và làm việc với người khác khá tốt. Họ thích trò chuyện. Vì vậy, Bạn có thể phân công cho họ một công việc giúp họ phát huy khả năng này, như bán hàng chẳng hạn.

 Cách Giải Quyết:

Giải pháp tốt nhất là, gọi những thợ này vào nói chuyện trực tiếp, giải thích việc nhiều chuyện của họ không ích lợi gì cho môi trường làm việc. Thu hút sự chú ý của họ sẽ giúp ngăn chặn họ tiếp tục lan truyền những tin đồn ác ý.

Nếu bạn thẳng thắn trao đổi với họ và giải thích lý do tại sao những tin đồn này gây hại cho tiệm của bạn thì họ sẽ có lý do chính đáng, để không muốn tham gia vào việc đồn thổi những chuyện khó tin.

4-Thợ Hay Nổi Giận

Một số người, để đối phó với những căng thẳng tại nơi làm việc, họ hay dùng cách buộc tội đồng nghiệp về những hành động xấu của họ, hay lớn tiếng với những người khác, và không ngần ngại thể hiện sự bực bội và tức giận.

Đây là một trong số những kiểu thợ “khó khăn nhất”, mà bạn sẽ phải đối phó.

Dù gì, bạn cũng đừng để họ tiếp diễn tình trạng này. Đó là những hành vi không thể chấp nhận được. Họ phải hiểu rõ giới hạn của mình. Vì những cơn giận của họ sẽ phá hủy tâm trạng tích cực, cũng như các mối quan hệ tại nơi làm việc. Tệ hơn, nó sẽ dẫn đến những hành vi bạo lực, thiếu kiểm soát.

Cách Giải Quyết:

Ở vai trò quản lý/chủ, bạn phải luôn hiểu rõ tác hại của việc giận dữ, và thường xuyên học cách kiểm soát nó, hoặc phải có ai đó thuộc bộ phận nhân sự, thường xuyên nhắc nhở bạn.

Hãy tạo điều kiện để những thợ nóng tính này được tư vấn tâm lý và trò chuyện thẳng thắn về các vấn đề mà họ đang gặp phải. Một tiệm luôn trong tình trạng căng thẳng là một tiệm không thể phát triển nhanh và mạnh được.

5-Thợ Thích Đổ Lỗi

Những người thợ này, luôn khiến cho người khác cảm thấy có lỗi, vì đã làm điều gì đó sai trái với họ. Bất kỳ điều gì không tốt xẩy ra cho họ, họ đều quy trách nhiệm cho người khác.

Nên Tránh:

Thay vì ra lệnh, chỉ thị “anh/chị phải làm thế này, phải làm thế kia,” bạn nên dùng những câu như:

“Tôi nghĩ anh/chị nên làm cách này tốt hơn”, “Anh/chị nghĩ nên làm thế nào?” để cho họ lựa chọn, và chịu trách nhiệm về lựa chọn của mình.

Những người này chỉ thích hợp làm những công việc độc lập mà thôi. Đưa họ vào nhóm hay làm việc chung, chỉ gây thêm bất đồng và chia rẽ.

Cách Giải Quyết:

 Để đối phó với những thợ này, bạn cần nói rõ cho họ biết, những lời nhận xét và quan điểm của họ là không đúng với tình hình thực tế, cũng như ảnh hưởng xấu đến đồng nghiệp trong tiệm. Những người này hoàn toàn yếu kỹ năng giao tiếp, cũng như không quan tâm đến cảm nhận của người khác.

Đó là những nét căn bản trong phương pháp quản lý mà bạn có thể ứng dụng.

KIẾM THỢ BẰNG CÁCH NÀO?

Có cả trăm cách để kiếm thợ như: đăng báo, quảng cáo trên radio, TV, quảng cáo trên websites, quảng cáo nơi các tiệm thực phẩm, v.v.

Nhưng quan trọng nhất, bạn phải biết mục đích của bạn muốn kiếm thợ loại nào?

Nếu ngay cả bạn cũng không biết mục đích, muốn và cần của bạn là gì? Khách hàng của bạn muốn gì và cần gì?, thì cho dù bạn có mướn được thợ, mà không đáp ứng được những nhu cầu của bạn và khách hàng của bạn, thì cũng trở nên vô dụng.

Bạn vừa tốn tiền quảng cáo, mà vừa lại bực mình. Do đó, trước khi đăng quảng cáo mướn thợ, bạn phải tìm hiểu về mục đích, muốn và cần của bạn trước tiên.

Sau khi tìm hiểu xong mục đích muốn và cần của bạn, thì bạn mới phát thảo mẫu quảng cáo như thế nào để tìm đúng được loại thợ mà bạn mong muốn.

Thí dụ: tiệm của Bạn là khách sang, cần thợ có tay nghề giỏi. Như vậy, trong 5 loại thợ, thì thợ tự kiêu chính là thợ bạn phải tìm. Cách thức quảng cáo và nội dung quảng cáo cho mỗi loại thợ sẽ khác nhau. Đơn cử như sau:

BẠN LÀ NGƯỜI TỰ KIÊU?

Nếu bạn tự kiêu…bạn có tay nghề giỏi?

Nếu bạn tự kiêu…bạn có khả năng… khiến cho các khách hạng sang của chúng tôi phải vừa lòng?

Nếu bạn tự kiêu… dám gánh trách nhiệm?

Khách hàng chúng tôi và chúng tôi sẵn sàng Thách Thức bạn.

Nếu bạn chứng minh… bạn đúng là người tự kiêu.

Chúng tôi sẽ thua bạn ½ tuần lương.

Nếu bạn chưa đủ “tự kiêu”,

Xin miễn gọi: 123.345.5678

Dĩ nhiên, đây chỉ là mẫu quảng cáo để bạn tham khảo, và chắc chắc, bạn sẽ chưa bao giờ đọc được mẫu quảng cáo kiểu này.

Nhưng đây là mẫu quảng cáo khá thú vị, vì bạn biết, bạn đang muốn gì, bạn đang cần gì, và bạn cũng biết được cá tính của thợ tự kiêu là gì, và họ có khả năng gì. Bạn dám thách thức họ, và họ cũng sẽ sẵn sàng “khiêu chiến” với bạn.

Đi làm mà có người chủ biết thưởng thức được tài năng của mình là một chuyện rất hiếm xẩy ra.

Cho nên, khi có người chủ biết thưởng thức họ, họ sẽ trung thành hơn, và làm việc sốt sắng hơn. Thêm vào đó, bạn sẽ tránh gặp phải những người thợ “dở dở ương ương” sẽ khiến cho khách của bạn sẽ bất mãn vì phong cách phục vụ, và sẽ bỏ đi.

Tóm lại, muốn tìm thợ thì không khó, nhưng khó nhất là: bạn đã biết làm Chủ hay chưa?

Nếu bạn chưa hoàn thiện được 10 điều sai lầm, và 11 điều cần có, thì cho dù, bạn có tốn bao nhiêu tiền, dùng bao nhiêu quyền lợi để kéo thợ về tiệm bạn, bạn cũng sẽ luôn “khát” thợ. Vì sao? Vì chẳng có thợ nào chịu nổi tánh khí “tam bành lục tặc,” hay cư xử không công bằng của bạn cả.

Đó là chưa kể “lời đồn” khó đỡ. Cho nên, trước khi muốn tìm thợ, thì bạn phải biết làm Chủ đã.

Khi bạn làm Chủ đúng cách thì thợ của bạn sẽ giới thiệu bạn bè của họ cho bạn. Họ sẽ lôi kéo bạn bè của họ, mà không cần đến bạn phải ra tay. Và nếu như, bạn có phải ra tay thì bạn phải biết, bạn sẽ thích hợp với loại thợ nào? Tiệm và khách của bạn sẽ thích hợp với loại thợ nào? Rồi bạn sẽ soạn mẫu quảng cáo thích hợp cho mẫu người đó mà thôi. Đừng có đăng quảng cáo theo kiểu chung chung như trên các mặt báo:

Cần Thợ Nail

Tiệm ở ABC, cần thợ Nail kinh nghiệm, biết làm bột.

Bao lương $800-$900. Tiệm vùng Mỹ Trắng Tip cao,

Làm việc vui vẻ, thoải mái.

Xin liên lạc 123.234.3456

Bạn hãy thử so sánh mẫu quảng cáo này với mẫu quảng cáo thí dụ ở trên xem, có khác biệt hay không? Nếu bạn là người tự kiêu, bạn sẽ hứng thú với mục quảng cáo nào?

Hãy bắt đầu bằng cách nhìn lại chính bạn. Và bạn chỉ có thể là một người Chủ thật sự, khi bạn có thể làm chủ được những cảm xúc của bạn.

Có thể nói, tất cả các bí quyết để quản lý thợ của bạn có thành công hay không, đều phụ thuộc vào cách bạn kiểm soát cảm xúc của bạn có vững vàng hay không.

Nếu bạn không thể kiểm soát được cảm xúc của bạn một cách vững vàng, thì suốt đời bạn sẽ mãi là người chủ “khát” thợ hay “đói” thợ mà thôi.

Thất bại hay thành công trong cửa tiệm hay cuộc đời của bạn, không nằm trong tay thợ của bạn, hay của người khác, mà đang nằm trong chính đôi tay của bạn.

Hãy trở về với chính bạn, và tìm xem mục đích sống của bạn là gì? bạn Muốn gì? và Cần gì?

TIỂU NHÂN – QUÝ NHÂN

album-art

00:00

TẢI MP3 – QUẢNG BẢO TÂM
TẢI MP3 – MỸ HƯƠNG TRẦN

Bạn Thân Mến,

Nói đến hai chữ Tiểu Nhân thường khiến chúng ta liên tưởng đến một người thủ đoạn, xấu xa, chuyên làm chuyện xấu hại người, hay tạo ra những hành động gian ác làm cho người khác tang thương, khốn khổ, v.v.

Ngược lại, hai chữ Qúy Nhân thường khiến chúng ta liên tưởng đến một người tốt bụng, thích giúp người, luôn làm những việc tốt đem đến lợi ích an sinh cho mọi người, v.v.

Trong Ngã Thức của chúng ta, chúng ta đều có sẵn hai con người này, vừa là tiểu nhân, vừa là qúy nhân.

Có khi, trong một ngày, chúng ta vừa là tiểu nhân, khi đi nói xấu người đồng nghiệp của mình với ông chủ. Nhưng khi tan sở, thấy một bà lão mù lòa đi qua đường, chúng ta lại vui vẻ sẵn sàng dừng xe lại, dắt bà cụ qua đường như một quý nhân.

Câu chuyện sau đây, liên quan đến Tiểu Nhân và Quý Nhân.

Là một chuyên gia về thuế vụ, trong hơn 30 năm, cô đã không biết bao nhiêu lần đại diện cho thân chủ của cô để giải trình những kiểm toán của cơ quan thuế vụ.

Có những lần cô đại diện thành công và cũng lắm lần cô thất bại. Từ ngày tham gia sinh hoạt về tâm linh với chúng tôi, chúng tôi hướng dẫn cô cầu nguyện, nên cô luôn đạt được kết quả tốt, luôn đạt được những được những thỏa thuận trọn vẹn đôi bề.

Sáng nay, cô liên lạc với chúng tôi, vì đây là một trường hợp rất đặc biệt. Thân chủ của cô có vấn đề liên quan đến sở thuế, số tiền lên đến cả triệu đô, nên cô muốn chúng tôi hỗ trợ cùng cầu nguyện với cô để giúp cho thân chủ của cô đạt được ước nguyện.

Vì chúng tôi và cô nói chuyện qua hình ảnh, nên chúng tôi thấy trên bàn thờ của cô, có để một xấp hình. Chúng tôi thắc mắc và hỏi cô hình đó là hình gì? Và cô cho biết đó là hình của tiểu nhân.

Cô là người Việt gốc Hoa, nên theo phong tục của người Hoa, khi gặp một rắc rối gì với ai, họ đi mua hình tiểu nhân về, và đập trên hình đó cho hết rắc rối.

Khi nghe xong, chúng tôi vô cùng ngạc nhiên, vì chuyện cô cần đi giải quyết với nhân viên thuế vụ là việc lớn liên quan đến cả triệu đô.

Việc mà cô cần, là phải gặp được qúy nhân, để người này có thể giúp cho cô và thân chủ của cô đạt được điều cô mong muốn. Nhưng ở đây, cô lại có suy nghĩ rằng, nhân viên thuế vụ đang đem đến rắc rối cho thân chủ của cô là tiểu nhân, nên cô đi mua hình tiểu nhân về đập.

Trong xấp hình có đến 120 hình tiểu nhân, có nghĩa là, có đến 120 người sẽ chỉa mũi giáo về một mình cô thì làm sao một mình cô có thể chống chọi cho được.

Thay vì, gọi là tiểu nhân, chúng tôi đề nghị cô gọi là qúy nhân. Thay vì, đem 120 tiểu nhân đi đập thì đem hình 120 nhân đó để lên một nơi trang trọng, và hướng về nhờ họ giúp đỡ.

Buổi hẹn của cô với nhân viên thuế vụ lúc 10 giờ. Trước ngày hẹn, cô và thân chủ của cô không đặt qúa nhiều hy vọng vào việc điều đình hồ sơ được miễn thuế hơn 35%. Nhưng sau buổi kiểm toán, cô đã điều đình được lên đến 57%. Có nghĩa là, thân chủ của cô, thay vì trả một triệu đô tiền thuế thì nay chỉ còn trả $430,000.

Sau khi điều đình xong, cô gọi điện thoại cám ơn chúng tôi.

Cô cho biết, quả thật, khi cô thay đổi hai chữ tiểu nhân qua quý nhân, và luôn nghĩ đến họ sẽ giúp đỡ cô thì kết qủa đạt được không thể ngờ.

Cô kể, sở dĩ cô phải đi mua hình tiểu nhân, vì người nhân viên của sở thuế là người đã gieo rắc những thiệt hại nặng nề cho thân chủ của cô, rất nhiều lần trong qúa khứ. Người nhân viên này, với cô như một hung thần, luôn bắt từ những lỗi nhỏ nhặt nhất.

Nhưng lạ thay, khi gặp người nhân viên này, cô không nghĩ anh là tiểu nhân, mà là quý nhân sẽ giúp đỡ cho cô và thân chủ của cô.

Thay vì, như những lần trước, cô tìm đủ mọi lý do để bao biện cho những lỗi từ thân chủ của cô, thì lần này, cô lại đem những khó khăn mà thân chủ của cô đang đối mặt, trình bầy một cách chân thật, và yêu cầu sự giúp đỡ của anh ta.

Không như những lần trước, anh hạch sách đủ điều, lần này, anh lại chú tâm lắng nghe, đưa ra những lời đề nghị , và sau một lúc suy nghĩ thật lâu, anh đã quyết định giảm đến 57%.

Đối với cô đây là điều không tưởng, vì với định kiến của cô trước đây với người nhân viên sở thuế “tiểu nhân” này, giỏi lắm anh chỉ chấp nhận khoảng 35%.

Cô cũng chia xẻ, với phong tục đập tiểu nhân có cả ngàn năm của người Trung Hoa, biết bao thế hệ tin tưởng và áp dụng thì ra lại sai đến mức độ nghiêm trọng.

Bây giờ thì cô mới vỡ lẽ ra, khi muốn sử phong tục nào thì phải hiểu cho rõ nếu không thì tai hại khôn lường.

Câu chuyện thứ hai chúng tôi muốn chia xẻ với bạn là câu chuyện về những người vô gia cư (homeless) tại thành phố Thiên Thần (Los Angeles).

Khi bạn có dịp ghé thăm vào khu chợ bán sỉ về hoa và vải vóc thì bạn sẽ đối diện với những người vô gia cư đang sinh hoạt tại đây.

Chính quyền sở tại đã tốn biết bao ngân sách để giải quyết, cũng như, có vài vị thị trưởng đã bị truất phế về việc không thể giải quyết được vấn đề của những người vô gia cư.

Mạc dù, chính quyền đã xây dựng những căn nhà cho những người vô gia cư. Tuy mỗi người đều có giường ngủ riêng, nhưng lại không có nơi để giữ “tài sản” của những người vô gia cư trên những xe đựng thức ăn của họ. Cho nên, cuối cùng, những người vô gia cư cứ ra, chiếm lòng lề đường, căng bạt làm nhà, để bảo vệ “tài sản” riêng của họ.

Sinh hoạt mỗi ngày của những người vô gia cư là đi xin tiền những khách đi mua hàng. Nếu khách đi mua hàng có những cử chỉ coi thường họ, thì họ thường gây hấn, khiến cho nhiều khách hàng sợ hãi.

Phần đông những khách hàng khi đi qua khu vực này để mua hàng, thường quay kính xe lên, và khóa cửa thật chặt. Khi gặp những người vô gia cư, họ tránh tiếp xúc về mắt, và thường ngó lơ đi chỗ khác, khi liếc nhìn thấy nhưng người vô gia cư di chuyển trên đường.

Công việc của chúng tôi liên quan đến vải vóc, cho nên, ngày nào chúng tôi cũng tiếp xúc với những người vô gia cư. Có lẽ, vì chúng tôi biết, trong mỗi con người chúng ta ai cũng có tiểu nhân và quý nhân, cho nên, thay vì nhìn họ như tiểu nhân thì chúng tôi lại nhìn họ là quý nhân.

Mỗi lần gặp họ, chúng tôi luôn mở cửa xe xuống, chào hỏi họ rất chân thành. Chúng tôi mỉm cười với họ, chúng tôi vẫy tay chào họ. Cứ mỗi lần khi chúng tôi tìm chỗ đậu xe thì họ lại luôn tìm chỗ cho chúng tôi, và tự nguyện đứng trông xe cho chúng tôi để không bị đập phá.

Cứ mỗi lần như thế, chúng tôi luôn cám ơn họ, và có tặng lại họ chút tiền. Nhưng họ không bao giờ nhận, mặc dù, với những người khác, gần như họ dùng cách “bắt buộc” phải cho, nếu không muốn chiếc xe hay người có vấn đề.

Có một lần, chúng tôi có nói chuyện với một người vô gia cư. Nói thật, nếu nhìn tướng của anh thì ai cũng hú hồn. Vừa cao to, mình lại xâm đầy hình vẽ. Khuôn mặt dữ dằn, lúc nào cũng như muốn ăn tươi nuốt sống người đối diện.

Khi chúng tôi hỏi anh tại sao lại tự nguyện đứng coi xe cho chúng tôi? Anh trả lời: Vì tôi cảm được sự tôn trọng của bà đối tôi là thật, nên tôi cũng tôn trọng lại bà.

Câu trả lời của anh đã dậy cho chúng tôi một bài học vô cùng quý giá.

Khi cư xử với ai, nên đem lòng chân thành của mình để cư xử, mà không cần phải giải thích. Vì khi chúng ta có đủ chân thành thì người kia, họ sẽ cảm được.

Cho nên, nếu chúng ta chưa đủ chân thành, hay có những sự nghi ngờ, hay chỉ làm vì hình thức, thì người kia họ cũng cảm ra được.

Chúng ta có thể đánh lừa chính chính ta nhưng với người khác, họ sẽ cảm được cái thật của chúng ta.

Nếu chúng ta chịu học hỏi, chịu sửa sai, chúng ta có thể dựa vào cái cảm của người khác về chúng ta, làm thước đo cho chính chúng ta.

Dĩ nhiên, đó không phải là thước chuẩn, những vẫn có giá trị, còn hơn là, chúng ta cứ tin tưởng vào chính chúng ta mà có khi vô cùng thiếu chính xác.

Tiểu Nhân hay Quý Nhân thì tùy mỗi người chúng ta muốn chọn thế nào. Với chúng tôi, chúng tôi chỉ chọn Quý Nhân nên Tiểu Nhân gần như không cần quan tâm đến.

Khi cư xử với bất cứ ai, chúng tôi luôn luôn quan sát và nhìn sâu để tìm ra “điểm son” của họ. Điểm son là những ưu điểm, những tính chất, cá tính làm cho họ thành quý nhân.

Chúng tôi cư xử với họ như những quý nhân mà không có sự phân biệt giai cấp, giầu nghèo, có danh hay không, có địa vị hay không?

Cuộc đời của chúng tôi đã là U70, chúng tôi chỉ toàn gặp quý nhân, còn bạn, bạn có gặp được nhiều quý nhân không?

CẦU NGUYỆN

album-art

00:00

TẢI MP3 – CHÂN THƯỜNG LƯU

TẢI MP3 – DIỆU LIÊN

Bạn Thân Mến,

Hai chữ cầu nguyện thì chẳng có gì là xa lạ với chúng ta, vì ít nhất trong đời, ai trong chúng ta cũng đã từng cầu nguyện.

Nếu bạn để ý, bạn thấy hai chữ cầu nguyện luôn đi chung với nhau và thành một từ ghép. Ý nghĩa của từ ghép này như thế nào thì chắc bạn đã hiểu, và câu chuyện hôm nay là một câu chuyện mà chúng tôi vô tình nghe được sự chia xẻ từ chính người ca sĩ đó.

Câu chuyện bắt đầu, khi người ca sĩ này có đam mê ca hát nhưng gia đình lại muốn anh phải hoàn thành việc học vấn trước. Với niềm đam mê ca hát, anh đã ngồi xuống nói chuyện với mẹ của anh, hãy cho anh thỏa mãn đam mê của anh trong vài năm, nếu không thể phát triển được trong nghành giải trí thì anh sẽ quay về đi học.

Vì thương con, nên cuối cùng mẹ anh cũng đồng ý, và anh bắt đầu rời quê lên thành phố để tìm cơ hội phát triển. Vì chỉ là đam mê, và được trời phú cho có giọng hát, nhưng chưa qua quá trình đào tạo, nên tiếng hát của anh cũng chưa được ai biết đến nhiều.

Cuộc sống nơi đô thị khá khó khăn, vì mưu sinh, nên ban ngày anh phải đi làm phục vụ, và chỉ có thể đi hát ban đêm tại những tụ điểm, hay hát cho những tiệc đám cưới.

Anh kể, khi đi hát tại các tụ điểm, công việc chính của anh là hát vào những khoảng trống, khi mà các ca sĩ chính chưa đến kịp, hay vì một lý do nào đó đến trễ hay vắng mặt.

Những lúc đứng trong cánh gà, anh thường hay cầu cho những người ca sĩ chính bị bể bánh xe, hay bị một sự cố nhỏ nào đó khiến họ bị trễ, để anh được hát, được thỏa mãn đam mê của mình.

Cho đến một đêm, vì người ca sĩ chính đến trễ, nên anh được chọn để hát “lấp vào khoảng trống”. Không biết vì chọn đúng bài hát, hay vì người khán thính giả có sự đồng cảm, mà sau khi nghe anh hát xong thì người khán thính giả đó bước lên sân khấu, và tặng cho anh $50,000. Người khán thính giả đó nói rằng, giọng ca của anh rất hay và muốn anh hát thêm một bài nữa.

Cầm trong tay $50,000 đồng, anh vô cùng cảm động, và tính sẽ hát tiếp một bài nữa theo yêu cầu của vị khán thính giả đã tặng tiền cho anh.

Đúng lúc anh chuẩn bị hát, thì ông bầu sô ra hiệu cho anh ngừng, vì người ca sĩ chính đã đến, và anh phải nhường lại sân khấu. Anh nghẹn ngào xin lỗi vị khán thính giả, và yêu cầu vị khán thính giả đó, lên lấy lại số tiền thưởng cho anh.

Đêm hôm đó, ngoài trời đổ mưa, anh không biết lúc đó là trời mưa vì trời thương xót cho anh, hay là những giọt nước mắt xót xa trong lòng anh. Và đây, cũng là lần đầu tiên, anh mới xác định được mục đích của anh rõ ràng.

Anh muốn anh trở thành một ca sĩ nổi tiếng chứ không phải chỉ là người đi hát vì đam mê. Khi đã xác định được mục đích, anh mới cầu xin tổ nghiệp phù hộ độ trì cho anh trở thành một ca sĩ nổi tiếng, và anh nguyện sau này, khi anh nổi tiếng, anh sẽ giúp đỡ những người có đam mê về ca hát như anh, không phải chịu những uất ức khi hát “lấp vào khoảng trống” như anh đêm đó.

Trải qua hơn mười năm, lời cầu xin của anh mới trở thành hiện thực. Anh trở thành ca sĩ nổi tiếng, và là ca sĩ chính cho những tụ điểm.

Mỗi lần anh đến tụ điểm, anh luôn yêu cầu bầu sô cho những người đam mê được hát trước, và anh sẵn sàng chờ đợi cho đến phiên anh. Nếu bầu sô không chịu thì anh cũng sẽ đi về, không hát.

Câu chuyện của anh chàng ca sĩ này, sỡ dĩ, chạm vào trái tim của chúng tôi, vì hai chữ cầu nguyện.

Cầu có nghĩa là mong muốn một điều gì đó sẽ xẩy ra đúng với ý mình mong muốn. Và Nguyện là khi đạt được điều cầu mong muốn rồi thì sẽ đi thực hiện việc giúp người khác đạt được đúng điều mình cầu được.

Vì có thời gian dài sinh hoạt trong tâm linh, nên hai chữ cầu nguyện với chúng tôi khá quen thuộc. Tất cả những người quen của chúng tôi, khi đến sinh hoạt với chúng tôi, đều hiểu rất rõ ràng về định nghĩa của hai chữ cầu nguyện này.

Bởi vì, chỉ có cầu mà không có nguyện thì chỉ là cầu suông vô ích, và nếu như không có cầu, không có mục đích, thì nguyện giúp được gì cho ai, khi cả chính mình cũng không biết rõ mục đích của mình là gì.

Cho nên, nếu đem tách riêng hai chữ cầu và nguyện thì cả hai đều không đạt được kết quả, nhưng khi đem cầu và nguyện gắn vào nhau, thì lại mang một định hướng hết sức rõ ràng.

Vì Cầu sẽ là mục đích mình muốn đạt đến, và Nguyện giúp đỡ người khác cũng đạt được như mục đích của mình. Cầu giúp cho Nguyện biết rõ phải làm gì, còn Nguyện giúp cho Cầu thêm động lực để thực hiện bằng được cái mình mong cầu.

Chúng ta ngày nay, hình như đã quen với cách sử dụng cầu nguyện như là cầu mong điều gì, mà không hề có động lực nào thúc đẩy. Cho nên, cầu nguyện theo lý lẽ bây giờ, giống như cầu cho có lệ, cầu để gọi là có cầu, mà không hề muốn những điều cầu đó thành sự thật.

Sự thật đã chứng minh rất rõ ràng, ngày nay, chúng ta cầu nguyện mỗi ngày, nhưng những gì chúng ta cầu nguyện ít khi nào đạt được. Mà nếu có đạt được thì chúng ta cũng chẳng bao giờ thực hiện nguyện cả. Vì với chúng ta, cầu nguyện cũng đồng nghĩa với cầu.

Câu chuyện của người ca sĩ này đã chạm vào trái tim của chúng tôi, vì chúng tôi hiểu được, anh đã thật sự là người biết cầu nguyện.

Anh biết cầu xin tổ nghiệp cho anh trở thành ca sĩ nổi tiếng, và anh nguyện sẽ giúp đỡ bất cứ ai có đam mê ca hát muốn trở thành ca sĩ, và anh đã và đang tiếp tục thực hiện lời nguyện của mình.

Cho nên, khi nào bạn muốn cầu nguyện việc gì, bạn nên lưu ý, hai chữ cầu nguyện đi chung thì ý nghĩa khác với hai chữ cầu và nguyện khi để riêng từng chữ.

Nếu bạn muốn cầu mà không nguyện, thì đừng thêm chữ nguyện vào, và ngược lại. Trên thức tế, nếu bạn muốn đạt được điều bạn cầu thì bạn phải có nguyện đi chung.

Không có nguyện thì cầu của bạn sẽ không có đủ động lực để thúc đẩy điều bạn cầu thành hiện thực. Giá trị của cầu nguyện chỉ có thể đạt được, khi cầu và nguyện được ghép đôi với nhau.

Qua một thời gian dài sinh hoạt về tâm linh chúng tôi đã rút ra một vài điều về cầu nguyện như sau:

  • Cầu: Có nghĩa là, khi chúng ta cầu việc gì, thì chỉ nên cầu Một Việc mà thôi, và khi cầu việc gì thì phải Bắt Tay Vào Làm, chứ không phải Ngồi Chờ “Ơn Trên” ban phát mà không làm gì hết.

Việc này, cũng giống như bạn đang đói thì bạn phải có hành động thực tiễn là bạn ăn, chứ không thể nào cầu cho bạn no, mà bạn no được.

  • Khi chúng ta cầu một điều gì, chúng ta luôn luôn phải có một điều nguyện theo sau. Điều nguyện đó, như một lời hứa với lương tâm của chính mình, và mình phải thực hiện. Dĩ nhiên, chúng ta không phải nhất định thực hiện trong một khoảng thời gian quy định nào, mà tùy hoàn cảnh thích hợp để thực hiện.
  • Khi chỉ có Nguyện mà không có Cầu, thì đó cũng chỉ là lời hứa suông, vì chưa có kết quả, thì làm gì có kinh nghiệm để hướng dẫn, giúp người.

THAM

album-art

00:00

TẢI MP3 – CHÂN TRÚ LẠC
TẢI MP3 – DIỆU LIÊN
TẢI MP3 – HỒNG TRẦN
TẢI MP3 – MỘC LAN

Bạn Thân Mến,

Tham là một chủ đề lớn, nhưng ít ai lại muốn nói về tham. Có lẽ, trong cách tư duy của chúng ta, tham được coi như những “độc tố”, những gì liên quan đến xấu xa, tội lỗi như câu chuyện sau đây:

Trước năm 1975, ông là một nhà thầu khoán của lính Mỹ. Cái gì lính Mỹ cần trong sinh hoạt như: giặt ủi quần áo, giầy dép, hay dụng cụ cá nhân, ông đều thầu. Ngay cả như rác trong các khu quân sự của lính Mỹ, ông cũng thầu.

Mỗi một ngày, những chuyến xe ra vào trại lính Mỹ của công ty ông, ít nhất cũng tới cả chục lần. Cứ mỗi lần xe ra vào như vậy, thì những con số trong sổ ngân hàng của ông thay đổi, tăng liên tục, từ ngày này sang ngày khác.

Nếu không có sự thay đổi năm 1975, chắc tên ông cũng nằm trong danh sách những người giầu có ở miền nam.

Sau năm 1975, tất cả những kinh doanh của ông không còn tồn tại. Với tài sản của ông, chuyện cơm áo gạo tiền trong đời sống hàng ngày, không thành vấn đề. May mắn cho ông, trước khi chính sách đổi tiền của chính phủ mới xẩy ra, ông đã mua vàng để cất, thay vì ông để tiền trong ngân hàng qúa nhiều.

Vì vậy, khi sống trong một chế độ mới không thích hợp, ông quyết định mua tầu vượt biên.

Chiếc tầu vượt biên của ông cũng khá lớn, có thể chuyên chở được hơn 800 người. Trung bình mỗi người muốn đi vượt biên, phải trả cho ông từ 3 đến 5 lượng vàng. Có nghĩa là, khi tầu của ông cập bến tại Mã lai, ông đã có trong tay ít nhất hơn 2,000 lượng vàng.

Nếu ai đã từng sống trong trại tỵ nạn thì đều biết, chỉ cần có một lượng trong tay, cũng đã có một cuộc sống “huy hoàng” nơi trại tỵ nạn.

Với số vốn hùng hậu của ông, khi đến trại tỵ nạn, ông lại tiếp tục kinh doanh, và tiếp tục cộng thêm những lượng vàng mới vào trong gia tài của ông.

Gia đình của ông lúc đó, chỉ có hai vợ chồng và hai đứa con nhỏ, một trai và một gái. Trước khi được phái đoàn Mỹ chấp nhận cho gia đình ông được định cư, ông đã đổi hơn nửa số vàng thành tiền đô. Sau đó, ông chuyển khoản cho một người thân của ông ở Mỹ.

Ngày gia đình ông đặt chân đến Mỹ, trong khi, những người tỵ nạn khác còn đang sống nhờ sự trợ cấp của chính phủ, thì ông đã có một số tiền khá lớn trong ngân hàng.

Nói đến những người Việt tỵ nạn tại Hoa Kỳ thì có thể phân chia làm bốn gia đoạn khác nhau.

Giai đoạn một: những người Việt tỵ nạn năm 1975, khi nước Mỹ rút quân về nước. Những người Việt tỵ nạn này, ngoài một số ít đi được do may mắn, còn đa số, cũng đã làm việc với người Mỹ, nên tiếng Anh với họ không thành vấn đề. Vì vậy, khi đến Mỹ, họ đã có thể thích nghi nhanh hơn so với những người tỵ nạn đến sau này.

Vì muốn thích nghi nhanh, cũng như vì môi trường hoàn cảnh lúc đó rất ít người Việt, nên sử dụng tiếng Anh trong nhà trở thành một thói quen. Chính vì vậy, những đứa con của họ dần dần cũng không biết tiếng Việt.

Hơn nữa, vì đã có công ăn việc làm tại các hãng xưởng ổn định, nên rất ít người Việt trong giai đoạn này, nghĩ đến phát triển về kinh doanh.

Trong gia đoạn này, hầu như những cơ sở kinh doanh của người Việt rất hiếm hoi. Nếu muốn ăn những món ăn Việt, người Việt chỉ có thể đi mua tại những chợ của người Trung Hoa.

Giai đoạn hai: Đây là gia đoạn quan trọng nhất của cộng động người Việt ở hải ngoại, bao gồm: phát triển kinh doanh, đóng góp nhiều nhân tài cho nước Mỹ, và là cầu nối giữa hai nền văn hóa Việt Mỹ một cách hài hòa nhất.

Nguyên nhân, vì những người tỵ nạn trong khoảng thập niên 80-90 đều là những chàng thanh niên, không cha, không mẹ, không người thân, vì đã, hay gần đến tuổi phải đi nghĩa vụ quân sự, nên gia đình chắt chiu lắm mới có thể cho đi vượt biên.

Vì vậy, khi được định cư tại nước Mỹ, ngoài việc đầu tư vào học vấn, họ cũng học những nghành nghề kiếm được đồng lương cao hơn, để giúp đỡ cho thân nhân còn ở Việt Nam. Ngoài số vốn Anh Ngữ được đào tại các trường đại học, họ còn một số vốn về Việt Ngữ khá giỏi. Cho nên, họ đã có thể sử dụng cả hai ngôn ngữ một cách lưu loát, trong khi cộng đồng người Việt cũng bắt đầu khá đông.

Họ đã biết kết hợp với những người Việt gốc Hoa để bắt đầu lấn chiếm sang lĩnh vực kinh doanh, mà trước đây, do cộng đồng người Hoa đóng vai trò chính.

Những chàng thanh niên với những bầu nhiệt huyết, vì không có thân nhân, nên xem bạn bè như những người thân, đã biết đoàn kết và giúp đỡ nhau trong tất cả mọi lĩnh vực bao gồm: học vấn, kiếm nghành nghề phát triển, đầu tư kinh doanh, v.v. Họ đã xông xáo tham gia vào tất cả mọi nghành nghề để học hỏi, và sau đó, mở ra những cơ sở kinh doanh của người Việt.

Những tầng lớp bác sĩ, kỹ sư, tiến sĩ xuất chúng của người Việt bây giờ, phần lớn đều xuất thân trong giai đoạn này.

Gia đoạn ba: Những con Lai và đoàn tụ gia đình. Khi những người con lai và những người được bão lãnh đoàn tụ đến nước Mỹ, họ đã có sẵn những nền tảng mà những người trong giai đoạn hai đã xây dựng. Họ tiếp tục phát triển xây dựng cộng đồng người Việt, nhưng nếu đem so với giai đoạn hai thì không bằng, vì họ thiếu đi những “cơ hội bị bắt buộc” của những người trong giai đoạn hai.

Tại sao lại gọi là những “cơ hội bị bắt buộc”? Vì những chàng trai trẻ thân cô thế cô này, ngoài việc phải cố gắng học ra, họ không còn có thể làm gì khác. Họ phải học vì những khát khao mong mỏi của người thân tại quê nhà. Họ phải học vì họ có được những sự trợ cấp của chính phủ, mà chính nhờ sự trợ cấp này, họ mới có tiền để sinh hoạt.

Cứ 10 người thanh niên tỵ nạn lúc đó đã có ít nhất 7 người đăng ký học chương trình đại học. Có những người, vì sự túng thiếu của gia đình bên Việt Nam, họ vừa phải đi làm buổi sáng, nhưng đến tối, họ vẫn tiếp tục đi học.

Nhưng với những người trong giai đoạn ba thì khác. Họ không còn thân cô thế cô nữa. Họ đi với cả gia đình như những người con lai, hay nếu được bão lãnh thì cũng đã có người thân bảo lãnh chăm lo. Vì thế, họ thiếu đi những “cơ hội bị bắt buộc”, nên những người Việt tỵ nạn trong gia đoạn ba, khoảng thập niên 90-2000, ít đầu tư vào lĩnh vực học vấn, mà lại chú trọng hơn đến lĩnh vực kinh doanh.

Giai đoạn bốn: Chương Trình H.O. Qua chương trình nhân đạo, chính phủ Mỹ đã quyết định chấp nhận những quân nhân từng chiến đấu với quân đội Mỹ, sau khi thay đổi chế độ bị bắt đi học tập cải tạo, được đi định cư tại Mỹ.

Trong chương trình này, những người cựu quân nhân có thể đi cùng gia đình với con cái dưới 21 tuổi và chưa có lập gia đình.

Vì là những người đến định cư tại Mỹ sau khi cộng đồng người Việt đã được những người trong giai đoạn hai và ba gầy dựng và phát triển, nên những người Việt tỵ nạn trong giai đoạn bốn gặp nhiều khó khăn hơn trong việc phát triển kinh doanh cũng như học vấn.

Đa số những cựu quân nhân đã rơi vào độ tuổi U50, và con cái cũng khá lớn tuổi, nên khó học tiếng Anh hơn. Vì vậy, những người Việt trong giai đoạn bốn này, trong kinh doanh thường phát triển về nghề thuộc về phục vụ nhiều hơn.

Ông thầu khoán là người được định cư ở Mỹ trong giai đoạn hai. Trong khi, những chàng thanh niên thân cô thế cô đang miệt mài kinh sử, với kinh nghiệm kinh doanh có sẵn, lại có thêm sức mạnh về tài chánh, cho nên ông đã sớm có những định hướng về tương lai cho gia đình của ông.

Trong khoảng thời gian những năm 85-90, nghành may mặc gia công của người Việt đang phát triển mạnh mẽ. Ông đã mở vài hãng may, và bắt đầu kinh doanh với một số thợ Việt, và những người thợ Mễ, di dân bất hợp pháp.

Nhờ nắm đúng thời cơ, tài sản của ông tiếp tục được gia tăng, và ông đã mua những cơ sở thương mại lớn để cho thuê.

Sau này, khi hai đứa con của ông, người con trai tốt nghiệp làm bác sĩ chỉnh hình, và con gái làm bác sĩ nhãn khoa, ông thay đổi những trung tâm thương mại của ông thành những cơ sở thương mại về Y khoa.

Gia sản của ông bây giờ có thể có từ vài chục triệu, hay cả trăm triệu đô cũng không ai biết rõ. Nhưng những sự việc xẩy ra cho gia đình ông, mà ai quen biết ông, cũng không lấy gì làm lạ.

Khi con gái của ông quyết định lấy chồng thì ông nhất quyết không cho. Lý do của ông rất đơn giản, vì ông sợ con rể của ông, thấy ông có nhiều tiền nên sẽ tìm cách “đào mỏ” nhà ông.

Con gái ông vì không chấp nhận cái lý lẽ vô lý của ông, nên hai cha con đã có những cuộc xung đột lớn, và hậu quả, con gái ông vẫn quyết định kết hôn và không nhận ông làm cha.

Con gái ông, sau khi kết hôn có hai đứa con. Không biết vì nguyên nhân buồn phiền gì mà cô bị điên, và phải đưa vào nhà thương tâm thần. Sống trong nhà thương tâm thần 4 năm, cuối cùng, cô tự tử chết, mà ông cũng không đến dự đám tang, và ông cũng không công nhận hai đứa cháu ngoại.

Đứa con trai còn lại của ông, cũng yêu thương một người con gái, nhưng ông vẫn không cho con trai ông ký giấy hôn thú với người con gái đó. Nguyên nhân duy nhất của ông, nếu làm giấy hôn thú thì cô gái kia sẽ chiếm lấy văn phòng bác sĩ mà cậu con trai của ông đang điều hành.

Người con trai không dám cãi lời ông, nên chỉ sống với cô gái đó mà không kết hôn. Cho đến một ngày, khi đang khám cho bịnh nhân, người con trai của ông cảm thấy khó chịu, nên đóng cửa về nhà nghỉ, và sau đó rơi vào hôn mê.

Ông đã tốn kém khá nhiều tiền để chữa trị, nhưng vẫn không có kết quả. Sau bốn năm sống như người thực vật, người con trai của ông cũng ra đi, để lại ông sống cô độc một mình.

Năm nay ông đã hơn 90 tuổi, không con, không cái, không người thân, sống cô độc một mình với khối tài sản lớn, tranh đua gìn giữ cả đời. Cuối cùng, ông còn lại gì, khi khối tài sản đó cũng không thể mang đi khi ông nằm xuống.

Câu chuyện của ông, ai nghe qua cũng đều phán rằng, tại ông qúa tham nên ông mới gặp quả báo này.

Còn bạn thì nghĩ sao? Có phải vì quá tham mà ông đang gánh lấy những quả báo, sống cô độc một mình không? Như vậy, có phải là tham luôn đem đến những hậu quả xấu không?

Dĩ nhiên, chúng tôi đồng ý với bạn, Tham có thể đem đến những hậu quả xấu, nhưng Tham cũng có thể đem đến những kết quả tốt.

Bạn không tin ư? Vậy chúng ta hãy cùng nhau quan sát và nhìn sâu vào Tham, xem Tham đem lại những kết quả tốt nào?

Hãy bắt đầu bằng việc bạn đang chọn lựa cách sống lành mạnh, không hút thuốc, không uống rượu, ăn uống điều độ, sinh hoạt ngủ nghỉ đúng giờ, v.v. vậy thì bạn có tham không?

Có chứ, vì định nghĩa của Tham là một nguồn động lực. Không có nguồn động lực này, chúng ta không thể làm được những việc như vừa kể trên. Chúng ta đang tham sống, có phải vậy không? Vậy thì cái Tham này đâu có xấu. Ngược lại, tất cả các tổ chức về y tế trên thế giới, đều khuyến khích chúng ta làm như vậy để duy trì sự sống tốt nhất.

Đứa bé trong bụng mẹ đã phải chịu rất nhiều sự thay đổi, tác động của những hóa chất, nhưng vì Tham Sống, nên mới có thể có được một cơ thể khỏe mạnh khi chào đời.

Người tu tập, cũng Tham đạt được sự An Lạc, nên mới có đủ động lực để tiếp tục cố gắng tu hành.

Người học sinh, cũng phải Tham học hỏi mới có động lực để vượt qua các kỳ thi khó, và đạt được những học vị cao quý.

Ở bất cứ đâu, chúng ta cũng đều thấy có mặt của Tham. Nếu chúng ta không có động lực của Tham thì chúng ta đã không có mặt trên thế gian này.

Như vậy, tại sao khi chúng ta nói đến Tham, chúng ta không dám tự hào như chúng ta có thành công này, hay thành công khác. Nguyên do bởi vì, chúng ta đã có những định kiến sai lầm về Tham. Chúng ta đã quy định cho Tham là xấu, là những gì cần phải diệt trừ hay kiềm hãm lại.

Trong khi, bản chất của Tham thuộc về Trung Tính. Nghĩa là, không xấu và không tốt. Khi chúng ta sử dụng động lực Tham, chúng ta có quyền hướng cái động lực Tham đến mục đích tốt, thì cái Tham đó lại là cái Tham mà chúng ta làm cho cuộc đời này đẹp hơn.

Xấu hay tốt trong cuộc đời cũng vậy. Cũng là Trung tính. Xấu với người này, nhưng có thể đẹp với người khác, hay ngược lại.

Một đứa bé bướng bỉnh trong lớp học, luôn hỏi cô giáo tại sao về tất cả các vấn đề nó học; đối với cô giáo thì đứa bé đó là đứa bé ngỗ nghịch, bướng bỉnh, không chịu nghe lời. Nhưng tương lai đứa bé có thể là một bác sĩ tài ba, có thể cứu được rất nhiều người, vì nhờ biết hỏi tại sao để tìm ra nguyên nhân gốc rễ của bịnh, để chữa trị tận gốc.

Vấn đề là, nếu đứa bé kém may mắn gặp phải người thầy hay cô, không đủ khả năng để giải thích và hướng dẫn, nên cuối cùng, đứa bé thay vì có thể trở thành một người hữu dụng, thì nay thành người vô dụng, thích chống đối lại xã hội và con người.

Tham cũng như vậy. Nếu chúng ta không nhìn được Tham dưới góc nhìn tích cực, mà cứ nhìn Tham theo góc nhìn tiêu cực thì cuộc chiến giữa Tham trong tích cực, và tiêu cực, vẫn luôn đối kháng nhau, khiến cho nội tâm của chúng ta không bao giờ được yên ổn.

Đừng nói gì xa xôi, khi bạn bắt đầu một bước chân đi, bạn đã có Tham rồi, bạn phải có động lực thúc đẩy thì đôi chân của bạn mới di chuyển được. Nếu chẳng may, bạn bị một tai nạn nào đó, khiến đôi chân bạn không thể di chuyển. Cho dù bạn có tham, có động lực, cũng chưa chắc bạn đã làm được.

Cho nên, cứ không phải Tham là xấu, mà trong Tham có phần tốt nữa. Cái sai lầm lớn của chúng ta là, đã có sẵn định kiến Tham thuộc về Xấu, thuộc về tiêu cực. Và muốn tốt và có tích cực thì phải diệt tham.

Trong khi, muốn đạt được việc tốt và có tích cực, thì chúng ta có thể hướng cái động lực Tham đó vào những thói quen tốt, những suy nghĩ tích cực để đạt được điều đó.

Chúng ta đang sống trong thế giới của nhị nguyên, thế giới của đối đãi, đa số tất cả những gì đang xẩy ra với chúng ta luôn có hai mặt. Vì vậy, đòi hỏi chúng ta phải có sự lựa chọn cho đúng đắn. Nếu không thì chúng ta sẽ gánh lấy hậu quả từ sự lựa chọn của chúng ta.

Tham trong thế giới nhị nguyên luôn ở dạng trung tính. Nghĩa là, chúng ta có quyền lựa chọn cái Tham nghiêng về bên nào. Nếu nghiêng về bên xấu thì chúng ta có những hành xử xấu, không được đẹp. Nếu nghiêng về bên tốt thì chúng ta có những hành xử tốt mang đến những niềm vui cho người và cho chính mình.

Cũng như câu chuyện của ông thầu khoán, thay vì tham để giữ tiền thì ông có thể Tham vào việc giúp văn phòng khám mắt của con gái và con rể ông khám miễn phí cho người nghèo. Hay hỗ trợ cho con trai ông nghiên cứu ra những dụng cụ hữu ích, với giá cả phải chăng, để giúp cho những người khó khăn về tài chánh vẫn có thể sử dụng dụng cụ, làm cho cơ thể khỏe mạnh.

Ông cũng có thể đầu tư vào tương lai cho hai đứa cháu ngoại của ông, để sau này có được những công ăn việc làm tốt, giúp ích cho đời. Ông cũng không cản ngăn con trai ông cưới cô gái mà anh ta yêu, biết đâu, ông lại có thêm những đứa cháu nội, và con trai của ông, cũng biết đâu, vẫn tiếp tục sống vì bổn phận và trách nhiệm của người cha.

Hay, ông có thể đầu tư vào những sự nghiên cứu của các bác sĩ, để tìm ra những dụng cụ hay cách thức chữa trị mới, giúp cho đời sống con người có thể sống tốt đẹp hơn, và ít bịnh tật hơn.

Ông có cả trăm cái Tham tích cực có thể đem đến rất nhiều lợi ích cho đời, cho người, và cho chính cá nhân ông. Nhưng ông không chọn những cái Tham đó. Ngược lại, ông chọn cái tham, giữ của. Để rồi, cuối cùng ông chỉ còn lại một mình, ông sống cô độc với số tiền khổng lồ, mà khi chết rồi, ông cũng không thể mang theo và cũng không thể sử dụng cho bản thân của ông được.

Khi bạn biết sử dụng Tham đúng cách, bạn sẽ thấy, Tham không phải là xấu hoàn toàn, mà Tham cũng có mặt tốt, tích cực, mà chúng ta có thể chọn lựa.

Khi chúng ta chọn lựa Tham tích cực, chúng ta không cần phải phí thời gian đi tìm tham tiêu cực xấu xa để tiêu diệt hay kiềm hãm, vì cái tham đó chưa từng hiện hữu.

Trên thực tế, vốn dĩ, không thể nào, chúng ta có thể diệt hay kiềm hãm được cái Tham của chúng ta lâu dài.

Nếu chúng ta làm được, thì chắc chắn, chúng ta đã về hưởng nhan thánh Chúa, hay về miền cực lạc lâu rồi.

Đơn giản, vì khi không có động lực của Tham thì không ai trong chúng ta có thể còn tồn tại được.

Chọn Tham xấu hay Tham tốt, Chọn Tham tích cực hay tiêu cực, tất cả đều nằm trong tầm tay của chúng ta, mà không phải đến từ nghiệp nào trong kiếp trước tác động, hay bất cứ một sự trừng phạt nào từ cõi trên.

Tất cả đều phát xuất từ sự lựa chọn của chúng ta mà ra cả.

Vậy, khi sử dụng Tham để tìm An có được không? Thật tuyệt vời, nếu bạn biết dùng đúng cách.

Thí dụ như, trong câu chuyện khi đút cho người thân của chúng tôi ăn, nếu chúng tôi Tham công tiếc việc, cứ đút cho xong, mặc kệ người thân của chúng tôi có bị sặc hay không, miễn chúng tôi đút cho người thân ăn xong là đủ làm tròn bổn phận.

Nhưng theo các bác sĩ tây y, những người già, khi mà bị sặc nhiều quá sẽ khiến thức ăn có thể lọt vào phổi. Khi thức ăn lọt vào phổi thì sẽ gây ra sưng hay viêm phổi, và 80% những những người già chết vì bị sưng hay viêm phổi.

Như vậy, thay vì Tham công tiếc việc, chúng tôi lại biến thành Tham An cho người thân, và chỉ tập trung vào từng muỗng đút, làm sao cho người thân ăn không bị sặc.

Không những người thân của chúng tôi có được bữa ăn ngon lành, và yên ổn, mà ngay chúng tôi, cũng đạt được sự an vui khi đã biết, biến cái Tham làm những việc khác thành cái Tham An cho người thân và chúng tôi.

Hay như câu chuyện mà chúng tôi tức giận người thân của chúng tôi khi vừa tắm xong lại đi đại tiện. Nếu như lúc đó, chúng tôi cứ Tham giận, và cứ tiếp tục phiêu lưu trong những suy nghĩ tiêu cực, thì cơ hội rơi vào trầm cảm của chúng tôi chỉ là chuyện sớm hay muộn mà thôi.

Nhưng lúc đó, chúng tôi đã biến cái Tham giận thành Tham An. Chính nhờ động lực của Tham An, đã kéo chúng tôi ra khỏi vòng cuốn hút của giận.

Nhờ đó, chúng tôi mới có thể giải quyết vấn đề một cách rốt ráo để đem An đến cho chúng tôi, và người thân của chúng tôi.

Qua đó, chúng ta thấy, đâu phải Tham chỉ có xấu như câu chuyện buồn của ông thầu khoán, mà Tham khi chúng tôi biết hướng động lực của Tham vào góc độ tích cực thì mỗi việc chúng tôi trải qua, đều có những kết quả tốt và giúp chúng tôi kéo dài được cái An trong ngày.

Không biết bạn thì sao, nhưng với chúng tôi Tham không hề xấu chút nào. Có xấu chăng, là vì, chúng ta đã lựa chọn sử dụng Tham vào góc độ tiêu cực mà thôi.

Vì vậy, Tham vốn không có tội lỗi gì, nên không cần phải diệt trừ hay kiềm hãm Tham. Chỉ cần chúng ta sử dụng Tham đúng chỗ thì Tham là một nguồn năng lượng vô cùng hữu dụng, khi ứng dụng trong bất cứ việc gì chúng ta muốn đạt được sự thành công.

LỰA VÀ CHỌN

album-art

00:00

TẢI MP3 – TRẦN THIỆN TÍCH

Bạn Thân Mến,

Ở hải ngoại, phát huy và bảo tồn văn hóa Việt là điều mà hầu hết các cộng đồng người Việt trên toàn thế giới luôn quan tâm. Chúng ta ca ngợi văn hóa Việt, chúng ta tự hào về chữ Việt. Nhưng ít ai trong chúng ta hiểu được tinh hoa của ngôn ngữ Việt trong việc ứng dụng làm sao sống được An Vui lâu dài nhất.

Trong ngôn ngữ Việt, có một cách dùng từ thật tuyệt vời, đó là từ ghép (kép). Có thể nói, rất ít ngôn ngữ trên thế giới có được cách dùng từ ghép độc đáo này. Vì sao? Vì ngôn ngữ Việt là ngôn ngữ của đơn âm, nên khi ghép hai từ vào với nhau, cũng không khiến chữ quá dài.

Thật ra, cũng ít ai trong chúng ta có thắc mắc tại sao trong ngôn ngữ Việt lại có thêm những từ ghép để làm gì? Chúng ta cứ sử dụng như một thói quen, mà cũng chẳng hề đi tìm hiểu ý nghĩa đó là gì?

Trên căn bản của tiếng Việt, khi hai từ ngữ được dùng riêng, thì mỗi từ vẫn có ý nghĩa riêng, nhưng khi ghép lại với nhau thì lại mang một ý nghĩa hoàn toàn khác, trong đó bao gồm: giải thích về định nghĩa, bổ sung làm rõ nghĩa, về trạng thái, về tình trạng, và cách thức giải quyết vấn đề, v.v.

Thí dụ như hai từ Lo Âu. Âu là tiếng Hán, và tiếng Việt có nghĩa là Lo. Lo được gắn với Âu, là nói về định nghĩa của từ Âu có nghĩa là Lo. Khi hai từ Lo và Âu dùng cho định nghĩa, chúng ta có thể hoán chuyển vị trí trước hay sau của hai chữ, mà vẫn không làm thay đổi định nghĩa như: Âu Lo hay Lo Âu, thì chúng ta vẫn không thể hiểu sai về định nghĩa là gì.

Nhưng Lo Lắng thì lại là khác. Trên căn bản, định nghĩa của Lo là một trạng thái tâm lý diễn tả một ý niệm khởi sinh, khiến cá thể phải tư duy, động não. Còn Lắng là lặng xuống, lặng yên (nhờ có lặng xuống nên mới có an hay yên).

Như vậy, Lo Lắng không phải chỉ có Lo không, mà Lo Lắng lại dùng như một phương pháp giải quyết vấn đề, để diễn tả, khi chúng ta có lo âu thì muốn giải quyết cái lo đó, chúng ta phải lắng lòng xuống, phải có An, mới giải quyết được cái Lo.

Ở đây, chúng ta không thể đảo ngược như từ Lo Âu, vì chúng ta không thể nói Lắng Lo được. Vì sao? Vì khi lòng đã Lắng rồi, thì Lo không thể xuất hiện.

Hay như hai chữ Lụt Lội. Lụt là tình trạng xẩy ra khi mưa quá nhiều, hay bão, tạo ra nước từ trên nguồn đổ xuống vùng trũng, tạo tình trạng ngập; và Lội là một hành động dùng chân bước đi trong nước.

Như vậy, hai từ Lụt Lội dùng để diễn tả, sự sống còn của một cá thể, khi thấy nước bắt đầu dâng cao thì phải mau lội vào chỗ cao ráo để sống còn, trước khi con nước dâng cao.

Chúng ta không bao giờ nghe “lụt bơi” cả. Vì khi đợi nước dâng đủ cao, cho dù, chúng ta có biết bơi thì sức nước đã quá mạnh có thể cuốn chúng ta đi, nên khó sống sót.

Trong khi, nếu chúng ta ghép hai từ Ngập Lụt lại với nhau thì lại diễn tả một quá trình đi giải quyết vấn đề, có nghĩa là, khi nước bắt đầu Ngập thì sẽ tạo ra Lụt nếu chúng ta không chịu giải quyết.

Hoặc như hai chữ chia xẻ. Chia nghĩa là phân ra từng phần một, và xẻ nghĩa là chẻ ra, bổ ra, banh ra, như: banh da xẻ thịt. Như vậy, định nghĩa của chữ chia xẻ là nhờ sự bổ ra, chẻ ra, mà chúng ta có thể phân ra từng phần. Trong khi ngày nay, phần đông chúng ta lại dùng là chia sẻ. Chữ sẻ không có một định nghĩa nào để bổ sung cho chữ chia cả.

Ngược lại, chúng ta có thể nói xẻ chia hay chia xẻ, cũng cùng một định nghĩa, mang tính chất bổ sung cho nhau làm rõ nghĩa hơn. Nhưng nếu áp dụng cho hai chữ chia sẻ, thì chúng ta có vấn đề, vì chúng ta không thể dùng sẻ chia, như dùng từ xẻ chia được.

Tiếc thay, ngày nay, ít ai trong chúng ta lại để ý đến những ý nghĩa sâu xa, mà cha ông chúng ta đã tích lũy những kinh nghiệm sống còn, những kinh nghiệm giải quyết vấn đề, hay giải thích định nghĩa rõ ràng, tránh gây ra hiểu lầm giữa cá nhân với tập thể, v.v, đã trao truyền lại cho chúng ta.

Chúng tôi không phải là nhà ngôn ngữ học. Chúng tôi cũng không phải là những nhà sử học. Chúng tôi chỉ là những người rất bình thường như bạn, nhưng khi thực tập làm sao kéo dài An trong cuộc sống, chúng tôi đã quan sát và vô tình hiểu được những dụng ý sâu xa của các bậc tiền nhân đã dầy công tích lũy, trải nghiệm, và để lại cho các con cháu sau này.

Có thể nói, nếu đem những sự trải nghiệm quý báu để làm sao sống còn, và đạt được trạng thái An nhanh nhất thì tổ tiên của chúng ta, cũng không hề thua kém với bất cứ một tôn giáo nào khi ứng dụng để đạt được An, mà có khi còn vượt trội hơn là khác.

Trở lại hai chữ Lựa và Chọn. Nếu chúng ta phân ra làm hai thì Lựa nghĩa là phân ra, lọc ra, sàng lại, và Chọn nghĩa là lấy ra cái gì tốt nhất.

Khi lựa chọn được biến thành từ ghép thì Lựa Chọn diễn tả một trình tự có trước có sau, nghĩa là sàng lọc đi những cái xấu, để lại những cái tốt, và trong những cái tốt đó, chọn ra cái tốt nhất.

Trong khi, Chọn Lựa lại diễn tả về quá trình thẩm định, nghĩa là, chọn trong một số nào đó, rồi sàng lọc bỏ những cái xấu đi, còn lại những cái tốt.

Thí dụ: Bạn vừa nhận được hóa đơn: tiền điện, tiền nước, tiền nhà cùng một lúc, tổng cộng hết $2,000 và bạn đang có $2,000. Bạn quyết định chọn trả tiền hết cho cả ba hóa đơn, và ở đây bạn không cần lựa.

Cũng trong trường hợp trên, nhưng bạn lại chỉ có tiền đủ trả tiền nhà, nhưng không đủ tiền để trả tiền điện, nước thì bạn phải dùng Lựa Chọn, nghĩa là, cho dù bạn có lựa trả tiền điện, nước, nhưng nếu bạn không có nhà, thì cũng vô dụng. Vì vậy, trong ba hóa đơn, bạn sẽ chọn ra cái tốt nhất, đó là trả tiền nhà.

Vì với bạn trả tiền nhà quan trọng hơn, nếu không có nhà thì bạn sẽ không có nơi cư trú.

Sau đó bạn mới trả tiền nước, vì nếu nhà không có nước, bạn sẽ không thể giải quyết chuyện vệ sinh cá nhân hay ăn uống. Và cuối cùng là tiền điện, vì không có điện bạn vẫn có thể sử dụng đèn dầu, hay củi than để nấu ăn.

Dĩ nhiên, giữa chọn và lựa có thể nói, về định nghĩa gần giống nhau, nhưng trên thực tế, khi ứng dụng vẫn có sự khác biệt.

Vậy bốn chữ Chọn Lựa và Lựa Chọn khi ứng dụng trong việc kéo dài An có khác nhau không? Rất khác đó bạn.

Thí dụ, trong qúa trình đi tìm giải pháp, bạn cần sử dụng đến 3 bước: so sánh, phân tích, và sắp xếp thứ tự quan trọng.

Trong so sánh và phân tích, thì bạn phải Lựa hay sàng lọc bớt các giải pháp có nhiều khuyết điểm hay hậu quả, để còn lại, những giải pháp có nhiều ưu điểm hay kết quả. Sau đó, đến giai đoạn sắp xếp thứ tự quan trọng, bạn mới bắt đầu chọn những giải pháp nào tốt nhất, tốt nhì, tốt ba, v.v. để sắp xếp trước, sau. Như vậy, sẽ giúp cho bạn không hoang mang trong việc phải chọn giải pháp nào để giải quyết.

Ngược lại, nếu bạn dùng phương pháp Chọn Lựa, có nghĩa là, trong qúa trình tìm giải pháp, bạn có 10 giải pháp, nhưng bạn chỉ chọn ra năm, mà chưa có sự sàng lọc kỹ lưỡng.

Sau đó, bạn mới sàng lại trong 5, ra những cái tốt. Vì còn lại những cái cùng tốt, nhưng lại không có chọn, nên không biết cái nào tốt nhất, tốt nhì, tốt ba, v.v., Thế nên, bạn sẽ rơi vào trạng thái hoang mang không biết chọn cái nào. Chưa kể đến, khi bạn chọn mà không có lựa sàng lọc thì có thể những giải pháp mà bạn bỏ đi, lại thích hợp hơn với những gì bạn đã chọn.

Chính vì vậy, trong qúa trình đi tìm phương pháp giải quyết một vấn đề để đạt được An, thì phương pháp Lựa Chọn lại được sử dụng nhiều hơn là phương pháp Chọn Lựa.

Dĩ nhiên, ai trong chúng ta cũng có quyền Lựa Chọn hay Chọn Lựa. Nhưng nếu bạn muốn đạt được An kéo dài trong cuộc sống bạn mà không bị hoang mang, thì bạn nên cẩn thận khi lựa chọn phương pháp là Lựa Chọn hay Chọn Lựa.

Một câu chuyện khá lý thú trong kinh doanh về Lựa Chọn và Chọn Lựa.

Có một người chủ một hãng may, đến cuối tháng chưa được công ty trả tiền, nên số tiền dự trữ, chỉ vừa đủ trả tiền nhà nhưng không đủ trả tiền thợ.

Người chủ đó, sau đó đã Chọn là trả tiền mướn tiệm, và Lựa thiếu lại tiền thợ. Người chủ đó quan niệm rằng, nếu không trả tiền mướn tiệm thì làm gì có tiệm để mà kinh doanh; trong khi, thiếu tiền thợ đến tháng sau cũng không sao.

Trên thực tế, người thợ lại cần tiền để sinh hoạt mỗi ngày; trong khi, tiền mướn tiệm, dù có trả trễ một tháng, cũng không sao. Vì theo luật thuê mướn cửa tiệm, nếu chủ đất muốn đuổi người thuê mướn thì phải qua 90 ngày, tức 3 tháng, khi người thuê không trả tiền thuê mướn thì mới có thể thưa kiện để đòi lại chỗ cho thuê.

Như vậy, khi người chủ hãng may này chọn trả tiền mướn tiệm trước sẽ để lại những hậu quả như sau:

  • Thợ vì thiếu tiền sẽ nổi loạn, đình công, không chịu may hàng, khiến cho những mặt hàng không thể hoàn tất, nên không thể giao hàng để có tiền cho cơ sở kinh doanh tồn tại.
  • Mất uy tín với hãng lớn nên không thể nhận được những đơn đặt hàng, khiến cho tài chánh càng lúc càng eo hẹp, cuối cùng dẫn đến phá sản.
  • Thợ sẽ bỏ đi kiếm hãng khác, dù có đơn đặt hàng cũng không có thợ để hoàn thành.
  • Nếu mướn được thợ mới, lại phải tốn kém thời gian và tiền bạc trong việc huấn luyện thợ mới cho thành thục. Nếu không, may sai nhiều qúa có thể phải bồi thường cho người đặt hàng, vì trễ thời gian quy định trong hợp đồng.

Và cái lơi duy nhất là người chủ hãng may, không thiếu tiền thuê mướn tiệm.

Nhưng nếu người chủ hãng may sử dụng phương pháp Lựa Chọn, thì sau khi sàng lọc, người đó chọn cái tốt nhất là trả lương cho thợ, thì tất cả các hậu quả trên không tồn tại, và cái hại duy nhất là chỉ thiếu tiền chủ phố.

Trong khi, cái lợi từ việc trả tiền thợ, giúp cho thợ tiếp tục sản xuất ra hàng, và có thể giao hàng đúng hẹn để thu tiền về từ đơn đặt hàng, rồi dùng tiền thu về đó, trả tiền nhà, thì tất cả mọi chuyện đều được giải quyết rốt ráo.

MỤC ĐÍCH AN VÀ BẤT AN

album-art

00:00

TẢI MP3 – TÂM QUANG ĐẠO

Bạn Thân Mến,

An và Bất An là việc xẩy ra trong cuộc sống của chúng ta mỗi ngày, cho dù bạn có muốn hay không.

Nhưng buồn thay, trong cuộc sống của chúng ta thì bất An lại đến với chúng ta qúa nhiều.

Vậy thì làm sao chúng ta có thể có An trong cuộc sống dài hơn, đó là chủ đề chúng tôi muốn chia xẻ với bạn hôm nay.

Đời người của chúng ta, ngay từ lúc mới sinh ra cho tới ngày mãn phần, có ai trong chúng ta không muốn được sống có nhiều An hơn; có ai trong chúng ta lại muốn sống bất An đâu chứ. Nhưng vì trong cuộc sống, chúng ta đều có rất nhiều mục đích, cho nên, chúng ta đã quên đi mục đích quan trọng nhất đó là An.

Thật ra, nếu chúng ta sử dụng sự quan sát và nhìn sâu, cho dù, chúng ta có bao nhiêu mục đích, và khi chúng ta đạt được những mục đích đó thì cuối cùng chúng ta cũng chỉ đạt được là An.

Nhưng vì chúng ta đã bị những mục đích của chúng ta lôi kéo, khiến cho chúng ta bị cuốn hút vào đó; và từ đó, chúng ta đã tạo ra rất nhiều bất An trong cuộc sống.

Chúng tôi còn nhớ một câu chuyện của một người quen khi đi vượt biên, gặp nhau trên đảo.

Trước khi đi vượt biên, người quen đã đặt mục đích là đến được đất liền thì sẽ được an vui. Sau những ngày lênh đênh trên biển cả, chín chết, một sống. Người quen của chúng tôi đã đạt được mục đích, đến đảo (đất liền).

Nhưng khi mục đích đến đảo đã đạt, người quen của chúng tôi lại rơi vào trạng thái sống không có mục đích, không biết tương lai sẽ ra sao, nên lại lo âu, phiền muộn.

Sau đó, người quen của chúng tôi lại đặt ra mục đích mới, làm sao để được các nước khác chấp nhận đi định cư thì mới có an vui. Trong khi chờ đợi đạt được mục đích mới thì lại tiếp tục sống trong phiền muộn, lo âu.

Đến khi được nước Mỹ chấp nhận cho đi định cư, và một thời gian sau gặp lại trên đất Mỹ, người quen của chúng tôi vẫn tiếp tục phiền muộn, bất an; vì cuộc sống mới nơi xứ người, có rất nhiều những khó khăn, nên lại đặt ra mục đích mới, phải học tiếng Anh cho tốt, rồi phải có việc làm thì mới có An Vui.

Một thời gian sau gặp lại, người quen lại than thở, cứ phải đi ở nhà thuê rất khó chịu, nên mục đích mới là phải làm một chủ căn nhà, mới có An Vui.

Từ khi quen nhau, lúc mới hai mươi mấy tuổi, bây giờ đã là U70, nhưng người quen của chúng tôi vẫn không có được sự An Vui, vì mục đích bây giờ lại lo cho con cháu. Dù rằng, trong đời của người quen của chúng tôi đã có rất nhiều mục đích đã đạt được. Nhưng cuối cùng, vẫn chưa thể An Vui.

Nếu một đời người, gần đến ngày nhắm mắt xuôi tay mà vẫn chưa thể đạt được An Vui, thì đến lúc nào người quen của chúng tôi mới sống được An Vui.

Không biết chúng ta sẽ có kiếp sau hay không, nếu có, mà chúng ta cũng cứ sống giống như kiếp này, thì cho dù, chúng ta có sống bao nhiêu kiếp, chúng ta cũng vẫn mãi sống trong sự phiền muộn, lo âu và bất An liên tục.

Chính vì vậy, chúng ta cần phải đặt lại mục đích An cho chính mình, và luôn hướng tất cả tâm ý vào đó, rồi đem mục đích đó, ứng dụng mỗi ngày trong cuộc sống của chúng ta. Như vậy, không phải là việc làm thiết thực và có ích hơn sao?

Chúng ta hãy bắt đầu quan sát, khi chúng ta đặt mục đích là An, và trung thành đi theo mục đích đó thì chúng ta sẽ có được những lợi ích gì?

Trước khi chúng ta đặt An thành mục đích, chúng ta cũng nên tìm hiểu về định nghĩa An là gì?

An là một trạng thái tâm lý, diễn tả nguồn năng lượng không xáo trộn, trồi lên hay sụt xuống. Khi mà nguồn năng lượng có sự trồi sụt liên tục, bất thường, thì đó gọi là bất An.

Như vậy, mục đích của An có thể bao gồm tất cả mọi mục đích mà chúng ta có thể đạt được; vì bất cứ mục đích nào muốn đạt được, đều nương tựa nơi nguồn năng lượng của An trong quá trình phát triển.

Bạn không tin ư? Vậy chúng ta hãy thử tưởng tượng, bạn muốn mở một cửa tiệm để kinh doanh, và kiếm được nhiều tiền. Nếu như bạn biết được kết quả cửa tiệm của bạn sẽ phá sản và nợ nần, bạn sẽ bất An, vậy bạn có dám mở cửa tiệm không?

Chắc chắn là không, có phải không? Sở dĩ, bạn dám mở cửa tiệm kinh doanh, vì bạn chưa biết được kết quả cửa tiệm của bạn sau này sẽ như thế nào, và bạn hy vọng, bạn sẽ thành công và đạt được mục đích của bạn.

Vậy khi thành công rồi thì bạn được gì? Sự thỏa mãn và An, có phải không?

Rõ ràng, điều cuối cùng bạn đạt được cũng chỉ là An, nhưng trong qúa trình kinh doanh cửa tiệm của bạn thì bạn đã “hy sinh” biết bao nhiêu cái An trong hiện tại, để đạt được một cái An trong tương lai, mà cái An đó, cũng không thể kéo dài, vì khi đó, bạn lại lo sợ cơ sở kinh doanh của bạn sẽ không thể tồn tại, và bạn lại bất an tiếp.

Nếu cả cuộc đời của bạn, cứ hy sinh cái An bạn đang có, rồi đạt được mục đích có An; rồi lại lo sợ mất đi thành quả của mục đích, rồi bạn lại bất an; rồi bạn lại đặt ra mục đích khác, bạn lại hy sinh cái An hiện tại v.v, vậy cuộc đời của bạn, tại sao lại có quá nhiều đau khổ, cũng là chuyện tất nhiên, có phải không?

Cho nên, khi đặt mục đích là An, không có nghĩa là, chúng ta chỉ có một mục đích An là chính, mà chúng ta có thể có bao nhiêu mục đích khác, cũng không thành vấn đề, miễn là, mỗi mục đích đều dựa trên yếu tố An trong quá trình phát triển làm chuẩn.

Thí dụ như, mục đích An khi ứng dụng trong lựa chọn người yêu. Thay vì, chúng ta chú trọng đến hình tướng, cách ăn mặc hợp thời trang, cách sinh hoạt buồn tẻ hay vui nhộn, thì chúng ta chỉ cần hỏi chính chúng ta, người được chọn này có đem đến cho mình An hay không?

Nếu như giữa chúng ta và người được chọn kia, có những cá tính đối nghịch nhau, nhưng tư tưởng chênh lệch nhau, những góc độ nhìn khác nhau, thì cho dù, người kia có giầu có bao nhiêu, có hình dáng đẹp đến đâu, cũng sẽ làm cho chúng ta đau khổ trong tương lai, khi chúng ta về sống chung trong một mái nhà.

Đó chính là sự thật mà chúng ta phải đối diện và chấp nhận, và không nên có sự hy vọng hão huyền rằng: chúng ta có thể có được An từ sự nhường nhịn, sự hy sinh, hay chịu đựng.

Cho dù, chúng ta có được sự chịu đựng, nhẫn nhục, thì chúng ta cũng đau khổ và bất an. Chưa kể, những sự nhẫn nhục, chịu đựng đều có ngưỡng của sự giới hạn, và khi vượt ngưỡng thì sẽ tạo ra biết bao nhiêu hậu quả và sự khổ đau sẽ nhiều hơn.

Thế cho nên, khi bạn bắt đầu bằng mục đích An, bạn không nên hy vọng; vì mục đích của An là quan sát và chấp nhận sự việc như chính nó, mà không qua hy vọng hay ảo tưởng.

Bạn đừng hy vọng, bây giờ người đó khác tư tưởng với bạn, khác định nghĩa với bạn, nhưng khi về sống chung, bạn sẽ thay đổi người đó theo ý bạn, rồi bạn và người đó sẽ có an vui.

Người đó có thay đổi hay không và có an vui không thì chưa biết, nhưng nếu bạn đặt ngược lại, người đó muốn bạn phải thay đổi theo đúng như người đó muốn thì bạn có thật an vui không, hay bạn rất đau khổ.

Không ai trong chúng ta muốn sống là cái bóng của người khác cả. Cho nên, chúng ta cũng đừng biến ai thành cái bóng của mình. Nếu chúng ta không cẩn thận, thì khi chúng ta biến ai thành cái bóng, cái bóng đó, có ngày sẽ đè chết chúng ta.

Vì vậy, thay vì lấy hy vọng làm động lực, tại sao bạn lại không chọn An làm động lực. Nếu như bạn đã biết sự thật người đó sẽ đem đến bất An cho bạn, và bạn chấp nhận sự thật đó, mà không hy vọng, thì cuộc đời bạn sẽ có nhiều an vui hơn có phải không?

Cuộc đời của chúng tôi cũng như bạn, cũng từng hy vọng và thất vọng. Cũng từng chìm sâu trong bất An và đau khổ. Nhưng khi chúng tôi biết áp dụng đặt lại mục đích rõ ràng, lấy An làm chuẩn, thì cuộc đời của chúng tôi có nhiều An Vui hơn.

Chúng tôi vẫn có nhiều mục đích trong đời, nhưng mỗi mục đích trong qúa trình phát triển, chúng tôi luôn dùng mục đích An làm chuẩn. Nếu trong qúa trình phát triển mà chúng tôi không chuyển hóa được bất An thành An, thì chúng tôi sẽ dừng mục đích đó lại, và chuyển qua mục đích khác.

Vì sao?

Vì chúng tôi nhận thức được rằng, nếu trong quá trình phát triển mục đích đã là bất an thì cái kết quả sẽ là bất an, không thể nào khác. Nếu như bạn có kinh nghiệm trong qúa trình phát triển, bạn sẽ nhận thấy, quá trình sẽ quyết định cái quả là gì, chứ không phải từ cái Nhân hay mục đích là gì.

Đời sống của chúng ta có vô vàn mục đích để chọn, nhưng mục đích chỉ là sự hy vọng chứ chưa phải là kết quả. Kết quả mà chúng ta có được là do có quá trình phát triển tiếp theo.

Nếu không có quá trình này, dù cho, cái nhân hay mục đích kia có đẹp bao nhiêu, cũng vô dụng. Vì sao? Vì giống như bạn đem một hạt giống tốt, bỏ vào trong một cái chai, không đất, không nước, không không khí, thì cái nhân đó bạn để cả trăm năm, nó vẫn là nhân mà không bao giờ có quả.

Nhưng phần đông chúng ta, khi thực hiện mục đích qua quá trình phát triển, chúng ta lại đặt vào sự hy vọng, thay vì là An. Cho nên, trong quá trình, chúng ta đã gặp rất nhiều bất an đến từ hy vọng.

Nếu chúng ta may mắn thành công, và sự thành công đó, đòi hỏi chúng ta phải trải qua biết bao gian nan trong qúa trình phát triển, thì khi đạt được, chúng ta càng muốn giữ gìn thành quả đó, lâu dài hơn. Thay vì, chúng ta đạt được cái An khi đã đạt được mục đích, thì chúng ta lại đạt được sự lo âu vì sợ thành quả bị mất trong tương lai.

Rõ ràng, trong quá trình, chúng ta đã có bất an, nên cái thành quả mà chúng ta đạt được cũng chỉ là bất an, chứ đâu thể là An kéo dài như chúng ta mong muốn.

Các nhà tỷ phú ngày nay, tuy họ là người giầu nhất hành tinh, thì sao? Điều cuối cùng bây giờ họ vẫn đang khao khát đi tìm, đó chính là An.

Jeff Bezos, ông chủ của Amazon, lúc nào cũng đau đáu lo sợ có một ngày đế chế Amazon sẽ sụp đổ trong tương lai. Mark Zuckerberg, ông chủ của facebook, đang đau đầu với hệ thống bảo mật về những thông tin của cá nhân đang bị rò rỉ, và bị kiện tụng.

Trong những lần phỏng vấn họ, cả hai vẫn đang khao khát đi tìm cái An cho chính mình và gia đình mình.

Đặc biệt, tỷ phú Steve Jobs, là cha đẻ của Apple mà ít ai trong chúng ta xa lạ, đã qua đời vào năm 2011, vì căn bệnh ung thư tuyến tụy, khi ông mới 56 tuổi. Trước khi qua đời, ông có để lại một lá tâm thư với nội dung như sau:

“Tôi đạt đến đỉnh cao của sự thành công trong thế giới kinh doanh. Trong mắt của người khác, cuộc sống của tôi là một mẫu mực của sự thành công.

Tuy nhiên, ngoài công việc, tôi có rất ít niềm vui. Cuối cùng, sự giầu có, chỉ là một thực tế của cuộc sống mà tôi phải làm quen với nó.

Tại thời điểm này, nằm trên giường bệnh và nhớ lại toàn bộ cuộc sống của tôi, tôi nhận ra rằng, tất cả các công nhận và sự giầu có, mà tôi mất rất nhiều nhiều năm tháng tuổi trẻ để có niềm tự hào đó, đã dần và trở nên vô nghĩa, khi đối mặt với cái chết sắp xảy ra.

Bạn có thể thuê ai đó làm người lái xe cho bạn, kiếm tiền cho bạn, nhưng bạn không thể có một người nào đó phải chịu bệnh tật cho bạn.

Vật chất bị mất có thể được tìm thấy. Nhưng có một điều mà không bao giờ có thể được tìm thấy khi nó bị mất – “Cuộc Đời Bạn”.

Cho dù, giai đoạn trong cuộc đời chúng ta đang ở có huy hoàng tới mức nào, với sự tàn phá của thời gian, chúng ta sẽ phải đối mặt với những ngày đi xuống trầm trọng.

Hãy trân trọng tình yêu cho gia đình bạn, tình yêu dành cho người bạn đời của bạn, tình yêu cho bạn bè…

Hãy đối xử tốt với bản thân. Hãy trân trọng những người khác.

Khi chúng ta già đi, cũng là lúc chúng ta trở nên khôn ngoan hơn với cuộc đời, từ đó mà dễ dàng nhận ra:

Một chiếc đồng hồ mệnh giá 300 USD hay 30 USD, thì suy cho cùng, kim giờ kim phút cũng chỉ cùng một thời gian.

Một chiếc túi xách mệnh giá 300 USD hay 30 USD, thì suy cho cùng, số tiền bên trong đều có cùng giá trị như nhau.

Một chiếc xe ô tô mệnh giá 150.000 USD hay 30.000 USD, thì suy cho cùng, con đường, khoảng cách và địa điểm cuối cùng chúng ta đi đều giống nhau.

Một chai rượu vang mệnh giá 300 USD hay 10 USD, thì suy cho cùng, say rượu vẫn chỉ là đau đầu và nôn mửa.

Một ngôi nhà rộng 300 hay 3000 mét vuông, thì suy cho cùng, nỗi cô đơn có thế nào vẫn cứ tồn tại. 

Một lúc nào đó, bạn sẽ nhận ra hạnh phúc thực sự không đến từ vật chất.

Cho dù bạn chọn ghế hạng nhất hay hạng phổ thông thì khi máy bay hạ cánh, bạn cũng phải bước xuống.

Vì vậy, tôi hy vọng bạn nhận ra, khi nào bạn còn có bạn bè, người thân bên cạnh để cùng trò chuyện, nói cười, vui vẻ đàn hát với nhau, tám đủ thứ trên trời dưới biển… thì lúc ấy là lúc bạn có hạnh phúc thực sự”.

Ai dám bảo, cuộc đời của Steve Jobs không có mục đích. Ai dám bảo, cuộc đời ông không thành công, không có danh vọng hay tiền bạc.

Nhưng lời tâm sự cuối cùng của ông, đó chính là cái An Vui hạnh phúc mà chúng ta đang có, mà ông, cũng như chúng ta đã không biết lựa chọn trong qúa trình phát triển.  Để rồi, khi một sự cố xẩy ra cho Steve Jobs, khi ông không còn sống được lâu hơn để thay đổi, thì những nhận thức sâu sắc này, chỉ còn lại trong ông là một sự hối tiếc, vì đã quá muộn khi không thể hoàn thành.

Chúng ta đang còn sống đây, chúng ta có nhận thức và biết chọn lựa lại cho đúng không? Hay chúng ta cũng sẽ như Steve Jobs, khi đến cuối đời, chỉ còn để lại một sự hối tiếc, không thể hoàn thành.

Vậy thì làm sao chúng ta có thể áp dụng mục đích An trong đời sống hàng ngày?

Muốn áp dụng mục đích An, chúng ta phải có một vài điều phải tuân theo, chúng ta tạm gọi là kỷ luật (kỷ = chính mình, luật=những điều phải tuân theo) như sau:

Bất cứ khi nào, dù ở trong hoàn cảnh hay môi trường nào, khi bạn cảm thấy khó chịu=bất an thì bạn phải hỏi lại mục đích của bạn sống có phải là An không?

Nếu bạn xác định rõ ràng mục đích của bạn là An, như vậy, khi bạn bất an, có nghĩa là bạn đang đi ngược lại mục đích của bạn. Cho nên, bạn phải đi tìm nguyên nhân gây ra bất an cho bạn để giải quyết.

Khi đi tìm nguyên nhân, bạn không nên hỏi: Làm Sao để giải quyết sự bất an?, mà bạn phải hỏi: Tại Sao bạn bất an?, và câu hỏi Tại Sao này, được hỏi lập đi lập lại, cho đến khi bạn tìm ra được gốc rễ gây ra bất an.

Trong qúa trình hỏi Tại Sao nhiều lần, bạn sẽ dùng hai chữ Tại Sao đặt trước, rồi kèm theo với nội dung của câu trả lời trước đó là gì.

Sau khi, bạn đã tìm được gốc rễ gây ra cho bạn bất An, bạn mới bắt đầu dựa vào gốc rễ của vấn đề gây ra cho bạn bất An, và hỏi Làm Sao bạn giải quyết vấn đề này.

Trong qúa trình tìm ra các giải pháp, chắc chắn, bạn sẽ rơi vào một việc khá khó xử, đó là, bạn có rất nhiều giải pháp để giải quyết sự bất An của bạn, và bạn không biết phải chọn giải pháp nào cho thích hợp hay tốt nhất.

Vì vậy, bạn cần thực hành thêm 3 bước như sau:

So sánh: với phương pháp này, bạn đem những giải pháp để so sánh với nhau xem cách giải quyết có ưu và khuyết điểm gì.

Phân Tích: sau khi bạn phân loại ưu và khuyết, bạn bắt đầu phân tích về hậu quả và kết quả của từng giải pháp, cũng như phân tích lợi và hại của từng giải pháp.

Sắp xếp theo thứ tự quan trọng: Khi bạn đã có đầy đủ thông tin, dữ liệu, cách thức giải quyết theo ưu, khuyết, hậu quả, kết quả, lợi và hại xong, bạn phải sắp xếp lại thứ tự, cái nào tốt nhất, có lợi nhiều, hại ít lên trước, sau đó, cứ tuần tự cho đến giải pháp cuối cùng.

Khi đã sắp xếp xong thì bạn chọn thời gian để ứng dụng những giải pháp nhanh nhất có thể.

Khi hoàn tất những phương pháp này thì bạn sẽ chuyển hóa được trạng thái bạn đang bất An, thành An.

Dĩ nhiên, nếu bạn chưa quen, bạn sẽ thấy, bạn tốn rất nhiều thời gian, và phiền phức; vì chúng ta hay có thói quen lười biếng. Nhưng nếu bạn thật sự muốn cuộc đời của bạn có An kép dài, bạn cần phải thực tập trong bất cứ hoàn cảnh và môi trường nào, trong khoảng từ 1 tháng đến ba tháng, thì phương pháp đó sẽ trở thành một thói quen.

Khi đã trở thành thói quen rồi, bạn sẽ có “phản xạ tự nhiên”, mà không cần phải để ý vào trình tự hay cách thức vận hành như lúc đầu.

Có một vấn đề mà chúng tôi nên lưu ý bạn, đó là bạn nên xem lại định nghĩa An của bạn như thế nào? Vì bạn định nghĩa ra sao, thì bạn sẽ dựa trên định nghĩa đó để tư duy, và từ sự tư duy đó, bạn mới hành xử.

Phần đông chúng ta hay có sự nhầm lẫn giữa cái An tạm thời là cái An kéo dài. Thông thường, khi giải quyết một vấn đề, nếu chúng ta chỉ đi tìm phương pháp, mà không tìm gốc rễ trước, thì phương pháp giải quyết của chúng ta sẽ chỉ có An tạm thời, nghĩa là, An trong một giai đoạn ngắn, rồi sau đó, chúng ta có vô số hậu quả từ phương pháp giải quyết đó, khiến chúng ta rơi vào sự bất an lâu dài.

Cho nên, muốn đạt được cái An lâu dài, chúng ta phải tìm được nguyên nhân của sự bất an, và quan trọng nhất là phải tìm được gốc rễ. Nếu không, chúng ta chỉ giải quyết được phần ngọn, thì khi gốc rễ phát triển, chúng ta lại tiếp tục rơi vào sự bất an như thường.

Chúng tôi không phải sinh ra được thiên phú đặc biệt gì. Chúng tôi cũng không phải là cao tăng đắc đạo có thể đạt đến An Tịnh Vĩnh Viễn. Chúng tôi cũng không phải là những diễn giả, đi thuyết phục bạn, hãy tin theo phương pháp của chúng tôi.

Chúng tôi cũng chỉ là người bình thường như bạn. Mỗi ngày, chúng tôi vẫn đối diện với An và bất An liên tục. Chỉ có điều may mắn, chúng tôi vì muốn có An kéo dài, nên tự học cách giải quyết, và chia xẻ lại với bạn.

Nếu bạn thấy những chia xẻ của chúng tôi thích hợp với bạn thì bạn lấy đó để tham khảo, và tự hoạch định lại, sao cho thích hợp cho bạn là được.

Còn nếu như, không thích hợp với bạn thì bạn cứ sống như những gì đang xẩy ra với bạn là đủ.

CHỦ ĐỘNG VÀ BỊ ĐỘNG

album-art

00:00

TẢI MP3 – DIỆU LIÊN
TẢI MP3 – LÊ VŨ

Bạn Thân Mến,

Chủ đề hôm nay, chúng tôi muốn chia xẻ với bạn là Chủ Động và Bị Động.

Vì tuổi cũng khá lớn, lại chăm sóc cho một người, mà chúng tôi luôn phải thay người đó, để đưa ra những quyết định. Cho nên, nếu không có một sức khỏe tốt, thì cũng khó cho chúng tôi, có thể chăm sóc tốt cho người thân của chúng tôi được.

Chính vì vậy, bác sĩ gia đình của chúng tôi, dần trở thành một người bạn thân quen.

Những khi khám định kỳ, chúng tôi và bác sĩ gia đình, không những chỉ là quan hệ bịnh nhân và bác sĩ, mà còn là quan hệ của bạn bè, khi có những giây phút chia xẻ về nhân sinh quan, cách ứng xử sống trong cuộc đời. Có thể nói, bác sĩ gia đình của chúng tôi, rất thương và quý chúng tôi.

Cho nên, bất cứ một vấn đề gì liên quan đến cơ thể của chúng tôi, nếu có sự thay đổi thì bác sĩ gia đình của chúng tôi lúc nào cũng quan tâm và chăm sóc sớm nhất.

Trong lúc chúng tôi đang có sự bình an trong ngày, chúng tôi nhận được điện thoại của bác sĩ gia đình. Qua điện thoại, bác sĩ gia đình cho biết, chúng tôi phải đến văn phòng để lấy giấy giới thiệu đi khám Ultrasound cho vùng ngực, vì báo cáo có một vài dấu hiệu bất thường.

Bác sĩ gia đình muốn biết kết quả sớm nhất có thể. Đó là toàn bộ câu chuyện. Nhưng qua câu chuyện này, chúng tôi muốn chia xẻ với bạn qua góc nhìn về Chủ Động và Bị Động.

Đối với bác sĩ gia đình, vì thương và lo cho chúng tôi, nên bà đã rất bất an khi xem báo cáo, và muốn chúng tôi phải đi Ultrasound sớm nhất có thể. Vì, nếu có gì, bà sẽ chọn lựa cách chữa trị tốt nhất cho chúng tôi khi cần thiết.

Khi bà gọi cho chúng tôi, bà đang trong thế chủ động và chúng tôi đang trong thế bị động. Cái bà muốn là kết qủa Ultrasound sớm nhất.

Nhưng cách giải quyết của bà là, chúng tôi phải đến văn phòng của bà lấy giấy giới thiệu trước, rồi sau đó, mới đi gọi lấy hẹn ở trung tâm chụp hình.

Dĩ nhiên, trong thời buổi Covid-19 này, muốn lấy hẹn là cả một vấn đề, và nếu theo như trình tự sắp xếp của bà bác sĩ, thì chúng tôi lại phải ngồi chờ đến khi nào các trung tâm chụp hình có chỗ trống.

Trong thời gian chờ đợi này, sự bất An trong chúng tôi sẽ kéo dài, cho đến khi nào lấy được hẹn đi Ultrasound.

Phần đông chúng ta, khi rơi vào hoàn cảnh này (bị động) sẽ theo sự sắp xếp của bà bác sĩ (chủ động), và tiếp tục chờ trong sự bất An.

Nhưng vì đã qúa quen trong tiến trình chuyển Bị Động thành Chủ Động, sau khi cúp điện thoại với bà bác sĩ, chúng tôi đã liên lạc ngay với trung tâm chụp hình, vì ngày mai, chúng tôi cũng có một cái hẹn lúc 1:30 chiều (chủ động).

Khi nói chuyện với nhân viên văn phòng, chúng tôi đã đề nghị với trung tâm, chúng tôi muốn có hẹn cùng ngày, và thời gian có thể trước hay sau 1:30 chiều.

Người thư ký sau khi xem lại bảng lấy hẹn đã cho chúng tôi cái hẹn vào lúc 2:30 chiều.

Khi lấy được hẹn xong, chúng tôi (chủ động) gọi lại cho bác sĩ gia đình, và yêu cầu bà gởi giấy tờ qua trung tâm để họ có hồ sơ. Bà bác sĩ vui vẻ sai y tá đi làm (bị động).

Qua câu chuyện trên, bạn thấy đó, ban đầu là bà bác sĩ (chủ động) bắt chúng tôi (bị động) phải lên văn phòng lấy giấy giới thiệu đi chụp hình, vì bà muốn biết kết quả sớm nhất.

Điều bà bác sĩ muốn chính là kết quả. Nhưng trong quá trình muốn biết kết quả, bà bác sĩ đã “vô tình” biến thành chủ động. Rồi bà đưa ra những cách giải quyết mà người bị động là chúng tôi phải làm theo.

Thông thường, chúng ta hay bị rơi vào những tình trạng bị động như vậy, và bị người khác dẫn dắt đi theo những gì họ muốn. Nhưng có một điều, chúng ta ít khi để ý đến, đó là, ngay cả người chủ động, họ cũng không biết rõ cách thức của họ có thể gây ra rất nhiều bất an cho người khác.

Cho nên, khi rơi vào những trường hợp bị động, chúng ta phải biết cách lấy lại quyền chủ động.

Không sai, khi bà bác sĩ gọi cho chúng tôi đi chụp Ultrasound, thì bà đang là chủ động, và chúng tôi là bị động. Nhưng khi nghe xong, và biết được ý muốn của bà, muốn coi kết quả chụp hình sớm nhất, chúng tôi đang từ Bị Động biến thành Chủ Động.

Chúng tôi chủ động đi gọi điện thoại lấy hẹn trước khi có giấy hẹn. Chúng tôi chủ động thông báo cho bà biết bà phải gởi giấy giới thiệu đến trung tâm, thay vì, chúng tôi phải tới văn phòng của bà lấy giấy giới thiệu, rồi mới đi lấy hẹn Ultrasound, như bà đã hướng dẫn ban đầu.

Chỉ trong vòng hơn một tiếng đồng hồ, sau khi giải quyết mọi chuyện xong xuôi, chúng tôi lại có được sự bình An. Nếu không, chúng tôi sẽ có sự bất An kéo dài rất nhiều ngày, cho tới khi lấy được hẹn đi chụp Ultrasound theo cách chủ động của bà bác sĩ.

Không thể phủ nhận, bà bác sĩ rất thương và lo cho chúng tôi. Nhưng trong tình thương, nếu thiếu sự hiểu biết, mà nếu lại là người chủ động, thì tình thương đó, cũng có thể đem đến sự bất An lâu dài cho người mình thương.

Bởi vậy, khi có thương yêu thôi, chưa đủ, mà cần phải có thêm sự hiểu biết nữa, mới đem sự bình an và hạnh phúc đến cho người và cho mình.

Có thể nói, trong cuộc đời của chúng ta, chúng ta luôn rơi vào thế bị động và chủ động. Chỉ cần trong vài giây, chúng ta đang từ thế chủ động có thể biến thành bị động, và ngược lại.

Nếu chúng ta không có sự tập trung và tập thành một thói quen, thì gần như chúng ta sẽ rơi vào thế bị động khá nhiều.

Vậy làm sao chúng ta có thể thay đổi tình trạng của chúng ta đang ở thế bị động thành chủ động?

Chúng tôi nhắc lại một vài điều vô cùng quan trọng, và đây chỉ là cách chúng tôi ứng dụng, chứ không phải là tiêu chuẩn vàng, dùng cho tất cả mọi người. Bạn nên nhớ rằng, Ai trong chúng ta cũng có Tuệ Giác, bạn phải sử dụng Tuệ Giác của bạn để đạt được kết quả tốt nhất cho bạn.

Qua quá trình trải nghiệm, chúng tôi rút ra được vài điểm chính sau đây:

  • Trong chủ động và bị động luôn luôn có quá trình phát triển. Nếu Chủ động là Nhân thì bị động là Quả. Nếu nhân đã do người khác gieo, thì trong quá trình phát triển nhân thành quả, chúng ta có thể sử dụng qúa trình này để thay đổi cái quả.

Trong qúa trình này, chúng ta phải hiểu rõ được mục đích hay ý muốn mà người gieo nhân muốn là gì.

Sau đó, dùng Tuệ Giác của chúng ta tìm ra những phương pháp, cách giải quyết để đạt được ý muốn đó, không phải là hậu quả, mà là kết quả.

  • Muốn đạt được kết quả, chúng ta nên hỏi Tại Sao nhiều lần cho đến khi chúng ta tìm ra được gốc rễ của vấn đề. Sau đó, chúng ta mới hỏi Làm Sao để tìm ra những phương pháp.
  • Trong qúa trình hỏi Làm Sao, chúng ta phải so sánh, phân tích và sắp xếp các cách giải quyết theo thứ tự. Phương pháp hay cách giải quyết nào, tạo ra kết quả tốt nhất thì xếp đầu, rồi cứ tiếp tục sắp xếp theo tiêu chuẩn lợi trước, hại sau.

Sau đó, chúng ta dựa vào những phương pháp hay cách giải quyết đó, mà bắt đầu tiến hành quá trình biến “khách” thành “chủ”, hay biến bị động thành chủ động.

Lại một câu chuyện khác, về lấy hẹn với bác sĩ để bạn tham khảo.

Chúng tôi muốn người thân đi châm cứu để làm mạnh các cơ chân và tay, giúp cho người thân có thể di chuyển dễ dàng. Bác sĩ châm cứu đã 80 tuổi, nên con gái của ông muốn ông phải nghỉ hưu. Nhưng ông vẫn không muốn, nên hai cha con ông đã đi đến một thỏa thuận, thay vì, ông thích làm việc 6 ngày, thì nay chỉ còn làm việc trong ba ngày, và mỗi ngày, chỉ khám cho 12 bịnh nhân.

Vì là một bác sĩ châm cứu khá nổi tiếng, nên ông có rất đông bịnh nhân. Theo cách thức mới của cha con ông, muốn lấy hẹn để được ông chữa trị là cả một vấn đề. Lúc trước, có thể là một tuần, thì nay có thể kéo dài ít nhất 2 đến 3 tuần.

Trên nguyên tắc, văn phòng của ông bác sĩ là chủ động ,và chúng tôi trở thành bị động, khi phải phụ thuộc vào lịch hẹn do con gái ông quy định.

Phần đông, chúng ta sẽ tuân theo thế bị động này, và tiếp tục chờ cho đến khi lấy được hẹn. Dĩ nhiên, khi chúng ta bị đau mà phải chờ lấy hẹn để được chữa trị; ai trong chúng ta cũng biết, thời gian càng kéo dài bao lâu, chúng ta càng chịu cái đau đó dài bấy lâu.

Thay vì, phải chịu đựng cái đau khổ hay khó chịu trong thế bị động, ngồi chờ lấy hẹn, chúng tôi đã sử dụng Quá Trình Phát triển để biến thành chủ động bằng cách: đến thẳng văn phòng của ông để đề nghị như sau:

  • Thưa cô, tôi muốn lấy hẹn cho người thân của chúng tôi 8 lần trong một tháng, mỗi tuần hai lần.
  • Thưa bà đó là điều không thể.
  • Tại sao lại không thể?
  • Vì theo luật mới của văn phòng, bà phải gọi điện thoại để lấy hẹn.
  • Tại sao tôi lại phải gọi điện thoại để lấy hẹn?
  • Vì nếu bà không gọi lấy hẹn, chúng tôi không biết bà có đến hay không, và nếu bà không đến chữa trị, văn phòng của chúng tôi sẽ bị mất tiền.
  • Vậy, đây là lịch hẹn cho 8 lần trong một tháng mà chúng tôi muốn, và kèm theo là $400 cho 8 lần chữa trị. Như vậy có vấn đề gì không?
  • Dĩ nhiên là không có vấn đề.

Thế là, từ chỗ phải ngồi chờ từ hai tới ba tuần cho một lần chữa trị, khiến người thân phải chịu sự khó khăn khi di chuyển, theo thế bị động. Chúng tôi biến thành chủ động, khi đã sử dụng những câu hỏi tại sao để tìm ra nguyên nhân, và đi giải quyết vấn đề từ gốc rễ để đạt được mục đích: muốn người thân của chúng tôi phải được điều trị liên tục, không gián đoạn và nhanh nhất có thể.

Dĩ nhiên, có nhiều bạn không đồng ý với cách giải quyết vấn đề của chúng tôi, vì cho rằng, mình phải trả tiền trước khi được phục vụ, như vậy, lỡ mình không đi hay trị không khỏi thì mình mất tiền sao?

Điều này, bạn hoàn toàn đúng trong những phương pháp giải quyết, nhưng nếu sắp xếp theo thứ tự, thì nó có hại nhiều hơn cái lợi có phải không?

Cái hại thứ nhất: Người thân của chúng tôi vẫn phải chịu sự di chuyển khó khăn từng ngày, trong suốt thời gian chờ đợi lấy hẹn đi chữa trị từ 2-3 tuần một lần.

Cái hại thứ hai: Chúng tôi sẽ sống trong sự bất an kéo dài cho đến khi hoàn thành qúa trình trị liệu, thay vì, trong 1 tháng, nay phải kéo dài đến 4 tháng.

Cái hại thứ ba: Đó là niềm tin. Như chúng tôi đã chia xẻ với bạn, nếu chúng tôi không có niềm tin vào bác sĩ, mà lại tin là bịnh chữa không khỏi, thì kết quả mà chúng tôi đạt được là, người thân của chúng tôi vẫn không khỏi. Vậy thì tốn tiền đi bác sĩ làm gì, vì kết quả cũng là không hết bịnh.

Cái hại thứ tư: Chúng tôi luôn luôn rơi vào thế bị động và bị văn phòng bác sĩ khống chế.

Cái lợi duy nhất mà chúng tôi có được, đó là, có thể mất tiền nếu không đi đúng hẹn. Nhưng nếu chúng tôi đi đúng hẹn thì trả tiền trước hay sau cho trị bịnh là chuyện tất nhiên.

Ngược lại, khi chúng tôi biến từ bị động thành chủ động, thì bốn cái hại như vừa nêu trên, lại trở thành bốn cái lợi, và cái lợi không mất tiền trả trước trở thành một cái hại.

Như vậy, qua sự phân tích, so sánh và sắp xếp thứ tự, chúng tôi sẽ sắp xếp việc chúng tôi làm chủ động lên trên, và hành xử theo cách đó.

Ai trong chúng ta cũng có quyền lựa chọn, chúng tôi luôn tôn trọng cách chọn lựa của bạn, dù đó là bị động hay chủ động.

Cái quan trọng nhất là, khi giải quyết một vấn đề xong, chúng ta có thể kéo dài cái An mà chúng ta muốn có hay không. Nếu sự lựa chọn cách bị động, mà bạn có An kéo dài, bạn không nên thay đổi gì cả. Vì sao?

Vì An mới là mục đích tối hậu mà ai trong chúng ta cũng đều khao khát có được, từ lúc mới sinh ra cho đến khi nhắm mắt xuôi tay, từ giã cuộc đời.

Chứ bị động hay chủ động, chỉ là quá trình mà không phải là Nhân hay Quả. Tuy quá trình có thể thay nhân đổi quả, nhưng đó vẫn là quá trình.

Trong cuộc sống, chúng tôi đã bị nhiều hậu quả từ việc chấp nhận mình trong thế bị động. Chúng tôi không muốn có hậu quả và chỉ muốn kết quả, và khi chúng tôi thực tập cách giải quyết theo thế chủ động, chúng tôi thường đạt được kết quả nhiều hơn hậu quả.

Cho nên, chúng tôi luôn chọn cách chủ động trong khi giải quyết vấn đề. Dĩ nhiên, chúng ta đang sống trong thế giới của tương đối, mà không phải tuyệt đối. Cho nên, bất cứ một phương pháp hay cách giải quyết một vấn đề nào, đều có ưu và khuyết.

Chúng ta chỉ có thể chọn cái nào tốt nhất, hay tối ưu mà thôi, chứ không thể nào, giải quyết một vấn đề mà chỉ có ưu, mà không có khuyết.

Câu chuyện thứ ba liên quan đến quyết định sinh tử.

Khi USC có một chương trình mổ tim mới đang trong qúa trình thử nghiệm. Họ cần những người thiện nguyện ghi danh. Trong danh sách hơn 600 người, họ chỉ chọn ra 5 người để thử nghiệm, với quỹ đầu tư hơn 20 triệu cho nghiên cứu này.

Vì chúng tôi bị hẹp động mạch vành cơ tim, cho nên, may mắn được chọn là một trong năm người được thử nghiệm.

Ai cũng biết, trong qúa trình thử nghiệm thì không có gì để bảo đảm thành công. Cho nên, trong 5 người chúng tôi, lúc ban đầu, đều có chung một suy nghĩ, chết nhiều hơn sống.

Vì đây là một thử nghiệm mới, cho nên, nhà thương USC đã mời tất cả những bác sĩ mổ tim nổi tiếng trên thế giới, cùng tham gia.

Trước khi bước vào giai đoạn mổ tim, 5 người của chúng tôi, đều phải tuân thủ theo những yêu cầu của các bác sĩ, cho đến khi chúng tôi có đủ tiêu chuẩn về sức khỏe, tim mạch, huyết áp, v.v. Thời gian chuẩn bị trước khi mổ, kéo dài khoảng 6 tháng.

Dĩ nhiên, lúc đầu, 5 người của chúng tôi, ai cũng nghĩ cơ hội chết nhiều hơn sống. Nhưng qua quá trình 6 tháng làm quen với các bác sĩ, chúng tôi dần thay đổi quan niệm về chết và sống. Chúng tôi tin tưởng bác sĩ hơn, và phần trăm giữa sống và chết có sự thay đổi rõ rệt. Đang từ 70% chết thành 60% sống.

Sáu tháng trôi qua, khi thời gian chuẩn bị mổ sắp đến, các bác sĩ mới bắt đầu phát cho 5 người chúng tôi “giấy sinh tử”. Đó là bản hợp đồng mà chúng tôi phải ký để được chữa trị miễn phí; với điều kiện, trong qúa trình phẫu thuật, nếu xẩy ra chuyện chia tay cuộc đời, chúng tôi không được thưa kiện bác sĩ và nhà thương.

Cũng trong “giấy sinh tử” này, có một điều mà bác sĩ đưa ra dự đoán, kết qủa tối đa chỉ là 50% sống, và 50% chết. Bác sĩ cũng khuyên chúng tôi nên về bàn bạc với những người thân, và khuyên nên chuẩn bị di chúc, phòng khi có sự cố xẩy ra. Chúng tôi có 2 tuần để đưa ra quyết định.

Có thể nói, đây là một quyết định khó, vì nó liên quan đến sinh tử, và điều này khiến chúng tôi lại rơi vào thế bị động.

Nếu chúng tôi không chịu giải phẫu, chúng tôi vẫn phải tiếp tục uống thuốc, và không biết lúc nào thì bịnh lại tái phát trầm trọng. Đến lúc đó, các bác sĩ về tim cũng phải mổ.

Nếu chúng tôi chấp nhận mổ, lỡ có chuyện gì, thì gia đình của chúng tôi sẽ ra sao, nếu chúng tôi không còn hiện hữu.

Cầm những giấy tờ “sinh tử” của bác sĩ đưa hơn một ngày, chúng tôi vẫn không tìm bất cứ người thân nào để bàn luận, hay tham khảo ý kiến. Vì chúng tôi biết, nếu chúng tôi không khéo léo, chúng tôi không chủ động trong vấn đề này, chúng tôi sẽ tạo ra rất nhiều những sự bất An và hậu quả, mà những người thân của chúng tôi sau này phải gánh chịu.

Thí dụ như, bắt người này phải hứa hẹn thực hiện điều này, bắt người kia phải chịu trách nhiệm việc này, việc kia, v.v. mà những việc đó, lúc trước là của chúng tôi thì bây giờ họ phải làm thay cho chúng tôi.

Chúng tôi cũng nhận thức được rằng, nếu những người thân của chúng tôi khi mất chúng tôi, họ đã mất mát và đau khổ lắm rồi. Nếu như chúng tôi lại bắt họ phải gánh thêm những trách nhiệm này, hay phải thực hiện lời hứa kia, là chúng tôi đang nhận chìm những người thân của chúng tôi trong đau khổ.

Không phải sự đau khổ đó chỉ ngắn trong một thời gian, mà có thể cả đời, nếu như người mà chúng tôi chọn phải có trách nhiệm hay thực hiện lời hứa, mà không thể thực hiện được lời hứa hay trách nhiệm.

Đúng là, sinh tử trong một đời người, không ai trong chúng ta có thể biết được bao giờ chúng ta chết. Nhưng chúng ta lại có quyền chọn lựa cái chết như thế nào, chết để lại ít đau khổ nhất cho những người khác, hay để lại nhiều đau khổ cho người khác.

Đây chính là lúc, mà chúng tôi đã phải quyết định sử dụng quyền chủ động của mình, thay vì, bị động chịu theo định mệnh.

Bạn cứ thử tưởng tượng, nếu khi chúng tôi nhận được giấy sinh tử, mà đem ra bàn thảo với những người thân thì sẽ ra sao trong 2 tuần chờ đợi đưa ra quyết định.

Chắc chắn là rất đau khổ phải không? Vì sao?

Vì chẳng ai trong người thân của bạn có thể đưa ra một lời khuyên nào hữu ích cả. Nếu ai đưa ra lời khuyên không mổ, mà lỡ sau này, chúng tôi bị tim phát tác, có mệnh hệ nào, thì người đó sẽ hối hận suốt đời.

Chưa kể đến, những người thân khác sẽ trách móc, có ác cảm với người đưa ra lời khuyên đó, khiến cho đời sống của người đó, đã đau khổ, lại thêm đau khổ. Và điều tệ hại hơn, tình cảm anh chị em trong gia đình, không còn hòa thuận, thương yêu nhau nữa.

Còn nếu như người thân của bạn đưa ra lời khuyên đi mổ, mà cơ hội là 50/50, lỡ có chuyện gì xẩy ra, người đó cũng ân hận cả đời.

Hoặc nếu như, người thân của bạn không đưa ra bất cứ ý kiến nào, bạn lại cho rằng họ vô cảm, bất hiếu, không biết lo, hay chia xẻ khó khăn với bạn.

Rõ ràng, chúng tôi đã bị động và lệ thuộc vào các bác sĩ trong việc sinh tử. Nếu chúng tôi lại tiếp tục bị động và giao quyền chủ động cho những người thân, thì chúng tôi sẽ tạo ra biết bao đau khổ cho những người thân của chúng tôi phải gánh chịu. Chúng tôi sẽ tạo ra biết bao hậu quả, mà những người thân của chúng tôi phải nhận lãnh mà không thể chối từ.

Cho nên, chúng tôi quyết định dành lại quyền chủ động, và chúng tôi quyết định chọn sống trọn vẹn vui vẻ với người thân trong hai tuần, mà không ai cần phải đóng góp một lời khuyên nào.

Chúng tôi cũng quyết định lựa chọn giải phẫu dựa trên sự so sánh, phân tích, và sắp xếp thứ tự như sau:

Về lợi:

Thay vì phải sống hồi hợp, lo âu, và bất An vì không biết lúc nào bịnh tim tái phát, thì chúng tôi nên giải phẫu một lần cho xong. Nếu sống thì sống khỏe mạnh An vui, mà nếu có chết thì ra đi cũng nhẹ nhàng, không đau đớn.

Không để lại khổ đau cho người thân vì phải gánh trách nhiệm hay ân hận, hối hận và đau khổ cả đời.

Không phải tốn tiền trả cho bịnh viện và bác sĩ, khiến cho chúng tôi và người thân của chúng tôi phải rất bận lòng, lo âu về vấn đề tài chánh to lớn khi phải mổ tim sau này.

Cho dù, có sự cố xẩy ra, và chúng tôi có mất thân mạng này, thì ít nhất, sống trong cuộc đời này, chúng tôi cũng có thể đóng góp một chút nhỏ mọn, dùng thân xác này cho các bác sĩ có thể học hỏi, rút kinh nghiệm và làm tốt hơn.

Để sau này, họ có thể giúp cho những người đi sau, có được những phương pháp chữa trị tốt nhất, và có thể duy trì được sự sống lâu dài hơn.

Quan trọng nhất, chúng tôi có được sự bình an sống trọn vẹn với người thân, mà không còn gì hối tiếc.

Về Hại:

Chỉ là một mạng sống, khác nhau về thời gian chết, chứ không ai không chết.

2 tuần trôi qua, 5 người chúng tôi lại có một buổi họp với các bác sĩ, và có sự tham gia của những người thân.

Bước vào phòng họp, chúng tôi chứng kiến bốn người bạn “đồng hành”, đều có người thân đi theo. Tất cả họ đều lộ vẻ buồn đau và căng thẳng. Riêng chúng tôi, không có một người thân nào và vô cùng bình thản.

Sau khi họp với chúng tôi và các người thân, các bác sĩ quyết định dời lại ngày phẫu thuật thêm hai tuần, vì bốn người bạn “đồng hành” của chúng tôi, và các thân nhân cần phải đi gặp bác sĩ tâm lý, để ổn định tinh thần.

Riêng chúng tôi, vì không cần đến bác sĩ tâm lý, nên lại có thêm hai tuần sống vui vẻ và hạnh phúc cùng người thân.

Cuối cùng, ngày phẫu thuật đã đến. Năm người của chúng tôi được chia làm hai ca mổ sáng và chiều. Mỗi phòng mổ có 6 bác sĩ mổ và các y tá phụ. Thời gian cần thiết cho ca mổ là 6 tiếng. Ca mổ của chúng tôi vào buổi sáng, lúc 8 giờ.

Khi vào phòng mổ, các bác sĩ rất thoải mái và tự tin. Họ mua cà phê Starbucks để cụng ly, chúc mừng sự giải phẫu sẽ thành công. Nhìn những hình ảnh vui vẻ của họ, chúng tôi cũng vui lây.

Trước khi bác sĩ gây mê cho chúng tôi, vị bác sĩ chính hỏi chúng tôi có còn muốn chuyện gì không? Chúng tôi nói: hãy cho chúng tôi hai phút để tĩnh tâm, sau đó, chúng tôi sẽ ra hiệu qua tay, cho biết là chúng tôi đã sẵn sàng. Vị bác sĩ vui vẻ, gật đầu chấp thuận.

Sau hai phút, chúng tôi ra hiệu bằng tay đã sẵn sàng thì bác sĩ gây mê mới bắt đầu, và chúng tôi thiếp đi trên bàn mổ.

Khi chúng tôi tỉnh lại, đồng hồ trên tường chỉ đúng một giờ. Người y tá coi giường bịnh của chúng tôi thấy chúng tôi tỉnh lại, và cô đã gọi cho các bác sĩ. 15 phút sau, sáu vị bác sĩ mổ cho chúng tôi đều có mặt. Họ vui vẻ, cười nói, và chúc mừng chúng tôi đã hoàn thành cuộc phẫu thuật một cách thành công trong thời gian bốn tiếng.

Sau phẫu thuật, năm người chúng tôi lại có khoảng một năm theo dõi. Chúng tôi được cấp một cái thẻ đặc biệt, nếu chúng tôi có đi đâu trong nước Mỹ, khi có bất cứ triệu chứng nào về tim, thì các bịnh viện sẽ dùng máy bay trực thăng để chuyển chúng tôi về lại nhà thương USC, mà chúng tôi không phải trả bất cứ một chi phí nào.

Trong qúa trình theo dõi một năm, tình trạng sức khỏe của chúng tôi càng ngày càng cải thiện tốt hơn. Nhưng bốn người bạn đồng hành của chúng tôi thì trồi sụt bất thường.

Các bác sĩ vô cùng ngạc nhiên, nên đã phỏng vấn chúng tôi rất nhiều lần, và họ cho chúng tôi biết, trong năm người của chúng tôi, ca phẫu thuật của chúng tôi là dễ dàng và ngắn nhất, chỉ mất khoảng 4 tiếng. Trong khi, bốn người bạn đồng hành của chúng tôi thì có 3 người kéo dài 6 tiếng, và có một người phải kéo dài đến 7 tiếng.

Nguyên nhân, khi mổ, phần tốn nhiều thời gian nhất của ca phẫu thuật là phải đặt một loại máy đặt biệt vào cơ thể. Vì cơ thể của chúng tôi thư giãn, nên rất dễ để đưa máy đó vào; còn các ngươi bạn đồng hành của chúng tôi cơ thể họ căng cứng nên rất khó.

Khi các bác sĩ phỏng vấn, chúng tôi chưa có sự trải nghiệm nhiều về quyền chủ động. Nhưng sau này khi sinh hoạt về tâm linh và ứng dụng quyền chủ động nhiều hơn, chúng tôi mới hiểu được nguyên nhân tại sao chúng tôi khỏe mạnh lại bình thường, còn các bạn của chúng tôi thì không.

Đơn giản là vì, chúng tôi đã có những suy nghĩ tích cực trong việc đưa ra quyết định với một tâm an lành, không sợ hãi, cho nên, cơ thể của chúng tôi không hề căng cứng lo sợ.

Khi lên bàn mổ, chúng tôi đặt niềm tin trọn vẹn vào những người bác sĩ. Chúng tôi tin, chúng tôi sẽ sống khỏe mạnh sau khi phẫu thuật.

Chính vì nhờ chúng tôi chủ động trong việc đưa ra quyết định, giúp chúng tôi có được An, và trong cái An đó, chúng tôi đặt niềm tin trọn vẹn vào các bác sĩ mổ, và tin, sau khi mổ, chúng tôi sẽ sống với trái tim khỏe mạnh bình thường.

Sau này, khi đi khám bác sĩ về tim của chúng tôi, bác sĩ này đã rất ngạc nhiên, vì qua hình chụp, không hề có những vết sẹo như những người mổ tim khác. Bác sĩ tim của chúng tôi nói rằng: nếu bà không nói bà đã mổ tim thì chúng tôi không biết, vì tim bà nhìn như tim một người bình thường.

Câu chuyện thứ tư: Ứng xử với con cái

Đứa con thứ hai của chúng tôi, khi còn học trung học đã có quyết định đi chơi cùng bạn bè sau giờ học, không về nhà. Khi rơi vào thế bị động này, nhất là tại thời điểm mà chưa có điện thoại di động như ngày nay, ngoài sự lo âu, bất an ra, chúng tôi không có cách nào giải quyết khác, ngoài việc phải ngồi chờ.

Thời gian cứ trôi qua thì sự bất an, lo âu trong chúng tôi càng lớn. Cho đến 10 giờ đêm thì ánh đèn xe chiếu vào cổng. Nhìn qua cửa sổ thấy con về. Chúng tôi đi vào phòng, ngủ.

Ngày hôm sau, chúng tôi vẫn không gọi con để nói chuyện, mà phải chờ một tuần sau, chúng tôi mới quyết định rủ con đi mall để mua cho con ít đồ. Sau đó, chúng tôi mới bắt đầu chủ động đưa vấn đề đó lên để giải quyết.

Trong một tuần, chúng tôi bắt đầu đặt cho mình những câu hỏi và những câu trả lời, mà con của chúng tôi có thể sẽ trả lời khi chúng tôi đặt câu hỏi.

Thí dụ, chúng tôi phỏng đoán những câu trả lời của con chúng tôi như: đời là của con, con muốn làm gì cũng được. Con có tự do muốn làm gì thì làm, mẹ không có quyền can thiệp. Con không cần mẹ phải quan tâm, con sẽ chịu trách nhiệm những gì con làm, v.v.

Chúng tôi phải đặt những câu hỏi đó lên xem chúng tôi sẽ phản ứng ra sao, và sẽ trả lời câu hỏi đó như thế nào? Nếu những câu hỏi đó mà còn gây cho chúng tôi tức giận, hay chúng tôi không có một câu trả lời hợp lý, thì chúng tôi sẽ không đem vấn đề đó ra, để giải quyết với con của mình. Dù rằng, trên lý thuyết, là cha mẹ, chúng ta có quyền “xen vào” đời tư của các đứa con.

Sau khi đã nắm quyền chủ động, và đã làm chủ được những sự tức giận, có được những câu trả lời hợp lý, thì chúng tôi biết, đã đến lúc chúng tôi có thể nói chuyện với con của chúng tôi, bởi vì, khi chúng tôi giao tiếp với con của chúng tôi, chúng tôi biết sự giao tiếp đó sẽ xẩy ra dưới trong trạng thái của An. Vì sao?

Vì giận chỉ có thể có mặt, khi chúng tôi không biết được kết quả. Khi đã biết được rồi, thì sự tức giận sẽ không “có cửa” để xuất hiện.

Quả nhiên, khi ứng dụng phương pháp chủ động này, chúng tôi đã làm chủ được tình hình. Cuộc đối thoại giữa hai mẹ con xẩy ra rất êm thắm. Đứa con của chúng tôi, sau đó đã khóc và xin lỗi. Nó tâm sự rằng: nó biết việc làm của nó sẽ khiến chúng tôi lo âu, bất An, nhưng vì ham chơi với bạn bè, nên đã quyết định đi chơi, và sẵn sàng về chịu bị chửi. Nó cũng rất ngạc nhiên, tại sao chúng tôi lại không chửi, mà lại đi ngủ.

Đơn giản, vì sự lo âu và bất an của chúng tôi là: không biết con mình có được an toàn không. Khi đã chứng kiến con đã về nhà an toàn rồi, thì cái bất an không còn nữa, nên chúng tôi đi ngủ. Còn chuyện con của chúng tôi có lỗi, và phải dậy dỗ nó ra sao, để nó biết đúng hay sai, là chuyện lâu dài, có khi phải dậy cả đời, chứ không phải chỉ trong lúc này.

Cho nên, chúng tôi không “nhập chung” việc bất an, lo âu về sự an toàn của con chúng tôi, và chuyện dậy dỗ con vào làm một. Với sự trải nghiệm của chúng tôi, việc nào ra việc đó. Mỗi việc có cách giải quyết khác nhau. Vì thế, không thể đem hai chuyện nhập thành một.

Khi chúng tôi đem những sự trải nghiệm này để chia xẻ lại với con của chúng tôi, nó hiểu ra, và từ đó, nó không bao giờ tái phạm nữa.

Nếu lúc đó, chúng tôi đang ở thế bị động ngồi chờ con về, rồi khi con vừa bước vào nhà, chúng tôi tức giận lên, chửi mắng đứa con. Trong khi, đứa con đang còn trong thế chủ động, nó sẽ dẫn dắt chúng tôi đang trong thế bị động (tức giận), và đưa ra những câu trả lời như đổ dầu vào lửa, thì cách chửi mắng con của chúng tôi lúc đó, sẽ tạo ra biết bao nhiêu hậu quả như: con của chúng tôi sẽ bỏ học đi chơi, hay bỏ nhà ra đi, và điều tệ hại nhất, có thể là tự tử. Như vậy, chúng tôi sẽ mất đứa con vĩnh viễn.

Tức giận một điều gì đó, xẩy ra không đúng với ý muốn của chúng ta, là một chuyện rất bình thường. Đó không phải là điều gì xấu cả. Nếu chúng ta biết ứng dụng đúng nơi và đúng chỗ, sẽ đem đến cho chúng ta rất nhiều lợi ích.

Thí dụ: Thay vì đem sự tức giận trút lên đối tượng, thì chúng ta đem cơn giận đó, biến thành động lực, giúp cho chúng ta có thể đạt được mục tiêu mà chúng ta muốn. Thay vì, tức giận con, sao chúng ta không tức giận chính mình, chưa có đủ An, để đem đến sự vui vẻ, hòa thuận, cho những người thân thương.

Câu chuyện thứ năm: Chủ động trong Kinh Doanh.

Khi cặp vợ chồng của nhà thiết kế đã lãnh được những giải thưởng lớn trong nghành thiết kế thời trang đến gặp chúng tôi, để cùng hợp tác sản xuất ra những bộ quần áo thời trang, bán cho người thượng lưu, thì họ đang trong thế chủ động và chúng tôi trở thành bị động.

Họ nghĩ, họ có quyền yêu cầu chúng tôi phải theo những điều kiện mà họ đặt ra như: may hàng đúng tiêu chuẩn theo mẫu, thời gian giao hàng đúng hẹn, và trả tiền sản xuất phải theo tiêu chuẩn 45 ngày, v.v.

Nếu là những người chủ hãng may bị động thì sẽ phải theo yêu cầu của họ, và sẽ gặp rất nhiều hậu quả như: từ hàng may mẫu đến hàng ra hàng loạt (production), là hai vấn đề hoàn toàn khác nhau.

Thí dụ: người may hàng mẫu, họ có thể hoàn thành một cái áo, hay quần, trong vòng 3 đến 4 tiếng, miễn là họ may theo đúng cách thiết kế; còn cách may nhanh hay chậm ra sao, với họ không quan trọng. Nhưng trong phần sản xuất (production), muốn ra cả lô sản phẩm theo đúng lộ trình thời gian, thì cách thức may và thời gian may, đóng một vai trò vô cùng quan trọng.

Nếu trong khâu này, mà không giải quyết được, thì không thể nào giao hàng đúng thời gian được. Đó là chưa kể, nếu mặt hàng may khó quá, sẽ khiến cho thợ may chậm, khiến cho giá thành ra sản phẩm phải tăng lên, và ảnh hưởng đến sự lời lỗ của công ty, và có thể khiến công ty bị phá sản.

Cho nên, khi hai vợ chồng nhà thiết kế này, chỉ dựa trên một sản phẩm có mẫu sẵn, rồi bắt ký một hợp đồng giao hàng đúng hẹn, họ đang trong thế chủ động, và chúng tôi đang trong thế bị động phải làm theo, thì những hậu quả như: phải bồi thường tiền thiệt hại, khi giao hàng không đúng hẹn, hay khiến hai vợ chồng nhà thiết kế bị mất uy tín; chắc chắn, số tiền bồi thường cho họ sẽ không hề nhỏ.

Thay vì, phải ở thế bị động, chúng tôi đã dành quyền chủ động, bằng cách, tự may hàng mẫu theo tiêu chuẩn của họ, và dựa trên cách may hàng mẫu của chúng tôi, để ước tính thời gian giao hàng, trong vòng gia giảm một tuần.

Chính nhờ biết lấy lại quyền chủ động, chúng tôi không những giúp cho uy tín của hai vợ chồng nhà thiết kế được gia tăng, và những thiết kế khác của họ có được nhiều nhà tiêu thụ đặt hàng. Chỉ trong vòng hơn hai năm, hai vợ chồng nhà thiết kế này đã bán lại công ty, và lời vài ba triệu. Còn chúng tôi, cũng được nhiều lợi ích như: uy tín và tài chánh gia tăng.

Dù là thay đổi chủ, nhưng chúng tôi vẫn tiếp tục làm nhà sản xuất cho chủ mới, và lại có thêm một người khách cũ là vợ chồng hai nhà thiết kế, khi họ lại mở công ty mới.

Sự thành công và kéo dài trong hơn 30 năm của công ty chúng tôi có được như bây giờ, có lẽ bắt đầu từ bằng bài học đầu tiên, khi chúng tôi áp dụng phương pháp biến bị động thành chủ động. 

Lúc mới khởi đầu, có lẽ vì sự cạnh tranh về thợ, nên các đối thủ của chúng tôi đã đi loan tin đồn rằng, đừng nên làm việc với công ty của chúng tôi, vì công ty của chúng tôi sẽ quỵt tiền thợ.

Chúng tôi không biết điều này phát xuất từ đối thủ nào, và chúng tôi lại là công ty mới, nên chưa có những người thợ chủ lực. Trong khi những người thợ chủ lực này, một số lại đang làm cho những đối thủ của chúng tôi, hay có quen biết với những người thợ khác.

Họ nghe tin đồn, và họ tin vào điều đó. Mặc dù, họ chưa hề làm việc với chúng tôi lần nào.

Thay vì, bị rơi vào thế bị động, chúng tôi đã quyết định chủ động, đi đến những người thợ đó, không phải để giải thích và phân bua về tin đồn, mà chúng tôi đã đưa ra một đề nghị khá “táo bạo”, với nghành may mặc, lúc đó:

Chúng tôi trả tiền trước cho người thợ, trước khi người thợ đó may hàng. Trong khi, theo “luật bất thành văn” của các đối thủ của chúng tôi: may xong, giao hàng rồi mới trả lương.

Chỉ trong vòng một tháng, những tin đồn xấu về chúng tôi không những tự động biến mất, mà chúng tôi còn tạo được một uy tín vô cùng lớn với thợ của chúng tôi. Từ đó, giúp cho công ty của chúng tôi vượt qua bao khó khăn, và tiếp tục phát triển cho tới tận bây giờ. Trong khi, tất cả các đối thủ ngày trước của chúng tôi đã đóng cửa gần 30 năm về trước.

Nếu lúc đó, chúng tôi không biết sử dụng quyền chủ động, và vẫn tiếp tục bị động do những tin đồn thất thiệt, thì công ty của chúng tôi có lẽ sẽ là công ty đóng cửa sớm nhất, vì không có thợ, thì cũng chẳng còn công ty.

Đấy bạn thấy đấy, chủ động và bị động, luôn ảnh hưởng, hầu như, gần hết các vấn đề trong cuộc sống của chúng ta. Vấn đề là, chúng ta thường vẫn hay rơi vào thế bị động.

Nếu chúng ta không biết ứng dụng để thay thế bị động thành chủ động, chúng ta sẽ thấy, cuộc đời của chúng ta sẽ có nhiều buồn phiền và khổ đau hơn.

Trong khi, chúng ta lại có quyền để chọn thế chủ động, và trong thế chủ động, qua sự trải nghiệm của chúng tôi thì đem lại nhiều kết quả lợi ích hơn, trong đó, quan trọng nhất là đạt được trạng thái An Lạc dài hơn.

KHÔNG DƠ CŨNG KHÔNG SẠCH

album-art

00:00

TẢI MP3 – CHÂN THƯỜNG LƯU

TẢI MP3 – THANH THỦY
TẢI MP3 – DIỆU LIÊN

Bạn Thân Mến,

Chăm sóc cho một người bịnh suy khờ người già là chăm sóc cho một người, mà người đó, không còn sử dụng đến Ý Thức của họ nữa. Nếu như bạn không sử dụng Tuệ Giác của bạn một cách liên tục, thì sự bất An sẽ đến với bạn bất cứ lúc nào. Và khi bạn không giải quyết bất An đó ngay lập tức, thì sự bất An đó sẽ tiếp tục chồng chất, và cuối cùng, bạn sẽ rơi vào trầm cảm.

Chính vì vậy, khi bạn chăm sóc một người bịnh, thì cũng là lúc, bạn có dịp thực tập phát huy Tuệ Giác của bạn nhiều nhất.

Câu chuyện hôm nay sẽ liên quan đến một nơi mà chúng ta hay ngại đề cập đến, đó là cầu tiêu.

Cầu tiêu là nơi để cơ thể chúng ta xả ra những độc tố có thể gây ra nguy hiểm cho tánh mạng của chúng ta. Nếu những độc tố này, thay vì thải ra ngoài, nay lại quay ngược vào bên trong thì hậu quả thật vô cùng nghiêm trọng.

Khi cơ thể thải những độc tố này qua đường tiểu, chúng ta sẽ ngửi được mùi khai, và lấy làm khó chịu. Nhưng nếu chúng ta chịu nhìn sâu hơn, chúng ta sẽ thấy, cơ thể của chúng ta qua quá trình trao đổi chất của các tế bào tạo ra nhiều sản phẩm, trong đó, có một số giầu nitơ (nitrogen), như: urê hay axit uric, và creatinin, cần phải loại bỏ ra khỏi máu.

Khi những sản phẩm cuối cùng này được thải ra khỏi cơ thể qua một quá trình, thì qúa trình đó gọi là tiểu tiện.

Nước tiểu có những đóng góp lớn trong chu trình nitrogen của trái Đất. Trong hệ sinh thái cân bằng, nước tiểu làm giầu cho đất, nên giúp cho cây cỏ phát triển. Vì vậy, nước tiểu có thể được sử dụng làm phân bón.

Về ứng dụng, nước tiểu để lâu, hoặc lên men, cũng được sử dụng để sản xuất thuốc súng, làm chất tẩy trong gia đình, làm chất thuộc da, và chất nhuộm vải.

Bạn thấy đấy, nếu ở trong cầu tiêu, nước tiểu là một loại nước có mùi khai, khiến chúng ta rất khó chịu. Nhưng đứng trên góc độ về có lợi cho cơ thể, có lợi cho môi trường, và ứng dụng thì chúng ta lại thấy, nước tiểu có một sự đóng góp cho con người và muôn loài.

Như vậy, nếu chúng ta chịu quan sát và chịu nhìn sâu, chúng ta thấy, đâu phải nước tiểu chỉ có hại khi cho chúng ta cảm giác khó chịu về mùi khai, mà nước tiểu cũng có những lợi ích khác, nếu chúng ta không chịu nhìn sâu, chúng ta sẽ không thấy được hết giá trị của nước tiểu.

Phân người cũng vậy. Khi được thải ra bên ngoài là phần đặc hoặc nửa đặc còn lại của thức ăn không được tiêu hóa, hay hấp thụ bởi ruột non, nhưng đã bị vi khuẩn trong ruột già phân hủy.

Trong quá trình phân hủy, phân tạo ra mùi hôi, khiến cho chúng ta khó chịu, và cảm thấy, phân là một cái gì đó dơ bẩn, không muốn dính vào.

Nước Tiểu và Phân là hai “sản phẩm” mà khi bạn chăn sóc cho người bịnh suy khờ người già, bạn sẽ luôn phải đối mặt nhiều lần trong một ngày.

Nếu bạn không có khả năng nhìn sâu, và sử dụng Tuệ Giác, bạn sẽ rất dễ bị “điên tiết” khi phải chứng kiến và dọn dẹp những “sản phẩm”, mà bình thường, bạn coi là gớm ghiếc, ghê tởm, hôi thối, cần phải tránh xa.

Câu chuyện xẩy ra khi người thân của chúng tôi, sau 15 phút ăn trưa, đi đại tiện trong tã.

Để tránh gây ra sự hôi thối, và tránh cho da bị nhiễm độc tạo ra những lở loét, chúng tôi đã quyết định đi tắm cho người thân.

Khi đã tắm xong, chúng tôi bắt đầu dọn dẹp phòng tắm cho sạch sẽ. Đúng lúc đó, người thân của chúng tôi lại đi đại tiện một lần nữa, xuống sàn.

Tiếp xúc với những cục phân qua mắt, trong tâm của chúng tôi chợt nẩy sinh, cảm giác tức giận.

Qua cảm giác tức giận, chúng tôi có biết bao nhiêu suy nghĩ tiêu cực và trách móc, như:

Tại sao lúc nẫy không đi cầu luôn một lần để dọn cho xong?

Tại sao lại không nhịn một chút, để đợi ngồi vào bồn cầu mà lại đi đại tiện xuống sàn, rồi lại phải đi dọn dẹp?

Vừa mới tắm rửa sạch sẽ xong, bây giờ lại đi tắm nữa.

Phân gì mà có mùi hôi nồng nặc khó chịu ,v.v.

Cũng may, vì đã thực tập sống có Tuệ Giác, thay vì, tiếp tục “phiêu lưu” theo những cảm giác tiêu cực, chúng tôi đã bắt đầu nhìn sâu vào những cục phân.

Rõ rằng khoảng 4 giờ trước, cục phân là những củ khoai lang, khoai tây, cà rốt, rất sạch sẽ, thơm tho. Những củ quả này đã được nấu nướng với tâm An Lành để biến thành thực phẩm nuôi dưỡng cơ thể.

Khi những thực phẩm này đi qua cơ thể, được cơ thể gạn lọc lấy những chất bổ dưỡng lại nuôi cơ thể, và những chất dư thừa được thải ra bên ngoài. Nếu như những chất dư thừa này không được thải ra bên ngoài thì sẽ trở thành độc tố làm hại cho cơ thể.

Bây giờ những độc tố được thải ra, có nghĩa là, cơ thể của người thân được mạnh khỏe. Đó không phải là mục đích mà chúng tôi đã muốn cho người thân sao? Vậy mục đích chúng tôi muốn, chúng tôi đã đạt được thì tại sao chúng tôi lại tức giận.

Khi bắt đầu, hướng góc độ nhìn đang từ tức giận với những suy nghĩ tiêu cực, qua góc độ tích cực như đặt lại câu hỏi cho chính mình, sự tức giận và những suy nghĩ tiêu cực trong chúng tôi không còn tồn tại.

Lúc đó, chỉ còn lại một cảm giác an vui, vì những cục phân kia, chính là những kết quả cho chúng tôi biết, cơ thể của người thân của chúng tôi đang hoạt động rất tốt, và rất khỏe mạnh.

Cầm từng cục phân trên tay, thay vì, có những cảm giác ghê gớm, hôi thối qua tiêu cực, chúng tôi lại có một cảm giác vô cùng tích cực, đó là, cảm giác an vui, khi thấy những sự mong muốn người thân được An Lành đã thành hiện thực.

Khi có mặt của sự An Vui thì những cục phân không còn là hôi thối, đáng ghê tởm, mà những cục phân đó hoàn toàn không còn dơ hay sạch. Ở đó, chỉ còn lại một sự biết ơn cơ thể của người thân, đã và đang làm việc thật tốt để đem đến sự An Lành cho người thân.

Cầm trên tay những cục phân, cũng như cầm trên tay những củ khoai lang, khoai tây trước đây mấy tiếng đồng hồ, hoàn toàn giống nhau.

Cái khác biệt duy nhất, đó chỉ là một qúa trình chuyển hóa.

Qua qúa trình chuyển hóa, từ một vật này qua một vật kia, lại giúp cho một sinh mạng có thể sống An Lành.

Không dơ và không sạch chẳng có gì là cao siêu cả, khi có mặt của Tuệ Giác, và qua thực nghiệm, cũng chỉ là những củ qủa, những cục phân, và những nhận thức nhìn nông hay sâu.

Khi nhìn nông thì những cục phân trở thành tức giận, ghê tởm, hôi thối. Khi nhìn sâu thì thấy được sự An Vui, không dơ, không sạch, và sự mầu nhiệm của chuyển hóa hay vô thường.

TÂM DƯỢC

album-art

00:00

TẢI MP3 – QUANG TÍN

TẢI MP3 – HOÀNG DUNG

Bạn Thân Mến,

Cuộc sống của chúng ta sẽ trở nên mầu nhiệm hơn khi bạn bắt đầu tất cả mọi sự, mọi việc, trong cuộc sống của bạn bằng sự quan sát. Và ai trong chúng ta cũng có khả năng này mà không cần phải học từ bất cứ một ai khác.

Khi bạn chọn lựa sử dụng sự quan sát đang có trong bạn thì bạn đang bắt đầu một hành trình mới, hành trình của sự nhìn sâu hơn.

Hành trình nhìn sâu hơn này đóng một vai trò vô cùng quan trọng, vì hành trình này sẽ giúp bạn tiếp cận được với Sự Thật Đang Là. 

Khi bạn tiếp cận được với Sự Thật Đang Là, bạn sẽ không còn phỏng đoán, mơ tưởng về kết quả bạn mong muốn, mà bạn biết rất rõ được kết qủa đó qua qúa trình quan sát tỉ mỉ, phân tích, và tổng hợp sâu sắc.

Trong đạo Phật, sự quan sát tỉ mỉ, phân tích và tổng hợp sâu sắc để biết được kết quả mà không phải là hậu quả, được gọi là Tuệ Giác. Tuệ là khả năng quan sát, phân tích, tổng hợp theo chiều sâu, và Giác là nhận ra, biết ra.

Ở đây, chúng ta không bàn về tôn giáo, vì khả năng quan sát, phân tích, tổng hợp theo chiều sâu vốn là bản năng của con người. Ai trong chúng ta cũng có sẵn. Vấn đề là, chúng ta có muốn sử dụng hay không, và sử dụng như thế nào mới đúng cách.

Trong chủ đề Tâm Dược này, chúng tôi sẽ chia xẻ với bạn kinh nghiệm mà chúng tôi sử dụng sự quan sát, phân tích và tổng hợp như thế nào trong qúa trình chăm sóc cho người thân, và làm sao chuyển hóa thức ăn bình thường thành Tâm Dược.

Có một vài điều vô cùng quan trọng bạn cần phải lưu ý:

  • Vì đây chỉ là kinh nghiệm của riêng chúng tôi, cho nên, đó không phải là tiêu chuẩn chung cho tất cả mọi người. Vì vậy, nếu bạn muốn trải nghiệm thì bạn phải dùng Tuệ Giác của bạn để đạt được kết quả, chứ không nên dùng kết qủa của chúng tôi làm kết qủa của bạn.
  • Tất cả những thức ăn của chúng tôi sử dụng cho người thân, cũng chỉ là lựa chọn theo sở thích, mà không phải là tiêu chuẩn vàng, bắt buộc phải có. Khi bạn sử dụng Tuệ Giác của bạn, bạn sẽ biết chọn những thức ăn nào thích hợp cho người bạn muốn chăm sóc, hay cho chính bản thân bạn.
  • Niềm tin đóng một vai trò vô cùng quan trọng để đạt được kết quả. Không xác định được niềm tin đúng đắn thì bạn sẽ không ra được kết quả như bạn muốn. Chúng ta phần lớn có những hiểu lầm về niềm tin. Chúng ta cứ nghĩ rằng, khi chúng ta nói chúng ta tin điều gì đó thì chúng ta tin 100%. Nhưng sự thật, chúng ta không tin như chúng ta nói.

Hãy lấy một thí dụ làm minh họa: Tôi tin là tôi sẽ trúng số, nhưng tôi mua vé số hoài, mà vẫn không trúng. Bạn nghĩ gì về niềm tin này? Rõ ràng, bạn đâu có tin bạn trúng số. Nếu bạn thật sự tin, bạn chỉ cần mua một lần là bạn trúng. Hay nói một cách khác hơn, điều bạn tin không phải là bạn trúng số, mà thật sự, bạn tin là bạn không trúng, nên bạn cứ tiếp tục mua hoài. Bởi vậy, kết quả là tuần nào bạn cũng mua vé số, nhưng bạn không trúng, đó là việc tất nhiên.

Thí dụ thứ hai: Tôi tin là tôi sẽ hết đau răng, để tôi thử. Thử là một dạng của nghi ngờ. Khi bạn tin mà có Thử, hay nghi ngờ thì kết quả ra là sự nghi ngờ của bạn, chứ không phải kết qủa của việc bạn tin vào bạn hết đau răng.  Vì vậy, nếu muốn biết bạn tin là gì thì bạn hãy lấy kết qủa bạn đang có để biết cái Nhân (cái bạn tin) là gì. Nếu bạn biết cái Nhân bạn chọn sai thì bạn chỉ cần chọn lại cái nhân cho đúng, rồi đặt niềm tin vào cái nhân đó.

  • Phương pháp ứng dụng của chúng tôi không phải là phương pháp trị bịnh, mà chỉ là phương pháp nhìn sâu, và tôn trọng khả năng tự chữa của cơ thể.

Sự ứng dụng của chúng tôi chỉ là sự hỗ trợ cho cơ thể của người được chăm sóc, có cơ hội tự phục hồi các chức năng theo qui luật sống còn của cơ thể.

Khi có những việc cấp bách mà cơ thể chưa có phản ứng kịp thời để tự điều chỉnh, chúng tôi vẫn sử dụng mọi phương tiện đang có như: đi nhà thương, khám bác sĩ, và vẫn tuân thủ theo đúng cách hướng dẫn của các chuyên gia trong qúa trình chữa trị.

Cách ứng dụng của chúng tôi chỉ sử dụng trong quá trình khi cơ thể có nhiều thời gian để tự điều chỉnh, chứ không được sử dụng trong những trường hợp nguy cấp liên quan đến tánh mạng.

Phương pháp này, không hề có đối chọi với tất cả các phương pháp trị bịnh của các chuyên gia, mà chỉ mang tính cách hỗ trợ, giúp cho mọi phương pháp trị bịnh khác trở nên có hiệu qủa tốt hơn.

  • Đừng tin những gì chúng tôi chia xẻ, mà bạn nên xem những chia xẻ của chúng tôi như một thông tin, và bạn hãy sử dụng Tuệ Giác của bạn để trải nghiệm. Bạn chỉ nên tin vào Kết Quả mà chính bạn đạt được. Vì Kết Quả đó đúng với bạn nhất. Không ai hiểu bạn hơn chính bạn, và chỉ có bạn mới biết chính xác bạn muốn gì và cần gì?

Nào, xin mời bạn hãy cùng trải nghiệm qua những ứng dụng của chúng tôi, trong việc chăm sóc cho người thân bị bịnh suy khờ người già như thế nào.

Khi bác sĩ về thần kinh đưa những tấm hình chụp não của người thân của chúng tôi, ông chỉ vào những chỗ lỗ chỗ trong hình và giải thích đây là những vùng thuộc về trí nhớ.

Vùng này trong hình đã chứng minh, vùng trí nhớ đã bị tổn hại, những tế bào trong đó khuyết dần, và nguy cơ sẽ không còn khả năng để nhớ. Sự giảm của trí nhớ sẽ tụt dần, và giai đoạn cuối cùng, người thân của chúng tôi sẽ giống như đứa trẻ mới sơ sinh, không biết một thứ gì.

Ngoài bịnh về suy khờ người già, người thân của chúng tôi cũng còn một số các bịnh nền khác như: Tiểu Đường (đã dùng thuốc hơn 20 năm) , Suy Thận khá trầm trọng, và bác sĩ thận tuyên bố, với chỉ số 22, thì cao lắm trong vòng 1 năm là phải sử dụng máy lọc thận.

Huyết áp cao, mỡ cao, liên quan đến tim, và phải liên tục đi khám bác sĩ tim theo định kỳ, vì theo tiền sử bịnh án, người thân của chúng tôi đã từng bị tai biến mạch máu não 3 lần, nhưng không bị di chứng.

Có thể nói, tất cả những bịnh mà người thân chúng tôi có, được gọi là bịnh của thế kỷ 21, không hề thiếu thứ nào.

Là một người rất năng nổ trong hoạt động, tuy đã là U70, nhưng chúng tôi vẫn tiếp tục hoạt động trong kinh doanh, và sinh hoạt về tâm linh. Có thể nói, khi chấp nhận trở về để chăm sóc cho người thân, đứng về mặt tâm lý, chúng tôi cũng chưa thể thích nghi ngay, vì những thói quen cũ đang phải thay bằng những thói quen mới.

Những ngày đầu, khi sống trong môi trường mới có những rào cản như: phải khóa và mở cửa phòng bếp, khóa tủ đựng dao kéo, v.v. để tránh gây ra nguy hiểm cho người thân. Rồi phải thích nghi với những thay đổi của người thân theo từng tuần.

Có những thói quen, vừa mới quen xong thì người thân lại thay đổi cách sinh hoạt khác, và lại phải tập thói quen mới.

Có thể nói, nếu ai chưa trải qua sẽ không cảm nhận được hết những áp lực về cả tâm và sinh lý.

Những cơ quan chính phủ, trong các chương trình dành cho những bịnh suy khờ người già đã đưa ra rất nhiều những hướng dẫn khuyến cáo. Trong đó, những thống kê đưa ra, có đến hơn 50% những người nuôi người bịnh suy khờ người già sẽ bị rơi vào trầm cảm.

Trước những khó khăn tiếp tục chồng chất, ngoài việc phải học hỏi cách chăm sóc cho người thân, chúng tôi còn phải giải quyết những xáo trộn trong tâm lý của chính mình. Nếu không, cơ hội rơi vào trầm cảm là rất cao.

Vốn đã có thời gian khá dài sinh hoạt về tâm linh, chúng tôi đã bắt đầu sử dụng sự quan sát tỉ mỉ, phân tích, tổng hợp chính xác để tìm ra kết qủa mà chúng tôi mong muốn, đó là: Đem Bình An đến cho người thân và cho chính mình.

Thay vì, bực tức khi người thân quên không biết mình vừa mới ăn mà lại kêu đói, chúng tôi đã bắt đầu bằng sự quan sát những hành động, cơ thể, cân nặng v.v. của người thân, rồi ghi chép vào một cuốn sổ, có ngày giờ rõ ràng.

Mục đích của cuốn sổ này giúp cho chúng tôi có thể biết chính xác người thân ăn uống thế nào? Có thiếu dinh dưỡng không? Có bị sụt cân không? Hay, tăng cân thì ảnh hưởng như thế nào tới sức khỏe v.v. Có thể nói, tất cả những gì liên quan đến người thân thì chúng tôi quan sát rất kỹ, và ghi chép lại đầy đủ.

Chính nhờ tập trung vào sự quan sát tỉ mỉ, để sau này, dùng cho sự phân tích hay tổng hợp một cách chính xác, giúp cho chúng tôi có thể hiểu rõ hơn về người thân của chúng tôi, và có thể đưa ra những cách điều chỉnh hợp lý.

Với chúng tôi, về tâm lý, chúng tôi cũng không rơi vào sự bực tức như lúc mới ban đầu khi chúng tôi cứ dựa vào nhận thức vô cùng sai lầm, đó là: người thân đã bao nhiêu tuổi rồi, mà chỉ có việc đơn giản là nhớ mình ăn gì hay chưa cũng không nhớ.

Chính vì nhận thức sai lầm này là nguyên nhân gây ra sự bực tức của chúng tôi, và sự bực tức đó, nếu cứ tiếp tục gia tăng mỗi ngày khi người thân lại quên không nhớ đã ăn, thì khi sự bực tức đó vượt ngưỡng của sự chịu đựng sẽ đưa đến kết qủa là trầm cảm.

Sự thật, người bị bịnh suy khờ người già là người đang mất dần trí nhớ. Họ không nhớ là chuyện tất nhiên, đâu có gì cần bàn cãi. Nhưng vì chúng tôi lúc ban đầu đã có nhận thức sai lầm rằng: vì người đó đã sống biết bao lâu, cũng đã có tuổi đời, nhưng sao một việc đơn giản như vậy lại không nhớ được.

Cái tức cười và ngớ ngẩn nhất trong nhận thức sai lầm này là: nếu họ nhớ thì họ đâu bị bịnh suy khờ người già.

Như vậy, qua sự quan sát sâu sắc, để ý từng chi tiết về hành động, hành vi, cách diễn đạt của chúng tôi với người thân, chúng tôi lại rút ra được một vài bài học như sau:

  • Chúng tôi qúa tin vào những gì chúng tôi nghĩ là mình đúng. Mà cái đúng đó chỉ là cái đúng qua suy luận, hơn là tiếp xúc với sự thật; từ đó, tạo ra sự nhầm lẫn trong nhận thức và sinh ra phiền muộn.
  • Khi bắt đầu bằng sự quan sát tỉ mỉ, ghi chép rõ ràng, phân tích, tổng hợp chính xác đã giúp chúng ta tiếp xúc được với sự thật. Và khi tiếp xúc được với sự thật thì chúng tôi mới có cách giải quyết tận gốc rễ; từ đó, mới có thể có AN thật sự; và chỉ có cái An thật sự, mới là thuốc trị dứt điểm những phiền muộn, bực tức, trầm cảm, không di chứng.
  • Khi có sự quan sát tỉ mỉ, phân tích, tổng hợp chính xác, và tiếp xúc được với sự thật thì chúng tôi mới có khả năng giải quyết vấn đề mà không đưa đến hậu qủa, và tạo thành kết quả như chúng tôi mong muốn.
  • Khi có sự quan sát tỉ mỉ, phân tích, tổng hợp chính xác, và tiếp xúc được với sự thật thì lúc đó tình thương vô điều kiện (Từ Bi: Từ là đem niềm vui đến cho người khác; Bi là lấy niềm đau nỗi khổ ra khỏi người khác) mới xuất hiện.
  • Khi có tình thương vô điều kiện xuất hiện thì Nuôi Nấng trở thành Chăm Sóc. Hay rõ nghĩa hơn, Nuôi Nấng thuộc về trách nhiệm phải làm, trong đó, bao gồm: sự bắt buộc, chịu đựng, hy sinh, gánh chịu, và hậu qủa là: sự bực tức, phiền muộn, căng thẳng, trầm cảm v.v.

Ngược lại, Chăm Sóc bắt đầu bằng sự quan sát tỉ mỉ, nhìn sâu để tiếp xúc với sự thật. Khi tiếp xúc được với sự thật thì phát sinh ra tình thương vô điều kiện, trong đó, bao gồm: sự hiểu biết, đồng cảm, tự nguyện, và kết qủa là An Lạc.

Qua 5 bài học trên, chúng tôi đã bắt đầu đem ứng dụng vào cho người thân của chúng tôi. Chỉ trong vòng 35 ngày, người thân của chúng tôi thay đổi các kết quả đến ngay cả các bác sĩ về Tim, Thận,v.v, họ đều gọi  đó là những kỳ tích mà khoa học không thể giải thích được.

Về thuốc tiểu đường, mặc dù đã dùng hơn 20 năm, nhưng sau 35 ngày thì không cần uống thuốc Tiểu Đường nữa, vì chỉ số của đường gần bằng với chỉ số của người bình thường.

Về cao máu, cao mỡ, thuốc dùng trong hơn 20 năm, nay ngừng uống, vì trở lại bình thường.

Về suy thận, nếu theo qui trình thoái hóa thì chỉ số 22 là đang ở mức báo động, nếu tiếp tục giảm nữa thì phải lọc thận. Nhưng sau 35 ngày thì chỉ số lên 40 gần bằng với người bình thường là 50.

Về bịnh suy khờ người già, tuy không nhớ nhiều việc như lúc trước, nhưng độ quên không gia tăng.

Trong qúa trình thực nghiệm, chúng tôi thử cho người thân nghe những bài nhạc về những tác giả mà người thân chúng tôi thích, thì người thân có thể hát, nhịp tay chân theo điệu nhạc và rất hứng thú. Ngược lại, những bài nhạc hay tác giả không ưa thích thì không hề có bất cứ một phản ứng gì. Giống như kiểu, bịt tai lại không nghe vậy.

Chúng tôi thực nghiệm liên tục trong một tháng, và kết qủa mỗi lần đều giống nhau. Qua đó, chúng tôi có một góc độ nhìn mới hơn về bịnh suy khờ người già. Có thể đây là quan điểm mang tính chủ quan, không có gì chứng minh theo khoa học.

Nhưng qua người thân của chúng tôi thì hình như, người thân chỉ muốn nhớ những gì mình thích nhớ. Còn những gì không muốn nhớ thì sẽ không nhớ, dù là việc đó mới làm. Chúng tôi sẽ tiếp tục thực nghiệm và khi có những kết quả mới khác, chúng tôi sẽ chia xẻ với bạn trong chủ đề khác.

Và đây là đề tài mà bạn đang chờ đợi. Làm sao biến thực phẩm thành Tâm Dược?

Nói đến thực phẩm thì không ai trong chúng ta không biết về giá trị của thực phẩm. Đơn giản là, nếu cơ thể của chúng ta không có thực phẩm thì cơ thể của chúng ta sẽ bị suy dinh dưỡng và cuối cùng là ngừng hoạt động.

Thế nên, không ai trong chúng ta muốn cơ thể mình ngừng hoạt động cả. Chính vì vậy, mỗi một ngày, chúng ta cần phải tiêu thụ một số thực phẩm, dù ít hay nhiều.

Trên căn bản, thực phẩm vốn thuộc về vật chất, thể rắn, nhưng qua qúa trình nấu nướng và khi ăn vào cơ thể lại được chuyển hóa thành thể lỏng, và tạo ra năng lượng cho cơ thể để có thể tiếp tục hoạt động.

Năng lượng được tạo ra nuôi cơ thể do qúa trình chuyển hóa của tự cơ thể, trong đó, cũng bao gồm luôn năng lượng từ chính thực phẩm được giải tỏa trong qúa trình nấu nướng, và nghiền nát từ bao tử.

Hay nói rõ hơn, trong thực phẩm, có những nguồn năng lượng của chính chúng; và nguồn năng lượng này, khi kết hợp với sự khởi niệm của người nấu như thế nào sẽ biến thực phẩm thành Độc Dược hay Tâm Dược.

Để có những khái niệm về nguồn năng lượng như thế nào, chúng ta hãy cùng tham khảo một trong những nghiên cứu khá thú vị về tâm trạng của con người, được bác sĩ tâm thần, người Mỹ, nhà nghiên cứu nhận thức, và giảng viên tâm linh nổi tiếng thế giới, ông David R.Hawkins (1927–2012).

Trong tác phẩm bán chạy nhất của mình, “Power vs Force” (Năng lượng tâm linh), ông đã chứng minh được mối liên hệ mật thiết giữa bệnh tật của con người và những suy giảm năng lượng trong cơ thể, đến từ những tư tưởng tiêu cực.

Để chứng minh điều này, bác sĩ David đã dùng phương pháp thực nghiệm khoa học để đo tất cả các tư tưởng, suy nghĩ, cảm nhận của một người; rồi từ đó, ông ghi nhận được tần số rung động về ý thức hệ của người đó.

Qua nghiên cứu của ông, những người thiếu thương yêu, hay có tư tưởng tiêu cực, oán giận, chỉ trích, hận thù người khác, hoặc sống ích kỷ đều có tần số rung động thấp.

Theo bác sĩ David, khi những người đó trách móc, hận thù người khác, họ sẽ làm tiêu hao rất nhiều năng lượng của họ; đồng thời, họ cũng tạo ra rất nhiều áp lực trên cơ thể, khiến tần số rung động của họ bị giảm. Vì vậy, họ có nguy cơ bị mắc rất nhiều loại bệnh.

Sau hơn 20 năm dài thực nghiệm lâm sàng với hàng triệu tư liệu được ghi lại. Sau khi thông qua các phân tích, thống kê tỉ mỉ, bác sĩ David đã phát hiện ra rằng: các tầng ý thức khác nhau của con người đều tương ứng với các chỉ số năng lượng nào đó. Từ đó, ông thống kê ra được những mức tần số năng lượng chủ yếu như sau:

  • Khai Ngộ Chính Giác: 700 ~ 1000
  • Điềm Tĩnh, Thanh Thản: 600
  • Vui Vẻ, Thanh Tĩnh: 540
  • Tình Yêu Và Sự Tôn Kính: 500
  • Lý Tính, Thấu Hiểu: 400
  • Khoan Dung, Độ Lượng: 350
  • Hy Vọng, Lạc Quan: 310
  • Tin Cậy: 250
  • Can Đảm, Khẳng Định: 200
  • Tự Cao, Khinh Thường: 175
  • Ghét, Thù Hận: 150
  • Dục Vọng, Khao Khát: 125
  • Sợ Hãi, Lo Âu: 100
  • Đau Buồn, Tiếc Nuối: 75
  • Thờ Ơ, Tuyệt Vọng: 50
  • Khiển Trách, Tội Ác: 30
  • Nhục Nhã, Hổ Thẹn: 20

Qua thống kê, bác sĩ David cũng cung cấp những điều thú vị mà ít người biết về tần số năng lượng rung động như sau:

  • 85% dân số trên toàn thế giới có tần số rung động ở mức dưới 200.
  • Tần số rung động cao, gắn với sự khỏe mạnh, tần số rung động thấp, gây ra trạng thái ốm yếu/bệnh tật.
  • Sách, thực phẩm, nước uống, quần áo, người, động vật, các tòa nhà, xe hơi, phim ảnh, thể thao, âm nhạc,v.v, đều có thể hiệu chỉnh tần số rung động từ thấp lên cao.
  • Hầu hết các phim ảnh, sẽ làm suy yếu những người xem chúng, bằng cách đưa các mức năng lượng xuống dưới 200.

Chính nhờ nghiên cứu này, chúng tôi đã có dịp trải nghiệm, thực nghiệm, và đi xa thêm một bước nữa là đem những tần số năng lượng này, kết hợp vào cách nấu ăn cho người thân của chúng tôi.

Kết qủa thật bất ngờ. Không những cơ thể người thân của chúng tôi có thể tự điều chỉnh những xáo trộn do thói quen khi xưa thiếu hiểu biết đã tạo ra, mà chính chúng tôi cũng học được những bài học mới, đó là biến thức ăn thành “Thuốc từ Tâm.”

Làm thế nào để biến thức ăn/thực phẩm thành Thuốc từ Tâm?

Muốn biến thức ăn thành Thuốc từ Tâm, bạn bắt buộc phải có ba điều phải tuân theo:

  1. Phải có sự quan sát tỉ mỉ, phân tích sâu sắc, để hết tâm ý vào cách nấu ăn.
  2. Khi lòng bạn bất an, có những lo âu, phiền muộn thì nhất định bạn không được nấu ăn.
  3. Bạn phải kiên trì thực tập trong vòng từ 30 ngày đến 60 ngày để biến thành thói quen có An khi nấu ăn.

Nếu bạn thiếu một trong ba yếu tố này thì bạn sẽ không thể thành công trong việc biến thức ăn thành Thuốc từ Tâm.

Sau đây là một số chia xẻ về cách làm sao bạn khởi suy nghĩ, duy trì sự nghĩ từ lúc nấu cho đến khi nấu hoàn tất, bao gồm phần trình bầy món ăn.

Đầu tiên, bạn bắt đầu kiểm tra cảm giác của bạn. Bạn có An không? Nếu bạn chưa An thì bạn có thể dùng nhiều cách. Cách nào cũng được, quan trọng nhất là bạn phải có An.

Cách mà chúng tôi ưa dùng là đặt chúng tôi vào người thân để cảm nhận được người đó như thế nào.

Thí dụ như, khi chúng tôi đói thì cảm giác khó chịu như thế nào? Sau đó, đặt cảm giác khó chịu vì đói vào người thân, nếu như họ đói nhưng lại không thể diễn đạt được thì sự khó chịu của họ sẽ lớn thế nào. Sau đó, chuyển suy nghĩ đến, nếu như khi chúng tôi đói mà có người quan tâm chăm sóc cho chúng tôi ăn thì chúng tôi hạnh phúc thế nào? Rồi sau đó đặt vào người thân để thấy được khi chúng tôi chăm sóc họ thì họ hạnh phúc ra sao?

Đây là cách tạo sự đồng cảm giữa chúng tôi và người thân. Khi có sự thiết lập đồng cảm mạnh thì lúc đó tình thương vô điều kiện sẽ xuất hiện. Khi có tình thương vô điều kiện thì lúc đó bạn mới bắt đầu nấu ăn.

Dĩ nhiên, trong qúa trình tạo sự đồng cảm, bạn có thể phải đặt rất nhiều câu hỏi cho chính bạn, chúng tôi chỉ đưa vài câu mẫu mà chúng tôi ưa ứng dụng.

Khi bạn bắt đầu nấu ăn thì bạn bắt đầu khởi sự suy nghĩ hướng về người thân như sau:

“Với tình thương vô điều kiện kết hợp với những thực phẩm lành mạnh này sẽ giúp cho cơ thể và tâm trí của anh/em/chồng/vợ/con/cháu chóng phục hồi, khỏe mạnh. Với năng lượng của tình thương vô điều kiện này sẽ giúp anh/em/chồng/vợ/con/cháu chuyển hóa những góc nhìn tiêu cực thành tích cực, mang đến nhiều bình an và hạnh phúc hơn trong đời sống hằng ngày.”

Dĩ nhiên đây chỉ là câu mẫu, bạn chỉ dùng để tham khảo. Tình thương và sự quan tâm của bạn như thế nào thì bạn nên dùng ngôn ngữ của chính bạn như thế đấy, mới có giá trị.

Bạn sẽ lập lại sự suy nghĩ này 3 lần, hay bạn có thể nói ra càng tốt. Khi bạn đang suy nghĩ ý niệm này thì bạn hãy chú hết tâm ý vào, đừng để cho bất cứ ý niệm lo âu, phiền muộn nào nẩy sinh trong tâm trí của bạn. Nếu có, bạn nên dừng lại. Hãy làm cho tâm bạn An, rồi bắt đầu lại.

Bạn nên nhớ: Khi suy nghĩ ý niệm An Lành, bạn nên cầm trên tay bạn một món thực phẩm nào đó. Mục đích là để năng lượng tình thương của bạn sẽ truyền qua tay của bạn và “thấm” vào trong thực phẩm.

Trước khi bạn bắt đầu nấu ăn, bạn nên chuẩn bị tất cả các thực phẩm mà bạn muốn nấu, bầy ra cùng một lúc. Sau đó, bạn bắt đầu rửa sạch thực phẩm. Trong qúa trình rửa sạch này, bạn không cần suy nghĩ, mà chỉ chú tâm vào việc rửa cho thật sạch. Nếu cần khởi suy nghĩ thì bạn có thể nghĩ, nếu như bạn rửa không sạch thì người thân của bạn có thể bị ngộ độc, gây ra sự đau đớn cho người đó. Khi bạn có tình thương vô điều kiện thì sự suy nghĩ này sẽ giúp cho bạn đặt hoàn toàn tâm ý vào việc rửa sạch thực phẩm.

Sau khi rửa sạch thực phẩm xong thì bạn để ráo nước, và chuẩn bị các dụng cụ cùng gia vị cho việc nấu.

Khi bạn nấu ăn, bạn bắt đầu quan sát qúa trình bạn nấu như: nước có đủ sôi chưa, dầu có đủ nóng chưa? Khi bỏ thực phẩm vào, bạn quan sát xem những thực phẩm đó đã chín chưa? Chín tới mức nào thì ngon, hay chín qúa thì dở để lần sau bạn sẽ điều chỉnh lại.

Sau khi hoàn tất các món ăn, bạn bắt đầu quan sát bằng cách lựa chọn những tô, chén nào bạn sẽ đựng thức ăn và trình bầy sao cho đẹp mắt. Chúng ta không phải chỉ ăn thực phẩm bằng miệng, mà chúng ta còn ăn thực phẩm bằng mắt nữa. Nếu bạn biết kết hợp thêm phần trình bầy thì người thân của bạn sẽ được hưởng thêm sự lợi ích, ăn bằng mắt nữa.

Dĩ nhiên, nếu muốn chúng tôi trình bầy từng chi tiết nhỏ, cùng từng hành động thì có thể thành cuốn sách vài trăm trang. Nhưng điều đó có thiết thực không? Chúng tôi nghĩ không thiết thực, vì mỗi người chúng ta, ai cũng có cách ăn uống riêng, có sở thích riêng, nên không thể lấy cách của chúng tôi làm tiêu chuẩn chung được.

Điều mà chúng tôi muốn chia xẻ với bạn không phải là hình thức mà là nội dung.

Bí quyết chính để biến thức ăn thành thuốc từ Tâm nằm gọn trong những điều sau đây:

  • Bạn chỉ có thể cho người khác những gì bạn có dư, không cần đến, chứ bạn không thể cho người khác những gì bạn đang thiếu. Vì vậy, nếu bạn có dư phiền não, lo âu, bất An, thì bạn sẽ cho những người thân của bạn sự bất An, chứ không thể nào người Thân của Bạn có An được.
  • Khi người thân của bạn nhận được sự bất An từ bạn, họ sẽ “cho” lại bạn bất An, vì ngoài bất An ra, họ không có gì dư để báo đáp “cho” bạn.
  • Nếu bạn muốn nhận được An từ người thân của bạn, việc đầu tiên bạn cần phải làm đó là: đem An bạn đang có, để tặng họ. Khi họ có An thì họ sẽ “cho” lại bạn An.
  • Muốn có được An cho người thân thì bạn phải biết đặt mình vào trong người thân để tìm được sự Đồng Cảm. Khi có được sự đồng cảm, bạn mới có hiểu biết; và khi bạn có hiểu biết, lúc đó tình thương vô điều kiện mới có thể xuất hiện. Ngoài cách nay ra, bạn không thể nào có được tình thương vô điều kiện cả. Nếu có, thì đó là tình thương có điều kiện. Mà khi tình thương có điều kiện thì lúc đó sẽ xuất hiện sự nhẫn nhục, chịu đựng, trách nhiệm, bổn phận, hy sinh,v.v. Trong khi, tình thương vô điều kiện phát xuất từ sự hiểu biết, đồng cảm, và tự nguyện.
  • Muốn biết được cái Nhân thì bạn hãy nhìn cái Quả. Nếu như bạn làm vì trách nhiệm, bổn phận, hy sinh, v.v. thì cái nhân đó là tình thương có điều kiện. Mà khi tình thương có điều kiện thì thường dẫn đến khổ đau nhiều hơn là An Lạc. Ngược lại, khi bạn làm với sự tự nguyện, đồng cảm, hiểu biết thì cái Nhân đó chính là tình thương vô điều kiện, và kết qủa là sự An Lạc, Hạnh Phúc.
  • Muốn thay đổi cái Quả thì đừng nhọc công để chỉnh sửa, mà hãy bắt đầu thay đổi từ cái Nhân. Nếu lỡ chọn sai cái Nhân thì bạn phải bắt đầu quay lại từ đầu để chọn lại cái Nhân bạn muốn.
  • Đừng tiếc qúa trình đã tạo ra Quả. Vì bạn càng tiếc nuối, càng cố gắng chỉnh sửa thì kết qủa ra cũng méo mó không toàn vẹn, càng khiến cho bạn thêm phiền não, khổ đau, và thất vọng. Hãy dùng thời gian cố gắng, chịu đựng, chỉnh sửa đó cho việc chọn lại cái Nhân Mới tốt đẹp hơn.
  • Nếu bạn chưa có thể có được sự Đồng Cảm với người thân thì bạn hãy bắt đầu thực hành. Khi thực hành sự Đồng Cảm, bạn nên để ý đến một lỗi rất nặng mà chúng ta hay mắc phải, đó là: tiêu chuẩn kép.
  • Tiêu chuẩn kép là tiêu chuẩn mà khi bạn làm việc gì đó thì bạn hoàn toàn đúng. Còn người khác làm giống như bạn thì họ sai.
  • Trong Đồng Cảm, không hề có sự có mặt của tiêu chuẩn kép, mà chỉ tuân theo một tiêu chuẩn duy nhất, đó là: Nếu đúng với mình thì đúng với người, nếu sai với mình thì sai với người.
  • Khi có sự Đồng Cảm thì mới có sự Hiểu Biết. Sự Hiểu Biết có được, phải từ sự quan sát tỉ mỉ, phân tích, tổng hợp chính xác và phải nhìn sâu. Thiếu những khả năng này, thì không có sự Hiểu Biết.
  • Khi không có sự hiểu biết, thì sẽ không có Tình Thương Vô Điều Kiện. Khi không có Tình Thương Vô Điều Kiện thì việc làm sẽ đem đến bất An cho cả người nhận lẫn người cho. Qúa trình Cho và Nhận bất An này, cứ liên tục tiếp diễn, và sự khổ đau, phiền muộn sẽ tiếp tục gia tăng.
  • Qúa trình biến thực phẩm thành Thuốc từ Tâm, bắt đầu bằng sự Đồng Cảm, kết hợp với sự Hiểu Biết và Tình Thương Vô Điều Kiện.
  • Sau đó, khởi ý niệm An Lành, tạo ra nguồn năng lượng. Rồi đem năng lượng đó “tụ, trụ” vào trong thực phẩm qua cách chú tâm vào việc nấu nướng. Sở dĩ, cần sự chú tâm quan sát, vì chính sự tập trung, quan sát sẽ giúp năng lượng An Lành được tích tụ nhiều hơn trong thực phẩm.

Thí dụ: khi bạn rửa rau trong tâm niệm muốn người thân bạn có an vui hạnh phúc thì năng lượng của ý niệm đó sẽ truyền xuống đôi tay của bạn, và tiếp tục “thấm” vào trong thực phẩm. Tương tự như, khi bạn dùng muỗng để khuấy thức ăn thì năng lượng từ ý niệm An Lành của bạn sẽ truyền qua muỗng để “ngấm” vào thực phẩm.

Nếu như bạn bất An thì chuyện gì sẽ xẩy ra? Bạn đang truyền nguồn năng lượng bất An của bạn đang có vào thực phẩm. Và thế là, người thân của bạn sẽ lãnh đủ hai nguồn bất An. Sự bất An qua cách bạn cư xử với người thân, và sự bất An qua thực phẩm bạn nấu.

Thí dụ: nếu bạn có bất An, người thân của bạn có thể “né” không gặp bạn để không nhận sự bất An từ bạn. Nhưng nếu họ tiếp tục ăn nguồn năng lượng bất An của bạn “gieo” vào trong thức ăn thì bạn sẽ chẳng phải ngạc nhiên nhiều, vì sao bạn đối xử tốt với họ, nhưng họ vẫn cứ bất An khi sinh hoạt với bạn.

Nguyên nhân là, bạn đã gieo bất An của bạn qua thực phẩm mà người thân của bạn đã “ngộ độc”. Nguy hiểm hơn là, ngay cả bạn và người thân của bạn vẫn không hay biết.

Dĩ nhiên, khi bạn hiểu được điều này, và muốn người thân của bạn đáp trả lại cho bạn An, bạn chỉ cần chọn lại cách nấu ăn hàng ngày của bạn. Kết qủa sẽ khiến bạn bất ngờ đấy. Bạn hãy trải nghiệm nhé, nếu không bạn chỉ có Hiểu, mà không có Biết đâu.

Nếu đem so sánh sự truyền, hay gởi năng lượng qua tư tưởng, hay lời nói, với việc truyền vào thức ăn, thì việc truyền năng lượng vào thức ăn sẽ có hiệu qủa hơn. Vì sao?

 Vì nguồn năng lượng truyền tải qua tư tưởng, lời nói, luôn “bay bổng” và tan biến vào hư không vì không có hình sắc để” tụ”.

Ngược lại, bất cứ thực phẩm nào cũng có sự sống. Và có sự sống là có năng lượng. Cho nên, khi chúng ta nấu ăn bằng những ý niệm an lành thì năng lượng đó sẽ tương tác với nguồn năng lượng của thực phẩm, và biến năng lượng từ thực phẩm thành nguồn năng lượng An Lành mà chúng ta muốn người thân chúng ta thọ hưởng.

Thay vì, chúng ta cứ ra rả truyền dậy điều hay lẽ phải cho người thân của chúng ta, sao chúng ta không trải nghiệm bằng việc, đem những điều hay lẽ phải “tụ” vào trong những lúc nấu ăn xem sao.

Mong thay, những chia xẻ này có thể giúp cho bạn một số thông tin hữu ích. Chúng tôi vẫn luôn mong muốn bạn phải thực sự trải nghiệm, và bạn chỉ nên tin vào kết qủa mà bạn đạt được.

Từ kết qủa đó, bạn sẽ biết được cái Nhân. Nếu cái Nhân đưa ra cái Qủa không như bạn muốn, thì bạn sẽ chọn cái Nhân khác.

Tất cả những thành tựu trên thế gian này đều bắt đầu từ sự chưa đúng chuẩn. Cho nên, nếu bạn có chọn chưa chuẩn, cũng là chuyện bình thường. Chỉ cần bạn quyết tâm đi chọn lại cái Nhân mới, và bắt đầu từ đấy, thì kết quả xẩy ra như bạn mong muốn là chuyện tất nhiên.

ĐỊNH NGHĨA YÊU THƯƠNG

album-art

00:00

TẢI MP3 – HOÀNG DUNG

TẢI MP3 – VIÊN NGUYỆT

 

Chiều nay, cả ba, Diệu Hiền, Hoàng Trang, và Nhật Minh cùng đến thăm ông chú. Diệu Hiền cũng như mọi khi, xà xuống ngồi bên cạnh ông chú, còn Hoàng Trang và Nhật Minh ngồi đối diện.

Vừa ngồi xuống Diệu Hiền đã lên tiếng:

Chú ơi, chiều qua, cháu có nghe chú chia xẻ về sự ảnh hưởng của định nghĩa với mỗi cá thể. Chiều nay, chú có thể chia xẻ góc độ quan sát và nhìn sâu của chú về định nghĩa không chú.

Ông chú quay sang nhìn Diệu Hiền, rồi nói:

Bạn có mang theo giấy và bút không?

Dạ có. Cháu lúc nào cũng có cuốn sổ nhỏ mang theo, chú cần giấy bút để làm gì?

Bạn hãy xé ra 3 tờ giấy, rồi chia ra cho mỗi người một tờ, sau đó, các bạn viết định nghĩa, tình yêu là gì? Ông chú nói.

Hoàng Trang cười thích thú, nói:

Vậy để xem hôm nay, hai anh chị “định yêu” như thế nào nhé.

Diệu Hiền lườm yêu Hoàng Trang, cười nói:

Thì yêu.. yêu… yêu…

Mọi người cùng cười trước sự vui đùa của hai cô gái…

Trong khi, chờ đợi ba người bạn viết định nghĩa, ông chú hướng mắt về những đóa hoa đang nở bên đường.

Đợi ba người viết xong, ông chú nói:

Này bạn Diệu Hiền, bạn hãy chia xẻ cho mọi người biết, định nghĩa về tình yêu của bạn như thế nào, được không?

Định nghĩa về yêu của cháu là sự cảm thông, nhẫn nhịn và tha thứ.

Còn bạn Nhật Minh, ông chú hỏi.

Dạ, theo cháu, yêu là phải có hiểu biết, cảm thông, và tha thứ.

Vậy còn bạn Hoàng Trang thì sao?

Dạ, với cháu, yêu là quan tâm, chăm sóc, chia xẻ, và thủy chung.

Qua ba định nghĩa của ba bạn, các bạn nghĩ như thế nào?

Thật không tưởng tượng được chú ạ. Từ xưa tới giờ, cháu cứ nghĩ, ai cũng định nghĩa tình yêu như cháu hết. Diệu Hiền nói.

Cháu cũng nghĩ như bạn Diệu Hiền, định nghĩa tình yêu sẽ giống như cháu nghĩ. Nếu không có sự kiểm nghiệm của chú chiều nay thì cháu cũng không biết được tình yêu lại có nhiều định nghĩa đến như vậy. Hoàng Trang tiếp lời.

Vậy thưa chú, theo như chú thì định nghĩa đúng của tình yêu là gì? Nhật Minh hỏi.

Vốn dĩ, định nghĩa của tình yêu không có đúng hay sai, vì ai trong chúng ta cũng có quyền diễn dịch định nghĩa tình yêu theo Ngã Thức của mình muốn. Nhưng nếu bắt buộc phải dùng đến đúng hay sai thì chúng ta phải dựa vào cái quả từ định nghĩa của tình yêu mang lại, là khổ đau hay an lạc để quyết định.

Giả dụ như, nếu chúng ta muốn cái kết quả là hạnh phúc, an lạc mà chúng ta lại có cái hậu quả là khổ đau, buồn phiền, oán giận, thì cái hậu quả đó, chúng ta tạm gọi là sai, còn nếu ra đúng kết quả thì là đúng.

Đó là đứng trên góc độ đúng hay sai, theo lý thuyết. Nhưng nếu đứng trên góc độ ứng dụng thì lại khác, vì có thêm một yếu tố nữa quyết định. Đó chính là sự Chấp Nhận.

Thí dụ: khi chúng ta yêu và có hậu quả là sự khổ đau và phiền muộn, và chúng ta biết chấp nhận, đó không phải lỗi do người kia, mà lỗi do chính mình, đã diễn dịch định nghĩa tình yêu khác với định nghĩa của người kia, và chính mình là người chọn người kia, thì lúc đó, chúng ta mới có thể chuyển hóa sự khổ đau phiền muộn kia thành hạnh phúc và an lạc được.

Nhưng thưa chú, tại sao lại phải nhận lỗi về mình mà không phải là lỗi của cả hai, chứ chú? Hoàng Trang hỏi.

Này bạn, khi bạn yêu một người, có bao giờ bạn đi hỏi định nghĩa tình yêu của họ là gì không? Nếu bạn không hỏi, rồi bạn tự phỏng đoán, và tưởng tượng định nghĩa tình yêu của họ giống bạn, nên bạn yêu người đó. Rồi khi bạn có thời gian sinh hoạt với người đó nhiều hơn, bạn phát hiện ra, định nghĩa tình yêu của họ không giống như bạn phỏng đoán. Cho nên, bạn cảm thấy khó chịu, bất an, và bực tức.

Như vậy, nếu đứng trên góc độ về lỗi thì bạn có lỗi hay không có lỗi?

Thưa chú, dĩ nhiên là cháu có lỗi rồi, vì cháu đã không hỏi họ và dùng phỏng đoán của cháu, nên đó là lỗi của cháu, không có gì phải bàn cãi.

Vậy khi bạn có lỗi thì bạn làm gì để hết lỗi?

Dạ, cháu phải chấp nhận cháu có lỗi, và đi sửa sai cái lỗi đó để lần sau không tái phạm. Nhưng, thưa chú, theo cháu thì người kia cũng có lỗi giống như cháu, họ cũng phỏng đoán thôi.

Bạn hình như không để ý đến câu hỏi của tôi, có phải không? Tôi đang hỏi bạn là bạn có lỗi hay không? Chứ tôi không hỏi người kia có lỗi hay không?

Và bạn cũng đồng ý với tôi, bạn chấp nhận bạn có lỗi, và bạn cũng đồng ý rằng, chỉ khi bạn chấp nhận bạn có lỗi, bạn mới chịu sửa sai cái lỗi đó để không tái phạm lần sau.

Đó mới là vấn đề chính mà bạn cần phải làm để giải quyết sự khổ đau, phiền não của chính bạn, có đúng vậy không?

Dạ, thưa chú đúng.

Vậy tôi hỏi thêm bạn, nếu bạn biết người kia có lỗi thì có lợi ích gì cho bạ, trong việc bạn chấp nhận, đó là lỗi của bạn không?

Rõ ràng là không, đúng không, trừ khi, bạn muốn viện lý do là: người kia cũng có lỗi mà lỗi của họ nhiều hơn, nên tôi nhẹ hơn; vì vậy, tuy tôi có lỗi nhưng không cần sửa mà người kia mới là người phải sửa. Hay, tuy rằng lỗi của tôi nhiều hơn người kia một chút nhưng họ phải sửa thì tôi mới sửa, như vậy mới công bằng.

Bạn là một chuyên gia về Tâm Lý, chắc bạn cũng biết, đây chính là những lý lẽ ngụy biện của Ngã Thức để không chấp nhận đó là lỗi của mình.

Khi chúng ta không chấp nhận và còn đi tìm bất cứ một lý do để biện minh lỗi nhiều hay ít thuộc về ai thì không bao giờ chúng ta có thể sửa sai được.

Hai bạn Diệu Hiền và Hoàng Trang là các chuyên gia về Tâm Lý, chắc hai bạn đã nghe qua câu chuyện này.

Có một người đang sống yên lành trong nhà. Có một người đến gõ cửa. Người chủ nhà không biết người gõ cửa là ai, nhưng đã mở cửa cho người đó vào. Ai ngờ, người gõ cửa là tên cướp. Khi vào trong nhà đã đánh người chủ nhà một trận và cướp hết tiền bạc và nữ trang. Câu hỏi được đặt ra, nếu chỉ có một người có lỗi thì ai là người có lỗi, chủ nhà hay tên cướp?

Thật ngạc nhiên, khi tôi đem câu chuyện này hỏi cả trăm người thì có đến 98 người cho rằng, lỗi là tên cướp. Vì họ cho rằng, người chủ nhà không có lỗi gì cả mà tên cướp mới là kẻ có lỗi.

Ở đây, chúng ta không đặt trọng tâm vào ai đúng, ai sai, mà trọng tâm là, chúng ta sẽ học được bài học gì từ câu chuyện này.

Nếu bạn là người chủ nhà, và bạn tin là bạn không có lỗi, thì bạn lại tiếp tục mở cửa cho những người lạ khác, và vẫn không hỏi người đó là ai, thì bạn sẽ bị cướp, bị đánh đập, bị mất tiền bạc, suốt đời.

Nếu bạn là người chủ nhà, và bạn chấp nhận đây chính là những lỗi do sự bất cẩn của bạn. Bạn phải hỏi và tìm hiểu thật kỹ càng người kia, và khi đã biết rõ về họ rồi thì bạn mới mở cửa. Như vậy, bạn sẽ tránh gặp phải những tên cướp trong tương lai.

Tình yêu của mỗi người chúng ta cũng như câu chuyện trên, chúng ta như người chủ nhà đang sống yên ổn trong căn nhà của mình. Đột nhiên, có người đến gõ cửa trái tim của chúng ta, chúng ta mở cửa con tim ra đón họ vào mà không hỏi định nghĩa tình yêu của họ là gì. Rồi khi họ vào trong tim của chúng ta, họ tàn phá, hành hạ, cướp bóc, làm cho chúng ta đau khổ.

Nếu chúng ta cứ khăng khăng cho rằng, chúng ta chỉ là nạn nhân như người chủ nhà, và người mà chúng ta yêu là kẻ cướp, và chỉ có kẻ cướp có lỗi còn chúng ta thì không, thì suốt cuộc đời này chúng ta sẽ luôn bị cướp, luôn bị tàn phá, luôn bị khổ đau.

Còn nếu như chúng ta, hay người chủ nhà, biết chấp nhận đó là lỗi của mình, biết hỏi định nghĩa tình yêu trước khi yêu, biết tìm hiểu cặn kẽ người gõ cửa trước khi mở cửa, và khi sai, chịu sửa sai, thì chúng ta sẽ có được sự an lành và hạnh phúc, tránh những tai họa về sau.

Rõ ràng, khi chúng ta đã biết chấp nhận lỗi của mình rồi thì chuyện kẻ cướp có lỗi hay không đâu còn quan trọng. Kẻ cướp có lỗi thì sẽ bị xã hội trừng phạt, người yêu của chúng ta có lỗi thì sự khổ đau và phiền não của họ chính là sự trừng phạt của họ.

Cho nên lôi họ vào, và cho họ là nguyên nhân gây ra đau khổ cho chúng ta là không chính xác. Nguyên nhân gây ra sự khổ đau của chúng ta trong tình yêu là sự phỏng đoán rằng: người kia cũng có chung định nghĩa tình yêu giống mình.

Ai trong chúng ta cũng có quyền chọn lựa. Khi chúng ta không kỹ lưỡng trong việc chọn lựa thì chúng ta phải chịu trách nhiệm với sự chọn lựa của mình.

Tình yêu ngày nay đã trở thành một trong những vấn nạn nghiêm trọng, vì đã gây ra sự khổ đau, phẫn hận vô cùng to lớn cho con người. Nguyên nhân gây ra sự khổ đau, hận thù của con người, bắt đầu từ định nghĩa về yêu của mỗi người được diễn dịch theo ý của mỗi cá nhân.

Khi hai người yêu nhau, họ đều nghĩ (phỏng đoán) rằng, người kia có cùng định nghĩa với mình. Nên khi gặp nhau, họ có thể nói, anh yêu em, em yêu anh, nhưng chưa bao giờ, họ lại đi hỏi, định nghĩa tình yêu của người kia là gì?

Chú phân tích thật vô cùng chí lý và cháu rất tâm đắc với câu chuyện về người chủ nhà, vậy tình yêu có khác với tình thương không chú. Hoàng Trang hỏi.

Khác chứ, vậy ba bạn, hãy viết xuống, định nghĩa tình thương là gì?

Cả ba người bạn trẻ cắm cúi viết câu trả lời, trong khi ông chú lại hướng mắt về những đóa hoa.

Lần này thì Hoàng Trang lên tiếng trước.

Thưa chú, tình thương là sự quan tâm, chia xẻ và giúp đỡ người khác.

Còn bạn Nhật Minh, thì sao?

Dạ, tình thương là sự cho đi, nhưng không cần nhận lại.

Còn cháu, tình thương là cảm thông sâu sắc, làm vơi đi nỗi khổ của người khác. Diệu Hiền nói.

Này ba bạn trẻ, trong ngôn ngữ của tiếng Việt, ngoài tình yêu, chúng ta còn có thêm danh từ, là tình thương. Không ít người trong chúng ta đã có sự lầm lẫn giữa yêu là thương và thương là yêu.

Theo Tâm Lý học, định nghĩa tình yêu là tần số rung động của một nguồn năng lượng từ một chủ thể khi tiếp xúc với một đối tượng.

Nhưng trong Tâm Lý học của phương Tây lại không có định nghĩa cho tình thương. Vì vậy, chúng ta sẽ sử dụng ngôn ngữ Việt để tìm hiểu về tình thương và tình yêu khác nhau như thế nào?

Chú ơi, Trước khi chú phân tích về sự khác biệt giữa yêu thương, cháu có thắc mắc, vậy định nghĩa về tình yêu và tình thương của chú như thế nào? Diệu Hiền hỏi.

Theo tôi, tình yêu là đem hạnh phúc và an vui hiến tặng cho một người, và tình thương là đem hạnh phúc và an vui hiến tặng cho nhiều người.

A, định nghĩa của chú về tình yêu và tình thương nghe hay, và hợp lý quá há, chú có thể chia xẻ lý do, tại sao, chú lại có định nghĩa về tình yêu và tình thương như vậy không? Hoàng Trang hỏi.

Vì hai định nghĩa này được dựa trên góc độ Cho và Nhận trong tâm lý của con người.

Cháu vẫn chưa hiểu lắm, xin chú giải thích thêm. Hoàng Trang, nói.

Này bạn trẻ, đứng trên góc độ tâm lý của con người, Cho và Nhận là hai điều kiện luôn luôn phải có sự quân bình. Khi cán cân Cho và Nhận bị thiên lệch về một phía thì nơi đó sẽ sinh ra sự xung đột.

Thí dụ: Định nghĩa của tôi, Tình Yêu là đem hạnh phúc và an vui hiến tặng cho một người. Dĩ nhiên, đây chỉ là sự diễn dịch về tình yêu, vì ai trong chúng ta cũng có quyền này. Nhưng sự diễn dịch này dựa trên một sự xác định rất rõ ràng cho mục đích của tôi là phải sống có hạnh phúc và an vui trong cuộc đời.

Bởi vì, nếu tôi không sống có hạnh phúc, an vui, mà chỉ là khổ đau, oán trách, thì tôi chỉ có khổ đau, oán trách để hiến tặng cho người đó, và cuối cùng, khi người đó Nhận, họ cũng chỉ có thể Cho lại tôi những sự khổ đau, oán trách mà thôi.

Cho nên, khi dựa trên sự Cho và Nhận, tôi đã diễn dịch định nghĩa của tôi như một lời nhắc nhở, cũng như xác định mình phải sống ra sao, và mình muốn gì, để khi yêu một người, mình hiến tặng cho họ thì khi họ Nhận, họ sẽ Cho lại mình những gì.

Tình thương cũng như vậy, nhưng tình thương thì khác với tình yêu trong qúa trình Cho và Nhận.

Trong tình yêu, sự Cho và Nhận rất dễ xẩy ra sự mất cân bằng, vì chỉ có hai người. Nếu một bên, chỉ có Cho ra mà không Nhận lại, hay một bên chỉ biết Nhận vào mà lại không Cho ra, thì cán cân Cho và Nhận bị lệch ngay lập tức.

Nhưng trong tình thương, vì chúng ta cho nhiều người và chỉ cần, một trong những người đó, Nhận và Cho lại chúng ta, thì cán cân Cho và Nhận gần như ở trạng thái quân bình. Chính vì, luôn ở trong trạng thái gần quân bình, không bị lệch, nên tình thương thường có thể kéo dài, và bền bỉ hơn. Ngược lại, tình yêu vì dễ rơi vào chênh lệch, nên thường tạo ra sự xung đột và dễ dàng tan vỡ.

Thí dụ: bạn có một đồng và đem cho một người, khi người đó nhận xong, không nói với bạn tiếng cám ơn nào. Một lần thì không sao nhưng nếu xẩy ra nhiều lần thì cán cân cho và nhận trong bạn sẽ bị chênh lệch về một phía, và khi bị chênh lệch thì bạn sẽ so đo, tính toán, sẽ sinh ra bực tức.

Và để giải quyết sự bực tức của bạn thì bạn không cho nữa. Khi bạn dừng cho thì bạn tạo cho người nhận cảm giác thiếu thốn, vì họ đã quen nhận. Khi bị thiếu thốn thì họ sinh ra tức tối, bực bội, và họ lại đem sự bực bội, tức tối, cho ngược lại bạn.

Nếu chúng ta quan sát kỹ trong đời sống hàng ngày, chúng ta đều thấy, những sự đổ vỡ này xẩy ra mỗi ngày trước mắt chúng ta. Chúng ta cũng đã nghe rất nhiều than phiền về sự Cho và Nhận không đều giữa hai phía. Và những sự khổ đau, oán thù, trách móc, giận hờn, liên tục được gia tăng giữa các cặp đang yêu nhau. Và khốn khổ hơn, khi họ đã kết hôn thì sự xung đột lại càng trở nên mãnh liệt và tàn khốc hơn.

Cũng với một đồng, nhưng bạn lại đổi ra thành 10 xu, và cho 10 người. Chỉ cần một trong những người nhận nói tiếng cám ơn (cho lại bạn), thì cán cân Cho và Nhận của bạn đã quân bình.

Vì thế, nhiều người cho rằng: tình thương là sự rộng lượng, và tình yêu là sự ích kỷ là vậy. Vì tình thương thì cho nhiều người, và tình yêu thì chỉ cho một người.

Giời ạ, thì ra định nghĩa lại quan trọng đến như vậy, nhất là khi diễn dịch lại thật là nguy hiểm, nếu như chúng ta không biết ứng dụng cái cân Cho và Nhận.

Chú không có đăng ký bản quyền về định nghĩa tình yêu và tình thương của chú phải không? Vậy định nghĩa của tình thương và tình yêu của chú, bây giờ thành của cháu nghe chú.

Nghe Diệu Hiền nói đùa, mọi người cùng cười vang.

Chú ơi, định nghĩa tình yêu và tình thương thì như vậy, còn việc ứng dụng thì sao chú. Hoàng Trang hỏi.

Như lúc nẫy, tôi có gợi ý về có nhiều bạn trẻ hôm nay vẫn không phân biệt được tình yêu và tình thương, nên hay thường lẫn lộn. Cho nên, chúng ta cũng nên nói sơ vài nét về điều này trước khi nói đến ứng dụng.

Có một cô gái, rất đau khổ, vì cô luôn yêu hai người cùng một lúc. Cô không biết chọn ai? vì cả hai, mỗi người đều có những nét riêng mà cô ưa thích, và tình trạng này đã kéo dài hơn ba năm.

Rõ ràng, ở đây, nếu chúng ta dựa trên định nghĩa ở trên về tình yêu và tình thương, chúng ta có thể nói, cô gái này chỉ có tình thương (từ hai người trở lên) chứ không có tình yêu (chỉ có một người). Nhưng vì sự diễn dịch định nghĩa của cô, có thể là, yêu hết những ai yêu mình, hay yêu là sự dự trữ, đến khi cần, có thể sử dụng, v.v.

Cho nên, cô không thể nào giải quyết được vấn đề đau khổ này, trừ khi, cô phải thay đổi lại định nghĩa của cô.

Trở lại về sự ứng dụng tình yêu và tình thương trong cuộc sống.

Dĩ nhiên, đây là một đề tài rộng, nên chúng ta sẽ chỉ quan sát về tình yêu và tình thương khi đã kết hôn.

Khi tình yêu của đôi lứa đã chín mùi và cả hai đã quyết định về sống chung một mái nhà thì sự kết hôn là chuyện sớm muộn.

Đứng trên góc độ về tâm lý, khi cả hai đã đồng ý kết hôn thì cũng là lúc cả hai định nghĩa về Yêu và Thương giữa hai người được lộ ra rõ nhất. Vì sao?

Vì họ nghĩ rằng, đã chiếm hữu được nhau rồi, nên họ sẽ không cần “mầu mè” mà họ sẽ sống đúng theo định nghĩa về tình yêu và tình thương của họ.

Thí dụ: người vợ định nghĩa tình yêu là chăm sóc, tận tụy, chiều chuộng, nâng niu; và định nghĩa tình yêu của người chồng là, chu toàn tài chánh cho gia đình.

Vì hai định nghĩa về tình yêu khác nhau, cho nên, người chồng, vì định nghĩa của mình sẽ dồn tất cả thời gian để kiếm tiền đem về cho vợ. Người vợ, lúc đầu có thể vui, vì định nghĩa chăm sóc của cô là, có nhiều tiền đem về nhà.

Nhưng chỉ trong một thời gian thì ngoài sự chăm sóc ra, người vợ lại còn có sự chiều chuộng, và nâng niu, chưa được thỏa mãn; và người chồng thì qúa bận rộn kiếm tiền, nên không có thể nâng niu, chiều chuộng người vợ như hồi đang yêu.

Với người chồng, tình yêu là phải kiếm nhiều tiền, chu toàn tài chánh cho gia đình; và ngày nào, người chồng còn kiếm được nhiều tiền đưa về cho vợ, là đang yêu vợ.

Người chồng thì cứ tận tụy kiếm tiền, người vợ thì càng ngày càng thiếu sự nâng niu, chiều chuộng của chồng, đồng nghĩa với việc, chồng không còn yêu mình nữa, nên đem tất cả số tiền người chồng cực khổ kiếm về, tiêu xài một cách hoang phí.

Người chồng khi thấy vợ tiêu xài phí phạm khiến tài chánh của gia đình rơi vào chỗ thiếu hụt; lại càng cố gắng và dành nhiều thời gian hơn để kiếm tiền. Người vợ, khi người chồng kiếm ra tiền, lại tiêu xài hoang phí.

Khi khả năng kiếm tiền của người chồng đã đến ngưỡng không thể vượt, và tài chánh gia đình bị túng thiếu thì sự xung đột giữa người chồng và người vợ bùng nổ, và cuối cùng đi đến ly hôn.

Sau khi ly hôn, người vợ buồn phiền oán trách người chồng đã không còn yêu mình nữa; còn người chồng, buồn phiền người vợ, vì đã khiến cho người chồng cưu mang thêm nợ nần.

Đây chính là hậu quả mà hai định nghĩa về yêu khác nhau giữa người vợ và người chồng, mà chúng ta có thể nhìn thấy; và cũng còn có biết bao nhiêu những hoàn cảnh tương tự khác đang xẩy ra mỗi ngày.

Như vậy, nếu muốn ứng dụng tình yêu và tình thương vào cặp đôi này, thì sau khi kết hôn, cả hai người cùng phải ngồi xuống và nói cho nhau nghe về định nghĩa tình yêu của mình là gì?

Dĩ nhiên, cả hai phải biết rằng, mỗi người, ai cũng đều có quyền được định nghĩa tình yêu theo ý mình, và quyền đó luôn luôn phải được tôn trọng. Không ai có quyền lấy định nghĩa của mình mà bắt ép người kia phải tuân theo đúng 100% như định nghĩa của mình.

Đúng ra, việc này nên làm lúc mới quen nhau mới chính xác. Bởi vì lúc đó, chúng ta có toàn quyền để lựa người nào có cùng định nghĩa giống như mình.

Còn ở đây, tuy hơi trễ, nhưng vẫn có thể dùng cách tìm hiểu định nghĩa tình yêu của nhau để đem đến hạnh phúc cho nhau.

Sau khi, cả hai đã trình bầy định nghĩa của mình thì hai vợ chồng mới cùng nhau đi tìm một định nghĩa về tình yêu chung cho hai người.

Định nghĩa chung này, phải có sự đồng thuận, vui vẻ, tự nguyện, chấp nhận, bằng cách, cả hai cùng chịu thay đổi định nghĩa cũ của mình. Nếu như vẫn còn thắc mắc, ấm ức, chưa vừa lòng thì vẫn phải tiếp tục “đàm phán”; cho đến khi, cả hai không còn bất cứ sự khác biệt nào. Sau đó, cả hai sẽ dựa vào định nghĩa mới này để thể hiện tình yêu trong đời sống hàng ngày.

Nếu cả hai thật sự yêu nhau với định nghĩa mới này thì tình yêu của họ sẽ bền vững. Cách thức này, không những giúp cho hai vợ chồng luôn yêu nhau, vì cùng nhìn về một hướng, mà còn giúp cho người chồng hay người vợ, sống chung thủy hơn, vì họ biết, muốn tìm được một người sống chung, có cùng định nghĩa về tình yêu, không phải là chuyện dễ dàng.

Đó là trong trường hợp khi hai người yêu nhau chưa có con. Nhưng khi có con thì sự ứng dụng về tình yêu và tình thương lại có sự thay đổi mà cả hai vợ chồng lại phải có thêm sự hiểu biết, điều chỉnh. Nếu không cẩn thận sẽ gây ra những hậu quả kéo dài sự đau khổ có khi đến suốt đời.

Khi chưa có con, vì chỉ có hai người, nên ở đó, tình thương chưa trở thành một vấn đề. Nhưng khi có thêm một đứa con thì thông thường người vợ sẽ đổi từ tình yêu chồng, thành tình thương chồng và con (có hai người, thay vì một người).

Vì đứa con còn nhỏ, cần sự chăm sóc của người vợ hơn người chồng, nên người vợ sẽ hơi lơ là tình thương của mình cho chồng. Nếu là người chồng có sự hiểu biết và cũng chuyển từ tình yêu vợ, qua thương vợ, thương con, thì không thành vấn đề.

Nhưng có những trường hợp, vì người chồng qúa yêu người vợ, lại không có sự hiểu biết để biến đổi tình yêu thành tình thương. Thế nên, khi thấy con của mình “chiếm mất vợ” của mình, và thấy vợ của mình lại lo cho con hơn mình, nên đã có những suy nghĩ nông cạn, cho rằng, vợ mình đã không còn yêu mình nữa mà lại yêu con mình.

Đứa con vô tình lại trở thành “tình địch” của người chồng. Từ đó, người chồng sinh ra ác cảm hay có thể nặng hơn, thù ghét đứa con. Mặc dù, đó là con ruột của người chồng và hoàn toàn vô tội.

Có nhiều trường hợp, người vợ vì không hiểu được định nghĩa tình yêu và tình thương nên đem tình yêu chồng chuyển qua yêu con, khiến cho người chồng giống như bị người vợ phụ tình, đi với kẻ khác.

Việc làm này của người vợ, khiến cho người chồng căm ghét đứa con nhiều khi đến cuối đời cũng không buông bỏ và tha thứ. Hành động này của người chồng, khiến cho gia đình tan nát và sống trong đau khổ suốt đời.

Cho nên, nếu hai người sau khi kết hôn, nên ngồi xuống và phải tìm ra được định nghĩa chung cho cả hai chữ: Yêu Thương. Và hai vợ chồng cũng phải hiểu, khi nào thì nên yêu, và lúc nào thì nên thương.

Rồi khi có con và làm cha mẹ thì phải hiểu rõ ràng về định nghĩa Yêu và Thương như thế nào là đúng cách.

Khi làm cha hay mẹ, mà trong đám con, người vợ hay người chồng chỉ cần yêu một đứa con nào đó, thì người vợ hay chồng đang gieo sầu cho tất cả các đứa con khác. Là cha mẹ, người vợ hay chồng phải luôn ý thức rằng, tất cả các đứa con, luôn cần tình thương từ cha mẹ, chứ không cần tình yêu từ cha hay mẹ.

Vì vậy, khi có hai người, thì vợ yêu chồng, và chồng yêu vợ. Nhưng khi đã có con, thì tình yêu của cả hai vợ chồng nên chuyển thành tình thương, và không nên yêu đứa con nào cả, nếu muốn có một gia đình hòa thuận, ấm êm. Vợ chồng, con cái, anh, chị, em thương nhau, giúp đỡ nhau.

Thì ra, định nghĩa tình yêu và thương lại ảnh hưởng vô cùng to lớn đến đời sống con người như vậy.

Cháu đồng ý với chú, chúng ta cứ nói yêu thương nhau, nhưng thật ra, chúng ta chưa biết yêu và thương như thế nào là đúng cách; yêu thương như thế nào để đem đến sự an vui và hạnh phúc cho mình và cho người.

Bài học về định nghĩa yêu thương này thật vô cùng quý giá với bản thân cháu. Cho dù, là một chuyên gia về Tâm Lý, nhưng cháu chưa bao giờ để ý đến định nghĩa của yêu thương, và sự ảnh hưởng vô cùng nghiêm trọng, gây ra biết bao sự khổ đau, thù hận, oán ghét, không những cho cá nhân và cho cả tập thể, khi chúng ta diễn dịch định nghĩa yêu thương, không đúng cách. Cũng như, chúng ta không biết cách ứng dụng yêu và thương như thế nào mới là có lợi nhất.

Cháu rất tâm đắc với phương pháp, khi hai vợ chồng cùng ngồi xuống để cùng nhau đi tìm định nghĩa chung của Yêu và Thương, với nhận thức tôn trọng lẫn nhau mà không lấn quyền nhau.

Đây quả thật là một phương pháp rất văn minh, không những chỉ áp dụng cho định nghĩa của Yêu Thương mà còn có thể áp dụng cho tất cả những định nghĩa khác nữa.

Không phải, chỉ dành riêng cho vợ chồng, mà còn có thể áp dụng giữa bạn bè, cha mẹ, con cái, chủ thợ. Khi mà mỗi người chúng ta, ai cũng có quyền diễn dịch định nghĩa theo ý mình.

Nếu mỗi người chúng ta khi có sự bất đồng về một quan điểm nào đó, chỉ cần tìm hiểu định nghĩa của người kia và tôn trọng quyền diễn dịch của họ, không áp đặt định nghĩa của mình lên họ, thì thế gian này sẽ tránh được biết bao khổ đau, phiền não.

Qua bài học này, cháu biết, cháu sẽ giúp cho bịnh nhân của cháu rất nhiều. Cháu thật sự vô cùng biết ơn chú. Hoàng Trang nói liền một hơi.

Này… này, lúc nẫy tôi đã lấy bản quyền về định nghĩa của Yêu Thương từ chú rồi nhé. Nếu bạn muốn sử dụng, bạn phải trả tiền bản quyền suốt đời đấy bạn.

Nghe Diệu Hiền đùa, cả bốn chú cháu cùng vang, vui vẻ khiến những người đi ngang, nhìn họ với ánh mắt tò mò.

12 NHÂN DUYÊN

album-art

00:00

TẢI MP3 – THANH KIM

 

Chiều nay, Nhật Minh và Diệu Hiền cùng đến thăm ông chú. Vừa gặp ông chú, Diệu Hiền đã xà xuống, ngồi bên cạnh ông, trong khi Nhật Minh, ngồi đối diện.

Vừa ngồi xuống, Diệu Hiền đã móc trong bóp ra xấp giấy, cầm trên tay, rồi nói:

Chú ơi, cháu đã đọc bài viết này của Thầy Thích Thông Huệ về Tam Thế Lưỡng Trùng Nhân Quả, nhưng càng đọc thì cháu càng mơ hồ, cho nên, cháu mới in ra để đọc cho chú nghe. Chú nghe xong giải thích dùm cháu nha chú.

Không đợi ông chú có đồng ý hay không, Diệu Hiền đọc:

“Đối với nhà Phật, sự tu hành còn nhắm đến mục đích cao hơn: Xuất phiền não gia và xuất tam giới gia. Đức Phật là bậc Vô Thượng Y Vương, có đến tám vạn bốn ngàn phương thuốc, điều trị bệnh cho chúng sanh; trong đó, có những cách thức điều trị tận gốc, giúp chúng sanh khỏi được tâm bệnh phiền não, và giải thoát được sinh tử luân hồi. Pháp môn quán chiếu về Thập Nhị Nhân Duyên là một trong những phương pháp điều trị tiệt căn ấy.

Cùng với Tứ Diệu Đế, Thập Nhị Nhân Duyên là giáo lý rất quan trọng trong hệ thống kinh điển Nguyên thủy.

Đây là mười hai yếu tố, liên hệ hỗ tương với nhau theo lý duyên sinh và nhân quả diễn biến trong cả ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai. Chúng thường được minh họa theo sơ đồ sau đây, gọi là Tam Thế Lưỡng Trùng Nhân Quả (ba đời và hai tầng nhân quả)

1- Nhân quá khứ: Gồm Vô minh và Hành, gọi là nhân khổ

Vô Minh được hiểu theo nhiều cách, tuỳ theo gốc độ nhìn của mỗi tông phái; tựu trung có hai nghĩa chính: Thứ nhất, Vô minh là không thấy các pháp đúng như thật, không nhận chân được thực tướng của các pháp là vô thường, duyên sinh vô ngã. Thứ hai, Vô minh là nhận lầm thân tứ đại và những tâm phân biệt lăng xăng, làm thân tướng và tâm tướng của mình, mà quên mình, đang sẵn đủ tự tánh bất sanh bất diệt. Đây là căn bản vô minh, là Hoặc.

Do Vô minh khuấy động, trong tâm phát khởi buồn thương giận ghét… Từ sanh tâm khởi ý thiện hoặc ác, đưa đến miệng và thân theo đó tạo nghiệp. Đây là Hành, động cơ chính để tái sinh.

Như vậy, vì có vô minh nên có hành động tạo tác, vì có Hoặc nên mới có Nghiệp, mới trở lại lục đạo luân hồi. Chúng sinh bị nghiệp lực lôi dẫn để thọ sanh; khác với các bậc Bồ Tát, cũng lăn lộn vào các cõi nhưng do nguyện lực. Các Ngài cũng làm tất cả để độ người; nhưng không thấy có người làm, việc làm và đối tượng làm nên không thuộc về Hành Nghiệp.

  1. Quả hiện tại: Gồm Thức, Danh sắc, Lục nhập, Xúc và Thọ, gọi là Quả khổ.

Đối với Thức, chúng ta cần hiểu theo hai nghĩa: Thứ nhất, đó là Thần Thức hay Hương Ấm. Khi thân trước mất đi, thần thức theo nghiệp dẫn để thọ thân sau. Nếu nghiệp không còn, thì thức cũng diệt, nên nói Hành duyên Thức. Nghĩa thứ hai, hiểu theo Duy Thức học, là Ý thức và Tàng thức. Vì chúng sanh vô minh, quên tánh giác, tạo nghiệp thiện ác mới phát sinh thức. Nếu giác ngộ, nhớ lại tự tánh thanh tịnh bản lai của mình, thì thức không phải bị diệt, mà ngay đó chuyển thành Trí.

Thức làm duyên cho Danh Sắc hình thành. Danh là tinh thần, sắc là thể chất. Trong bào thai danh sắc tạo nên nhờ sự phối hợp của tinh cha huyết mẹ và thần thức gá vào. Danh sắc cũng có nghĩa là phần tinh thần và vật chất của một cơ thể khi còn trong bào thai.

Lục Nhập là sáu căn duyên với sáu trần. Khi đã ra đời, sáu căn tiếp xúc với sáu trần phát sinh sáu thức. Các căn càng trưởng thành càng dính mắc với trần cảnh, tác động qua lại tạo nên Xúc. Xúc là sáu căn tiếp xúc với sáu trần.

Khi có tiếp xúc giao thoa giữa căn và trần, cảm thọ phát sinh, nên xúc duyên Thọ. Thọ gồm ba loại: Khổ, lạc và trung tính. Cần phân biệt cảm thọ vui (lạc thọ) của phàm phu, với niềm vui của các bậc đã giác ngộ. Lạc thọ hình thành do căn dính mắc theo trần, khi hình thành rồi trở lại chi phối thân và tâm. Đối với các Ngài, tuy vẫn đối duyên xúc cảnh, nhưng không khởi niệm phân biệt chia chẻ, nên dù xúc và thọ, mà tâm vẫn thanh tịnh an nhiên. Niềm hỷ lạc của các Ngài là một hạnh phúc đích thực, vì có chánh niệm và thanh tịnh.

  1. Nhân hiện tại: Gồm Ái, Thủ và Hữu.

Aí là ưa thích, đam mê. Đây là chi mạc vô minh hay nhuận sanh vô minh, cũng là Hoặc.

Phàm phu chúng ta có rất nhiều đam mê khát ái, nhưng quan trọng nhất là Ái Ngã. Do yêu mình, nên tìm mọi phương tiện phục vụ cho nhu cầu vật chất, và tinh thần, của chính bản thân. Ngay cả tình cảm thương yêu đối với người khác, ngẫm lại, cũng chỉ vì mình mà thương. Cho nên, tình cảm nào cũng có tính ích kỷ, không nhiều thì ít. Cũng chính vì ái ngã, nên khi mất thân này, liền tìm thân khác, tiếp tục vòng quay sinh tử.

Vì sao có Ái? – Bởi vì vô minh nhận thân tâm huyễn hóa làm thật mình; từ chấp ngã rồi chấp ngã sở đều có thật, nên sanh tham ái. Ái lại làm tăng trưởng vô minh, nên hai yếu tố này có sự liên hệ hết sức chặc chẽ, và là hai động lực vô cùng mạnh mẽ làm chuyển động bánh xe luân hồi.

Cũng do ái ngã, nên những gì bên ngoài làm mình vừa ý, mình lại muốn chiếm hữu. Đây là Thủ. Giữ lấy cho riêng mình là hành động tạo tác nên thuộc nghiệp. Khi chiếm giữ được, liền phát khởi ý có sở đắc (Hữu). Hữu là điều kiện để tái sanh vào ba cõi, nên còn được chia thành Dục hữu, Sắc hữu và Vô sắc hữu

  1. Quả vị lai: Gồm sanh và lão tử

Có nhân hiện tại tức có điều kiện tái sinh ở vị lai. Một hữu tình lại chào đời (Sanh). Trong hữu tình này, cũng có yếu tố Vô minh, Thức…, Ái, Thủ, Hữu. Quy luật tất yếu của cuộc sống, là có sinh trưởng thì phải có hoại diệt, nên Sanh duyên Lão Tử.

Như vậy, mười hai nhân duyên đã giải thích tường tận guồng máy sinh diệt của loài hữu tình. Duyên hợp lại là sinh, duyên tan là diệt. Đi theo chiều thuận, nhân quá khứ, sanh quả hiện tại (tầng nhân quả thứ nhất), và nhân hiện tại, sanh quả vị lai (tầng nhân quả thứ hai). Đây là chiều lưu chuyển. Trong mỗi tầng nhân quả đều có Hoặc – Nghiệp – Khổ:

Phần đông các nhà nghiên cứu về Phật học thường theo chiều lưu chuyển của mười hai nhân duyên để chứng minh và giải thích luân hồi, mà chủ yếu làm thế nào liễu thoát sinh tử. Cho nên, mới có chiều ngược lại, từ quả phăng lần đến nhân: Mọi người đều già chết (Lão tử); Vì sao có già chết? – Vì có Sanh. Cứ đi ngược lần lên đến tận cùng, ta hiểu rõ bản chất của sanh tử là vô minh. Đây là chiều hoàn diệt.

Muốn giải quyết vấn đề sinh tử phải giải quyết nơi nhân. Chúng ta thấy đức Phật đã khéo dùng phương pháp đi ngược từ quả đến nhân, lần đầu tiên khi giảng về Tứ Diệu Đế; cuộc đời là khổ (Khổ – quả); Tìm hiểu vì sao có khổ (Tập nhân); trừ hết nguyên nhân gây khổ sẽ có an lạc giải thóat (Diệt- quả); Các phương pháp để đạt được giải thoát (Đạo – quả). Nguyên nhân của khổ tức Tập nhân trong Tứ Diệu Đế cùng tương đồng với Ái – Thủ trong mười hai nhân duyên; và chẳng khác gì vọng tưởng sanh diệt mà nhà Thiền chủ trương buông bỏ.

Ý NGHĨA

Kinh A Hàm, Phật dạy: “Cái này có nên cái kia có, cái này không nên cái kia không, cái này sinh nên cái kia sinh, cái này diệt nên cái kia diệt”. Đây là một định lý về duyên sinh duyên khởi. Tất cả các pháp từ vô tình đến hữu tình, đều vay mượn nhau, hỗ trợ nhau, nương tựa nhau mà sinh khởi và tồn tại. Ví như một bó lau, cùng nương vào nhau để đứng vững; nếu một cọng lau ngã xuống, những cọng khác khó thể trụ lại.

Mười hai nhân duyên cũng thuộc giáo lý Duyên sinh, nhưng hạn cuộc cho loài hữu tình. Nếu nhìn theo chiều dọc từ trên xuống dưới thì chi phần trên làm duyên cho chi phần dưới phát sinh. Vô minh là Hoặc nhân của quá khứ, làm duyên phát sinh Hành nghiệp. Vì là nhân quá khứ, nên hiện tại, người tu không thể sửa đổi được gì đối với Vô minh, mà chủ yếu chỉ chuyển hóa nhân hiện tại là Ái, Thủ, Hữu. Nhân hiện tại bị diệt trừ thì không có quả vị lai. Sanh, lão tử ngay nay đoạn dứt.

Tuy nhiên, cách hiểu ấy chỉ là khái niệm về nhân quả theo tuyến tính, theo thời gian, không phản ứng đúng tinh thần tương tức và tương nhập của đạo Phật. Thật ra mỗi chi phần đều vừa là nhân vừa là quả của mười hai chi phần còn lại, và ảnh hưởng ở cả ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai. Rõ ràng, trong vô lượng kiếp chúng ta đã vô minh, vì vô minh mới tạo nghiệp trầm luân trong sinh tử.

Kiếp này chúng ta cũng đang vô minh, đang tạo nghiệp; và trong tương lai, nếu không thức tỉnh, chúng ta sẽ lại vô minh và tạo nghiệp không có ngày cùng. Như vậy vô minh có mặt ở cả ba thời.

Lại nữa, Vô minh có mặt trong Hành, nên tác ý khởi niệm, sanh phiền não; đến lượt phiền não trở lại tác động làm vô minh nặng thêm. Đây là liên hệ hai chiều, vô minh duyên Hành và Hành cũng duyên vô minh. Vô minh cũng đồng thời có mặt trong Thức, Danh sắc, Lục nhập… Nếu thức không có vô minh, vì sao lại bị nghiệp dẫn lôi, thọ sanh theo nghiệp? Nếu Lục nhập không có Vô minh, sao đối duyên xúc cảnh lại sanh tâm phân biệt, không thấy được thực tướng của các pháp? Nếu Ái không có vô minh thì không có ý thức chấp ngã và ngã sở. Vì có vô minh mới có phiền não, mà phiền não khổ đau thì luôn hiện hữu trong cuộc sống.

Suy ra toàn bộ các chi phần khác, chúng ta sẽ thấy rõ sự tương quan trùng trùng điệp điệp: Mỗi chi phần, có liên hệ nhân duyên với chi phần kế cận, đồng thời, cũng liên hệ như thế với tất cả những chi phần còn lại. Sự tương quan này chằng chịt mật thiết, trong cả không gian lẫn thời gian, không có điểm đầu tiên, cũng không có điểm tận cùng.

Tuỳ theo cách hiểu về mười hai nhân duyên, và tuỳ theo sở thích, hành giả có thể áp dụng nhiều phương pháp về công phu. Nhưng tựu trung, có hai mắt xích quan trọng.

Nếu phá được một trong hai, có thể phá vỡ được sự liên hệ chằng chịt giữa các chi phần: đó là vô minh và Ái, hai chi phần này, là những lực tác động hết sức mãnh liệt, làm chuyển động bánh xe luân hồi, đều có cùng bản chất vô minh.

Hành giả tu theo Duyên Giác, thực hành pháp quán về mười hai nhân duyên. Lúc đầu theo chiều lưu chuyển để thấy rõ sự vận hành của guồng máy sinh tử, trong tinh thần “Cái này có nên cái kia có, cái này sinh nên cái kia sinh”.

Vì vô minh sanh nên Hành mới sanh, vì Hành sanh nên có Thức sanh… tiếp tục cho đến cuối cùng là Sinh – Lão – Tử. Sau đó hành giả quán theo chiều hoàn diệt trong tinh thần “Cái này không nên cái kia không, cái này diệt nên cái kia diệt”.

Tuy vậy, vì Vô minh là tập nhân hùng hậu, khó thể can thiệp được, nên hành giả tập trung tâm lực trừ nhân hiện tại là Ái. Do Ái diệt nên Thủ – Hữu không còn; Thủ – Hữu diệt nên Sanh – Lão Tử diệt; hành giả liễu thoát sinh tử, đạt quả vị Duyên Giác là Bích Chi Phật. Nếu sinh ra đời không gặp Phật  pháp, tự quán lý duyên sinh của trời đất mà ngộ, hành giả được tôn xưng là Độc Giác Phật.

 Hành giả tu theoThiền Đốn Ngộ quan niệm về mười hai nhân duyên bằng tinh thần tương tức tương nhập đã nói ở trên. Vô minh và Hành là biệt danh của Ái – Thủ – Hữu; Thức – Danh sắc – Lục nhập – Xúc. Thọ là biệt sanh của Sanh – Lão tử.

Các vị quán chiếu sự liên hệ hỗ tương trùng điệp của tất cả chi phần, Ngộ được lý duyên sinh, chứng trí Vô ngã, không còn chấp lầm thân tâm sinh diệt vô thường là thật mình.

Vì vậy, đoạn trừ căn bản vô minh. Đây là lối tu ngay gốc, khi gốc bị diệt thì các ngọn ngành theo đó tự tiêu. Nhưng làm thế nào để đoạn trừ được căn bản vô minh? Khi tâm hành giả hoàn toàn rỗng lặng, bặt hết mọi ý niệm phân biệt so sánh, biết tất cả các pháp, mà không sanh tâm trên chúng, cái biết ấy, mới ở trong trạng thái như thị.

Đây là cái “tri kiến vô kiến” đức Phật đã dạy trong kinh Lăng Nghiêm, hành giả thấy Niết bàn ở ngay: tại đây và bây giờ, không giở chân mà đến. Muốn tìm nước phải ngay sóng mà nhận, ngay trong phiền não phải thấy được Bồ Đề. Nếu thấy rõ trong si mê có hạt giống trí tuệ, trong vô minh đồng thời cũng có Minh hiện hữu, ta sẽ hiểu được tinh thần bất nhị, một tư tưởng vút cao của nhà Phật.

Mười hai nhân duyên là một trong những giáo lý quan trọng trong hệ thống kinh điển của đạo Phật. Giáo lý này cũng nhằm giải thích và chứng minh luân hồi nhưng chủ yếu nhầm đưa đến phương pháp giải thoát sinh tử.

Chúng ta không chỉ hiểu mười hai nhân duyên theo “tam thế lưỡng trùng nhân quả”, trong đó, các chi phần liên hệ nhau theo chiều thời gian; mà nên hiểu theo tinh thần “trùng trùng duyên khởi”; các chi phần liên hệ chằng chịt tương hỗ lẫn nhau theo không và thời gian, trùng điệp vô thuỷ vô chung.

Áp dụng vào công phu tu hành, chúng ta theo thứ lớp đoạn trừ chi mạt vô minh là Ái, rồi dần đến Thủ và Hữu. Đây là lối tu tiệm, cần dụng công nhiều, buông bỏ lần như chặt các ngọn. Tinh thần tu tập, một thời gian lâu xa sẽ thành công, vì có tu có tiến.

Lối tu thứ hai theo Thiền Đốn Ngộ, chúng ta đoạn trừ căn bản vô minh, thật ra không phải là “đoạn trừ vô minh”  mà là “nhận ra Minh ngay tại đó”. Tuỳ theo căn cơ và sở thích, chúng ta tự chọn cho mình một con đường, miễn sao đạt được mục đích tối hậu của đời tu: ra khỏi nhà phiền não và ra khỏi nhà tam giới.”

Diệu Hiền đọc xong, thở ra một hơi thở dài, rồi nói:

Chú ơi, chú có hiểu gì không? chứ cháu thì mù tịt khi thuyết Tam Thế Lưỡng Trùng Nhân Quả cho rằng: Vô Minh trong quá khứ là không thể tận diệt, cho nên, phải tận diệt vô minh trong hiện tại, và khi vô minh trong hiện tại là nhân, bị diệt, thì sẽ không sinh ra quả tương lai là lão tử, nên không tác động đến vô minh trong quá khứ. Như vậy là sao? Vậy khi vô minh trong quá khứ khích hoạt thì lại trôi lăn theo 12 duyên và lại tiếp tục sinh tử luân hồi?

Này bạn trẻ, nếu bạn có cơ hội tìm hiểu kỹ hơn về đạo Phật thì cũng không khó lắm để bạn hiểu về 12 Nhân Duyên được diễn giải qua thuyết Tam Thế Lưỡng Trùng Nhân Quả mà bạn vừa trình bầy.

Trước hết, chúng ta phải có một nhận thức vô cùng đúng đắn về mục đích của đạo Phật là gì?

Mục đích tối thượng, hay duy nhất của đạo phật là, giúp cho những người đang đau khổ về tâm lý, do những nhận thức sai lầm ràng buộc có thể giải thoát khỏi những sự khổ đau bằng cách nhìn đúng sự thật.

Nếu chúng ta có thêm chút hiểu biết về bối cảnh xã hội, tôn giáo, và các hệ thống tư tưởng triết học trong thời đức Phật còn tại thế thì chúng ta có thể hiểu được, tại sao trong kinh điển của đạo Phật ngày nay, vẫn còn lưu truyền những quả vị có thể đạt đến như: Duyên Giác, Bích Chi Phật, Độc Giác Phật, A La Hán v.v., trong khi, giáo lý của Đức Phật vốn chủ trương là Vô Ngã.

Đơn giản, là vì, phần đông các đệ tử của đức Phật thời đó, dù ít hay nhiều, cũng đã chịu ảnh hưởng bởi hệ thống tư tưởng: đa thần, nhất thần, phân chia đẳng cấp của các tôn giáo, hay hệ thống Triết học. Các tôn giáo, hay hệ thống tư tưởng Triết học này, dựa trên việc phân chia các quả vị để định vị cho sự nhận thức của họ theo trình độ.

Nếu đứng trên góc độ về kiến thức, sự phân chia này đúng, nhưng lại hoàn toàn sai lệch về Đạo Giải Thoát của đức Phật, hay Nhận Thức về Sự Thật.

Đứng trên góc độ của Nhận Thức về Sự Thật, thì một là Biết Đúng Sự Thật, hai là Không Biết Đúng Sự Thật.

Nếu biết đúng Sự Thật thì gọi là Giải Thoát, Giác Ngộ, hay còn gọi là Minh; còn không biết đúng Sự Thật vẫn còn bị ràng buộc dù đau khổ ít hay nhiều thì gọi là Vô Minh.

Cho nên, không thể đem cách thức phân cấp trên góc độ kiến thức để áp dụng cho sự Nhận Thức về Sự Thật khi cho rằng, chúng ta phải đi từng bước một; hết cấp này, rồi đến cấp kia, cho đến khi đạt đến cấp cao nhất. Đây là một trong những nhận thức sai lầm rất nghiêm trọng.

Thí dụ, đứng trên góc độ nâng cao kiến thức, chúng ta phải bắt đầu từ những bước cơ bản như: phải học lớp một trước, rồi mới đến lớp hai; phải học hết tiểu học, rồi mới đến trung học, đại học v.v.

Nhưng đứng trên góc độ Nhận Thức về Sự Thật thì không có sự phân cấp như kiến thức. Chúng ta không thể lý luận rằng, tôi nhận thức sai lầm ít hơn người kia thì đẳng cấp của tôi cao hơn người kia, vì tôi gần với nhận thức về sự thật hơn người kia.

Ông bà ta ngày xưa, có một câu nói rất hay: “trông gà hóa cuốc” để diễn tả hình ảnh nhìn thấy “mờ mờ” như lý luận trên. Nghĩa là, dù có mờ mờ nhìn thấy sự thật thì vẫn không đúng sự thật. Trong khi, sự thật là con gà, mà qua mờ mờ, chúng ta lại thấy ra con cuốc.

Vì vậy, những quả vị trong kinh điển hiện tại trong đạo Phật, chắc chắn, không phải là chủ trương hay cứu cánh của đức Phật, nếu có chăng, chỉ là phương tiện, vì hoàn cảnh lúc đó, có qúa đông các đệ tử của Ngài đã có quá quen với cách phân chia đẳng cấp của các tôn giáo, hay kinh điển khác, mà các đệ tử của Ngài lúc trước đã tu tập.

Cho nên, đức Phật mới dùng những qủa vị đó để giúp cho các đệ tử của Ngài, có kinh nghiệm về phân chia quả vị trước đó có thể nương theo để đạt được sự Giải Thoát. Đó mới là mục đích cuối cùng của đức Phật.

Chúng ta ngày nay rất may mắn không có những lệ thuộc vào những hệ thống tư tưởng Triết học của các tôn giáo cũ. Chúng ta lại may mắn hơn, khi đã có những sự trải nghiệm, và hướng dẫn của đức Phật, để kiểm chứng và thực chứng. Chính vì vậy, chúng ta cần phải gạn lọc lại, đâu là những tinh hoa, cốt lõi, trong việc giúp chúng ta giải quyết những sự khổ đau đích thực, chứ không nên cứ y kinh mà thực tập.

12 nhân duyên, dưới góc nhìn trải nghiệm của đức Phật là 12 yếu tố hay 12 chi phần tạo ra những nhận thức sai lầm của con người khiến cho họ đau khổ.

Khi con người có sự hiểu biết đúng đắn về những nguyên nhân đó, và tiếp xúc được với sự thật mà không qua sự phỏng đoán (vọng tưởng), qua cách nhìn nông cạn, thì chúng ta có thể giải thoát khỏi những nhận thức sai lầm đưa đến khổ đau.

Nếu chúng ta dựa vào những chức năng được phân chia rõ ràng trong Chín Thức, chúng ta sẽ hiểu được rất rõ sự mầu nhiệm về 12 nhân duyên mà đức Phật đã chỉ dậy.

Trước hết, chúng ta hãy quan sát định nghĩa về hai chữ Nhân Duyên.

Theo đạo Phật, Nhân tức là hạt giống, và Duyên là điều kiện đầu tiên.

Sở dĩ, chữ Nhân là hạt giống, vì theo quan điểm của Duy Thức học, Tiềm Thức là nơi dung chứa tất cả mọi hạt giống, bao gồm các hạt giống như: buồn, vui, khổ đau, hạnh phúc, thiện, ác v.v. Vì chức năng của Tiềm Thức không có khả năng phân tích, so sánh, quan sát như Ý Thức, cho nên, trong Tiềm Thức không có sự phân biệt đâu là hạt giống tốt nên phát huy, hay đâu là hạt giống xấu nên loại bỏ.

Vì vậy, Tiềm Thức được gọi là vô ký hay vô minh (không sáng suốt trong sự phân biệt, thiện, ác đúng, sai). Thế nên, khi một người Giác Ngộ thì Tiềm Thức có danh xưng là vô ký, vô minh được đổi thành một danh xưng mới: Đại Viên Cảnh Trí (hiển hiện soi sáng).

Theo 4 lý Duyên Khởi, nếu đã có Nhân Duyên (hạt giống điều kiện đầu tiên), và nếu muốn hạt giống đó nẩy sinh, phát triển, thì cần phải có thêm những điều kiện khác. Những điều kiện phát triển này, có một tên riêng là Tăng Thượng Duyên (Tăng là thêm vào, Thượng là trên).

Trong qúa trình phát triển của Tăng Thượng Duyên, lại có hai trường hợp sẽ xẩy ra: gọi là phát triển, hay lớn lên theo hướng Thuận, nghĩa là, có sự hỗ trợ, nâng đỡ, bổ túc (thuận), và phát triển lớn lên theo hướng nghịch, nghĩa là, có chướng ngại, ngăn chặn.

Chúng ta ngày nay, giản lược Tăng Thượng Duyên theo hướng thuận là Thuận Duyên, và Tăng Thượng Duyên theo hướng nghịch là Nghịch duyên.

Tuy có Tăng thượng Duyên để phát triển hạt giống theo hướng thuận hay nghịch, nhưng nếu không có sự liên tục, không gián đoạn thì cả giai đoạn phát triển và hạt giống cũng không thể tồn tại. Qúa trình này, có tên gọi là Thứ Đệ, có nghĩa là, có trước có sau, có sự liên tục không bị gián đoạn. Hay còn có một tên gọi khác là, Đẳng Vô Gián. Đẳng tức là, thường thường, còn Vô Gián là không bị gián đoạn.

Và cả ba điều kiện trên, nếu muốn tiếp tục tồn tại hay phát triển mạnh lên đều phải có một đối tượng tác động; và đối tượng đó sẽ tưới tẩm hay khích hoạt hạt giống đó liên tục. Quá trình này gọi là Duyên Sở Duyên hay đối tượng (Sở) tạo tác.

Đây gọi là bốn Lý Duyên Khởi, diễn tả về quá trình của một đối tượng đã tác động và tưới tẩm hạt giống nẩy mầm, phát triển liên tục, không gián đoạn trong Tiềm Thức theo Duy Thức học.

Thí dụ, chúng ta có một người bạn (đối tượng/Sở), đi nói xấu chúng ta (chủ thể/Năng). Hạt giống (Nhân Duyên) khổ đau trước khi người bạn đi nói xấu đã có mặt trong Tiềm Thức, nhưng vì chưa đủ các điều kiện, nên không phát triển.

Khi những lời nói không đúng sự thật của người bạn đến tai của chúng ta qua Nhĩ Thức (nhận biết được những âm thanh qua lời nói), và đưa về kho Tiềm Thức để lưu giữ; theo Duy Thức học, có nghĩa là, người bạn đó, đang tưới tẩm, hay cung cấp những điều kiện cho hạt giống khổ đau trong chúng ta được phát triển (Tăng Thượng Duyên). Và nếu người bạn đó, cứ đi nói xấu chúng ta liên tục không gián đoạn (Thứ Đệ Duyên) thì hạt giống khổ đau trong chúng ta cứ lớn dần.

Như vậy, đứng trên góc độ về Tâm Lý thì bốn điều kiện phát khởi trên hoàn toàn hợp lý và chính xác. Nhưng nếu đem áp dụng bốn điều kiện đó cho Vật Lý thì lại còn tùy vào từng trường hợp.

Tiếc thay, khi các đệ tử của đức Phật, vì muốn chứng minh giáo lý của đạo Phật là giáo lý bao trùm cả Tâm, Sinh, Vật Lý; cho nên, các đệ tử của đức Phật đã biến giáo lý của đạo Phật (Đạo đi tìm sự thật để giải quyết những nhận thức sai lầm của Ngã Thức gây ra sự khổ đau) thành Triết học, đi tìm nguyên nhân tạo ra vũ trụ và muôn loài.

Đây là một nhận thức cực kỳ lệch lạc mà những người học đạo giải thoát chân chính cần chỉnh sửa.

Chúng ta hãy quan sát 4 lý duyên khởi trên khi áp dụng vào một hạt cam. Khi hạt cam được gieo trồng xuống đất, qua sự tiếp xúc với các điều kiện thuận, bắt đầu nẩy mầm, và tạo thân lá (Tăng Thượng Duyên). Nếu những điều kiện vẫn được cung cấp đầy đủ, và liên tục, không bị gián đoạn thì cây cam càng ngày càng lớn mạnh (Thứ Đệ Duyên). Nhưng còn Duyên Sở Duyên, nghĩa là, điều kiện của đối tượng của cây cam thì làm sao giải thích.

Về Tâm Lý, khi giải thích Duyên Sở Duyên thì hợp lý, vì khi chúng ta giận thì phải có chủ thể là chúng ta, và giận đối tượng nào. Đối tượng có thể là trời, là đất, là hoàn cảnh, hay là giận chính mình, chứ chúng ta không thể giận mà không có đối tượng nào cả.

Nhưng ở đây, cây cam chỉ phát triển trong sự tương tác của các duyên, nghĩa là, khi có đầy đủ các duyên liên tục thì cây cam sẽ phát triển thành hoa và trái cam, mà không phải trái khác. Cây cam không lấy đối tượng là cây quýt phát triển mạnh hơn, hay trái ngọt hơn mà buồn phiền, đau khổ; hay không lấy vị ngọt hơn của trái Quýt để phát triển vị cam thành vị quýt. Hay nói đúng hơn, cây quýt chẳng có tưới tẩm hay tạo tác gì cho sự phát triển của cây cam cả.

Cho nên, Duyên Sở Duyên không thể áp dụng cho cây cam được.

Như vậy, nếu muốn áp dụng, chúng ta có thể nói, bốn lý duyên khởi, khi áp dụng về Tâm Lý để giúp chúng ta nhìn sâu hơn, để tiếp cận với sự thật là chính xác; nhưng đứng trên góc độ về Vật Lý thì bốn lý duyên khởi dành cho Tâm Lý này, chỉ có thể ứng dụng cho Vật Lý, nhưng tùy trường hợp.

Chứ chúng ta không thể khiên cưỡng, áp đặt, và cho rằng, bốn lý duyên khởi đều áp dụng đúng và chính xác với cả Tâm, Sinh, Vật Lý được.

Thuyết Tam Thế Lưỡng Trùng Nhân Quả cũng rơi vào cùng trường hợp với bốn lý Duyên Khởi vừa rồi. Nghĩa là, các đệ tử của đức Phật đã đem Nhận Thức 12 nhân duyên ứng dụng cho việc nhận dạng những nguyên nhân gây ra khổ của Ngã Thức thuộc về Tâm Lý, lại đem diễn giải và áp dụng vào nguyên nhân tạo tác ra vũ trụ và muôn loài, đặc biệt là con người.

Chính vì thế, đã tạo ra biết bao nhận thức sai lầm khiến cho những người học đạo Phật sau này, càng khó khăn hơn trong qúa trình giác ngộ.

Thuyết 12 nhân duyên của đức Phật, nếu chúng ta có dịp đọc những kinh điển của Ngài, chúng ta thấy, lúc ban đầu, đức Phật chỉ dùng có 1 duyên/chi như: Các Pháp Hữu Vi Nương Nhau Mà Có.

Sau đó, tùy theo hoàn cảnh, môi trường, điều kiện, kinh nghiệm, sự cần thiết trong quá trình tu tập của đệ tử, v.v, nên tiếp tục phát triển và hình thành thành các duyên khác như sau:

2 duyên/chi: Nhân và Quả

3 duyên/chi: Tam Thế: Quá Khứ, Hiện Tại, Vị lai

4 duyên/chi: Vô Minh, Hành, Sinh, Lão Tử

5 duyên/chi: Ái, Thủ, Hữu, Sinh, Lão Tử

6 duyên/chi: Tam Thế Nhân Và Nhân Quả, gồm: Nhân Quá Khứ, Nhân Hiện Tại, Nhân Tương Lai, và Quả Quá Khứ, Quả Hiện Tại, Quả Tương Lai

9 duyên/chi: Thức, Danh Sắc, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu, Sinh, Lão Tử

10 duyên/chi: Thức, Danh Sắc, Lục Nhập, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu, Sinh, Lão Tử

12 duyên/chi: Vô Minh, Hành, Thức, Danh Sắc, Lục Nhập, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu, Sinh, Lão Tử

Nếu có ai đó cắc cớ, muốn bắt bẻ, hay đả phá, và lý luận rằng, giáo lý của đức Phật là không chuyên nhất, vì khi thì đức Phật nói 1 chi, khi thì 2 chi, khi thì 5 chi, khi thì 12 chi, vậy cái chi nào, mới là giáo lý thật của đức Phật?

Nếu bạn là người đặt ra câu hỏi này thì bạn đã có sự lầm lẫn giữa phương tiện là cứu cánh. Là một bậc Giác Giả, đức Phật đã trình bầy nhận thức của Ngài hết sức rõ ràng qua kinh điển. Ngài cho rằng, các chi đều là giả, khi các chi không thể giúp cho người thực tập đạt được sự giải thoát. Và các chi đều là thật, khi các chi có thể giúp cho người thực tập đạt được sự giải thoát. Ngài không bao giờ cho rằng: chi này quan trọng hơn chi kia, hay chi này có trước chi kia.

Tất cả các chi chỉ là phương tiện, tùy theo kinh nghiệm của người đang thực tập mà đức Phật nương theo kinh nghiệm của người đó để trình bầy. Không ngoài một mục đích duy nhất, giúp cho họ nhận ra được cứu cánh.

Cứu cánh của đạo Phật là giúp Ngã Thức của người thực tập đang đau khổ do những nhận thức sai lầm được giải thoát khỏi những ràng buộc khi tiếp xúc với sự thật.

Thí dụ: bạn là người có kinh nghiệm về nấu ăn nhưng không có kinh nghiệm về cắm hoa. Nếu đức Phật muốn nương nơi nghệ thuật cắm hoa dậy cho bạn về chánh niệm thì bạn sẽ rất khó hiểu; vì bạn không có kinh nghiệm chánh niệm là gì. Nhưng nếu đức Phật đem kinh nghiệm về nấu ăn dậy cho bạn, như: khi bạn đang chú tâm vào việc rửa sạch rau thì việc chú tâm của bạn gọi là chánh niệm. Chắc chắn, bạn sẽ hiểu được ngay.

Với đức Phật, cái quan trọng nhất, hay cứu cánh mà đức Phật muốn dậy cho bạn, đó chính là chánh niệm, chứ không phải nghệ thuật cắm hoa, hay nghệ thuật nấu ăn. Vì cả hai chỉ là phương tiện. Và cả hai phương tiện này, chẳng có phương tiện nào cao hay thấp, sang hay hèn.

Và nếu như bạn thông minh hơn, khi bạn đã nhận diện ra được chánh niệm là gì, bạn có thể áp dụng chánh niệm không phải chỉ cho nấu ăn, mà còn cho tất cả các việc khác. Bạn không cần phải học chánh niệm khi cắm hoa như thế nào, hay chánh niệm khi đang lái xe như thế nào.

Bởi vì, chánh niệm là chánh niệm. Chánh niệm trong khi nấu ăn, với chánh niệm trong khi cắm hoa, hay chánh niệm khi đang lại xe, đều giống nhau. Đây chính là ý nghĩa của câu: “một là tất cả”.

Như vậy, khi học hỏi về giáo lý của đạo Phật, nếu bạn muốn học hỏi nghiêm túc và đúng đắn, bạn chỉ cần bỏ thời gian ra, lựa chọn một pháp môn nào mà bạn đã có kinh nghiệm, và chuyên tâm thực tập phương pháp đó mà thôi.

Đừng ôm đồm, đi học tất cả những pháp môn mà bạn không hề có kinh nghiệm. Không những bạn vừa phí thời gian mà bạn còn gây ra rất nhiều hậu quả, và tạo ra nhiều nhận thức sai lầm. Vì sao? Vì những gì bạn không có kinh nghiệm trải qua, bạn sẽ sử dụng sự phỏng đoán và tưởng tượng. Và sự phỏng đoán hay tưởng tượng thường là sai sự thật.

Đó là chưa kể, mỗi phương tiện có cách ứng dụng khác nhau, và cách ứng dụng này có thể đối nghịch với cách ứng dụng kia. Nếu bạn không có kinh nghiệm về sự ứng dụng, bạn sẽ luôn trầm luân trong những ưu tư và thắc mắc.

Thí dụ như, bụng bạn đang đói, và bạn bước vào một quán ăn có cả trăm món, và bạn chỉ thích ăn bún bò Huế. Vậy, bạn sẽ gọi một món bún bò Huế hay bạn sẽ gọi cả trăm món trong thực đơn, vì trong một trăm món có món bún bò Huế.

Ai trong chúng ta cũng sẽ cười nghiêng ngã, nếu chúng ta chứng kiến một người, chỉ vì muốn ăn một tô bún bò Huế mà đi gọi cả một trăm món ăn.

Và ai trong chúng ta, cũng đều có chung một nhận xét: người này có vấn đề. Nếu một người không có vấn đề, muốn ăn bún bò Huế thì gọi món bún bò Huế ăn no, là đủ.

Tiếc thay, khi học về giáo lý của đức Phật, chúng ta lại là người có vấn đề, chúng ta là người đi gọi cả trăm món ăn, trong khi, chúng ta chỉ cần có một món, để no bụng. Cứu cánh của một món hay cả trăm món, cũng đều giống nhau, là đi giải quyết chuyện chúng ta đang đói bụng, và cần ăn để no bụng.

Nhân đây, chúng ta hãy quan sát về 2 chi là Nhân và Quả, là hai điều kiện mà phần lớn chúng ta đã sử dụng một cách vô cùng lộn xộn và không chính xác.

Đứng trên góc độ về định lý, thuyết nhân quả hoàn toàn chính xác về cả hai lĩnh vực: tâm lý và vật lý.

Thí dụ, về tâm lý, khi chúng ta có một suy nghĩ sai lầm như coi thân thể này là không, và đem ngón tay dí vào cục than hồng, thì ngón tay của chúng ta sẽ bị phỏng và tạo ra cảm giác đau đớn.

Nếu đứng trên góc độ Nhân Quả, từ nguyên nhân đầu tiên, chúng ta hiểu sai về lý Không của đạo Phật, khi cho rằng, thân thể này vốn thật là không (nhân), cho nên, đưa chúng ta đến hành động là dí ngón tay vào than hồng (quả). 

Rồi từ cái quả là hành động dí tay vào than hồng, mới làm tay bị phỏng, tạo ra một nhân mới, và sau đó, đưa đến cảm giác đau đớn (quả) trong Ngã Thức.

Nếu chúng ta giản lược, nhìn phiến diện, và cho rằng, cái nhân đầu tiên là từ sự nhận thức sai lầm đã gây cái qủa là cảm giác đau đớn thì không chính xác. Vì cái nhân đầu tiên, không phải tạo ra cái quả là cảm giác đau đớn mà là hành động dí tay vào than hồng.

Nhưng trong thực tế, chúng ta thường dùng thuyết nhân quả theo cách giản lược như, từ nhận thức sai lầm là nhân, dẫn đến hậu quả là cảm giác đau đớn; hơn là, chúng ta nhìn đúng với sự thật, nhân này tạo ra quả kia, và quả kia, lại là nhân mới tạo ra quả khác.

Về vật lý, nếu chúng ta lấy một hạt cam (nhân), và gieo trồng xuống đất, khi có đủ duyên thì sẽ có cây cam và các quả cam. Điều này, cũng đúng và chính xác trên định lý căn bản về thuyết nhân quả. Cái có trước được gọi là nhân, vì sự tác động hay điều kiện nào đó mà tạo ra cái thứ hai là quả.

Như vậy, đứng trên góc độ định lý luận về luật nhân quả thì cả tâm lý và vật lý đều đúng với định lý. Cái có trước, qua sự tác động hay điều kiện tạo ra cái thứ hai thì cái có trước được gọi là nhân, và cái thứ hai được gọi là quả.

Nhưng nếu đứng trên góc độ của ứng dụng luật nhân quả trong thực tế thì không phải như vậy mà còn có thêm một điều kiện quan trọng khác nữa, là Quá Trình Phát Triển từ nhân đến quả. Quá trình này, mới là yếu tố quan trọng quyết định cái quả sẽ ra sao. Và cái quả, đôi khi, không ra đúng với cái nhân ban đầu.

Thí dụ, về vật lý, nếu chúng ta đem hạt cam gieo xuống đất thì cái kết qủa mà chúng ta đạt được phải là trái cam chứ không phải trái quýt. Điều này, chỉ đúng với định lý khi điều kiện trong qúa trình phát triển cây cam không có sự thay đổi nào khác. Nhưng nếu, trong quá trình phát triển mà có sự thay đổi thì cái quả mà đạt được sẽ không phải là từ cái nhân ban đầu mà có thể từ nhân khác.

Chẳng hạn như, thay vì, trong quá trình phát triển cây cam tạo thành các quả cam, chúng ta lại đem chặt phần thân của cây cam và ghép vào thân cây cam bằng các cành của cây quýt. Thời gian sau, chúng ta lại có quả quýt chứ không phải là quả cam. Mặc dù, khi chúng ta trồng là hạt giống (nhân) của quả cam.

Cũng tương tự như vậy trong lĩnh vực về tâm lý.

Thí dụ: thấy một người đang chết đuối, chúng ta khởi lòng thương và muốn cứu người; đó là một nhân tốt. Nhưng trong quá trình chúng ta nhẩy xuống cứu người, chúng ta không có kinh nghiệm làm sao cứu người đang chết đuối, thì người đang chết đuối vì sợ chết sẽ níu kéo chúng ta, và cả hai cùng bị chết chìm (hậu quả).

Như vậy, khởi đầu là một nhân tốt, cứu người, thay vì, đạt được kết quả, cứu sống người đó và có niềm vui. Nhưng trong quá trình cứu người đã thay đổi kết quả thành hậu quả. Thay vì kết quả sau khi cứu người là niềm vui thì lại có một hậu quả là đau buồn vì mất mát.

Rõ ràng, đâu phải cứ cứu người là một nhân tốt thì sẽ cho ra kết quả tốt là niềm vui, mà có khi, lại ra một hậu quả khác, trái ngược, là nỗi đau buồn.

Như vậy, qua sự quan sát và nhìn sâu hơn trong ứng dụng, chúng ta sẽ không còn sợ cái nhân sẽ là tốt hay xấu, chúng ta cũng không sợ cái quả là tốt hay xấu. Vì dù nhân hay quả, qua quá trình phát triển, chúng ta có thể thay đổi mà không hoàn toàn lệ thuộc 100 % vào cái nhân hay cái quả đó là gì.

Cho nên, khi học về thuyết nhân quả, chúng ta cần phải biết thuyết nhân quả đó, đang diễn đạt ở lĩnh vực nào, là định lý luận, hay ứng dụng luận, v.v., vì hai điều đó, hoàn toàn khác biệt nhau và có khi còn đối nghịch nhau.

Nhưng thuyết nhân quả của đức phật chỉ dậy vẫn hoàn toàn đúng về mặt tâm lý, nghĩa là, khi có một ý niệm khởi sinh thì sẽ có một cái quả nào đó, có thể sẽ là hậu quả hay kết quả.

Chính vì vậy, Ngài đã chỉ dậy phương pháp Tứ Diệu Đế để chúng ta ứng dụng trong qúa trình phát triển của nhân quả. Cũng chính vì Ngài biết, quá trình phát triển sẽ thay nhân và quả, nên Ngài không coi trọng cái nhận thức sai lầm hay vô minh từ đâu, khởi sinh từ lúc nào, hay khổ đau đó từ đâu mà có. Chỉ cần trong qúa trình phát triển, chúng ta liên tục tu sửa thì cái quả sẽ ra theo đúng ý chúng ta muốn.

Như vậy, qua 12 nhân duyên, chúng ta thấy, đạo lý của đức Phật không phải đưa ra để giải thích về nhân sinh và vũ trụ, cũng như, không đi giải thích về quá trình luân hồi, tái sinh, như Ấn Độ giáo, mà là phương pháp để giải quyết sự khổ đau đang có trong Ngã Thức của mỗi con người.

Nhưng các đệ tử của Ngài, vì đã thấm nhuần tư tưởng về Triết học của Áo Nghĩa Thư, Vệ Đà, khi nền Triết học này sử dụng sự tái sinh qua luân hồi lục đạo để giải thích về nhân sinh, vũ trụ, nguyên nhân tạo ra các pháp. Có kiếp trước và kiếp sau để giải thích về sự bất bình đẳng về gia cấp của con người trong xã hội do các tăng lữ Bà La Môn đang thống trị.

Chính vì vậy, chúng ta mới có thuyết Tam Thế Lưỡng Trùng Nhân Quả như ngày nay, nhằm giải đáp lý lẽ về luân hồi và tái sinh. Cho nên đã tạo ra rất nhiều nhận thức lệch lạc và không có độ chính xác.

Trên căn bản, 12 Nhân Duyên của đức Phật, qua quan sát thì đó là 12 hạt giống điều kiện chứ không phải là 12 mắt xích, nối liền vào với nhau tạo thành thế luân hồi, vô thỉ vô chung. Qua quan sát và nhìn sâu, chúng ta thấy, thông thường, một cảm giác khó chịu có mặt trong Ngã Thức, đôi khi, chỉ có vài ba điều kiện chứ không cần phải có đủ 12 điều kiện.

Thí dụ: Có một anh chàng thấy một cô gái đi qua, anh chàng liền nẩy sinh cảm giác ưa thích và chạy theo dùng lời ngon ngọt để tán tỉnh. Cô nàng không ưa, khó chịu, nên quay lại, mắng anh một trận. Anh chàng này xấu hổ, bỏ đi trong bực tức, và miệng lẩm bẩm, chửi thề.

Nếu chúng ta quan sát câu chuyện trên, qua sự vận hành của các Thức, và 12 nhân duyên, chúng ta thấy, qua Nhãn Thức (lục nhập), anh chàng nhận ra được cô gái và hình ảnh cô gái đó được đưa về Tiềm Thức.

Vì trong Ngã Thức của anh trong qúa khứ đã có tiêu chuẩn con gái như thế nào là xấu hay đẹp qua sự phân tích của Ý Thức, và Ngã Thức của anh đã chọn lựa, thích gái đẹp. Cho nên, khi hình ảnh cô gái đó qua Nhãn Thức đưa về Tiềm Thức có liên quan đến con gái nên được đưa vào kho của Ngã Thức.

Ngã Thức khi nhận được hình ảnh của cô gái đó, dựa theo tiêu chuẩn đã chọn lựa, có sẵn, và Ngã Thức chấp nhận cô gái kia là cô gái đẹp, nên hình ảnh cô gái đẹp đã khích hoạt nguồn năng lượng của thích gái đẹp.

Nguồn năng lượng thích gái đẹp của anh khi có mặt trên Ngã Thức, liền khích hoạt Ý Thức đi phân tích và so sánh xem, phải sử dụng những ngôn từ nào, hay câu nói nào để chinh phục cô gái đẹp, từ kho dữ liệu của Tiềm Thức.

Kho dữ liệu của Tiềm Thức về tán gái của anh chàng này có nhiều hay ít, tùy thuộc vào trước đây kiến thức (Ý Thức) của anh đã có, hay trải qua về tán gái nhiều hay ít, hay qua sự tích lũy từ những kiến thức tán gái của người khác mà anh đã được đọc qua sách vở, tài liệu, hay học qua sự quan sát những người khác.

Khi Ý Thức đã phân tích, so sánh, và chọn lọc những lời nói xong thì gởi về cho kho Ngã Thức trong Tiềm Thức. Ngã Thức với sự có mặt của nguồn năng lượng thích gái đẹp liền ra lệnh cho Thân Thể Thức hoạt động. Thân Thể Thức liền ra lệnh cho não bộ điều khiển đôi chân đi theo, và dùng miệng để nói những lời mà Ý Thức đã phân tích.

Khi cô gái nghe những lời tán tỉnh của anh, và không thích, nên mắng anh. Những lời mắng của cô gái, qua tai, tác động lên Nhĩ Thức. Nhĩ Thức nhận những âm thanh, lời nói của cô gái, đưa về kho Ngã Thức trong Tiềm Thức.

Ngã Thức nhận được những lời nói đó mới đưa qua Ý Thức phân tích. Ý Thức lại vào kho Tiềm Thức lấy dữ liệu để so sánh, và đưa ra kết quả; những lời đó, mang hình thức xúc phạm, coi thường, và gởi kết quả về Ngã Thức.

Ngã Thức khi nhận được kết quả từ Ý thức sẽ nối kết quả với những cảm xúc/giác đã được Ngã Thức chọn lựa. Nếu những kết quả đó, trùng với những cảm xúc/giác tên gì thì nguồn năng lượng đó được khích hoạt. Nếu những lời nói đó, không trùng với những cảm xúc/giác mà Ngã Thức đã chọn lựa hay chưa có thì không có nguồn năng lượng được khích hoạt.

Nếu như không có nguồn năng lượng nào khích hoạt thì Ngã Thức của anh chàng này vẫn tiếp tục duy trì nguồn năng lượng thích gái đẹp, và vẫn tiếp tục tán tỉnh cô gái, mặc dù, cô gái đã không ưa, và đã mắng anh. Nhưng anh vẫn cứ cười vui, vì lúc đó, Ngã Thức của anh đang duy trì nguồn năng lượng của thích gái đẹp kết hợp với nguồn năng lượng tích cực, là vui vẻ. Trường hợp này, chúng ta gọi anh chàng là “chai mặt” hay “lỳ”.

Nhưng trong trường hợp này, anh chàng bị những lời nói của cô gái tác động đến cảm giác xấu hổ. Khi cảm giác xấu hổ được khích hoạt thì lấn chiếm cảm giác thích gái đẹp, khiến cho Ngã Thức của anh rơi vào trạng thái tiêu cực.

Cảm giác xấu hổ liền kết hợp với các cảm giác tiêu cực khác như, sự bực tức, giận, tác động lên Ngã Thức của anh chàng. Ngã Thức vì bị sự bực tức khống chế nên ra lệnh cho Ý Thức tìm giải pháp để giải tỏa sự bực tức.

Ý Thức lại so sánh, phân tích tìm ra những cách giải quyết khác nhau, và gởi về kho Ngã Thức trong Tiềm Thức. Ngã Thức khi nhận được những giải pháp của Ý Thức như: đá lon, la hét, chửi thề, bạo hành v.v. thì sẽ chọn lựa cái nào có lợi nhất cho Ngã Thức.

Khi đã chọn xong, Ngã Thức ra lệnh cho Thân Thể Thức, và Thân Thể Thức ra lệnh cho não bộ điều khiển các bộ phận để đưa ra các hành động giải tỏa cơn bực tức. Ở đây, Ngã Thức của anh chàng này đã chọn giải pháp: chửi thề.

Như vậy, qua thí dụ trên, chúng ta thấy có các điều kiện (duyên) như: Hành, Thân Thể Thức thay vì Thức, Lục Nhập, Thọ và Xúc, vẫn có thể tạo ra sự khổ đau, sự bực tức, chứ không nhất thiết phải có đủ 12 mắt xích Nhân Duyên mới tạo ra đau khổ.

Hay trong trường hợp của anh chàng này, chỉ có Hành (nhân quá khứ) có Thọ, Xúc (quả hiện tại), nhưng lại không có Ái, Thủ, Hữu (nhân hiện tại) tác động nên không tái sinh: Sinh, Lão Tử (quả tương lai) theo thuyết Tam Thế Lưỡng Trùng Nhân Quả. Vậy là anh chàng này thoát ly khỏi sinh tử luân hồi sao?

Bây giờ chúng ta hãy tưởng tượng, nếu đức Phật sẽ tái sinh trong thời đại này thì Ngài sẽ dậy chúng ta về 12 nhân Duyên theo ngôn ngữ hiện đại như thế nào, dựa trên tinh thần Thân Tâm Nhất Như.

Trong Duy Thức học, tuy được phân chia thành 100 thức, nhưng tất cả các thức chỉ chú trọng đến sự vận hành, tương tác, và tương nhập các thức của Tâm, nhưng lại thiếu hẳn phần quan trọng nhất mà các đạo giáo đều đề cập đến, là Thân Thể của con người.

Các nhà khoa học trong nghành Cơ Thể học ngày nay, vẫn đang thắc mắc và nghiên cứu, tại sao cơ thể của con người, từ một hợp tử nhỏ nhoi (bắt đầu cuộc sống của con người), hay một tế bào nào đó, đều vận hành một cách trơn tru, hài hòa, đến một cách kỳ lạ.

Tế bào Tcell, có thể phân biệt được đâu là những vi khuẩn, vi trùng có lợi cho cơ thể thì giữ lại; đâu là những vi khuẩn, vi trùng có hại cho cơ thể thì tiêu diệt đi.

Rồi các tuyến như Yên, Tùng, v.v. lại có thể tự sản xuất ra các loại hormone để quân bình các cơ quan khi hoạt động qúa công suất tạo nên sự mất cân bằng giữa các tế bào. Và còn biết bao điều kỳ diệu xẩy ra giữa hệ thống thần kinh, và các hệ thống khác như: tuần hoàn, hô hấp, tiết niệu, v.v, luôn phải biết hợp tác, hỗ trợ nhau.

Tóm lại, thân thể của con người là một tổ hợp của hàng tỷ tế bào đang sinh hoạt với nhau một cách hài hòa. Mỗi cơ quan bộ phận đều biết nó phải làm gì, và làm tốt nhất, để duy trì sự sống của con người.

Qua đó, chúng ta thấy, tất cả mọi cơ quan trong thân thể đều có sự biết ra, nhận ra, ngay cả khi, chỉ mới là hợp tử. Sự biết ra, nhận ra này, chẳng phải là định nghĩa của Thức sao? Như vậy, rõ ràng, trong thân thể của con người cũng có một thức, và Thức đó điều hành cơ thể, cho nên, gọi là Thân Thể Thức.

Nếu chúng ta quan sát và nhìn sâu hơn, chúng ta thấy, Thân Thể Thức là Thức liên quan đến qúa trình cấu tạo và sinh diệt thuộc về thân thể của con người, trong đó bao gồm: tất cả các cơ quan lớn như: lục phủ, ngũ tạng, não, hay đến những phần nhỏ như: giao tử, DNA, RNA, tế bào v.v. có chức năng tạo ra sự sinh diệt của các tế bào, cơ, mô, và duy trì sự sinh hoạt hài hòa của thân mạng.

Theo khoa học, Thân Thể Thức của một cá thể còn được gọi là xung động nội môi (homeostatic impulse). Nhiệm vụ của Thân Thể Thức là giữ cho thân nhiệt của cá thể đó luôn ở 98,6 độ F (37 độ C). Đồng thời, giúp cho cơ thể của cá thể đó có thể thở đều đặn, và giữ cho tim của cá thể đó đập ở một nhịp độ nhất định, v.v.

Ngoài ra, Thân Thể Thức còn thông qua hệ thống thần kinh tự trị (autonomic nervous system) của cá thể để điều khiển và duy trì sự cân bằng giữa hàng trăm chất hóa học trong hàng tỷ tế bào của cá thể được hoạt động hài hòa, hoàn hảo, trong hầu hết thời gian.

Thân Thể Thức có sự liên kết chặt chẽ với tất cả các thức, bao gồm: Ngã Thức, Ý Thức, Tiềm Thức và ngũ thức. Ngoài ra, còn có các là chức năng khác như sau:

  • Kho chứa tất cả các thông tin, dữ liệu của hợp tử, DNA, RNA, tế bào, v.v.
  • Quan sát, phân tích, so sánh, tổng hợp, phỏng đoán
  • Tiếp nhận các chất dinh dưỡng từ thức ăn, chuyển hóa các chất dinh dưỡng đó thành năng lượng và thực hiện các chức năng chuyên biệt.
  • Duy trì bộ nhớ lâu dài và nối kết các thông tin dữ liệu, có khả năng sáng tạo
  • Cung cấp thông tin liên tục cho Ngã Thức.
  • Là chủ nhân của ngũ Thức
  • Ngôn ngữ chính: năng lượng

Chính vì, có các chức năng như phân tích, tính toán, tổng hợp, v.v như Ý thức, nên dưới sự điều khiển của Thân Thể Thức não bộ có khả năng tự sản xuất và tăng giảm các chất khích thích tố để tạo nên sự hài hòa hoạt động giữa các tế bào, cơ mô, hệ thần kinh, v.v. cũng như, tế bào máu có thể phân biệt để tiêu diệt các loại vi trùng, hay vi khuẩn, hay sự xáo trộn các mô, cơ, qua những nhận thức sai lầm của các tế bào, mô, cơ, tạo ra tế bào ung thư,v.v.

Thân thể Thức cũng như Tiềm Thức có sự hoạt động không ngừng nghỉ, và khác với Tiềm Thức là kho dữ liệu tổng thể, trong khi, Thân Thể Thức là kho dữ liệu biệt thể, chỉ liên quan đến các phần trong cơ thể.

Thí dụ, khi Ngã Thức muốn nhìn một hình ảnh thì tác động lên Thân Thể Thức. Thân thể Thức mới tác động lên não bộ, và não bộ mới điều khiển hệ thần kinh và các cơ mắt mở ra, rồi mới kết hợp với Nhãn Thức để phân biệt hình ảnh.

Nếu không có Nhãn Thức thì chúng ta không biết hình ảnh đó là gì; vì Thân Thể Thức là Thức chỉ lưu giữ những thông tin và dữ liệu liên quan đến sự sinh hoạt của thân thể (biệt thể). Cho nên, hình ảnh bên ngoài, nếu Ngã Thức muốn biết, thì Thân Thể Thức phải kết hợp Nhãn Thức (tương tự cách thức vận hành cho cả bốn Thức khác) để biết hình ảnh đó. Ngược lại, Tiềm Thức thì lưu giữ tất cả mọi thông tin và dữ liệu, trong đó, bao gồm luôn thông tin và dữ liệu từ Thân Thể Thức (tổng thể).

Thân Thể Thức không có cảm xúc/giác nhưng lại có sự tương tác, tương tức và tương nhập trực tiếp với cảm xúc/giác và ý muốn từ Ngã Thức.

Tuy nhiên, Thân Thể thức cũng như Tiềm Thức, không chịu sự điều khiển từ Ngã Thức, mà đôi khi, còn bắt Ngã Thức phải khuất phục Thân Thể Thức. Vì thế, Ngã Thức chỉ có thể sử dụng Thân Thể Thức như một “công cụ” hay “một nơi cư trú” để thỏa mãn những sinh hoạt mà Ngã Thức muốn qua thân thể.

Thí dụ: Ngã Thức muốn thức khuya để coi phim, nhưng nếu Thân Thể Thức nhận được những tín hiệu từ các bộ phận đã hoạt động qúa mệt mỏi, thì Thân Thể Thức sẽ phân tích và đưa ra sự lựa chọn, rồi chuyển về Ngã Thức.

Ngã Thức có quyền không theo sự lựa chọn của Thân Thức, và tiếp tục gia tăng “áp lực” bắt Thân Thể Thức phục vụ cho ý muốn của mình. Thân Thể Thức khi nhận lệnh từ Ngã Thức sẽ ra lệnh cho các cơ của mắt, căng lên, để giúp cho mắt có thể mở. Tuy mắt mở, nhưng Nhãn Thức lại không nhận diện được những hình ảnh trong phim một cách rõ ràng, vì các cơ mắt và hệ thống thần kinh mắt đang trong tình trạng mệt mỏi.

Các cơ mắt, khi đã quá ngưỡng chịu đựng thì Thân Thể Thức bất chấp là Ngã Thức muốn coi phim cũng tự động ra lệnh cho mắt nhắm lại, cũng như, ra lệnh cho các bộ phận mệt mỏi khác dừng hoạt động. Khi cơ thể dừng hoạt động thì Ngã Thức dù có muốn coi phim cũng phải chấp nhận dừng lại ý muốn của mình.

Như vậy, nếu thuyết 12 nhân duyên của đức Phật thời hiện đại, Ngài sẽ dựa trên tinh hoa của Thân Tâm Nhất Như và phân chia 12 nhân duyên như sau:

Về Thân có 6 nhân duyên: Động Lực tạo ra sự sống (Hành), Sỉnh (Sinh), Thân Thể Thức (Thức), Thân Thể (Danh Sắc), Năm Giác Quan (Lục Nhập), Lão Tử (Lão Tử).

Nếu chúng ta muốn quan sát 6 nhân duyên dưới góc độ quy trình sinh tử của Thân, chúng ta thấy, bắt đầu từ động lực (Hành) của cha mẹ muốn có con, mới đưa đến sự giao hợp. Khi tinh trùng của người cha kết hợp với noãn trứng của người mẹ tạo ra một hợp tử. Hợp Tử là cá thể bắt đầu sinh và phát triển ở giai đoạn đầu tiên (Sinh).

Khi có Hợp Tử thì Thân Thể Thức nương nơi Hợp Tử và điều khiển Hợp Tử theo lập trình Nhân Tướng Bản Thể (hình dạng gốc về tướng người mà không phải là thú hay thực vật).

Hợp Tử dưới sự điều khiển của Thân Thể Thức trải qua các quá trình giản phân nối tiếp nhau liên tục cho đến khi hình thành Thân Thể con người, trong đó có 5 Giác Quan. Tất cả các cơ quan của thân thể cứ tiếp tục phát triển đến một gia đoạn thì suy thoái gọi là Già, hay Lão Hóa, và khi cơ quan suy thoái, hay bị tổn thương trầm trọng, ngừng hoạt động, thì cơ thể của cá thể cũng ngừng hoạt động theo hay gọi là Chết/Tử.

Quy trình này, hoàn toàn đúng với hầu hết tất cả con người, và quy trình này được sắp xếp theo hệ thống đường thẳng một chiều. Bắt đầu từ Hành và chấm dứt là Lão Tử. Cho nên, theo thuyết duy vật, khi thân thể người ta chết, có nghĩa là, chấm dứt quy trình sinh tử.

Vì vậy, họ cho rằng chết là hết. Điều này hoàn toàn hợp lý. Vì họ đang dựa trên quy trình từ điểm khởi đầu của cơ thể cho đến tận cùng của cơ thể. Khi cơ thể đó chết thì cơ thể đó không có chiều đi ngược lại; như bắt đầu từ Tử (Chết) tạo ra hợp tử, rồi lại từ hợp tử tạo ra thân thể v.v.

Vì vậy, ở đây không có quá trình luân hồi và tái sinh thành con người được, nếu có chăng, chỉ là qúa trình chuyển hóa; như thân thể của con người, sau khi chết, bị phân rã, có thể trở thành thực phẩm cho các vi sinh vật, hay làm phân bón, làm chất dinh dưỡng cho các thực vật.

Đây chính là sự thật về Thân mà ai trong chúng ta cũng có thể quan sát trong quá trình kiểm nghiệm.

Nhưng đối với các tôn giáo, nếu họ chấp nhận sự thật này, nghĩa là, không có luân hồi và tái sinh của một kiếp người thì không thể nào các đạo giáo có thể giải thích được những thắc mắc của con người, như: từ đâu họ sinh ra, chết họ đi về đâu, tại sao tôi là người tốt nhưng lại gặp những điều bất hạnh v.v. Hay nói rõ hơn, đó chính là những ưu tư thắc mắc của các nhà Triết học, hay Khoa Học, luôn cố gắng đi tìm nguồn gốc tạo ra vũ trụ và con người.

Thêm vào đó, nếu không có thuyết luân hồi và tái sinh, không có kiếp trước và kiếp sau thì không thể thuyết phục và giải thích về sự bất bình đẳng giai cấp trong xã hội, hay quyền lợi thụ hưởng khác nhau giữa mỗi người.

Cho nên, các đạo giáo đã miễn cưỡng đem những cách ứng dụng để giải quyết vấn đề đau khổ trong Ngã Thức, thuộc về Tâm Lý, áp đặt trên vấn đề về Sinh, Vật Lý của con người. Và thuyết Tam Thế Lưỡng Trùng Nhân Quả là một trong những thuyết đã áp dụng cách này.

Theo những kinh nghiệm và nghiên cứu của các nhà Cơ Thể học thì Thai Nhi,

  • Bắt đầu tuần thứ năm: Hệ thống tuần hoàn, đang bắt đầu hình thành, và trái tim nhỏ bé sẽ bắt đầu đập
  • Tuần thứ sáu: Mũi, miệng và tai bắt đầu định hình, ruột và não cũng bắt đầu phát triển
  • Tuần thứ bẩy: Những cánh tay, cẳng chân, đang phát triển tạo ra hai bàn tay và hai bàn chân
  • Tuần thứ tám: Các tế bào thần kinh bắt đầu phân nhánh, hình thành hệ thần kinh nguyên thủy. Ống hô hấp bắt đầu nối dài từ họng đến hai lá phổi đang phát triển
  • Tuần thứ chín và mười: Hình thái cơ bản của cơ thể đã hình thành, tay chân có thể co duỗi
  • Tuần mười một: Hoàn chỉnh cơ thể
  • Tuần mười hai: Thai nhi đã bắt đầu biết mút

Như vậy, Ngã Thức hay cái tôi, của một cá thể mới chỉ có thể có mặt bắt đầu từ tuần thứ mười hai qua hành động biết mút (bài học đầu tiên của cơ thể, học để sống còn) qua sự chỉ huy của Thân Thể Thức, và cũng chính vì muốn sống còn, nên Ngã Thức mới phát sinh dưới dạng thô sơ.

Sở dĩ, gọi là dạng thô sơ, vì từ cái muốn duy nhất của Thân Thể Thức là sống còn mà Ngã Thức mới được phát sinh, và sẽ tiếp tục phát sinh cái muốn “cao cấp hơn” qua qúa trình phát triển, và tích lũy sau khi cơ thể phát triển.

Toàn bộ qúa trình này, không hề có bất cứ một chứng tích nào từ ở kiếp trước mang qua, và Ngã Thức mới này vẫn tiếp tục phát triển, lớn lên cho đến già và chết.

Nếu chúng ta cho là tinh tế thì Ngã Thức mới đã có nghiệp lực thúc đẩy để tái sinh, cùng với những chấp trước hay kinh nghiệm, có Ái, Thủ, Hữu từ kiếp trước, mà chỉ mượn sự thụ tinh trong bụng mẹ để tạo ra thân thể mới để trả nghiệp và tiếp tục bị dẫn dắt bởi vô minh và nghiệp trong kiếp trước tác động (giống như, chúng ta đang mượn xác thân mới, để hoàn hồn cũ (nghiệp báo trong kiếp trước), thì chúng ta không thể giải thích được trường hợp bị xẩy thai hay phá thai.

Vì xẩy thai hay phá thai bị ảnh hưởng trực tiếp từ môi trường, hoàn cảnh, luân lý và đạo đức trong hiện tại.

Nếu chúng ta lại khiên cưỡng, và lập luận rằng, do vì không đủ duyên nên Ngã Thức cũ không có đủ điều kiện để hiện hữu. Vậy nếu như, cứ thụ tinh xong, rồi bị phá, hay xẩy thai, thì cái nghiệp lực đẩy đến tái sinh ở đâu? Nếu có, thì sao lại để việc xẩy thai hoặc phá thai có thể hình thành?  Hoặc giả, nếu có, cũng là qúa ít không đủ để tác động thì có cũng như không.

Như vậy, nếu đứng trên góc độ của Thân để quan sát, chúng ta thấy, Ngã Thức mới chỉ được hình thành theo dạng thô sơ nhất, đó là, ý muốn cho thân thể được phát triển và hình thành để Ngã Thức mới có nơi nương tựa và sinh hoạt.

Hay có thể nói khác hơn, là từ ý muốn của người mẹ, từ môi trường, hoàn cảnh, mới là những động lực quyết định thân mạng mới chứ không hề có bất cứ nghiệp lực nào trong kiếp trước tác động cả.

Vì vậy, khi thuyết Tam Thế Lưỡng Trùng Nhân Quả cho rằng: “Vô minh là Hoặc, nhân của quá khứ, làm duyên phát sinh Hành nghiệp. Vì là nhân quá khứ, nên hiện tại, người tu không thể sửa đổi được gì đối với Vô minh, mà chủ yếu chỉ chuyển hóa nhân hiện tại là Ái, Thủ, Hữu. Nhân hiện tại bị diệt trừ thì không có quả vị lai. Sanh, lão tử, ngay nay đoạn dứt.”

Trong câu này, nếu chúng ta chú ý có câu: “người tu không thể sửa đổi gì”. Người ở đây thuộc về Thân. Theo Cơ Thể học về Thân, chúng ta thấy, Ngã Thức mới hoàn toàn có thể thay đổi, vì Ngã Thức mới không hề có vô minh và hành trong kiếp trước.

Nếu có vô minh hay hành thì chỉ có cha mẹ ngay trong kiếp hiện tại, vì trong lúc vô minh, không sáng suốt, đã có những hành động vụng dại tạo ra thai nhi mà không có sự chuẩn bị tâm lý trước. Chứ Thai Nhi, trên căn bản, vốn không có vô minh và hành từ kiếp trước ảnh hưởng.

Quá trình phát triển Ngã Thức như thế nào thì chúng ta sẽ quan sát 6 duyên về Tâm hay Ngã Thức.

Về Tâm/ Ngã Thức cũng có 6 nhân duyên: Vô Minh, Xúc, Thọ, Ái, Thủ và Hữu.

Về tính hệ thống theo thứ tự thì 6 nhân duyên của Ngã Thức được thiết lập theo hệ thống vòng tròn, theo hai chiều, nên không có thức nào có trước, và cũng không có thức nào có sau; và các thức này, có thể phát triển theo chiều ngược, hoặc chiều xuôi, tùy theo đối tượng khởi tác tại điểm nào. Trong khi, Thân Thể Thức lại sắp xếp theo đường thẳng một chiều, có khởi đầu và có kết thúc.

Chính vì, hai hệ thống trình tự sắp xếp khác nhau, cho nên, khi đem hệ thống của Tâm/Ngã Thức theo vòng tròn, hai chiều, mà áp dụng vào đường thẳng một chiều của Thân Thể Thức, nên các tôn giáo đã “bẻ cong” đường thẳng một chiều, tiếp nối hai đầu lại với nhau thành vòng tròn, giống như của Ngã Thức theo dạng hai chiều. Cho nên, họ đã tạo ra những lý luận vô cùng khiên cưỡng qua sự phỏng đoán và tưởng tượng hơn là sự thật.

Thí dụ, các tôn giáo cho rằng, thân của con người là giả tạm, đó là đứng trên góc độ của Ngã Thức, khi muốn dùng thân này để thỏa mãn cho những khao khát, mong muốn, của mình. Nhưng vì họ không biết được, Thân Thể Thức là Thức, ngoài sự tương tác về mặt cảm xúc/giác và ý muốn từ Ngã Thức ra, Thân Thể Thức gần như hoạt động độc lập, và có thể hỗ trợ hay đối kháng lại Ngã Thức.

Thí dụ như, khi thân thể chúng ta bị bịnh, Ngã Thức của chúng ta muốn thân thể phải khỏe mạnh để đi chơi, nên Ngã Thức của chúng ta đã ra lệnh cho Thân Thể Thức phải đi bác sĩ để chữa bịnh.

Trong khi, Thân Thể Thức có thể tự chữa lành cho thân nhưng Ngã Thức cứ “phớt lờ”. Vì sao? Vì sự tự chữa lành của Thân Thể Thức còn lệ thuộc vào rất nhiều điền kiện như: môi trường, các mô, cơ, tế bào, bị nhiễm độc, hay vi trùng, vi khuẩn nào đang tác động. Sau khi phân tích, so sánh rồi, Thân Thể Thức mới điều khiển các tuyến, hay các cơ quan, chế ra các loại hormone, hay thuốc giải độc, hay ra lệnh cho hệ thống miễn nhiễm phải gia tăng thân nhiệt để diệt vi trùng qua hình thức, sốt cao, v.v.

Vì vậy, thời gian tự chữa lành của Thân Thể Thức rất khác nhau, và cũng tùy thuộc vào cơ thể của mỗi người. Nhưng vì Ngã Thức muốn đi chơi mà lại bị bệnh, khiến thân thể không thể hoạt động như ý muốn của Ngã Thức.

Thế nên, đi khám bác sĩ để mau có được thân thể khỏe mạnh là cách mà Ngã Thức đã sử dụng Ý Thức để phân tích và chấp nhận giải pháp của Ý Thức. Vì vậy, Ngã Thức đã ra lệnh cho Thân Thể Thức đến gặp bác sĩ để khám, chữa bịnh, thay vì, để cho Thân Thể Thức tự chữa lành.

Bác sĩ, sau khi khám bịnh, cho các loại thuốc mà theo kiến thức tích lũy của bác sĩ được cho là tốt nhất, giúp cho cơ thể có thể phục hồi lại nhanh.

Vì không hiểu được sự vận hành kỳ diệu của Thân Thể Thức điều hành cơ thể, cho nên, khi sáng chế các loại thuốc, các nhà thuốc, chỉ chú trọng đến vị trí bị bệnh mà không hiểu được sự vận hành tổng thể của cơ thể.

Cho nên, các nhà thuốc đã tạo ra hiện tượng “phản ứng phụ” khi dùng thuốc, có nghĩa là, chữa được bịnh này thì lại tạo ra bịnh khác. Hay làm mạnh một cơ quan này thì lại làm yếu đi các cơ quan khác. Và khi cơ quan khác bị yếu thì lại tạo một loại thuốc khác để làm mạnh cơ quan đó và lại làm yếu các cơ quan khác.

Trong khi, hầu hết các loại động vật, bao gồm cả con người, vì không có bác sĩ, nên chỉ lệ thuộc hoàn toàn vào cách vận hành tự chữa lành của Thân Thể Thức.

Nền Y học ngày nay, nhất là Tây Phương, vì muốn chuyên sâu về một cơ quan, nên đã phân chia cơ thể của con người ra rất nhiều cơ quan, bộ phận, riêng lẻ. Mỗi vị bác sĩ chuyên khoa chỉ biết và chịu trách nhiệm về luật pháp với khoa mà mình được học hỏi, và thực hành mà không cần để ý đến các cơ quan và bộ phận khác.

Chính vì vậy, nên tình trạng chữa cơ quan này, làm yếu cơ quan khác, là chuyện xẩy ra bình thường mỗi ngày trong cuộc sống của chúng ta.

Không ít những Y Sĩ ngày nay đã tự cho mình “cái quyền” thay thế Thân Thể Thức để điều khiển cơ thể qua kinh nghiệm và kiến thức của mình.

Nhưng sự thật, cho dù bác sĩ có giỏi đến đâu cũng không thể thay thế Thân Thể Thức được.

Thí dụ: Các bác sĩ ngày nay, khi chữa trị cho những người bị ung thư, dù cho có giải phẫu cắt bỏ khối u, nhưng nếu Thân Thể Thức muốn, thì vẫn tiếp tục phát triển; không những vậy, còn có thể tạo ra di căn tế bào ung thư tới các cơ quan khác, mà các bác sĩ, dù có dùng tất cả các kiến thức, kinh nghiệm, với sự hỗ trợ của máy móc, và dược liệu, vẫn không có thể cứu chữa được bịnh nhân khi Thân Thể Thức ra lệnh cho các cơ quan ngừng hoạt động, thì bịnh nhân vẫn chết như thường.

Y học của phương Tây, nhất là khoa phẫu thuật, là một trợ thủ vô cùng đắc lực cho Thân Thể Thức, khi gặp những trường hợp, mà Thân Thể Thức không thể giải quyết được vấn đề xẩy ra cho cơ thể trong một khoảng thời gian rất ngắn, như khi thân thể có va chạm mạnh, gây ra sự tổn thương nghiêm trọng đến các cơ quan.

Đây là một đề tài liên quan đến Y học, và là một chủ đề lớn, nên khi có duyên chúng ta sẽ cùng nhau quan sát.

Vậy, về sự tương tác, tương tức, giữa Ngã Thức và Thân Thể Thức sẽ xẩy ra như thế nào?

Hãy lấy một thí dụ để minh họa:

Ngã Thức của chúng ta muốn ăn kem nên ra lệnh cho Thân Thể Thức hoạt động. Khi ăn kem vào trong cơ thể, vì những nguyên liệu trong kem bị dơ, bẩn, khiến cho các tế bào bị nhiễm độc tạo ra nguồn năng lượng (đau) tác động nơi bụng.

Nhận ra được sự nguy hại của độc tố có thể gây nguy hiểm cho mạng sống, Thân Thể Thức liền ra lệnh cho các cơ quan thải độc ra ngoài qua hai đường nhanh nhất là: ói mửa, và đại tiểu tiện; nếu còn độc tố nữa thì thoát qua đường mồ hôi hay khóc v.v cho đến khi hết độc tố.

Tất cả qúa trình cùng hành động giải độc (giải tán nguồn năng lượng đang tác động) của Thân Thể Thức, ngoài chức năng duy trì trong kho của Thân Thể Thức trong Tiềm Thức, thì cũng liên kết với kho của Ngã Thức.

Nếu chúng ta quan sát kỹ, chúng ta thấy, giữa Ngã Thức và Thân Thể Thức có chung một ngôn ngữ là năng lượng.

Chính vì vậy, những qúa trình giải quyết của Thân Thể Thức nơi nguồn năng lượng đang tác động nơi bụng cũng tác động trực tiếp với những nguồn năng lượng của Ngã Thức (tương tức: cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không). Cho nên, mới sinh ra cảm giác đau trong Ngã Thức.

Đau là tên gọi cho nguồn năng lượng cảm giác của Ngã Thức qua sự phân tích của Ý Thức; còn trên thân thể thì không có danh xưng mà chỉ là sự tác động của năng lượng trên vùng, hay cơ quan đó.

Vì vậy, tại sao chúng ta có thể nhận thấy, trong phần chức năng của Thân Thể Thức không có cảm xúc/giác là vậy.

Bởi vì, trong cảm xúc/giác, cường độ của nguồn năng lượng lại phụ thuộc vào định nghĩa được diễn dịch theo ý của mỗi cá nhân. Cho nên, không thể đưa ra một con số chuẩn xác như trên thân thể.

Chúng ta hãy trở lại, trong quá trình tự chữa lành của Thân Thể Thức như: ói mữa, tiêu chảy, hay thoát mồ hôi đầm đìa nơi vùng năng lượng đang tác động trên vùng bụng, và trong Ngã Thức là cảm giác đau.

Ngã Thức muốn giải thoát cảm giác đau liền ra lệnh cho Ý Thức hỗ trợ cho Thân Thể Thức đi tìm phương pháp giải quyết. Nếu trong quá khứ, cơ thể đã bị đau bụng và đã đi bác sĩ khám bịnh và cho thuốc, thì Ngã Thức ra lệnh cho Thân Thể Thức sử dụng chân, đi đến tủ thuốc; tay lấy, cầm thuốc; và miệng uống thuốc.

Khi uống thuốc vào, thuốc tạo ra một nguồn năng lượng đối kháng với nguồn năng lượng (đau) và làm tan nguồn năng lượng này. Hiện tượng này, gọi là hết đau bụng, hay cảm giác đau của Ngã Thức được giải thoát hay không còn hiện hữu.

Nói đến cảm giác đau của Ngã Thức, thì với sự tiến bộ vượt bậc của khoa học ngày nay, với những máy móc tối tân hiện đại, các bác sĩ cũng không thể đo lường được cái đau của bịnh nhân như thế nào mới là chính xác.

Nếu đứng trên dạng năng lượng tác động lên vùng bụng thuộc về vật chất, thì máy móc hiện đại có để đo được cường độ của năng lượng tác dụng lên các mô, cơ, hay cơ quan, và có con số chính xác. Nhưng khổ thay, đây lại thuộc về cảm xúc/giác của Ngã Thức. Cho nên, cái cảm giác đau này, lệ thuộc vào định nghĩa của mỗi cá nhân khác nhau về cường độ của đau.

Ông bà ta ngày xưa rất thông minh khi đem so sánh hai cái đau của hai cá thể như sau: Người giầu đứt tay, như ăn mày đổ ruột.

Còn với các Y Sĩ, bao giờ họ cũng phải hỏi bịnh nhân xem, họ đau như thế nào chứ không thể dùng máy móc để đo mức độ đau được.

Bây giờ, chúng ta hãy quan sát tiếp, chuyện gì sẽ xẩy ra, nếu như, nguồn năng lượng từ thuốc vào mà vẫn không giải quyết hay giải tán vùng năng lượng đang tác động trên bụng?

Nếu như nguồn năng lượng từ thuốc vào mà không thể giải tán được nguồn năng lượng đang tác động thì kết quả này được gởi về kho Ngã Thức trong Tiềm Thức. Ngã Thức lại sử dụng Ý Thức để phân tích. Nếu Ý Thức không còn có thể tìm được những phương pháp khác, thì kết quả của Ý Thức cũng gởi về kho Ngã Thức trong Tiềm Thức.

Nhận được kết quả từ Ý Thức, nếu như trong phân tích của Ý Thức có sự liên quan từ cái đau có thể dẫn đến cái chết của Thân, thì nguồn năng lượng lo sợ (vì nếu thân thể mà ngưng hoạt động thì Ngã Thức không có nơi để nương tựa hoạt động) trong Ngã Thức được khích hoạt, rồi kết hợp với nguồn năng lượng đang đau sẵn có tác động ngược lại trên thân thể, khiến cho nguồn năng lượng tại vị trí đang bị tác động gia tăng (năng lượng đau + năng lượng lo sợ)

Vì bị thêm nguồn năng lượng lo sợ của Ngã Thức tác động, khiến cho các cơ quan khác bị đè nén, trì trệ, đòi hỏi tim phải đập nhanh hơn, phổi phải hít thở gấp rút hơn, v.v.

Khi có những sự vận hành của các cơ quan khác, vì bị ảnh hưởng từ nguồn năng lượng lo sợ, lại tạo ra nguồn năng lượng phản kháng mới tác động ngược lại lên Ngã Thức, nơi đang có nguồn năng lượng đau và lo sợ, khiến cho cả hai nguồn năng lượng này đều tăng cường độ từ lo sợ lên đến sợ hãi, và cảm giác đau hơn v.v. Và nếu quá trình này cứ tiếp diễn thì có thể dẫn đến cái chết.

Điều này chúng ta có thể quan sát qua hiện tượng một người không biết bơi, khi ngã xuống sông, hồ. Khi người đó bị té xuống nước sâu, vì chân không có điểm tựa, giúp cho đầu có thể ngoi trên mặt nước để thở. Tạo ra tình trạng cơ thể thiếu dưỡng khí.

Việc thiếu dưỡng khí, khiến cho Thân Thể Thức phải ra lệnh cho những cơ quan khác tạm dừng hoạt động để dồn năng lượng cho hai tay và hai chân hoạt động. Những sự thay đổi nguồn năng lượng trong Thân Thể Thức tác động lên những nguồn năng lượng của Ngã Thức, bắt đầu bằng sự lo sợ (thân thể sẽ mất đi), nên tạo ra áp lực lên Thân Thể Thức qua việc, tay và chân phải hoạt động hết năng suất.

Tuy Tay và chân hoạt động mạnh nhưng vì không có kiến thức về bơi lội, nên tay và chân, sau khi hoạt động mạnh một lúc thì tạo ra sự thiếu năng lượng, nên yếu dần. Sự yếu dần của tay chân tác động ngược lại trong Ngã Thức, và cảm giác lo sợ (vẫn còn hy vọng sống nên còn hoạt động) gia tăng cường độ thành sợ hãi (không còn hy vọng).

Nguồn năng lượng sợ hãi tác động lên các cơ quan qúa mạnh khiến một số các cơ quan bị ngưng hoạt động (đó cũng là lý do, khi có một việc gì đó tác động đến sự sợ hãi thì thân thể của chúng ta bị cứng lại, không thể di chuyển).

Nếu sự sợ hãi tiếp tục được duy trì, thì các cơ quan ngưng hoạt động, thay vì, trong khoảng thời gian ngắn, lại trở nên dài hơn. Qúa trình kéo dài ngưng hoạt động của các cơ quan này, gọi là Chết/ Tử.

Như vậy, “sát thủ” chính của người bị chết đuối là nguồn năng lượng sợ hãi nơi Ngã Thức làm cứng các cơ quan tạo ra sự ngừng hoạt động của Thân.

Không ít người trong chúng ta, khi chưa hiểu về sự tương tác, tương tức giữa Ngã Thức và Thân Thể Thức hay lý luận rằng: người chết đuối là do sức hút của trái đất, vì thân người có trọng lượng, nên bị hút xuống sâu, nên chết đuối.

Vậy thì lý luận này, không thể giải thích được cũng là bao nhiêu trọng lượng đó, nếu là người có kinh nghiệm về bơi thì sao họ vẫn nổi trên mặt nước mà không bị sức hút từ trái đất. Hay khi người đó chết rồi (không còn chịu sự tác động của nguồn năng lượng sợ hãi từ Ngã Thức), thân thể người chết có thể tăng trọng lượng lên gấp đôi mà vẫn có thể nổi trên mặt nước.

Dĩ nhiên, khi đã rơi vào lý luận thì ai trong chúng ta cũng có quyền diễn dịch định nghĩa mỗi sự, mỗi việc, theo kinh nghiệm của mình. Ở đây, chúng ta sẽ không sử dụng cái cân đúng sai để chứng minh ai sai, ai đúng. Mà ở đây, chúng ta đang dùng sự quan sát để tìm ra Sự Thật. Nếu đúng với Sự Thật thì sẽ giải thích được trên mọi góc độ mà vẫn không sai với gốc.

Điều này, ai trong chúng ta, nếu chịu khó quan sát và nhìn sâu, hiểu đúng sự vận hành, tương tác, tương tức giữa Thân Thể Thức và Ngã Thức cũng có thể kiểm nghiệm được.

Bây giờ chúng ta hãy quan sát và nhìn sâu vào sự vận hành về Tâm/ Ngã Thức theo hệ thống vòng tròn và hai chiều của Ngã Thức như thế nào?

Qua sự sắp xếp về Tâm, thì chúng ta có 6 nhân duyên, bao gồm: Xúc, Thọ, Ái, Thụ, Hữu và Vô Minh. Với 6 nhân duyên này, thì qủa thật, không có đâu là đầu, đâu là cuối, và cũng không theo bất cứ thứ tự nào cả mà tùy thuộc vào khởi điểm ở đâu.

Thí dụ, qua sự tiếp xúc (Xúc) với hình ảnh cô gái đẹp, Ngã Thức mới có cảm giác ưa thích (Thọ), vì có cảm giác ưa thích nên mới sinh ra ham muốn (Ái), vì muốn thỏa mãn cái ham muốn nên mới sinh ra chiếm hữu (Thủ), vì khi chiếm hữu được rồi (Hữu) sợ mất, nên sinh ra những hành động ghen bóng, ghen gió (Vô Minh), và tạo ra đau khổ.

Hay, vì lời khen của người khác cho mình là người giỏi, từ đó có cảm giác tự kiêu (Thọ), nên khi tiếp xúc (Xúc) với người khác, muốn (Ái) chúng tỏ ra vẻ ta đây, mới có những hành động lố bịch (Vô Minh), khiến ai cũng ghét, nhưng vì muốn giữ cảm giác tự kiêu lâu dài (Hữu), nên tiếp tục giữ (Thủ) thái độ tự kiêu đó mà không sửa đổi. Tuy ngoài mặt thì vẫn tự kiêu, nhưng trong lòng (Ngã Thức) thì rất đau khổ khi bị người khác ghét bỏ hay không muốn gần gũi.

Qua hai thí dụ trên, chúng ta thấy, 6 nhân duyên tương tác theo hai chiều, và điểm khởi đầu tùy thuộc vào môi trường và hoàn cảnh, hay đối tượng tác động.

Vậy nếu như chúng ta muốn ứng dụng 6 nhân duyên về Tâm/Ngã Thức vào thuyết Nhân Quả, thì sao? Chúng ta thấy, chỉ còn lại là Ái và Thọ. Trong đó, Ái bao gồm luôn Xúc, Thủ, Hữu, Vô Minh.

Thí dụ, Không có ham muốn từ Ái thì dù có tiếp xúc (Xúc) cũng không có sự phát động cảm giác nào; nếu không có ham muốn thì cũng chẳng cần chiếm hữu (Thủ) để làm gì; nếu không có ham muốn thì đâu muốn chiếm hữu lâu dài làm gì (Hữu), nên chẳng tạo ra Vô Minh. Vì vậy, bốn duyên của Xúc, Thủ, Hữu, Vô Minh là Quả, từ cái Nhân là Ái. Và khi không có Nhân là Ái thì không có Quả của Xúc, Thủ, Hữu, Vô Minh.

Hay, khi chúng ta không muốn mặc áo đẹp, thì cho dù, chúng ta có tiếp xúc, nhìn thấy, bao nhiêu cái áo đẹp, chúng ta vẫn dững dưng, thản nhiên như thường. Cũng vì không có ham muốn, cho nên, dù tiếp xúc, chúng ta cũng chẳng thèm mua chiếc áo đẹp (Thủ) để làm gì, và nếu không có Thủ mua chiếc áo đó thì không có Hữu (sở đắc – được làm chủ đối tượng), và cũng không dùng tiền một cách bừa bãi (Vô Minh), đến khi cần phải sử dụng tiền, lại không có, gây ra khổ đau.

Như vậy, Ái chính là Nhân, và 4 duyên còn lại là Quả. Nếu chúng ta không muốn có Quả, thì chỉ cần không khởi cái Nhân. Hoặc nếu đã có nhân thì trong Quá Trình Phát Triển Nhân Thành Quả, chúng ta có thể thay Quả theo ý chúng ta muốn.

Thí dụ: Chúng ta muốn mặc đẹp, qua sự tiếp xúc với chiếc áo đẹp, mới khích thích cái nhân muốn mặc đẹp. Khi cái nhân muốn mặc đẹp có mặt trong Ngã Thức thì mới khích thích Thủ, muốn chiếm hữu cái áo đẹp để đi khoe khoang với người khác (Hữu), nên đã lấy tiền để trả tiền nhà, mua chiếc áo đẹp (Vô Minh), đến cuối tháng, không có tiền trả tiền nhà, sinh ra lo âu, phiền não.

Như vậy, từ cái Nhân ban đầu, muốn mặc đẹp tạo ra cái Quả từ sự tiếp xúc, cho đến việc mua cái áo bằng tiền trả tiền nhà, tạo ra phiền não, chỉ có thể xẩy ra khi trong quá trình phát triển từ Nhân thành Quả không thay đổi. Nếu trong qúa trình có sự thay đổi, thì sao?

Thí dụ, Cũng là cái nhân ban đầu là muốn mặc đẹp, nhưng khi tiếp xúc (Xúc) với chiếc áo, chúng ta biết được công ty may chiếc áo này bóc lột nhân công, và khởi lòng thương xót những người đang bị bóc lột, nên không mua chiếc áo đó (Thủ), và vì không có Thủ nên không có Hữu và Vô Minh.

Qua hai thí dụ trên, chúng ta thấy, không phải cứ có ham muốn là gây ra khổ đau như thí dụ một, mà cho dù có ham muốn như thí dụ hai, nhưng trong qúa trình phát triển Nhân và Quả, yếu tố Quá Trình Phát Triển mới đóng vai trò quan trọng nhất.

Chư Phật và Bồ Tát chính là những người đã áp dụng qúa trình này để thay đổi nhân quả. Đó chính là tinh hoa, sự khác biệt giữa đạo Phật và các đạo giáo khác; khi cho rằng gieo nhân nào ra quả đó. Và họ dựa trên lý thuyết đó để dẫn chứng, tái sanh luân hồi và nghiệp báo, gây ra biết bao nhận thức sai lầm.

Vậy, nếu chỉ còn là Ái và Thọ, nếu áp dụng theo luật nhân quả, thì sao?

Thì Ái vẫn là Nhân và Thọ vẫn là Quả. Nếu quan sát và nhìn sâu hơn, và đúng hơn, thì chúng ta phải nên nhìn như thế này, vì ham muốn (Ái) là Nhân, tạo ra Quả là, Xúc, Thủ, Hữu, Vô Minh, rồi Quả là Xúc, Thủ, Hữu Vô Minh mới thành Nhân, tạo ra Qủa là Thọ.

Nhưng vì, chúng ta hay dùng cách giản lược trong nhân quả nên chúng ta hay gọi tắt: Ái là Nhân và Thọ là Quả.

Dĩ nhiên, vì luật nhân quả chỉ có hai điều kiện, cho nên, chúng ta mới gom 6 nhân duyên lại, và phân chia thành hai điều kiện cho đúng với luật nhân quả, theo lý thuyết. Nhưng trong ứng dụng thì 6 nhân duyên về Ngã Thức, vừa là Nhân lại là vừa là Quả.

Thí dụ, mua chiếc áo đẹp mặc để đi khoe khoang (Hữu) khi dùng tiền trả tiền nhà (Vô Minh), để rồi đến cuối tháng sinh ra phiền não, lo âu; nghĩa là, Hữu là Nhân và Vô Minh là Quả. Nhưng Vô Minh cũng lại là Nhân khi muốn giải quyết phiền não lo âu tiền nhà, bằng cách, muốn (Ái) đi ăn trộm tiền của người khác (Quả).

Như vậy, từ lý thuyết đến ứng dụng, chúng ta thấy hoàn toàn khác nhau. Vì vậy, khi sử dụng thuyết Nhân Quả, chúng ta phải biết phân biệt, trường hợp đó đang nói về lý thuyết, hay đang nói về ứng dụng. Nếu không phân biệt được, chúng ta sẽ rơi vào sự mâu thuẫn, bế tắc, và từ đó, đưa đến những nhận thức sai lầm gây ra phiền não, khổ đau.

Vậy, nếu chúng ta chia 12 nhân duyên theo cách thức mới, có Thân Thể Thức và Tâm Thức/Ngã Thức thì chúng ta sẽ rơi vào một vấn đề, đó là, Ý Thức và Tiềm Thức sẽ ở đâu? Vì theo Duy Thức học thì Tám thức đều có khả năng, phân biệt, có cảm xúc/giác, và trong Tám Thức thì ba Thức là Ý Thức, Ngã Thức và Tiềm Thức, chính là nơi tác động và phát sinh ra những khổ đau của con người.

Nếu chúng ta quan sát Ngã Thức theo 9 Thức thì Ngã Thức là ông chủ  của Ý Thức, và lợi dụng Tiềm Thức và Thân Thể Thức (trong đó có ngũ thức) để thỏa mãn những cái muốn của Ngã Thức.

Vì vậy, nếu dựa theo cách phân chia của Chín Thức, chúng ta sẽ không rơi vào nhận thức sai lầm rằng: Ý Thức và Tiềm Thức là nguyên nhân gây ra khổ, mà chỉ là công cụ của Ngã Thức mà thôi.

Cho nên, khi chúng ta phân 12 nhân duyên ra làm hai phần: Thân Thể Thức và Tâm Thức/Ngã Thức, thì trong Ngã Thức đã có 5 thức, Ý Thức, và Tiềm Thức để phục vụ cho Ngã Thức rồi. Vì thế, chúng ta không cần mượn Thức của Thân Thể Thức để thay cho Ý Thức của Ngã Thức; trong khi, Ý Thức của Ngã Thức lại hoàn toàn khác với Thân Thể Thức.

Theo chức năng, Ý Thức của Ngã Thức có thể sử dụng sự quan sát, so sánh, phân tích, phỏng đoán, tưởng tượng, nhìn sâu và nông, thuộc về tổng thể; trong khi, Thân Thể Thức chỉ có một số ít chức năng của Ý Thức như so sánh, quan sát, phân tích mà không có sự nhìn nông sâu, hay tưởng tượng, phỏng đoán như Ý Thức, và chỉ sử dụng những chức năng này cho sự sinh hoạt của Thân Thể mà thôi (biệt thể).

Cho nên, những việc gì không liên quan đến thân thể thì Thân thể Thức không thể biết được. Nếu Ngã Thức muốn biết được qua Thân Thể thì Thân Thể Thức phải kết hợp với các Thức khác.

Thí dụ, Ngã Thức muốn ngắm hoa hồng, theo Duy Thức học thì phải nương tựa nơi căn là mắt, trần là hoa hồng, và có Nhãn Thức tham gia thì chúng ta mới nhận ra đó là hoa hồng.

Trên lý thuyết thì đúng, nhưng trên ứng dụng thì chưa chính xác, vì thuyết này, chỉ dựa trên Ngã Thức là chủ thể và đối tượng là hoa hồng. Nhưng lại hoàn toàn không có bất cứ lý luận nào nói về sự tác động của Thân Thể Thức cả.

Nếu theo đúng quy trình, khi Ngã Thức (chủ thể) muốn điều gì đều phải đi qua Thân Thể Thức (đối tượng/chủ thể). Nếu không có Thân Thể Thức hợp tác thì Ngã Thức cũng không đạt được điều ngã Thức muốn, là ngắm hoa hồng (đối tượng).

Chẳng hạn như, Ngã Thức muốn ngắm hoa hồng nhưng Thân thể Thức phát hiện ra, mắt đang bị nhiễm trùng nặng, cho nên, phải nhắm mắt lại để ngăn ngừa các vi trùng khác vào, vậy thì mắt không thể mở ra; cho dù, Ngã Thức có muốn cũng không thể thỏa mãn. Và khi Ngã Thức không thể thỏa mãn thì sinh ra thất vọng, buồn chán.

Chính vì vậy, Ấn Độ giáo mới dựa trên hiện tượng này, và cho rằng, Thân Thể chính là nguyên nhân gây ra đau khổ. Trong khi, đức Phật lại cho rằng, nguyên nhân gây ra cái khổ không phải là Thân, mà do Tâm/ Ngã Thức khởi ham muốn đầu tiên nên khi không được thỏa mãn mới gây ra buồn chán.

Trường hợp thứ hai, như mắt bị cườm khô, khi thủy tinh thể bị mờ đục, gây ra những rối loạn thị giác, thì cho dù có mở mắt, và Thân Thể Thức có kết hợp với Nhãn Thức cũng không thể đưa ra sự nhận dạng chính xác được hoa hồng.

Cũng như, nếu theo lý luận của Duy Thức học, thì Thức là sự phân biệt, nên mới có sự phân chia chủ thể và đối tượng. Cho nên, khi chủ thể tiếp xúc với đối tượng, lại hiểu sai lầm về đối tượng, vì vậy, chủ thể mới sinh ra phiền não đau khổ. Và nhận thức sai lầm đó chính là vô minh. Nhưng không giải thích vô minh từ đâu có.

Nếu chúng ta dựa trên sự phân chia rõ rằng các chức năng của Chín Thức, chúng ta thấy, về chức năng, Ý thức có khả năng quan sát, phân tích, tổng hợp, nhận dạng, so sánh, phỏng đoán, và tưởng tượng, theo chiều nông và chiều sâu.

Khi Ý Thức sử dụng theo chiều nông thì Ý Thức có một tên gọi riêng là Trí, bao gồm: khả năng quan sát, phân tích, tổng hợp, nhận dạng, so sánh, phỏng đoán và tưởng tượng.

Khi Ý Thức được sử dụng theo chiều sâu thì Ý Thức có một tên gọi riêng là Tuệ, bao gồm: khả năng quan sát, phân tích, tổng hợp, nhận dạng, so sánh, nhưng không có sự phỏng đoán, và tưởng tượng.

Như vậy, vô minh phát sinh từ sự quan sát, phân tích theo chiều nông, nên không biết được kết quả chính xác. Vì vậy, mới dùng sự phỏng đoán hay tưởng tưởng, hay còn gọi là vọng tưởng, để đưa ra kết quả mà chưa chắc đúng với sự thật.

Thí dụ: có một người khởi đầu là tâm tốt, thấy lụt lội gây ra thảm cảnh khiến bao người khốn khổ, và muốn đi cứu giúp nên kêu gọi mọi cùng đóng góp. Nhưng người này khi quyên góp xong, vì một lý do nào đó, chưa thể thực hiện được đúng lúc, đúng nơi, đúng chỗ. Thế là, chúng ta lên án, chỉ trích, và đưa ra kết luận rằng, người này là người xấu, kẻ lợi dụng, v.v. Sau khi người đó giải quyết những vấn đề cá nhân xong, người này đem những số tiền quyên góp trao lại cho những người cần giúp đỡ.

Chúng ta cũng tiếp tục lên án, và chỉ trích, và cho rằng, nếu chúng ta không lên tiếng thì người kia sẽ không chịu giao tiền, và có thể sẽ giữ luôn số tiền. Rồi chúng ta còn mạnh miệng biện minh cho rằng, việc chúng ta làm là vì chính nghĩa.

Qua câu chuyện này, chúng ta thấy được sự khác biệt thế nào giữa Trí và Tuệ.

Rõ ràng, chúng ta cũng dùng sự quan sát, phân tích của Ý Thức, qua góc nhìn nông (Trí). Chúng ta chưa hề biết kết quả ra sao, nhưng qua sự phỏng đoán và tưởng tượng, chúng ta đã đưa ra kết quả là người kia sẽ giựt tiền, hay giữ lại tiền cho mình, trong khi, tiền đó là tiền đóng góp của mọi người.

Từ sự phỏng đoán và tưởng tượng này tác động lên trên Ngã Thức, phát sinh ra cảm giác tức giận, và đưa đến hành động là những lời lẽ thóa mạ, chỉ trích, lên án, mà hoàn toàn không đúng với sự thật.

Trong đạo phật, khi chúng ta không có khả năng tiếp xúc với sự thật mà chỉ phỏng đoán hay tưởng tượng ra sự thật thì gọi đó là vô minh, hay những nhận thức sai lầm; và nguyên nhân gây ra sự nhận thức sai lầm đó, bắt đầu bằng sự phỏng đoán và tưởng tượng ra kết quả.

Rồi khi, người kia đã giải ngân số tiền, đến những người cần giúp thì chúng ta lại vì muốn giữ mặt mũi (Thủ), nên lại có tiếp tục những hành động chỉ trích, lên án, và biện minh cho những hành động này là vì chính nghĩa (vô minh).

Còn một người dùng Tuệ, họ không sử dụng phỏng đoán hay tưởng tượng, vì họ sử dụng sự quan sát, so sánh, phân tích theo chiều sâu. Nghĩa là, họ chỉ đưa ra kết luận sau khi họ tiếp xúc được với sự thật. Cho nên, khi nào tiếp xúc với sự thật thì họ mới có hành động.

Trong qúa trình chờ khi tiếp xúc với sự thật, họ không tạo ra cảm giác tức giận nên không có những hành động chỉ trích thóa mạ. Chính vì vậy, họ có cái An dài hơn, và khi biết được sự thật người kia đã giải ngân thì họ dựa vào kết quả, dựa vào sự thật, để đánh giá đúng người kia là ai.

Nếu giải quyết theo Tuệ, có lợi ích đem đến An, thay vì tức giận, vậy, tại sao con người chúng ta lại cứ thích sử dụng Trí hơn Tuệ?

Đơn giản, là vì, khi dùng Tuệ, chúng ta phải quan sát, phân tích theo chiều sâu, cho nên, đứng trên góc độ về thời gian thì dùng Tuệ rất tốn thời gian.

Muốn rút ngắn được thời gian, đức Phật và các Thiền Tổ đã biết sử dụng chức năng của Tiềm Thức, và biến sự quan sát và nhìn sâu thành một thói quen. Khi đã thành một thói quen rồi thì bất cứ môi trường hoàn cảnh nào, các Ngài cũng hành động theo thói quen đó.

Còn những người bình thường như chúng ta, Ngã Thức của chúng ta luôn có sự ham muốn thúc đẩy, nên thiếu kiên nhẫn; vậy nên, chúng ta hay dùng sự phỏng đoán, hay tưởng tượng để tạo ra kết quả.

Cho nên, chúng ta hay sử dụng khả năng phỏng đoán và tưởng tượng từ Trí để thỏa mãn cho Ngã Thức, thay vì ra kết quả thì lại biến thành hậu quả; và từ hậu quả, biến thành nhân, gây ra liên tiếp các hậu quả khác qua sự tiếp tay liên tục của phỏng đoán và tưởng tượng của Trí.

Vì vậy, chúng ta liên tục có những khổ đau; và khi không giải thích được những khổ đau từ đâu đến thì chúng ta đẻ ra thuyết luân hồi sinh tử, kiếp trước và kiếp sau để giải thích cho những việc này.

Nếu đem so sánh cuộc sống ngày xưa với hiện tại, chúng ta thấy, chúng ta càng ngày càng sống hối hả hơn, vì thời gian luôn bị ngắn lại, vì công việc qúa nhiều. Thế nên, chúng ta lại càng sử dụng Trí nhiều hơn và càng tạo ra nhiều sự khổ đau hơn.

Tóm lại, khi chúng ta phân chia 12 nhân duyên thành hai phần, một là Thân, hai là Tâm/ Ngã Thức, thì trong đó, Thân vừa là đối tượng, cũng là chủ thể của Tâm, và ngược lại.

Thí dụ: khi Ngã Thức muốn ăn kem, và Thân Thể Thức đi phục tùng, thì Ngã Thức là chủ thể còn Thân là đối tượng. Nhưng khi Thân ăn kem bị tác động năng lượng, thì Thân là chủ thể và cảm giác đau nơi Ngã Thức thành đối tượng.

Chính vì vừa là chủ thể, và vừa là đối tượng của Thân và Tâm, nên chúng ta thấy rất rõ được lý tương tức giữa Thân và Tâm. Cái này có nên cái kia có, cái này không nên cái kia không.

Nếu như cái Tâm kia Thật có thì cái Thân này cũng Thật có. Và đức Phật đã chứng minh trong sự trải nghiệm của Ngài khi quyết định từ bỏ phương pháp tu tập, xem thân là giả tạm, nên phải ép thân đến cùng cực để đạt được giải thoát.

Chính vì, khi Ngài chấp nhận Thân là Thật mà không phải là giả tạm, nên trong 49 ngày, Ngài mới nhận ra được Chân Tâm của Ngài.

Vì vậy, Ngài mới thuyết câu: Thân Tâm Nhất Như (Thân và Tâm là một, chân thật như vậy) để diễn tả sự chân thật của Thân và Tâm. Và sự chân thật đó, qua 12 nhân duyên được chia làm hai phần rất rõ rệt. Thân có Thật, và hoạt động theo cái Thật của Thân, Tâm cũng có Thật, và sinh hoạt trong cái Thật của Tâm.

Giữa Thân và Tâm, luôn là điều kiện (duyên) của nhau, nên gọi là tương duyên, có sự tương tác, và tương tức, nên khi Thân bị tác động thì ảnh hưởng tới Tâm, và khi Tâm bị tác động thì ảnh hưởng tới Thân (cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không).

Hệ thống của Thân và Tâm là hệ thống vòng tròn, có hai chiều. Nên không có cao hay thấp, cũng không có trọng hay khinh, không có trước hay sau, mà tùy thuộc vào môi trường và hoàn cảnh, tác động vào Thân trước hay Tâm trước.

Thí dụ: Khi cơ thể bị đói nên thiếu năng lượng mới tác động lên Thân Thể Thức (chủ Thể). Thân Thể Thức liền tương tác với Ngã Thức (đối tượng). Ngã Thức liền ra lệnh cho Ý Thức đi tìm các giảp pháp giúp Thân Thể Thức.

Ý Thức sau khi phân tích xong thì đưa trở về cho Ngã Thức trong kho Tiềm Thức. Ngã Thức (chủ Thể) sử dụng những giải pháp của Ý Thức và ra lệnh cho Thân Thể Thức (đối tượng) đến quán ăn, mua thực phẩm ăn, để giải quyết cái đói của cơ thể.

Trên thực tế, khi cơ thể chúng ta bị đói, chúng ta tự động đi đến quán ăn, và mua thức ăn, đó là chuyện bình thường. Nhưng trong quá trình quan sát và nhìn sâu, chúng ta thấy giữa Thân và Tâm/Ngã Thức, liên tục thay đổi ngôi vị, từ chủ thể qua đối tượng, rồi lại từ đối tượng biến thành chủ thể.

Nếu chúng ta không hiểu được sự biến thiên trong qúa trình và nhìn nông theo Trí, khi cho rằng Thân là chủ thể, và Tâm là đối tượng, nên Tâm bị Thân chi phối điều khiển, rồi cho Thân là nguyên nhân gây ra Tâm bị đau khổ, là thiếu chính xác. Vì ban đầu, Thân là chủ thể, nhưng qua quá trình tương tác giữa Thân Thể Thức và Ngã Thức thì Thân lại là đối tượng chứ không phải là chủ thể.

Qua thí dụ này, chúng ta cũng nhận thức được rõ ràng, có sự khác biệt giữa Thân Thể Thức, và Ý Thức của Ngã Thức. Sự khác biệt là, Thân Thể Thức chỉ có khả năng điều khiển các cơ quan trong thân thể hoạt động một cách điều hòa, chứ không biết phân tích, so sánh, tính toán, quan sát, phỏng đoán hay tưởng tượng như Ý Thức, để đi mua thức ăn.

Cho nên, Thân Thể Thức phải thông qua Ngã Thức để sử dụng Ý Thức.Vì phải thông qua Ngã Thức, cho nên, ban đầu, Thân Thể Thức là chủ thể, và Ngã Thức là đối tượng. Nhưng Thân Thể Thức lại biến thành đối tượng, khi Ngã Thức qua Ý Thức có những giải pháp cho Thân Thể Thức hoạt động (chủ Thể).

Nếu trong Ngã Thức, không có mặt của sự ham muốn nào khác, thì Ngã Thức sẽ ra lệnh cho Thân Thể Thức đi mua thức ăn để giải quyết yêu cầu của Thân Thể Thức.

Nhưng nếu Ngã Thức (chủ thể) có ham muốn coi phim, thì Ngã Thức sẽ không đưa ra giải pháp đi mua thức ăn cho Thân Thể Thức (đối tượng), và tiếp tục “ép” Thân Thể Thức phải mở mắt ra cho Ngã Thức coi phim. Thân thể Thức (chủ thể), khi bị Ngã Thức ép thì ra lệnh cho các cơ mắt, võng mô, đang mệt mỏi, ngưng hoạt động, khiến cho sự ham muốn coi phim của Ngã Thức, bị gián đoạn (đối tượng) v.v.

Với các tôn giáo, nếu học thuyết coi Thân là chủ thể gây ra đau khổ cho Tâm thì họ dựa vào trường hợp một khi cho rằng, vì Thân đói, đòi ăn, nên Ngã Thức đã phải chiều theo Thân. Vì vậy, muốn Tâm không chiều theo Thân thì ép Thân không còn sự đòi hỏi. Như vậy, Tâm sẽ trong sáng, thanh tịnh.

Đây là một nhận thức hết sức lệch lạc, vì họ không hiểu được hệ thống vòng tròn, hai chiều, giữa Thân và Tâm. Họ lầm lẫn thành hệ thống đường thẳng một chiều, từ Thân đến Tâm và không có chiều ngược lại.

Còn một số các học thuyết chủ trương về Tâm như trường hợp thứ hai, thì cho rằng Tâm/ Ngã Thức luôn là chủ thể, cho nên, chỉ cần giải quyết những vấn đề đang xẩy ra của chủ thể thì sẽ có được sự giải thoát mà không cần quan tâm đến đối tượng là Thân. 

Nhận thức này cũng không chính xác, và lệch lạc, vì khi họ dựa trên hiện tượng, Ngã Thức muốn coi phim và ép Thân Thể Thức phải làm theo, cho nên, Tâm/ Ngã Thức luôn là chủ thể. Nhưng sự thật, chúng ta thấy, Ngã Thức không phải lúc nào cũng là chủ thể mà Ngã Thức còn là đối tượng nữa.

Tóm lại, khi chúng ta quan sát và nhìn sâu vào 12 nhân duyên, qua sự ứng dụng tinh thần Thân Tâm Nhất Như, chúng ta có thể thiết lập ra được hai phần, về Thân và Tâm/Ngã Thức, rất rõ ràng. Chúng ta nhận thức được sự tương duyên, tương tác, tương tức, giữa Thân và Tâm qua hệ thống vòng tròn hai chiều. Thân và Tâm, vừa là chủ thể/ Nhân và cũng là đối tượng/ Quả, không lệch lạc.

Bây giờ, chúng ta sẽ dựa vào sự quan sát và nhìn sâu vào 12 nhân duyên theo tinh thần Thân Tâm Nhất Như với thuyết Tam Thế Lưỡng Trùng Nhân Quả để xem có những sự khác biệt nào?

“Nhân quá khứ: Gồm Vô minh và Hành, gọi là nhân khổ”

Ngay câu đầu tiên, chúng ta thấy, đã có vấn đề, khi cho rằng nhân khổ.

Thí dụ: chúng ta có nhân là hạt cam, thì sẽ có quả là trái cam. Vậy nếu nói đúng, thì phải gọi là Nhân vô minh và hành, mới tạo ra kết quả là khổ. Chứ không thể gọi đó là nhân khổ được. Ở đây, chúng ta thấy có sự nhầm lẫn giữa cứu cánh, thành phương tiện.

Vấn đề thứ hai, giả dụ như chúng ta cho vô minh và hành là nhân khổ đi, thì có chắc vô minh và hành sẽ đem đến khổ không? Chưa chắc, bởi vì theo tinh thần Thân Tâm Nhất Như, giữa nhân quả theo lý thuyết, và nhân quả theo ứng dụng lại hoàn toàn khác nhau, vì còn có sự tham gia của Quá Trình phát triển từ Nhân đến Quả.

Thí dụ như, cha ông chúng ta ngày xưa, tin rằng: trời tròn đất vuông, đó là những nhận thức hoàn toàn sai lầm, không đúng với sự thật. Hay nói theo đạo Phật, đó là vô minh. Nhưng từ vô minh đó, ông cha chúng ta lại còn hành động bằng cách, tạo ra bánh chưng, hình vuông, tượng trưng cho đất, và bánh dầy, hình tròn, tượng trưng cho trời.

Và từ ngàn xưa cho đến nay, sự vô minh và hành động đó, đâu có đem đến cho cha ông chúng ta ngày xưa, cũng chúng ta ngày nay, đau khổ đâu, mà ngược lại, chúng ta còn rất vui sướng. Nếu vào dịp tết, mà nhà nào không có bánh chưng, bánh dầy thì họ còn đau khổ là đằng khác.

Qua thí dụ này, chúng ta thấy, cái quan trọng không phải là nhân nào, sẽ ra quả đó, mà là qua qúa trình phát triển từ nhân thành quả, đã có sự thay đổi. Câu chuyện về vô minh và hành về bánh chưng, bánh dầy là một minh chứng rõ ràng nhất. Không phải cứ nhân xấu sẽ ra quả xấu, mà còn phải tùy thuộc vào quá trình phát triển có thay đổi không? Cũng như, không phải cứ có vô minh và hành, là thành nhân khổ đâu. Mà có khi là nhân sướng nữa.

Câu tiếp theo, “Do Vô minh khuấy động, trong tâm phát khởi buồn thương giận ghét… Từ sanh tâm khởi ý thiện hoặc ác, đưa đến miệng và thân theo đó tạo nghiệp. Đây là Hành, động cơ chính để tái sinh.”

Rõ ràng, ở đây, học thuyết Tam Thế Lưỡng Trùng Nhân Quả, đang “cưỡng ép” thuyết nhân quả để giải thích tại sao có hiện tượng tái sinh với một sự khẳng định vô minh là yếu tố khởi đầu, nhưng vì không biết vô minh từ đâu phát sinh, cho nên, đã ép vô minh và hành là nhân của qúa khứ.

Trong khi, qua tinh thần Thân Tâm Nhất Như, chúng ta biết, vô minh bắt nguồn từ sự quan sát theo chiều nông, qua việc sử dụng sự phỏng đoán và tưởng tượng, tạo ra kết quả không đúng sự thật. Như vậy, vô minh và hành, không phải chỉ có trong qúa khứ, mà ngay trong hiện tại, cũng có vô minh và hành, nếu chúng ta vẫn tiếp tục sử dụng Trí.

Câu tiếp theo: “Như vậy, vì có vô minh nên có hành động tạo tác, vì có Hoặc nên mới có Nghiệp, mới trở lại lục đạo luân hồi. Chúng sinh bị nghiệp lực lôi dẫn để thọ sanh, khác với các bậc Bồ Tát, cũng lăn lộn vào các cõi, nhưng do nguyện lực. Các Ngài cũng làm tất cả, để độ người; nhưng không thấy có người làm, việc làm và đối tượng làm nên không thuộc về Hành nghiệp.”

Qua đoạn này, chúng ta lại thấy sự cưỡng ép càng mãnh liệt hơn khi dẫn chứng từ vô minh sinh hành, rồi từ hành tạo ta Nghiệp, và chính Nghiệp lực thúc đẩy mới có tái sinh, luân hồi và lục đạo.

Trong phần nhìn sâu vào Thân Thể Thức, chúng ta đã quan sát, và thấy rằng, không có nghiệp lực của kiếp trước tác động lên kiếp sau. Ngã Thức của kiếp sau hoàn toàn mới và được hình thành từ thô sơ, đến “cao cấp” theo thời gian phát triển của thân; và sự phát triển của Ngã Thức của mỗi cá nhân, tùy thuộc vào định nghĩa mà cá nhân đó diễn dịch như thế nào.

Thí dụ, Khi thai nhi trong tuần mười hai mới biết mút tay, hay gọi đây là nơi Ngã Thức bắt đầu có mặt, thì trong qúa trình thai kỳ, sự phát triển của Ngã Thức mới của thai nhi đều do Ngã Thức từ người mẹ cung cấp chứ không phải là nghiệp lực từ kiếp trước.

Sự Thật, bắt đầu từ những ham muốn, cảm xúc/giác của người mẹ, mà Ngã Thức của Thai Nhi mới bắt đầu gia tăng ý muốn (cái muốn ban đầu của Thân Thể Thức chỉ là sự sống còn của Thân Thể) và cảm xúc giác.

Thí dụ như: người mẹ muốn sau này đứa con (Ngã Thức) sẽ là đứa con ngoan, học giỏi, giầu sang, sống có hạnh phúc, an lạc,v.v.

Thai nhi khi nhận được những ý muốn và các nguồn cảm xúc/giác từ người mẹ, cứ tiếp tục phát triển. Qúa trình này gọi là Thai giáo (hướng dẫn, giáo dục, ngay khi còn là thai nhi).

Sau khi đứa bé được sinh ra đời, Ngã Thức về sự ham muốn và cảm xúc/giác vẫn còn ở dạng thô sơ. Đứa bé chẳng hề biết xấu hổ khi đi tiểu tiện hay đại tiện ra tã; hay cũng chẳng có sự giận hờn, buồn bực, khi nghe những lời nói không hay, từ người khác. Vì lúc đó, Ý Thức của đứa bé chưa được phát triển nên chưa học được định nghĩa của các cảm xúc/giác, nên Ngã Thức của đứa bé không có những nguồn năng lượng này. Đây gọi là trạng thái vô cảm.

Cho nên, đứa bé ngoài khả năng khóc khi đói ăn, hay bị hâm thì chỉ có ngủ, và cười, khi có những điều kiện ấm áp và thoải mái.

Khi đứa bé phát triển đến 6 tháng tuổi thì mới có những biểu hiện hơi tinh tế hơn về ý muốn và cảm xúc/giác như, hất tay mẹ khi không thích thức ăn, hay gào khóc giận dữ, khi mẹ không bồng ẵm.

Lúc này, chúng ta có thể thấy, tuy Ý Thức của Ngã Thức đã có mặt từ tháng thứ bẩy nhưng lại không phát triển nhiều, cho đến khi đứa bé khoảng gần một tuổi thì Ý Thức mới bắt đầu phát triển, qua việc học nhận dạng, và học về định nghĩa của các vật xung quanh như: cái này gọi là cái bàn, cái kia gọi là cái ghế v.v.

Sau đó, khi đến tuổi đi học thì đứa bé mới bắt đầu phát triển mạnh về Ý Thức hay kiến thức qua việc học những định nghĩa về mọi sự, mọi vật.

Những định nghĩa này, giúp cho khả năng phân tích, so sánh, quan sát của Ý Thức sẽ dễ dàng hơn, và tinh vi hơn. Chính vì vậy, khi chúng ta có những trình độ kiến thức khác nhau thì sự phân tích, so sánh, v.v. thường cũng khác nhau về độ nông hay sâu.

Tiếc thay, trong quá trình học hỏi, vì ham chơi, nên chúng ta không chịu bỏ thêm thời gian để tìm hiểu đúng định nghĩa; cho nên, chúng ta đã thường dùng sự phỏng đoán, hay tưởng tượng để diễn dịch định nghĩa.

Vì vậy, khi Ngã Thức sử dụng Ý Thức để phân tích nhưng Ý Thức lại dựa trên sự phỏng đoán và tưởng tượng về định nghĩa. Cho nên, khi phân tích và đưa ra kết quả cho Ngã Thức (vốn đã không đúng với sự thật) thì Ngã Thức tin vào những sự phân tích đó và đặt thành tiêu chuẩn cho sự chọn lựa sau này.

Thí dụ: nếu chúng ta hỏi định nghĩa của yêu là gì? thì mỗi người chúng ta lại có cách diễn dịch định nghĩa yêu khác nhau.

Có người định nghĩa, “Tình yêu anh ơi cút bắt trò chơi”. Nếu Ngã Thức của chúng ta tin định nghĩa tình yêu là vậy thì kết quả của tình yêu này có được chung thủy, hạnh phúc lâu dài không? Hay “Yêu là chết trong lòng một ít”. Vậy kết quả như thế nào thì không cần chúng ta phải giải thích, có phải không?

Cho nên, có thể nói, những nhận thức sai lầm, hay vô minh của chúng ta, bắt nguồn từ những định nghĩa được diễn dịch trong Ngã Thức thường thiếu chính xác và không đúng sự thật.

Và những định nghĩa này, lại do chính chúng ta học trong hiện tại chứ chẳng mắc mớ gì đến nghiệp lực của kiếp trước cả. Và vô minh, hành cũng ở ngay kiếp này, chứ không phải ở qúa khứ.

Cho nên, thuyết luân hồi trong lục đạo và tái sanh ở đây, trở nên dư thừa, hay nói chính xác hơn, chính là sản phẩm từ sự phỏng đoán và tưởng tượng.

Vì sao, chúng ta có thể gọi đó là những sảm phẩm vọng tưởng? Vì qua câu kế tiếp, “các bậc Bồ Tát, cũng lăn lộn vào các cõi, nhưng do nguyện lực. Các Ngài cũng làm tất cả, để độ người; nhưng không thấy có người làm, việc làm và đối tượng làm, nên không thuộc về Hành nghiệp.”

Điều này lại càng khập khiễng hơn, khi cho rằng, các bậc bồ tát làm tất cả để độ người, do nguyện lực. Vậy chúng sanh bị cuốn trong luân hồi lục đạo, còn bồ tát thì không; khác biệt chỉ vì, chúng sanh có ham muốn nên tạo ra hành nghiệp, còn bồ tát thay vào đó là nguyện lực cũng có nghĩa là ham muốn, hay nói đúng hơn, là dùng một từ ngữ đẹp hơn, thay thế cho chữ ham muốn thì lại không bị nghiệp báo, hành nghiệp?

Rõ ràng, trong Chín Thức, khi quan sát Ý Thức, trong đó, chúng ta có phần Trí và Tuệ.  Sở dĩ, chúng sanh có sự đau khổ nhiều hơn là vì họ dùng Trí theo dạng nhìn nông. Còn Bồ Tát thì dùng Tuệ theo dạng nhìn sâu. Cho nên, tuy cũng là ham muốn, nhưng qua sự nhìn sâu và nông thì có kết Quả là Bồ Tát, và hậu quả là chúng sanh.

Chúng sanh chỉ cần nhìn sâu thì thành Bồ Tát, và Bồ Tát chỉ cần nhìn nông là thành chúng sanh. Phật và chúng sanh cũng vậy. Rất đơn giản, rất rõ ràng, chẳng mắc mớ gì đến Nghiệp Báo từ kiếp trước cả.

Còn đến đoạn “Quả hiện tại: Gồm Thức, Danh sắc, Lục nhập, Xúc và Thọ, gọi là Quả khổ.

Đối với Thức, chúng ta cần hiểu theo hai nghĩa: Thứ nhất, đó là Thần Thức hay Hương Ấm. Khi thân trước mất đi, thần thức theo nghiệp dẫn để thọ thân sau. Nếu nghiệp không còn, thì thức cũng diệt, nên nói Hành duyên Thức. Nghĩa thứ hai, hiểu theo duy thức học, là Ý thức và Tàng thức. Vì chúng sanh vô minh, quên tánh giác, tạo nghiệp thiện ác mới phát sinh thức. Nếu giác ngộ, nhớ lại tự tánh thanh tịnh bản lai của mình, thì thức không phải bị diệt, mà ngay đó chuyển thành Trí.”

Trong đoạn này, chúng ta càng thấy, sự gượng ép một cách thô bạo, khi cho rằng: “Thức là Thần Thức hay Hương Ấm. Khi thân trước mất đi, thần thức theo nghiệp dẫn để thọ thân sau. Nếu nghiệp không còn thì thức cũng diệt”.

Trong khi, định nghĩa của Thức, đơn giản chỉ là nhận ra, biết ra, phân biệt ra, nhưng qua sự diễn dịch gượng ép để giải thích sự tái sinh đã biến thành thần thức. Và cái thần thức này theo nghiệp để thọ thân sau.

Đứng trên căn bản sự vận hành của Thức, theo Duy Thức học, Thức phải có trước, rồi mới tới nghiệp là hành động theo sau. Khi Thức không khởi thì không có Nghiệp hay hành động. Điều này, các nhà Tâm Lý học hiện đại cũng công nhận rằng: có tư tưởng, rồi mới đưa đến hành động.

Thí dụ: Ngã Thức muốn ăn xoài, rồi ra lệnh cho Thân Thể Thức hoạt động thì mới có hành động dùng tay lấy xoài. Và thân Thể Thức điều khiển miệng ăn xoài.

Nếu khi ăn xoài, mà thân thể bị dị ứng ngứa, khiến cho Ngã Thức có cảm giác khó chịu, thì tạm gọi là đúng, vì nghiệp/ hành động ăn xoài, mới tạo ra sự khó chịu của Ngã Thức. Nhưng hành động ăn xoài, không thuộc về Ngã Thức, mà thuộc về Thân Thể Thức. Và theo qúa trình sinh tử của thân thể, khi thân thể chết, không còn hành động ăn xoài, thì làm sao có cái nghiệp nào để kéo thần thức đi đầu thai.

Và nếu như hành động ăn xoài không gây ra dị ứng trên thân, nên không có cảm giác ngứa nơi Ngã Thức, trong khi, vẫn có ý muốn ăn của Ngã Thức, và cũng có hành động ăn của Thân Thể Thức, nhưng kết quả lại là sự thỏa mãn của Ngã Thức. Vậy thì làm sao giải thích trường hợp này.

Chữ Nghiệp, nên hiểu theo nghĩa đen là hành động, hơn là hiểu theo nghĩa bóng của Áo Nghĩa Thư, cho rằng, nghiệp là động lực đưa đến sự tái sanh. Vì khi Nghiệp là động lực thì động lực này từ đâu ra? Và câu trả lời chắc chắn sẽ từ vô minh ra. Vì Vô minh duyên hành, và hành là động lực, chính vì động lực từ vô minh, nên sinh ra thức, thức cũng là vô minh, v.v.

Trong khi, theo tinh thần Thân Tâm Nhất Như, khi loại bỏ sự tái sinh và luân hồi, chúng ta thấy rất rõ, Hành hay động lực thuộc về Thân Thể Thức, còn động lực trong Tâm/Ngã Thức lại nằm nơi Ái là sự Ham Muốn.

Cũng theo đoạn văn trên, có đoạn: “nghiệp dẫn thức đi thọ thân sau”. Có nghĩa là, cái thân trước đã chấm dứt, và phải mượn thân mới, như mượn xác hoàn hồn. Và cái hồn ở đây, chính là Ngã Thức của kiếp trước. Và động lực của Ngã Thức là Ái mới chính là phần có thể tạo ra sự tái sanh, chứ không liên quan gì đến vô minh hay hành cả.

Đến đoạn thứ hai, “Thức hiểu theo duy thức học, là Ý thức và Tàng thức. Vì chúng sanh vô minh, quên tánh giác, tạo nghiệp thiện ác mới phát sinh thức. Nếu giác ngộ, nhớ lại tự tánh thanh tịnh bản lai của mình, thì thức không phải bị diệt, mà ngay đó chuyển thành Trí.”

Rõ ràng ở đây có sự nhầm lẫn tai hại khi cho rằng Thức là Ý Thức và Tàng Thức, và hai thức này qua việc tạo thiện, ác mới tạo ra thức. Thật ra, tạo ra thiện ác là từ Ngã Thức, vì trong Ngã Thức có chức năng của Đạo Đức, được chia làm ba phần, gồm: Thiện, Ác, và Trung Tính, chứ không liên quan gì đến Ý Thức và Tiềm Thức. Hơn nữa, ở đây đề cập đến tánh giác, vậy tánh giác là tánh gì?

Nếu chúng ta dựa theo Chín Thức, chúng ta biết tánh giác là Tuệ Giác là sự quan sát, phân tích theo chiều sâu, và vô minh là Trí giác là nhìn nông, cộng thêm phỏng đoán và tưởng tượng.

Vì vậy, nếu nói đúng hơn, Thức phải chuyển thành Tuệ chứ không thể thành Trí, khi Giác Ngộ.

Và một người muốn Giác Ngộ thì phải dùng Tuệ nơi Ý Thức, nếu không thì Tuệ và tánh Giác ở đâu ra?

Đến đoạn: “Lục Nhập là sáu căn duyên với sáu trần. Khi đã ra đời, sáu căn tiếp xúc với sáu trần phát sinh sáu thức. Các căn càng trưởng thành càng dính mắc với trần cảnh, tác động qua lại tạo nên Xúc. Xúc là sáu căn tiếp xúc với sáu trần.

Khi có tiếp xúc giao thoa giữa căn và trần, cảm thọ phát sinh, nên xúc duyên Thọ. Thọ gồm ba loại: Khổ, lạc và trung tính. Cần phân biệt cảm thọ vui (lạc thọ) của phàm phu, với niềm vui của các bậc đã giác ngộ. Lạc thọ hình thành do căn dính mắc theo trần, khi hình thành rồi trở lại chi phối thân và tâm.”

Đây là một nhận thức cực kỳ sai lầm khi cho rằng sáu căn càng trưởng thành càng dính mắc với trần cảnh và khi hình thành rồi trở lại chi phối thân và tâm.

Khi quan sát năm căn là: Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân; và năm trần là: Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc; và năm thức là: Nhãn Thức, Nhĩ Thức, Tỷ Thức, Thiệt Thức và Thân Thức,  thì cả năm căn và năm thức đều lệ thuộc vào Thân Thể Thức chứ không phải từ Ngã Thức.

Nếu Ngã Thức muốn sử dụng năm căn hay năm thức này, đều phải qua sự “cho phép” của Thân Thể Thức. Nếu như không có sự tương tác giữa Thân Thể Thức với Ngã Thức thì năm căn hay Thức này không thể hoạt động được.

Cho nên, khi cho rằng ngũ căn càng trưởng thành, càng dính mắc với trần cảnh, rồi trở lại chi phối thân và tâm là hoàn toàn thiếu chính xác. Chi Phối Thân và Tâm chính là Ái từ Ngã Thức, và Hành của Thân Thể Thức.

Thí dụ: mắt (căn) mở, thấy hoa hồng (trần), và qua Nhãn Thức biết là hoa hồng. Nếu như không có Ngã Thức muốn nhìn hoa hồng, và không có tương tác với Thân Thể Thức, thì cho dù, có trần là hoa hồng, nhưng mắt (căn) không mở, nên không có Nhãn Thức thì căn mắt và Nhãn Thức làm sao chi phối Thân và Tâm? Và nếu Thân thể Thức có mở mắt (căn), nhìn hoa hồng (trần), và nhận dạng ra hoa hồng (Nhãn Thức), mà lúc đó, Ngã Thức đang muốn ăn thì dù có căn, có trần, có nhận dạng, cũng không ảnh hưởng hay chi phối gì đến Thân và Tâm cả.

Cái sai lầm của các nhà Duy Thức, khi cho rằng, Tám Thức đều hoạt động độc lập, có những chức năng gần giống nhau, và chỉ có sự tương tác với nhau. Nhưng sự thật, chỉ có Ngã Thức, và Thân Thể Thức, mới là chủ nhân ông. Ngã Thức làm chủ về Tâm Lý, và Thân Thể Thức làm chủ về Sinh Vật Lý. Còn lại các thức khác chỉ là công cụ cho hai thức này sử dụng.

Nếu đem từng phần trong bài viết này để quan sát sự khác biệt giữa Tam Thế Lưỡng Trùng Nhân Quả và tinh thần Thân Thân Nhất Như thì rất dài, và có thể, phải nói đến cả mươi ngày, hay phải viết năm ba cuốn sách.

Cho nên, chúng ta sẽ dừng lại ở đây. Với những phần cơ bản mà tôi đã chia xẻ với hai bạn, thì hai bạn có thể dựa trên đó để kiểm nghiệm và thực nghiệm qua chính bản thân mình.

Hai bạn nên nhớ, chỉ khi hai bạn có sự trải nghiệm của chính hai bạn và có thể tiếp xúc đúng với sự thật thì những nhận thức của bạn mới có giá trị. Nếu không, đó chỉ là mớ kiến thức suông, không có bất cứ giá trị nào, cho dù, đó là những trải nghiệm của người khác khi họ tiếp xúc với sự thật.

Cháu rất đồng ý với chú, đây qủa thật là một đề tài rất lớn, không thể nào chỉ trong một buổi chiều mà cháu và anh Nhật Minh có thể hiểu sâu sắc được.

Nếu lúc đầu, khi đọc cho chú nghe, cháu còn mù mịt, thì bây giờ, cháu đã hiểu được trọn vẹn những phần căn bản mà chú đã chia xẻ.

Chúng cháu sẽ rất nghiêm túc trong việc kiểm nghiệm và thực nghiệm đề tài này. Khi nào chúng ta có đủ duyên, chúng cháu sẽ chia xẻ với chú. Diệu Hiền nói.

Người bảo vệ công viên đi qua, thấy ba chú cháu vẫn còn đang ngồi nên nhắc nhở công viên sắp đóng cửa.

Cả ba chú cháu cùng đứng dậy, mỉm cười, chào nhau, hẹn gặp chiều mai.

CHÍN THỨC

album-art

00:00

TẢI MP3 – DIỆU LIÊN
TẢI MP3 – JOYCE NGUYỄN – THANH KIM

Chiều nay, Diệu Hiền không đi cùng với Nhật Minh, vì Nhật Minh bận đi họp. Đi với Diệu Hiền là Hoàng Trang, người bạn thân, cùng nghành về Tâm Lý.

Như một thói quen, vừa gặp ông chú, Diệu Hiền kéo tay Hoàng Trang ngồi xuống, rồi xà xuống, ngồi bên cạnh ông chú, nói:

Chú ơi, hôm nay cháu dẫn người bạn thân Hoàng Trang, cũng là bác sĩ tâm lý, đến để nghe chú chia xẻ về Chín Thức mà những lần trước chú đã nói qua.

Hoàng Trang, cúi đầu chào ông chú, nói:

Cháu rất hân hạnh được gặp chú.

Ông chú nhìn Hoàng Trang, mỉm cười, nói:

Tôi cũng rất hân hạnh được gặp bạn.

Đợi ông chú và Hoàng Trang chào hỏi xong, Diệu Hiền lên tiếng:

Thưa chú, nói đến nghành Tâm Lý học, thì không thể không nhắc đến nhà Phân Tâm học nổi tiếng, Sigmund Freud, là cha đẻ của thuyết phân tâm. Những công trình nghiên cứu của ông, đã ảnh hưởng sâu rộng đến rất nhiều ngành khoa học như: Tâm Lý học, Xã Hội học, Nhân Chủng học, Văn học, và thậm chí, đến cả nghệ thuật.

Theo học thuyết của Freud, ông tin rằng: hành vi và tính cách được tạo thành từ sự tương tác liên tục, và độc nhất giữa những nguồn sức mạnh tâm lý, vận hành ở 3 cấp độ nhận thức khác nhau: Tiền Ý Thức, Ý Thức Và Vô Thức.

Theo định nghĩa của ông:

“Tiền Ý Thức, là Thức bao gồm tất cả những thứ tiềm ẩn có thể được đưa đến vùng Ý Thức.

Còn Ý Thức, là Thức bao gồm tất cả những suy nghĩ, ký ức, cảm giác và mong muốn, mà ta nhận thức được một cách rõ ràng, vào bất kỳ thời điểm nào. Ta có thể nghĩ đến, và trò chuyện về những thứ kể trên theo lý trí.

Ý Thức còn bao gồm cả ký ức, không phải lúc nào ký ức cũng nằm ngay trong vùng Ý Thức, nhưng nó có thể được triệu hồi dễ dàng, vào bất kỳ thời điểm nào, và giúp ta nhận thức nó rõ ràng.

Và Vô Thức là một “kho tàng” các cảm xúc, suy nghĩ, ham muốn, và ký ức nằm bên ngoài vùng kiểm soát của ý thức. Hầu hết các nội dung của vùng vô thức, đều khá khó chịu và không được chủ thể chấp nhận, như cảm giác đau đớn, lo âu hay xung đột.

Theo Freud, tâm trí vô thức, không ngừng ảnh hưởng lên hành vi, và trải nghiệm của con người, thậm chí, con người còn không biết đến sự tồn tại của nguồn sức mạnh này. Vô thức có thể bao gồm cả những cảm xúc bị đè nén, những ký ức, thói quen, suy nghĩ, khao khát, và phản ứng ẩn giấu kỹ càng.”

Theo như chú, có sự khác biệt nào giữa Tiền Ý Thức, Ý Thức, và Vô Thức của Freud, với Chín Thức mà chú hay quan sát về sự vận hành không, thưa chú? Diệu Hiền hỏi.

Có lẽ, từ trước đến nay, tôi hay nói về Chín Thức, nhưng chưa trình bầy trọn vẹn những chức năng của từng Thức, và sự ứng dụng của từng Thức như thế nào? Cho nên, chiều nay, tôi sẽ chia xẻ với hai bạn những nét căn bản mà hai bạn cần hiểu và biết về sự vận hành của các Thức ra sao.

Trong kinh điển của đạo Phật, có một môn học gọi là Duy Thức học (Duy = chỉ có, Thức= Nhận ra), có nghĩa là, ngoài biểu tượng của Thức ra thì không có gì khác. Mục đích của môn học này, cũng như khoa Phân Tâm học của Freud, là đi tìm hiểu và phân tích về Thức hay Tâm.

Thiền sư Nhất Hạnh, sau này, không gọi là Duy Thức học, mà Ngài gọi là Duy Biểu học, có nghĩa là, chỉ có sự biểu hiện ra bên ngoài mà thôi.

Dù là tên gọi có khác nhau, nhưng cả hai, đều nhấn mạnh đến 8 Tâm Vương, 51 Tâm Sở, 11 Sắc Pháp, 24 Tâm Bát Tương Ưng Hành Pháp, Và 6 Vô Vi Pháp. Tổng cộng thành 100 Thức.

Có thể nói, nếu cần mổ xẻ về Tâm hay Thức của con người thì chưa có học thuyết nào có thể đào sâu vào từng vùng của Thức hay Tâm như Duy Thức học.

Theo sự trải nghiệm của tôi, chúng ta chỉ cần quan sát và nhìn sâu vào trong Tám Tâm Vương, hay Tám Thức, và nắm vững được nền tảng căn bản về các chức năng của Tám Thức, cũng như sự vận hành, tương tác giữa Tám Thức là đủ.

Vậy Tám Thức đó là Thức nào?

Tám Thức đó, bao gồm: Nhãn Thức, Nhĩ Thức, Tỷ Thức, Thiệt Thức, Thân Thức, Ý Thức, Ngã Thức, và Tiềm Thức hay Căn Bản Thức.

Theo định nghĩa, Thức là nhận ra, biết ra. Cho nên, mỗi Thức sẽ có những chức năng nhận ra, biết ra, khác nhau.

Về Nhãn Thức, Nhãn tức là mắt, Nhãn Thức là sự nhận ra, biết ra, qua việc sử dụng cơ quan là Mắt. Trong Tâm Lý học, hay Sinh Vật học thì gọi Mắt là Giác Quan, có nghĩa là, qua cơ quan này có thể nhận ra, hiểu ra (Giác). Cho nên, khi chúng ta dùng từ Giác Quan theo hiện đại thì đồng nghĩa với Nhãn Thức theo Duy Thức học.

Tương Tự như vậy, với bốn thức khác: Nhĩ Thức, Tỷ Thức, Thiệt Thức, Thân Thức. Ngày nay, chúng ta quen gọi là Ngũ Giác Quan hay 5 Giác Quan.

Về chức năng, Nhãn Thức chỉ có khả năng phân biệt về mầu sắc (xanh, đỏ, tím, vàng…), hình dạng (cao, thấp, vuông, tròn…), trạng thái (đi, đứng, nằm, ngồi…),v.v. qua mắt.

Về giới hạn, ngoài những hình ảnh qua sự tiếp xúc với mắt, Nhãn Thức không thể qua mắt để biết được âm thanh, mùi hương, mùi vị, hay sờ chạm như thế nào.

Về ứng dụng, Nhãn Thức luôn luôn chịu sự điều khiển từ Ngã Thức, Thân Thể Thức và Ý Thức.

Tương tự như vậy, với bốn thức khác. Về chức năng và giới hạn:

Nhĩ Thức, chỉ có khả năng phân biệt âm điệu, cường độ, âm sắc qua Tai, nhưng không thể phân biệt được hình ảnh hay mùi vị v.v.

Tỷ Thức, chỉ có khả năng biết được mùi đó là, thơm, hôi hay mùi trung tính (không thơm – không hôi) qua Mũi, nhưng không thể dùng Mũi để phân biệt âm thanh hay hình ảnh, v.v.

Thiệt Thức, chỉ có khả năng nếm được 6 vị như: Chua, cay, mặn, ngọt, đắng, bùi, qua Lưỡi nhưng không thể nếm được hình ảnh hay âm thanh v.v.

Thân Thức, chỉ có khả năng phân biệt được: mềm mại, thô nhám, nóng, lạnh, nặng, nhẹ, v.v, khi thân thể tiếp xúc với mọi vật. Nhưng không thể dùng thân thể để phân biệt mùi hay vị, v.v.

Về ứng dụng, cả năm Thức đều luôn luôn chịu sự điều khiển từ Ngã Thức, Thân Thể Thức, và Ý Thức.

Thí dụ, khi Ngã Thức muốn thấy một hình ảnh nào đó thì sẽ tác động lên Thân Thể Thức. Thân Thể Thức sẽ tác động lên não bộ và hệ thống thần kinh. Não bộ nhận lệnh từ Thân Thể Thức mới điều khiển mắt hướng về vật đó, và Nhãn Thức mới nương nhờ nơi Mắt để phân biệt và nhận dạng.

Sau khi đã nhận dạng hình ảnh theo ý muốn của Ngã Thức xong thì tùy theo tình trạng lúc đó Ngã Thức muốn gì. Nếu Ngã Thức không muốn nhìn hình ảnh đó nữa thì Nhãn Thức sẽ gởi tất cả những dữ liệu về hình ảnh và phân biệt về kho Tiềm Thức để lưu giữ.

Bốn Thức khác như: Nhĩ, Tỷ, Thiệt, và Thân, cũng đều có sự vận hành giống như Nhãn Thức, và chịu sự chỉ huy trực tiếp từ: Ngã Thức, Thân Thể Thức, hay Ý Thức.

Năm Thức này, vì khả năng phân biệt ở dạng thô sơ, nên không có sự phân tích sâu rộng như Ý Thức, cũng không có khả năng ghi nhớ và lưu giữ như Tiềm Thức, cũng không có khả năng phát sinh ra cảm xúc/ giác như Ngã Thức.

Cho nên, có thể nói, sự vận hành của năm thức này, cũng không quan trọng lắm. Cho dù, có bị khiếm khuyết một vài thức thì cũng không ảnh hưởng gì đến khả năng giác ngộ của con người.

Thí dụ, một người dù bị mù, khiếm thị, nên cũng khiếm khuyết về Nhãn Thức., nhưng không hề ảnh hưởng đến khả năng giác ngộ của người này. Tương tự với bốn thức kia.

Ba Thức sau đây, mới là cốt lõi, quyết định con người sống trong sự khổ đau hay an vui.

Thức thứ sáu: Ý Thức.

Về chức năng, Ý thức có khả năng quan sát, phân tích, tổng hợp, nhận dạng, so sánh, phỏng đoán, và tưởng tượng theo chiều nông và chiều sâu.

Khi Ý Thức sử dụng theo chiều nông, Ý Thức có một tên gọi riêng là Trí, bao gồm: khả năng quan sát, phân tích, tổng hợp, nhận dạng, so sánh, phỏng đoán và tưởng tượng.

Khi Ý Thức được sử dụng theo chiều sâu, Ý Thức có một tên gọi riêng là Tuệ, bao gồm: khả năng quan sát, phân tích, tổng hợp, nhận dạng, so sánh, nhưng không có sự phỏng đoán, và tưởng tượng.

Về ngôn ngữ: là lời nói, và chữ.

Về bộ nhớ: ngắn hạn

Về Cảm Xúc Giác: không có cảm xúc/giác

Về giới hạn: Ý Thức không hề có sự giới hạn như năm Thức mà Ý Thức có thể tương tác với tất cả các Thức, trong đó bao gồm cả năm Thức, Ngã Thức, Thân Thể Thức, và Tiềm Thức.

Với khả năng phân tích, tổng hợp, quan sát và phỏng đoán, Ý Thức có thể kết hợp với năm Thức, và Tiềm Thức để tìm hiểu, phân tích, nhận dạng, so sánh, theo ý muốn của Ngã Thức.

Thí dụ: Khi Ngã thức muốn ngắm hoa hồng trong bồn hoa, Ngã Thức liền ra lệnh cho Thân Thể Thức. Thân Thể Thức ra lệnh cho não bộ, hệ thống thần kinh, và cơ quan mắt, để mở mắt ra, và Thân Thể Thức cũng kết hợp với Nhãn Thức để nhận diện đường đi, sau đó, tác động đến đôi chân để di chuyển.

Khi đôi chân di chuyển đến bồn hoa, và dừng lại theo ý muốn của Ngã Thức, thì Nhãn Thức, lúc đó, qua mắt, hướng về những đóa hoa hồng, mà không phải các hoa khác.

Nếu đến đây, Ngã Thức không muốn biết thêm về hoa hồng nữa thì Nhãn Thức sẽ gởi những dữ liệu như: mắt nhìn đường đi thế nào, hoa hồng thế nào.v.v., và Thân Thể Thức sẽ gởi những dữ liệu như cơ bắp hoạt động thế nào, bước đi thế nào, và dừng lại thế nào, v.v. về kho Tiềm Thức để lưu giữ.

Nếu Ngã Thức, sau khi ngắm hoa hồng, nhưng lại muốn biết về mùi thơm như thế nào thì Ngã Thức ra lệnh cho Thân Thể Thức hoạt động. Thân Thể Thức sẽ tác động đến Mũi và Tỷ Thức để phân biệt mùi hoa hồng là thơm hay hôi, hay không thơm, không hôi.

Nếu như Ngã Thức không thỏa mãn, muốn biết sự khác biệt giữa hoa hồng với các hoa khác như thế nào thì Ngã Thức mới ra lệnh cho Ý Thức hoạt động.

Ý Thức khi nhận lệnh từ Ngã Thức mới dùng đến khả năng quan sát và phân tích, v.v. Khi sử dụng đến khả năng quan sát và phân tích thì Ý Thức tác động đến Thân Thể Thức điều khiển mắt và Nhãn Thức, nhìn chăm chú vào từng loại hoa để phân biệt về hình dáng, mầu sắc, và đưa những dữ liệu đó về kho Tiềm Thức. Ý Thức cũng khích hoạt Thân Thể Thức kết hợp với Tỷ Thức hoạt động để ngửi từng mùi hoa. Khích hoạt Thiệt Thức để nếm vị của các loại hoa, và khích hoạt Thân Thức, dùng tay để sờ mó các loại hoa. Hoặc có thể sử dụng thêm Nhĩ Thức để nghe âm độ của các loại hoa, qua tác động của gió.

Sau khi có đủ những dữ liệu của sáu Thức gởi về kho Tiềm Thức để lưu giữ, Ý Thức mới dùng những dữ liệu được lưu giữ trong Tiềm Thức qua sự tiếp xúc mới nhất của sáu Thức, cũng như, những dữ liệu của các loại hoa khác đã được lưu giữ trong quá khứ để phân tích, tổng, hợp, so sánh, v.v.

Nếu như Ngã Thức lúc đó nẩy sinh cảm giác nóng nảy, không muốn chờ đợi lâu, Ý Thức sẽ sử dụng Trí, để phân tích phiến diện, qua loa, rồi dùng sự phỏng đoán, tưởng tượng, không kiểm chứng để đưa ra kết quả.

Vì bộ nhớ của Ý Thức thuộc về ngắn hạn, cho nên, Ý Thức sẽ gởi tất cả sự phân tích và kết quả về kho Tiềm Thức để lưu giữ.

Kho Tiềm Thức sau khi nhận sự phân tích, và kết quả từ Ý Thức, liền sắp xếp và liên kết các dữ liệu lại với nhau. Vì đây là những dữ liệu liên quan đến Ngã Thức, nên những dữ liệu này được sắp xếp vào kho của Ngã Thức.

Ngã Thức khi nhận được kết quả phân tích này, lúc đó, sẽ khởi sinh các cảm giác khác nhau như: ưa hoa này, ghét hoa kia, hay tin hoa này là may mắn, hoa kia là xui xẻo, hay thích mùi hoa này, ghét mùi hoa kia v.v.

Những cảm giác hay cảm xúc đó, được duy trì trong Ngã Thức, cho đến khi, Ngã Thức lại khởi một ý muốn khác. Khi Ngã Thức phát khởi ý muốn khác thì những sự yêu, ghét hoa này, hay hoa kia, thích mùi hoa này, hay hoa kia sẽ được đưa về kho của Ngã Thức trong Tiềm Thức để lưu giữ, và chúng ta quen gọi đó là kinh nghiệm của cá nhân.

Khi trả những cảm xúc/giác về kho Tiềm Thức thì Ngã Thức cũng sắp xếp những thứ tự ưu tiên của các cảm xúc/giác theo ý Ngã Thức muốn.

Còn nếu như, Ngã Thức không phải là một người bình thường, mà lại là một nhà nghiên cứu về thực vật thì Ngã Thức sẽ sử dụng Tuệ để quan sát, phân tích và nhìn sâu.

Nếu như trong kho dữ liệu của Tiềm Thức không có đầy đủ các thông tin hay dữ liệu về hoa thì người đó sẽ đi tham khảo sách vở, hay tìm kiếm trên internet tất cả những thông tin, và dữ liệu liên quan đến các loại hoa mà Ngã Thức muốn biết.

Quá trình này, gọi là nâng cao trình độ kiến thức, học hỏi, hay nghiên cứu. Sau khi có đầy đủ các thông tin và dữ liệu thì mới bắt đầu phân tích kỹ lưỡng, qua kiểm chứng, thực chứng, xem có đúng với sự thật chưa. Nếu chưa đúng với sự thật, Ý Thức (Tuệ) lại tiếp tục, tìm kiếm, kiểm chứng, thực chứng, cho đến khi tiếp xúc được với sự thật. Khi đã có đủ dữ liệu, và đúng sự thật rồi thì mới đưa ra kết quả.

Khi Ngã Thức nhận được kết quả thì sinh ra cảm giác thỏa mãn, tự tin, tự hào, và vui vẻ.

Trên căn bản, nếu đem so sánh ba thức: Ý Thức, Ngã Thức và Tiềm Thức thì Ý Thức được phát triển rất chậm vào khoảng tháng thứ sáu hay bẩy của bào thai và tiếp tục được nâng cao và trau dồi, qua quá trình học tập và nghiên cứu khi hình thành con người hoàn chỉnh.

Thức Thứ Bẩy: Ngã Thức hay Bản Ngã, hay Cái Tôi

Về chức năng Ngã Thức là thành trì trú ngụ và phát sinh Cảm Xúc/Giác, nơi khởi đầu phát sinh ra ý niệm, tư tưởng, nơi sản xuất ra khổ đau và An Lạc, nơi duy trì đạo đức, danh dự, và niềm tin qua kinh nghiệm tích lũy, v.v.

Đặc biệt, về chức năng Đạo Đức trong Ngã Thức được chia làm ba phần riêng biệt, gồm cặp đối lập: Thiện-Ác, Tích Cực-Tiêu Cực, v.v, và phần thứ ba, thuộc về Trung Tính, không Thiện, không Ác.

Trong tất cả Chín Thức, về Tâm Lý, Ngã Thức là chủ nhân ông của Ý Thức. Ngã Thức có thể sử dụng 5 thức qua sự tương tác với Thân Thể Thức để phục vụ cho sự ham muốn của Ngã Thức. Riêng với hai thức: Thân Thể Thức và Tiềm Thức, Ngã Thức không thể sai sử, hay điều khiển, nhưng lại biết lợi dụng, hay sử dụng những chức năng của Thân Thể Thức và Tiềm Thức để phục vụ cho những gì Ngã Thức muốn.

Về ngôn ngữ: năng lượng.

Về bộ nhớ: sử dụng bộ nhớ lâu dài của Tiềm Thức

Về Cảm Xúc Giác: là trung tâm phát khởi ra cảm xúc/giác

Về khả năng phân tích: chỉ có khả năng khởi niệm và sử dụng Ý Thức để phân tích, suy nghĩ.

Về Quyền chọn lựa: Chỉ Ngã Thức, Thân Thể Thức, và Ý Thức có quyền chọn lựa, còn sáu thức khác thì không.

Về giới hạn, Ngã Thức không hề có sự giới hạn như năm thức, Ngược lại Ngã Thức có thể sai sử Ý Thức, và lợi dụng Tiềm Thức, và Thân Thể Thức (cùng 5 thức) để duy trì, nuôi dưỡng những ham muốn, những kinh nghiệm tích lũy có lợi cho Ngã Thức.

Nếu đem so với Ý Thức và Tiềm Thức thì Ngã Thức bắt đầu phát triển vào tháng thứ ba, hay thứ tư, khi bào thai đã bắt đầu có hình tướng và tiếp tục phát triển đến cuối đời.

Thức Thứ Tám: Tiềm Thức/ Tàng Thức hay Căn Bản Thức.

Theo Duy Thức học, Thức thứ Tám được gọi là Căn Bản Thức, bởi vì, đây là Thức xuất hiện đầu tiên khi tinh trùng của người cha kết hợp với trứng của người mẹ tạo thành hợp tử đầu tiên.

Các nhà khoa học ngày nay, vẫn không thể giải thích được lý do tại sao, từ một hợp tử đầu tiên, tự nó lại sinh ra gấp đôi, rồi lại tiếp tục giản phân, gia tăng theo cấp số nhân, cho đến khi tạo ra hình tướng của hài nhi và thành một con người hoàn chỉnh sau khi sinh.

Theo Duy Thức học, chính là nhờ sự có mặt của Thức Căn Bản hay Tàng/Tiềm Thức đã giúp cho hợp tử phát triển theo một lập trình, thuộc về Nhân Tướng Bản Thể.

Đứng trên góc độ của Bản Thể, thì Bản Thể hay Nguyên Thể là nơi dung chứa tất cả các hạt nguyên tử, hạt hạ nguyên tử, năng lượng, và sự co giãn của khoảng Không.

Chính vì, có sự co giãn của khoảng Không, nên tạo ra sự lệch chuyển của những nguồn năng lượng; và các hạt nguyên tử va chạm vào với nhau, nên đã tạo ra sự khác biệt của các Tướng khác nhau, trong đó, bao gồm cả những động vật hữu tình, vô tình, tinh tú, hay vũ Trụ.

Tuy sự cấu tạo hình tướng khác nhau, qua sự khoanh vùng co giãn của khoảng Không, nhưng trong Nguyên Thể, các hạt Nguyên Tử, hay hạt hạ Nguyên Tử, vẫn có sự cấu tạo giống nhau. Vì vậy, Căn Bản Thức hay Tiềm Thức của con người hay con thú, là hữu tình hay vô tình, đều có chung một Nguyên Thể hay Bản Thể.

Đứng trên góc độ về con người thì chúng ta nằm trong Nhân Tướng Bản Thể. Căn bản Thức chính là nguồn năng lượng của Nhân Tướng Bản Thể được lập trình theo sự kết nối, va chạm của các hạt nguyên tử lại với nhau trong khoảng Không co giãn.

Chính vì vậy, khi hợp tử được thành hình thì nguồn năng lượng của Căn Bản Thức được khởi sinh và bắt đầu hoạt động theo lập trình tướng người.

Vì là nguồn năng lượng đầu tiên tạo ra con người, cho nên, Căn Bản Thức cũng là nơi khởi đầu mạng sống của con người, và sau đó, chuyển qua Thân Thể Thức.

Vì Căn Bản Thức là nơi khởi đầu của sự sống (tổng thể), và chuyển qua Thân Thể Thức (biệt thể) để duy trì sự sống của cá thể, nơi mà Ngã Thức nương nơi Thân Thể để sinh hoạt.

Cho nên, ngoài chức năng khởi đầu tạo ra sự sống, kết hợp chặt chẽ với Thân Thể Thức để duy trì sự sinh hoạt của thân mạng, Căn Bản Thức còn những chức năng như sau:

  • Kho chứa tất cả các thông tin, dữ liệu từ 5 giác quan, Ý Thức, Thân Thể Thức, và Ngã Thức
  • Duy trì bộ nhớ lâu dài, và nối kết các thông tin dữ liệu, có khả năng sáng tạo
  • Đòi hỏi những thông tin, dữ liệu, hoặc vấn đề chưa được giải quyết triệt để, để tạo sự hoàn chỉnh
  • Cung cấp thông tin liên tục cho Ngã Thức
  • Ngôn ngữ Chính: Hình Ảnh
  • Chính vì, không có các chức năng như phân tích, tính toán, tổng hợp, v.v của Ý thức, nên Tiềm Thức không có thể phủ định, không có thiện ác, không có đúng sai, cũng như không có qúa khứ và tương lai. Thời gian hoạt động mạnh nhất của Tiềm thức là khi Ngã Thức và Ý Thức không hoạt động.
  • Không có cảm xúc/giác

Vì vậy, ngoài tên gọi là Căn Bản Thức, còn có những tên gọi khác như Tiềm/ Tàng Thức (vì là thức ở ẩn bên trong).

Ngoài Tám Thức theo Duy Thức học, thì còn có một Thức vô cùng đặc biệt, đó là: Thức thứ Chín, Thân Thể Thức. Thức này, hoàn toàn không có trong Duy Thức học, nhưng trong 12 nhân Duyên chúng ta sẽ thấy được “bóng dáng” của Thức này.

Thân Thể Thức là Thức liên quan đến quá trình cấu tạo và sinh diệt thuộc về thân thể của con người, trong đó, bao gồm: tất cả các bộ phận lớn như: lục phủ, ngũ tạng, não, hay đến những phần nhỏ như, giao tử, DNA, RNA, tế bào v.v. có chức năng tạo ra sự sinh diệt của các tế bào, và duy trì sự sinh hoạt hài hòa của thân mạng.

Theo Cơ Thể học, Thân Thể Thức của một cá thể, còn được gọi là xung động nội môi (homeostatic impulse). Nhiệm vụ của Thân Thể Thức là, giữ cho thân nhiệt của cá thể đó luôn ở 98,6 độ F (37 độ C). Đồng thời, giúp cho cơ thể của cá thể đó có thể thở đều đặn, và giữ cho tim của cá thể đó đập ở một nhịp độ nhất định, v.v.

Ngoài ra, Thân Thể Thức còn thông qua hệ thống thần kinh tự trị (autonomic nervous system) của cá thể để điều khiển và duy trì sự cân bằng giữa hàng trăm, ngàn chất hóa học trong hàng tỷ tế bào của cá thể được hoạt động hài hòa, hoàn hảo, trong hầu hết thời gian.

Thân Thể Thức có sự liên kết chặt chẽ với tất cả các Thức, bao gồm: Ngã Thức, Ý Thức, Tiềm Thức và 5 Thức. Ngoài ra, còn có các là chức năng khác như:

  • Kho chứa tất cả các thông tin, dữ liệu của hợp tử, DNA, RNA, tế bào, v.v.
  • Quan sát, phân tích, so sánh, tổng hợp, phỏng đoán
  • Tiếp nhận các chất dinh dưỡng từ thức ăn, chuyển hóa các chất dinh dưỡng đó thành năng lượng, và thực hiện các chức năng chuyên biệt.
  • Duy trì bộ nhớ lâu dài, và nối kết các thông tin dữ liệu, có khả năng sáng tạo
  • Tương tác thông tin và dữ liệu liên tục cho Ngã Thức.
  • Là chủ nhân của 5 thức
  • Ngôn ngữ chính: năng lượng

Chính vì, có các chức năng như phân tích, tính toán, tổng hợp, v.v như Ý thức, nên qua sự điều khiển của Thân Thể Thức, não bộ có khả năng tự sản xuất và tăng giảm các chất khích thích tố để tạo nên sự hài hòa hoạt động giữa các tế bào, cơ, mô, hệ thần kinh, v.v. cũng như, tế bào máu có thể phân biệt để tiêu diệt các loại vi trùng, hay vi khuẩn, hay sự xáo trộn các mô, cơ, qua những nhận thức sai lầm của các tế bào, mô, cơ, tạo ra tế bào ung thư,v.v.

Thân thể Thức cũng như Tiềm Thức có sự hoạt động không ngừng nghỉ, và khác với Tiềm Thức là kho dữ liệu tổng thể, trong khi, Thân Thể Thức là kho dữ liệu biệt thể chỉ liên quan đến các phần trong cơ thể.

Thí dụ, khi Ngã Thức muốn nhìn một hình ảnh thì tác động lên Thân Thể Thức. Thân thể Thức mới tác động lên não bộ, và não bộ mới điều khiển hệ thần kinh, và các cơ mắt mở ra, rồi mới kết hợp với Nhãn Thức để phân biệt hình ảnh.

Nếu không có Nhãn Thức, chúng ta không biết hình ảnh đó là gì, vì Thân Thể Thức là Thức chỉ lưu giữ những thông tin và dữ liệu liên quan đến sự sinh hoạt của thân thể (biệt thể).

Cho nên, nếu Ngã Thức muốn biết hình ảnh bên ngoài,thì Thân Thể Thức phải kết hợp với Nhãn Thức (với 4 thức khác cũng vậy). Ngược lại, Tiềm Thức thì lưu giữ tất cả mọi thông tin và dữ liệu, trong đó, bao gồm luôn thông tin và dữ liệu từ Thân Thể Thức (tổng thể).

Thân Thể Thức, không có cảm xúc/giác, nhưng lại có sự tương tác, tương tức trực tiếp với cảm xúc/giác và ý muốn từ Ngã Thức.

Tuy nhiên, Thân Thể thức cũng như Tiềm Thức, không chịu sự điều khiển từ Ngã Thức, mà đôi khi, còn bắt Ngã Thức phải khuất phục Thân Thể Thức. Vì thế, Ngã Thức chỉ có thể sử dụng Thân Thể Thức như một “công cụ” hay “một nơi cư trú” để thỏa mãn những gì Ngã Thức muốn qua thân thể.

Thí dụ: Ngã Thức muốn thức khuya để coi phim, nhưng nếu Thân Thể Thức nhận được những tín hiệu từ các bộ phận đã hoạt động qúa mệt mỏi thì Thân Thể Thức sẽ phân tích và đưa ra sự lựa chọn, rồi chuyển về Ngã Thức.

Ngã Thức có quyền không theo sự lựa chọn của Thân Thức, và tiếp tục gia tăng “áp lực” bắt Thân Thể Thức phục vụ cho ý muốn của mình. Thân Thể Thức khi nhận lệnh từ Ngã Thức sẽ ra lệnh cho các cơ của mắt, căng lên, để giúp cho mắt có thể mở. Tuy mắt mở, nhưng Nhãn Thức lại không nhận diện được những hình ảnh trong phim một cách rõ ràng, vì các cơ mắt và hệ thống thần kinh của mắt đã mệt mỏi nên cung cấp các hình ảnh không còn chân thật.

Các cơ mắt, khi đã quá ngưỡng chịu đựng thì Thân Thể Thức bất chấp là Ngã Thức muốn coi phim cũng tự động ra lệnh cho mắt nhắm lại, cũng như, ra lệnh cho các bộ phận mệt mỏi khác, dừng hoạt động. Khi cơ thể dừng hoạt động, thì Ngã Thức dù có muốn coi phim cũng phải chấp nhận dừng lại ý muốn của mình.

Thân Thể Thức là Thức thuộc về Y học, chúng ta sẽ có dịp quan sát sâu hơn, khi có những chủ đề liên quan đến Y học và cơ thể của con người.

Không thể tưởng tượng nổi thì ra ngàn năm trước, những nhà Tâm Lý học phương Đông đã có sự phân tích rất rõ ràng, đầy đủ chi tiết như vậy há chú. Hoàng Trang lên tiếng.

Đúng vậy, nếu các nhà Tâm Lý học phương Tây cho rằng, nghành Tâm Lý là nghành chẻ sợi tóc ra làm tư, thì các nhà Tâm Lý học phương Đông đã chia sợi tóc thành mười sáu.

Diệu Hiền nghe ông chú chia xẻ, cười thật to, nói:

Giời ạ, thế này thì chỉ có chết tụi cháu thôi chú ơi.

Cả ba chú cháu cùng cùng to với câu nói đùa của Diệu Hiền, sau đó, ông chú nói tiếp:

Bây giờ, chúng ta có thể dựa vào các chức năng căn bản của Chín Thức để quan sát sự khác biệt giữa học Thuyết của Freud và Chín Thức như thế nào?

Theo định nghĩa của Freud, “Tiền Ý Thức, là Thức bao gồm tất cả những thứ tiềm ẩn, có thể được đưa đến vùng Ý Thức.”

Điều này Đúng, vì cùng đồng nghĩa với chức năng của Tiềm Thức, nơi lưu giữ tất cả các dữ liệu, và trong qúa trình sắp xếp, liên kết các dữ liệu đã lôi những vấn đề, mà cá thể đã đè nén, trốn chạy không chịu giải quyết, hay giải quyết mang tính cách tạm thời, lên trên Ý Thức đòi giải quyết.

Còn câu, “Ý Thức, bao gồm tất cả những suy nghĩ, ký ức, cảm giác và mong muốn, mà ta nhận thức được một cách rõ ràng, vào bất kỳ thời điểm nào”

Nếu đứng trên góc độ diễn giải này của Freud, chúng ta thấy, có rất nhiều điều rất mơ hồ, lẫn lộn, giữa chức năng của Ý Thức, Ngã Thức và Tiềm Thức.

Với khả năng quan sát, phân tích, tổng hợp, so sánh, phỏng đoán, nhìn sâu và nhìn nông thì Ý Thức, bao gồm tất cả sự suy nghĩ là đúng. Bởi vì, thông thường, khi chúng ta suy nghĩ về một việc gì đó, có nghĩa là, chúng ta đang sử dụng khả năng phân tích, so sánh, nhận dạng, quan sát, của Ý Thức.

Nhưng khi Freud cho rằng, bao gồm luôn cả ký ức, cảm giác và mong muốn, lại trở thành vấn đề. Trên thực tế, Ý Thức của chúng ta có bộ nhớ ngắn hạn, nên không thể lưu giữ ký ức (ghi lại một cái gì đó lâu dài) của chúng ta lại được.

Thí dụ như, khi chúng ta đang suy nghĩ về một vấn đề nào đó, tự nhiên có một người đến quấy rầy, hỏi lung tung những chuyện gì đâu. Đến khi người đó đi rồi, chúng ta cũng quên luôn lúc trước chúng ta đang suy nghĩ gì, hay đang phân tích cái gì.

Nguyên do, là vì, bộ nhớ của Ý Thức ngắn hạn, và trong thời gian chúng ta đang sử dụng bộ nhớ ngắn hạn của Ý Thức, nên chúng ta không đưa những sự phân tích về kho lưu giữ lâu dài của Tiềm Thức để lưu giữ. Chính vì vậy, khi Ý Thức của chúng ta đổi qua chủ đề khác qúa lâu, nên khi trở lại chủ đề cũ, chúng ta không còn nhớ được bao nhiêu, hoặc chúng ta chẳng còn nhớ gì cả.

Hay, chúng ta đột nhiên gặp mặt một người nào đó. Nhưng lúc đó Ý Thức của chúng ta không thể nhớ ra tên người đó là gì. Chúng ta cứ tiếp tục suy nghĩ cũng không ra. Rồi lúc đó, Ý Thức của chúng ta lại dùng suy nghĩ cho chuyện khác. Trong khi, chúng ta đang suy nghĩ những vấn đề liên quan đến chuyện khác, thì tự nhiên, trong Ý thức chúng ta lại hiện lên tên của người đó.

Rõ ràng, bộ nhớ của Ý Thức rất ngắn hạn, nên khi Ý Thức lục lọi trong bộ nhớ, tìm không ra tên, nên Ý Thức mới chuyển mệnh lệnh của Ngã Thức xuống Tiềm Thức, nơi lưu giữ lâu dài những dữ liệu, tiếp tục tìm kiếm. Khi Tiềm thức kiếm ra tên người đó thì lộ trên mặt Ý Thức, trong khi Ý thức vẫn đang suy nghĩ, hay phân tích một việc khác.

Còn phần cảm giác và mong muốn ở đây, không thể nào thuộc về Ý Thức được, mà phải thuộc về Ngã Thức. Bởi vì, cảm giác và mong muốn phải là cảm giác và mong muốn của ai. Như cảm giác của tôi, mong muốn của tôi. Nghĩa là, phải thuộc về Bản Ngã, về cái tôi mới chính xác.

Vấn đề của Freud ở đây, có lẽ là ông phân chia Tâm Thức con người ra làm ba cái Thức khác nhau, cho nên, mỗi một Thức, ông lại cho nó có đầy đủ các chức năng. Trên thực tế, chúng ta chỉ có một Tâm đó là Ngã Thức, và có nhiều Thức khác, có những chức năng khác để phục vụ cho cái tôi, hay Ngã Thức, hay Bản Ngã muốn như thế nào.

Qua câu kế tiếp: “mà ta nhận thức được một cách rõ ràng, vào bất kỳ thời điểm nào. Ta có thể nghĩ đến, và trò chuyện về những thứ kể trên theo lý trí. Ngoài ra, Ý thức còn bao gồm cả ký ức, không phải lúc nào ký ức cũng nằm ngay trong vùng Ý Thức, nhưng nó có thể được triệu hồi dễ dàng, vào bất kỳ thời điểm nào, và giúp ta nhận thức nó rõ ràng.”

Dĩ nhiên, khi Ý Thức muốn phân tích một điều gì thì đều có thể sử dụng kho dữ liệu của Tiềm Thức để tìm những dữ liệu trong bất cứ khoảng thời gian nào. Nhưng ở đây lại kèm theo câu “trò chuyện về những thứ kể trên theo lý trí”, vậy lý trí ở đâu, và chức năng của lý trí là gì?

Sau đó Freud lại còn khẳng định: “không phải lúc nào ký ức cũng nằm ngay trong vùng Ý Thức, nhưng nó có thể được triệu hồi dễ dàng, vào bất kỳ thời điểm nào”. Vậy nếu ký ức không phải lúc nào cũng nằm trong Ý Thức, thì lúc đó, ký ức ở đâu, mà có thể triệu hồi dễ dàng vào bất cứ thời điểm nào?

Nếu chúng ta dựa trên những chức năng của Chín Thức, chúng ta sẽ có câu trả lời rất rõ ràng, và không mơ hồ và lẫn lộn như Freud.

Rõ ràng, khi chúng ta hiểu chức năng của Ý Thức và Tiềm Thức, chúng ta có thể biết, ký ức đang nằm trong kho dữ liệu của Tiềm Thức, và bất cứ khi nào Ngã Thức muốn nhớ lại ký ức thì chỉ cần ra lệnh cho Ý Thức, sử dụng kho dữ liệu của Tiềm Thức và đưa ký ức đó lên trên mặt của Ý Thức.

Đó chính là lý do, tại sao chúng ta có thể triệu hồi ký ức đó dễ dàng và vào bất cứ thời điểm nào.

Thí dụ: Ngã Thức của chúng ta muốn nhớ về ký ức tuổi thơ lúc 10 tuổi thì Ngã Thức của chúng ta ra lệnh cho Ý Thức đi tìm ký ức đó. Ý Thức khi nhận lệnh của Ngã Thức sẽ xuống kho dữ liệu của Tiềm thứ, để lôi dữ liệu ký ức năm 10 tuổi lên trên màn ảnh của Ý Thức và Ngã Thức có thể thấy lại những hình ảnh của tuổi lên 10.

Nếu như Ngã Thức muốn nhìn lại hình ảnh tuổi 15 thì cũng lập lại như vậy và hình ảnh tuổi 15 sẽ xuất hiện.

Vậy còn Vô Thức thì sao?

Vô Thức là một ‘kho tàng” các cảm xúc, suy nghĩ, ham muốn, và ký ức nằm bên ngoài vùng kiểm soát của ý thức. Hầu hết các nội dung của vùng vô thức, đều khá khó chịu và không được chủ thể chấp nhận, như cảm giác đau đớn, lo âu hay xung đột.

Trong phần này, chúng ta cũng thấy, Freud lại rơi vào những lẫn lộn giữa các chức năng của Ba Thức.

Freud đã đúng khi cho rằng: vô Thức là một ‘kho tàng” các cảm xúc, ham muốn, hầu hết các nội dung của vùng vô thức đều khá khó chịu và không được chủ thể chấp nhận, như cảm giác đau đớn, lo âu hay xung đột.

Đây đúng là những chức năng của Ngã Thức. Và danh từ chính xác để dùng là Ngã Thức thay vì Vô Thức.

Ngã Thức là sự nhận ra cái tôi, trong đó bao gồm: những cảm xúc, mong muốn, cảm giác đau đớn và khó chịu của tôi, rất rõ ràng. Vì vậy, khi dùng từ vô thức ở đây, dễ gây ra hiểu lầm. Vì Vô Thức có nghĩa là thức đó không thể xác định. Vậy làm sao có chủ thể không chấp nhận những cảm giác đau đớn, lo âu hay xung đột. Thế thì, chủ thể này là ai?

Như lúc trước tôi có đề cập, có lẽ Freud đã phân chia Ba Thức thành ba Thức riêng biệt của một cá thể, cho nên, Freud đã gắn ghép vào mỗi Thức những chức năng gần giống nhau, và thường chống đối lại nhau.

Vì vậy, trong phần vô thức này, Freud, lại tiếp tục gắn cho Ngã Thức những phần như: “suy nghĩ” thuộc về Ý Thức; “Ký ức không nằm trong vùng kiểm soát Ý thức”, thuộc về Tiềm Thức, vào trong vô thức.

Thì ra là vậy, lúc xưa khi học đến những phần này, cháu rất là mơ hồ, và cũng có những câu hỏi như chú, nhưng không làm sao giải thích được, cho đến tận bây giờ.  Nếu các giảng viên, mà giảng dậy rõ ràng như chú chia xẻ, thì chắc, cháu sẽ giỏi hơn rất nhiều. Hoàng Trang nói.

Diệu Hiền đợi Hoàng Trang nói dứt, lên tiếng:

Vậy chú ơi, theo học thuyết của Freud, có đưa ra hiện tượng lỡ lời. Nghĩa là, trong lúc đang nói chuyện với ai đó, thay vì, gọi đúng tên họ thì lại gọi tên người khác. Theo Thuyết của Freud thì những câu chữ phát ra khi người ta lỡ lời sẽ giúp tiết lộ những suy nghĩ và cảm xúc ẩn giấu trong vô thức của họ.

Chú quan sát như thế nào về vấn đề này?

Trong cuộc sống của con người, chúng ta ít sử dụng Ý Thức mà thường sử dụng những thói quen.

Như chúng ta đã biết, chức năng của Ý Thức là khả năng quan sát, phân tích, v.v. như vậy, mỗi khi chúng ta sử dụng đến Ý Thức (Trí) thì tốn rất nhiều thời gian. Nếu chúng ta sử dụng Tuệ thì thời gian sẽ còn dài hơn, vì phải qua quá trình kiểm chứng và thực chứng.

Vì vậy, để giải quyết vấn đề tốn thời gian này, chúng ta thường biến những hành động giống nhau mỗi ngày, được lập đi lập lại, thành một thói quen. Khi đã thành một thói quen, chúng ta không cần sử dụng đến Ý Thức nữa mà vẫn có thể sinh hoạt bình thường.

Hiện tượng lỡ lời của Freud là hiện tượng xẩy ra từ Tiềm Thức, nơi sắp xếp và lưu trữ các dữ liệu, bao gồm các thói quen.

Vì chức năng của Tiềm Thức không có sự phân tích, nhận dạng như Ý Thức. Cho nên, nếu chủ đề của chúng ta đang nói đã trở nên qúa quen thuộc, và đối tượng A là người mà chúng ta đã nói chuyện qúa nhiều lần và biến thành thói quen, thì lúc đó, Tiềm Thức của chúng ta sẽ không nhận ra, người đối diện với chúng ta là B, và cứ tiếp tục sử dụng tên A như thói quen.

Đó gọi là sự vận hành của Tiềm Thức. Như vậy, qua sự vận hành của Tiềm Thức theo thói quen, nghĩa là, không có mặt của Ý Thức nên không nhận dạng được sự khác biệt giữa A và B, vì thế vẫn tiếp tục sử dụng tên của A thay vì B.

Vì vậy, qua hiện tượng lỡ lời này, chúng ta không thể biết được suy nghĩ của người nói lỡ lời, vì người đó, không có suy nghĩ (Ý Thức) mà chỉ là “Xả” những liên kết dữ liệu trong kho Tiềm Thức ra ngoài. Điều này, học thuyết của Freud cần chỉnh lại.

Nhưng ở đây, Freud lại hợp lý khi cho rằng, chúng ta có thể hiểu được cảm xúc của người nói lỡ lời. Vì cảm xúc là những nguồn năng lượng “không tên” kết hợp những nguồn năng lượng khác nhau của Ngã Thức.

Như vậy, qua cảm xúc, có thể hiểu được Ngã Thức của người đó đang có nguồn năng lượng nào và những nguồn năng lượng này đang liên quan đến những vấn đề gì.

Tại sao khi qua sự chia xẻ của chú, cháu lại hiểu rất chi tiết và rõ ràng, còn khi cháu học, cứ đoán mò vậy chú? Diệu Hiền hỏi.

Đơn giản, vì bạn thiếu sự nhìn sâu.

Diệu Hiền và Hoàng Trang cùng cười thật lớn. Sau đó, Hoàng Trang lên tiếng:

Vậy, chú có thể chia xẻ với hai cháu về những giấc mơ, mà theo Freud, đó là: “sự tác động lẫn nhau phức tạp của những ước muốn bị cấm đoán và những áp lực khác” là sao, vậy chú.

Nói đến giấc mơ là nói đến chức năng sắp xếp, và liên kết các thông tin và dữ liệu mà Tiềm Thức thu nhận được trong một ngày.

Vì Tiềm Thức là Thức tạo ra sự sống, và kết hợp với Thân Thể Thức để duy trì sự sống cho chúng ta. Cho nên, Tiềm Thức luôn hoạt động hai mươi bốn giờ, không ngừng nghỉ.

Ngược lại, Ý Thức chỉ hoạt động khi Ngã Thức muốn phân tích những vấn đề gì xẩy ra có ảnh hưởng đến Ngã Thức mà thôi. Nếu không có những vấn đề mới mà chỉ là những vấn đề quen thuộc thì Ngã Thức sẽ sử dụng Tiềm Thức qua các thói quen.

Thông thường, chúng ta sử dụng 95% những việc liên quan đến cuộc sống của chúng ta qua thói quen được lưu giữ trong Tiềm Thức.

Còn lại 5% cho Ngã Thức và Ý Thức. Khi Ngã Thức không sử dụng Ý Thức, và cũng không có cảm giác, hay ý muốn thì chúng ta rơi vào trạng thái rỗng, hay trống không, hay gọi là không suy nghĩ.

Nếu như trong một ngày, mà Ngã Thức của chúng ta luôn có sự trào dâng cảm xúc/giác, thì lúc đó, Ý Thức sẽ được sử dụng tối đa.

Và khi Ý Thức liên tục bị sử dụng tối đa để giải quyết những cảm xúc/giác dâng trào của Ngã Thức thì chúng ta rơi vào trạng thái “quá tải” của Ý Thức (cứ liên tục đi tìm các giải pháp cho Ngã Thức), trạng thái này, chúng ta gọi là điên.

Trong một sinh hoạt bình thường, như khi chúng ta ngủ, Ý Thức và Ngã Thức của chúng ta đều vắng mặt.

Thí dụ, khi chúng ta ngủ, chúng ta chảy nước dãi thì Ngã Thức cũng không có cảm giác hổ thẹn, hay xấu hổ, và Ý Thức cũng chẳng có phân tích nguyên do tại sao. Vì cả Ý Thức và Ngã Thức, đều cùng vắng mặt.

Đây chính là lúc mà sự hoạt động của Tiềm Thức được lộ rõ trên bề mặt của Ý Thức. Những giấc mơ mà chúng ta có được khi ngủ là sự vận hành của Tiềm Thức qua việc sắp xếp và liên kết các dữ liệu lại với nhau.

Chẳng hạn, một sáng, chúng ta đi ngang một quán chè, và họ bán một món chè mà người yêu cũ của chúng ta rất thích. Tuy chúng ta không vào mua chè, nhưng qua Thân Thể Thức, Nhãn Thức và Ý Thức, chúng ta nhận ra, đó là, món chè mà người yêu cũ chúng ta thích.

Tuy chỉ nhìn thoáng qua, và Ngã Thức lại muốn Ý Thức phải tập trung vào việc khác. Hình ảnh chén chè đó, được Ý Thức, Thân Thể Thức và Nhãn Thức, đưa về kho Tiềm Thức lưu giữ. Khi Tiềm Thức sắp xếp và liên kết thì sẽ đem chén chè đó liên kết với những gì liên quan đến phần của người yêu cũ.

Nếu như khi chia tay với người yêu cũ, chúng ta đã có những sự oán thù, trách móc,v.v, thì khi chén chè được liên kết vào phần của người yêu cũ sẽ khích hoạt lại những vấn đề mà chúng ta và người yêu cũ đã có trước đây nhưng chưa được giải quyết. Những vấn đề đó, nay chịu thêm sự oán hận sau khi chia tay tác động, tạo ra cách thức giải quyết những vấn đề cũ trở nên khốc liệt hơn.

Nếu chẳng may, hình ảnh chén chè lại liên kết đến việc ăn chè bị trúng độc chết thì trong qúa trình sắp xếp, liên kết, của Tiền Thức, chúng ta có thể mơ thấy, người yêu cũ của chúng ta sẽ đầu độc chúng ta bằng chén chè để trả thù. Trong khi chờ chúng ta chết thì người yêu cũ của chúng ta cười rất thỏa mãn. Đây gọi là ác mộng, mà đôi khi, chúng ta hay trải qua.

Hình ảnh đang nằm chờ chết trong giấc mơ, khích hoạt cảm giác sợ chết của Ngã Thức một cách mãnh liệt, khiến cho Ngã Thức phải thức giấc, và ra lệnh cho Thân Thể Thức hoạt động bằng việc mở mắt ra.

Hay, khi chúng ta nhìn thấy hình ảnh chén chè của người yêu cũ, nhưng chúng ta lại đang cãi nhau với người yêu mới. Vì hình ảnh chén chè và việc việc cãi nhau cùng đang xẩy ra và cùng liên quan đến người yêu.

Cho nên, qua sắp xếp và liên kết của Tiềm Thức, chúng ta có một giấc mơ, mà trong đó, cả hai người yêu cũ và mới xẩy ra xung đột tranh giành và xé chúng ta ra làm đôi. Dù rằng, trên thực tế, người yêu mới chưa bao giờ gặp hay quen biết người yêu cũ.

Hình ảnh hai người yêu, cũ và mới cùng tranh giành và xé thân chúng ta làm đôi, tác động mãnh liệt lên cảm giác sợ chết, khiến cho Ngã Thức phải thức giấc.

Đó là một vài hiện tượng xẩy ra về sự sắp xếp và liên kết các dữ liệu của Tiềm Thức mà chúng ta có thói quen gọi đó là những giấc mơ.

Có những giấc mơ mà chúng ta thấy người trong qua khứ có thể sinh hoạt ngay trong hiện tại. Nguyên do là, từ những dữ liệu cũ và mới đang được Tiềm Thức sắp xếp và liên kết.

Nhưng tại sao cũ và mới có thể kết hợp “như thật” trong giấc mơ? Vì Tiềm Thức không có khả năng phân biệt như Ý Thức, nên trong Tiềm Thức không có cũ và mới, không có quá khứ hay tương lai, mà chỉ có ngay lúc này hay trong hiện tại.

Như vậy, theo Freud, “giấc mơ là sự tác động lẫn nhau phức tạp của những ước muốn, bị cấm đoán và những áp lực khác.” Chỉ hợp lý, khi cho đó “là sự tác động lẫn nhau phức tạp”, đồng nghĩa với sự sắp xếp và liên kết các dữ liệu của Tiềm Thức, tùy theo những dữ liệu đơn lẻ đó có liên kết với những dữ liệu khác hay không mà tạo nên sự phức tạp hay không?

Nhưng lại không hợp lý khi cho rằng, đó là “những ước muốn, bị cấm đoán và những áp lực khác”.

Rõ ràng, trong thí dụ trên, chúng ta đâu thấy, những ước muốn bị cấm đoán hay bị bất cứ áp lực nào khác với chúng ta đâu. Ngã Thức của chúng ta đâu có muốn nhớ lại người yêu cũ, và chúng ta cũng chẳng bị cấm đoán hay bị áp lực nào khác bắt chúng ta phải quên đi, không được nghĩ đến người yêu cũ. Nếu có, làm sao chúng ta vừa nhìn thấy chén chè đã nghĩ ngay đến người yêu cũ.

 Còn câu, “hay những ước muốn vô Thức đã trải qua sự biến dạng, thông qua các quá trình ngưng tụ và dịch chuyển” thì lại hợp lý, khi những ý muốn của Ngã Thức luôn thay đổi tùy theo sự tiếp xúc của năm thức, khởi ý niệm, hay trong quá trình sắp xếp và liên kết các dữ kiện của Tiềm Thức tác động đến những nguồn cảm xúc, khiến cho Ngã Thức có khi bị tê liệt, không còn có thể sử dụng Ý Thức để phân tích lợi hại, cũng như quan sát hay nhìn sâu để có thể tiếp cận được với sự thật.

Như vậy, qua sự quan sát và nhìn sâu giữa học thuyết của Freud và Chín Thức, chúng ta có thể rút ra được vài điểm khác biệt:

Học thuyết của Feud cho rằng: chúng ta có ba thức hoạt động độc lập và đối nghịch nhau. Cho nên, trong mỗi thức đều có một số các chức năng gần giống nhau. Từ đó, tạo nên sự xung đột và tạo ra những hành vi khác nhau tùy theo hoàn cảnh.

Trong khi, Chín Thức lại phân chia rạch ròi chức năng và sự giới hạn của mỗi Thức. Tuy có 9 Thức nhưng chỉ có hai Thức làm chủ là, Ngã Thức và Thân Thể Thức, còn 7 Thức khác chỉ để phục vụ cho Ngã Thức với những chức năng giới hạn của mình.

Học thuyết của Feud cho rằng: giấc mơ của con người có được là từ những ước muốn của vô thức đã trải qua sự biến dạng, thông qua các quá trình ngưng tụ và dịch chuyển.

Trong khi, qua sự vận hành của Chín Thức, giấc mơ là quá trình sắp xếp và liên kết của Tiềm Thức, chứ không phải từ vô Thức, hay đúng hơn là Ngã Thức. Theo Chín Thức, những ước muốn của Ngã Thức có thể bắt nguồn từ 5 Thức, cũng có thể bắt nguồn từ Thân Thể Thức, Tiềm Thức, hay bắt nguồn từ Ngã Thức, tùy theo tình trạng của Ngã Thức lúc đó đang trong hoàn cảnh nào.

Nếu Ngã Thức đang trong hoàn cảnh bị những nguồn năng lượng “không tên” tác động mạnh mẽ lên Ngã Thức, khiến cho Ngã Thức bị tê liệt, thì hành vi hay hành động xẩy ra không còn tùy thuộc vào ý muốn của Ngã Thức nữa.

Chú ơi, có thể dùng một thí dụ minh họa để cho chúng cháu dễ hiểu hơn không? Diệu hiền nói.

Thí dụ, có một người vô lý đến gây lộn và muốn đánh nhau với chúng ta.

Trong trường hợp 1: Nếu Ngã Thức của chúng ta muốn “dĩ hòa vi quý” sẽ ra lệnh cho Ý Thức dùng sự quan sát môi trường hoàn cảnh xung quanh; phân tích lợi và hại khi gây lộn và đánh nhau với người kia như thế nào; phân tích cách hành xử và lời nói thế nào để tránh gây ra gây lộn và đánh nhau; hay khi người kia đánh sẽ đối phó như thế nào, v.v.

Khi có đủ những dữ liệu từ Ý Thức gởi về cho Tiềm Thức lưu giữ và chuyển qua kho của Ngã Thức, lúc đó, Ngã Thức mới đưa ra quyết định lựa chọn cách thức nào có lợi nhất cho Ngã Thức, rồi ra lệnh cho các thức khác hỗ trợ để đạt được ước muốn của mình.

Freud gọi đây là qúa trình ước muốn vô thức bị ngưng tụ qua sự biến dạng. Có nghĩa là ước muốn “dĩ hòa vi quý” của Ngã Thức vẫn đạt được mục đích (ngưng tụ) nhờ có nhiều phương án (biến dạng) do Ý Thức đã phân tích để Ngã Thức chọn lựa.

Trong trường hợp 2: Nếu Ngã Thức của chúng ta đang ở trong cảm xúc bực bội, tức giận vì vừa bị ông chủ la rầy mà chúng ta không thể trút giận vào ông ta. Và nếu như, hình ảnh, lời nói, hành động của người đến gây chuyện chỉ cần tương tự với ông chủ, thì qua sự tiếp xúc của 5 Thức gởi về Tiềm Thức và chuyển qua kho Ngã Thức, những hình ảnh, lời nói này sẽ khích hoạt nguồn năng lượng cảm xúc gia tăng, khống chế Ngã Thức, khiến cho Ngã Thức bị tê liệt không thể sử dụng Ý Thức để phân tích lợi hại, cũng như, không còn duy trì được ý muốn ban đầu “dĩ hòa vi quý” như bình thường.

Nên, chúng ta sẽ xả nguồn năng lực cảm xúc bực bội, tức giận lên trên người gây sự vô cớ một cách tàn nhẫn, không thương tiếc. Cho đến khi có sự can thiệp của người khác, hay cảnh sát, hay đối phương bỏ chạy, khuất khỏi tầm của năm thức.

Khi cảm xúc trào dâng đã được trút, xả, và yếu dần thì Ngã Thức của chúng ta mới thoát khỏi sự kiềm chế của nguồn năng lượng cảm xúc; từ đó, mới có thể sử dụng Ý Thức để phân tích lợi hại về hậu quả mà chúng ta vừa gây ra. Đồng thời tạo ra cảm giác hối hận khi không duy trì được ý muốn “dĩ hòa vi quý”.

Freud gọi đây là qúa trình ước muốn vô thức bị biến chuyển qua sự biến dạng. Có nghĩa là Ý muốn “dĩ hòa vi quý” đã không còn được duy trì và bị sự biến chuyển của cảm xúc khống chế nên đã trút xả nguồn cảm xúc bực bội, tức giận từ ông chủ qua người gây chuyện (biến dạng).

Quả thật, đây là những sự việc xẩy ra trong chúng ta mỗi một ngày, chỉ cần quan sát và nhìn sâu, chúng ta đều có thể nhận thấy rất dễ dàng. Nhưng qua cách diễn giải của Freud thì lại cực kỳ khó hiểu chú nhỉ. Hoàng Trang nói.

Ông chú nhìn Hoàng Trang và Diệu Hiền, nói:

Nếu không nhờ có sự diễn giải khó hiểu của Freud thì hai bạn ngồi đây sẽ phải đổi nghề. Lúc đó, tôi lại có hai đối thủ phải cạnh tranh.

Cả ba chú cháu cùng cười to khi đèn đường trong công viên đã tỏ.

CÂN: ĐÚNG SAI, KHỔ ĐAU VÀ AN LẠC

album-art

00:00

TẢI MP3 – MỸ LINH

Chiều nay, Nhật Minh bận đi họp, nên chỉ có Diệu Hiền đến thăm ông chú.

Không như Nhật Minh, thường hay đợi ông chú mời, chàng mới ngồi xuống. Ngược lại, Diệu Hiền thì khác. Khi vừa bước chân đến chỗ ông chú ngồi, Diệu Hiền đã xà xuống, ngồi bên cạnh, nắm tay ông chú.

Đối với Diệu Hiền, tuy chỉ mới gặp ông chú có một lần, nhưng trong lòng Diệu Hiền, ông chú luôn tạo cho Diệu Hiền cảm giác như một người cha mà Diệu Hiền luôn tôn kính.

Ông chú khẽ quay đầu sang hướng Diệu Hiền, mỉm cười, rồi nói:

Chiều nay, bạn trẻ lại có thắc mắc gì nữa sao?

Diệu Hiền nghe ông chú hỏi, cười to vui vẻ, rồi nói:

Dạ, thưa chú, chú như đi guốc trong bụng cháu. Đúng vậy, thưa chú, cháu lại có thắc mắc ạ. Nhưng lần này thì cháu không thắc mắc về kinh điển của Phật giáo, mà là thắc mắc về nghành Tâm Lý của cháu.

Thưa chú, theo kinh nghiệm của cháu, trong mỗi con người của chúng ta, ai cũng đều có hai cái cân:

  • Đúng-Sai
  • Khổ Đau-An Lạc

Cân Đúng-Sai thuộc về Ý Thức, giúp cho chúng ta có thể phân tích được: cái nào đúng, cái nào sai, cái nào hay, cái nào dở, cái nào thiện, cái nào ác v.v.

Còn Cân Khổ Đau-An Lạc lại thuộc về Ngã Thức, liên quan trực tiếp đến cảm xúc hay cảm giác, giúp cho chúng ta biết được những trạng thái của cảm xúc/giác như: buồn, vui, chán nản, hăng hái, v.v.

Theo quan sát của cháu, thông thường, chúng ta thường hay có thói quen sử dụng cái cân Đúng-Sai trong cuộc sống hơn là sử dụng cái cân Khổ Đau-An Lạc; thế nên, chúng ta đã tạo ra biết bao, tranh chấp, cãi vã, khổ đau, và phiền muộn, trong cuộc đời.

Thưa chú, như vậy, nếu có một người muốn sống có nhiều an vui, hạnh phúc hơn, thì người đó sẽ phải sử dụng cân Đúng-Sai, hay Khổ Đau-An Lạc như thế nào mới đúng cách?

Này người bạn trẻ, nếu chúng ta muốn biết được một việc đó đúng hay sai, chúng ta phải dựa trên một hay nhiều tiêu chuẩn. Nếu những chuẩn này, không cần chỉnh, thì chúng ta gọi là Đúng. Và khi, một hay nhiều tiêu chuẩn cần phải chỉnh thì đó không còn là chuẩn nữa, và chúng ta gọi là Sai.

Một tiêu chuẩn Sai, nghĩa là, tiêu chuẩn đó, dựa trên những định nghĩa được diễn giải theo sự “uốn nắn” cho thích hợp với Ngã Thức mà không dựa trên sự thật.

Cho nên, khi muốn biết được về một việc gì đó, hay một người nào đó đúng hay sai thì chúng ta cần phải biết quan sát sự vận hành của các Thức ra sao. Và khi chúng ta có thể hiểu rõ được sự vận hành đó ra sao thì chúng ta mới có thể tiếp xúc được với sự thật.

Khi chúng ta đã nhận thức được đúng sự thật thì đó mới chính là những tiêu chuẩn không cần chỉnh, hay Đúng. Còn nếu chuẩn nào cần chỉnh, là Sai, thì chúng ta biết, chúng ta chưa tiếp cận hay biết đúng sự thật.

Như bạn đã trình bầy, có thể nói, có rất ít người trong chúng ta biết được rằng, chúng ta thật sự có hai cái cân: Đúng-Sai và Khổ Đau-An Lạc. Tôi cũng rất đồng ý với bạn, cân Đúng-Sai thuộc về Ý Thức, và cân Khổ Đau-An Lạc thuộc về Cảm Xúc/Giác.

Này bạn trẻ, trước khi chúng ta quan sát về sự ứng dụng của hai cái cân, chúng ta cũng nên quan sát một chút về định nghĩa của bốn chữ: Cảm Xúc và Cảm Giác khác nhau như thế nào.

Theo tự điển Hán Việt, Cảm Xúc là do sự tiếp xúc hay va chạm (Xúc) với vật thể bên ngoài, mà phát sinh ra một nguồn năng lượng (Cảm). Còn Cảm Giác là qua sự khích hoạt của một nguồn năng lượng (Cảm) mà nhận ra nguồn năng lượng đó là gì (Giác = nhận ra, biết ra).

Bây giờ, chúng ta dựa vào định nghĩa của Cảm Xúc và Cảm Giác, cộng thêm sự quan sát và nhìn sâu vào sự vận hành của các Thức, để kiểm chứng xem định nghĩa đó có chuẩn không cần chỉnh, hay chuẩn mà cần phải chỉnh nhé.

Để cho dễ hiểu hơn, chúng ta hãy dùng thí dụ, khi mắt của chúng ta tiếp xúc với những đóa hoa trong bồn hoa, để minh họa.

Trên căn bản, khi mắt chúng ta tiếp xúc với những đóa hoa, trong bồn hoa, có hai trường hợp sẽ xẩy ra:

    • Ngã Thức của chúng ta không muốn biết những hoa đó là hoa gì, hay lúc đó, Ý thức của chúng ta đang bận rộn phân tích một vấn đề gì đó thì tuy mắt của chúng ta có tiếp xúc với những đóa hoa, nhưng Nhãn Thức của chúng ta vẫn không hoạt động. Thế nên, chúng ta cũng không nhận biết được, những loại hoa đó là loại hoa gì; hay có nhiều khi, chúng ta không biết những đóa hoa đó có mặt, nếu như lúc đó, Ý Thức đang hoạt động cho những vấn đề khác không liên quan đến những đóa hoa.

 

  • Nếu như Ngã Thức của chúng ta muốn biết những hoa đó là hoa gì thì Ngã Thức của chúng ta sẽ khích hoạt Nhãn Thức của chúng ta. Khi Nhãn Thức được khích hoạt thì Nhãn Thức sẽ hoạt động bằng cách nhận dạng các loại hoa đó là hoa gì. Dĩ nhiên, Nhãn Thức chỉ có thể hoạt động khi Ý Thức vắng mặt. Và nếu Ngã Thức của chúng ta muốn dừng lại ở đó thì Nhãn Thức của chúng ta sẽ dừng hoạt động, và gởi những dữ liệu đó về kho Tiềm thức để lưu giữ.

Tương tự như thế, nếu Ngã Thức của chúng ta lại muốn biết các mùi hương của những đóa hoa đó như thế nào thì Ngã Thức của chúng ta sẽ ra lệnh cho Tỷ Thức của chúng ta hoạt động. Tỷ Thức của chúng ta sẽ giúp cho Ngã Thức của chúng ta phân biệt được mùi hương của mỗi đóa hoa khác nhau ra sao, qua việc dùng mũi để ngửi.

Cũng như Nhãn Thức, Tỷ Thức của chúng ta sẽ không hoạt động, nếu như lúc đó, Ý Thức của chúng ta đang hoạt động để giải quyết cho những vấn đề khác không liên quan đến những đóa hoa. Dĩ nhiên, nếu như Ý Thức vắng mặt, và Ngã Thức của chúng ta muốn dừng lại thì Tỷ Thức của chúng ta, sẽ gởi những dữ liệu đó về kho Tiềm Thức để lưu giữ.

Hay, Ngã Thức của chúng ta lại muốn nếm thử vị của những đóa hoa đó ra sao thì Thiệt Thức của chúng ta sẽ hoạt động, và giúp Ngã Thức của chúng ta biết được, mùi vị của mỗi loại hoa đó. Và khi Ngã Thức của chúng ta muốn dừng lại thì Thiệt Thức của chúng ta cũng sẽ gởi những dữ liệu đó về kho Tiềm Thức để lưu giữ.

Trong trường hợp, Ngã Thức của chúng ta lại muốn hiểu biết sâu sắc hơn về mỗi loại hoa thì Ngã Thức của chúng ta sẽ ra lệnh cho Ý thức hoạt động.

Ý Thức khi nhận lệnh từ Ngã Thức sẽ khích hoạt các Thức hoạt động để thu thập các dữ liệu từ các Thức như: dữ liệu từ phân loại hoa (Nhãn Thức), mùi hương (Tỷ Thức), và vị (Thiệt Thức), hay sờ mó (Thân Thức), kết hợp cùng kho dữ liệu của Tiềm Thức để nhận dạng, phân định, so sánh, những đóa hoa đó với nhau, hay với những đóa hoa khác mà Ngã Thức đã biết trước đó, một cách sâu sắc, tỉ mỉ, và chính xác hơn.

Nếu đem so Ý Thức và các thức khác như: Nhãn Thức, Nhĩ Thức, Tỷ Thức, Thiệt Thức, và Thân Thức thì năm thức này chỉ có khả năng nhận biết những gì liên quan đến các cơ quan phụ thuộc vào thức đó, mà không thể biết được những phần khác không liên quan đến giác quan đó.

Chẳng hạn như, Nhãn Thức, chỉ có thể nhận ra những vật, hay người nào đó khi tiếp xúc qua mắt, nhưng lại không thể biết được, người đó, hay vật đó, thơm hay hôi. Muốn biết được thơm hay hôi thì Ngã Thức của chúng ta phải sử dụng đến phần mũi, để ngửi, và dùng Tỷ Thức để phân biệt được người đó, hay vật đó, thơm hay hôi.

Ngược lại, Ý Thức có thể kết hợp các dữ liệu của các thức lại với nhau, rồi dùng chức năng phân tích, tổng hợp, so sánh, v.v để có thể nhận ra, và hiểu được, vật, hay người đó, một cách chi ly, tỉ mỉ, và chính xác hơn các Thức hoạt động lệ thuộc như: Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân Thức, v.v.

Ngoài ra, Ý Thức, đôi khi, không cần sử dụng đến ngũ quan và ngũ Thức để lấy thông tin và dữ liệu, mà Ý Thức còn có thể sử dụng những thông tin hay dữ liệu đã được lưu giữ trong Tiềm Thức để giải quyết những vấn đề “nội bộ” từ Tiềm Thức, hay Ngã Thức đã nẩy sinh.  Khả năng đặc biệt này của Ý Thức thì không có trong ngũ Thức.

Trở lại thí dụ về những đóa hoa, qua sự quan sát và nhìn sâu, chúng ta thấy, Ý Thức của chúng ta khi càng có nhiều thông tin, dữ liệu từ năm Thức và Tiềm Thức bao nhiêu thì độ phân tích, so sánh, tổng hợp, càng sâu và càng chi tiết hơn bấy nhiêu.

Nếu chẳng may, có một người bị khiếm thị thì Nhãn Thức của người đó không thể cung cấp những dữ liệu về những đóa hoa đó, nên sự phân tích của Ý Thức sẽ kém phần sâu sắc và chính xác.

Lúc đó, nếu Ngã Thức của người khiếm thị muốn biết nhiều hơn về những đóa hoa, thì Ngã Thức của người đó sẽ sử dụng Thân Thức để dùng tay sờ mó, hay gia tăng sự nhậy cảm của Tỷ Thức, hay Thiệt Thức để bổ khuyết cho phần thiếu dữ liệu của Nhãn Thức.

Nếu như, người khiếm khuyết về mắt bị mù từ nhỏ, và Ngã Thức của người đó chưa có các dữ liệu, thông tin về các loại hoa, nhưng Ngã Thức của người đó lại quá khao khát muốn biết kết quả, thì Ý thức của người đó sẽ dùng thêm sự phỏng đoán hay tưởng tượng để đưa ra kết quả.

Vì sự phỏng đoán hay tưởng tượng này không dựa trên những dữ liệu, hay thông tin chính xác, nên Kết Quả từ Ý Thức đưa ra có thể trở thành Hậu Quả, hay ngược lại.

Dĩ nhiên, không phải chỉ có người khiếm khuyết các giác quan thì Ý Thức của người đó mới sử dụng đến phỏng đoán hay tưởng tượng. Mà ngay cả chúng ta, tuy vẫn đầy đủ các giác quan, nhưng trong đời sống hàng ngày, chúng ta cũng sử dụng sự phỏng đoán hay tưởng tượng này khá nhiều.

Sự phỏng đoán hay tưởng tượng này, khi được gởi về kho Tiềm Thức, và qua sự sắp xếp và liên kết của Tiềm Thức sẽ lưu giữ trong kho dữ liệu của Ngã Thức, và từ đó, tác động vào năng lượng niềm tin.

Khi niềm tin được tác động, lưu giữ, và lập đi lập lại nhiều lần biến thành thói quen thì những tư duy, hay suy nghĩ sau này của Ngã Thức sẽ dựa vào niềm tin đó để giải quyết các vấn đề liên quan đến Ngã Thức.

Như vậy, qua sự quan sát về định nghĩa của Xúc, chúng ta có thể hiểu được, sự vận hành của Tám Thức như thế nào qua sự tiếp xúc với hoa.

Vậy, còn định nghĩa của Cảm sẽ vận hành ra sao?

Sau khi Ý Thức phân tích, so sánh, tổng hợp xong thì sẽ gởi những dữ liệu vào kho Tiềm Thức để lưu giữ. Tiềm thức sau khi nhận được những dữ liệu thì bắt đầu sắp xếp và nối kết các dữ liệu và thông tin.

Trong qúa trình kết nối những dữ liệu, nếu trong kho Ngã Thức có những dữ liệu chọn sẵn như: thích hoa này, ghét hoa kia, hay ưa mùi hương này, ghét mùi hương kia thì khi Tiềm thức sắp xếp vào kho Ngã Thức những dữ liệu này sẽ khích hoạt nguồn năng lượng yêu hay ghét trên Ngã Thức.

Nếu Ngã Thức của chúng ta, lúc đó, nghiêng về Yêu loại hoa này thì Ngã Thức của chúng ta sẽ ra lệnh cho Thân Thể Thức của chúng ta, qua việc sử dụng tay, hái đóa hoa đó để ngửi hay để cầm, và nguồn năng lượng Yêu (Cảm) có thể chỉ hoạt động một mình hay kết hợp với một, hay các nguồn năng lượng khác của Thiện, rồi khích hoạt thêm những cảm giác khác như: vui vẻ, thích thú,v.v. theo sau.

Nếu như Ngã Thức của chúng ta, nghiêng về nguồn năng lượng Ghét thì Ngã Thức sẽ ra lệnh cho Thân Thể Thức của chúng ta di chuyển tránh xa vùng hoa mà Ngã Thức không ưa, hoặc kết hợp thêm với những nguồn năng lượng khác của Ác, và khích hoạt các cảm giác khác như: chán nản, ruồng bỏ, chối bỏ, v.v, theo sau.

Như vậy, qua sự quan sát và nhìn sâu này, chúng ta thấy, nếu chúng ta bắt đầu sự tiếp xúc với hoa bằng mắt, hay tiếp xúc với hoa bằng mũi, v.v, rồi sau đó, qua sự khích hoạt từ sự sắp xếp của Tiềm Thức, và sự kết hợp với sự chọn lựa của Ngã Thức, mới phát sinh ra nguồn năng lượng (Cảm) là yêu hay ghét.

Chuyện gì sẽ xẩy ra, nếu trong qúa trình sắp xếp của Tiềm Thức mà trong đó Ngã Thức lại không có những dữ liệu đã chọn lựa, như: yêu hay ghét, thì sao? Thì lúc đó, Ngã Thức của chúng ta sẽ rơi vào trạng thái, gọi là Vô Cảm. Có nghĩa là, không có sự khích hoạt nguồn năng lượng (Cảm) nào cả.

Nhưng chẳng may, nếu như trong qúa khứ, Ngã Thức của chúng ta đã từng kết hợp sự Ghét với sự giận dữ, thù hận, ganh tỵ v.v., liên quan đến một người nào đó, hay đóa hoa nào đó, và sự kết hợp các nguồn năng lượng “không tên” này đã biến thành một thói quen, thì khi đó, nguồn năng lượng kết hợp “không tên” này sẽ bùng dậy, khống chế Ngã Thức, và điều khiển Thân Thể Thức đi tàn phá, hay hủy diệt cả một bồn hoa, mà không hề có sự tham gia của Ý Thức.

Như vậy, qua sự quan sát và nhìn sâu vào quá trình hoạt động của Chín Thức, chúng ta có thể thấy rằng, cho dù, chúng ta tiếp xúc với một vật, hay một người, từ năm Thức, hay sự tiếp xúc “nội bộ” giữa Ý Thức, Ngã Thức và Tiềm Thức, thì Xúc có thể có Cảm, và có thể không có Cảm.

Có Cảm hay không, thì lệ thuộc vào kho của Ngã Thức có chứa hay chọn lựa trước hay không? Nếu có sự lựa chọn thì có Cảm, có sự khích động năng lượng, và khi không có sự lựa chọn thì không có Cảm, không có nguồn năng lượng khích hoạt, cho dù đã có sự tiếp xúc trước đó.

Đó là sự vận hành của Xúc qua các Thức, vậy, còn sự vận hành của Giác thì thế nào?

Để phân tích được sự khác biệt giữa Xúc và Giác, chúng ta phải dựa vào sự khác biệt giữa kho dữ liệu của Ngã Thức có những dữ liệu hay chọn lựa như thế nào.

Nếu sự tiếp xúc, kết hợp với dữ liệu mới, và sự chọn lựa của Ngã Thức chỉ là nguồn năng lượng đã được Ý Thức phân tích, phân loại, tính toán lợi hại, v.v, trước đó, thì nguồn năng lượng được khích hoạt đó, gọi là: Cảm Xúc Giác (qua sự tiếp xúc (Xúc), khơi nguồn năng lượng (Cảm), và nhận diện được nguồn năng lượng đó (Giác)). Hay gọi tắt là Cảm Giác.

Đó cũng chính là lý do, tại sao cường độ của Cảm Giác như các nhà Tâm Lý học vẫn khẳng định là không mãnh liệt khi so với Cảm Xúc. Bởi vì, những nguồn năng lượng (Cảm) này đã được phân loại và tính toán lợi hại qua Ý Thức. Cho nên, Cảm Giác thường nằm trong tầm kiểm soát của Ngã Thức của chúng ta, vì vậy, ít khi bùng nổ một cách mãnh liệt.

Ngược lại, khi sự tiếp xúc, kết hợp với dữ liệu và sự chọn lựa của Ngã Thức đã bị tác động bởi một nguồn năng lượng kết hợp “không tên”, và nguồn năng lượng đó đã được lập đi lập lại nhiều lần, trở thành một thói quen, thì khi tiếp xúc với vật nào đó, hay người nào đó, nguồn năng lượng “không tên”, vì không đi qua Ý Thức (phân tích lợi hại); lại tác động trực tiếp lên trên Ngã Thức, nên sự tiếp xúc với nguồn năng lượng “không tên” đó trở nên mãnh liệt hơn, và sự tác động của nguồn năng lượng “không tên” với sự tiếp xúc đó, gọi là: Cảm Xúc (không có Giác để nhận ra nguồn năng lượng đó là gì).

Cảm xúc này, gọi là cảm xúc nội tại, nghĩa là, nguồn cảm xúc bên trong của Ngã Thức do kết hợp nhiều nguồn năng lượng lại với nhau; khác với cảm xúc ngoại tại là nguồn năng lượng tiếp xúc với các đối tượng qua năm giác quan .

Nếu chúng ta vẫn tiếp tục quan sát và nhìn sâu, chúng ta thấy, nguồn năng lượng của Cảm Giác chỉ là nguồn năng lượng đơn lẻ, nên khi tác động, thường không mạnh mẽ. Quan trọng hơn, vì nguồn năng lượng đó, đã được Ý Thức, phân dạng, cũng như phân tích lợi hại. Nên lúc đó, Ngã Thức, có thể vì lợi ích của mình, để chọn lựa cách ứng xử, hay kiềm chế.

Trong khi, với Cảm Xúc nội tại, Ngã Thức hoàn toàn bị “tê liệt”. Vì sao? vì nguồn năng lượng khích hoạt đã trở thành một thói quen, nên khi bị khích hoạt thì sự khích hoạt đó đã bắt đầu từ Tiềm Thức, chứ không phải tại Ngã Thức như Cảm Giác, nên Ngã Thức, hầu như không còn có nhiều cơ hội, để sử dụng đến khả năng phân tích lợi hại của Ý Thức để ứng phó.

Chính vì vậy, khi có Cảm Xúc nội tại nẩy sinh, thường chúng ta hay gọi là hành động theo cảm tính, hay quán tính là vậy.

Và thông thường, khi Cảm Xúc nội tại của chúng ta “trào dâng”, hay cường độ của Cảm Xúc nội tại dâng cao. Chúng ta thường có những hành động lệch lạc, thiếu kiểm soát (vì không có Ý Thức tham gia), tạo ra những lỗi lầm, khổ đau, và thường tạo ra Hậu Quả nhiều hơn là Kết Quả.

Giời ạ, Nghe chú chia xẻ về sự vận hành của Chín Thức, đối với Cảm Xúc và Cảm Giác, mà cháu như người mù, được thuốc tiên, sáng mắt ra vậy.

Chú có biết không? Khi cháu học về Cảm Xúc và Cảm Giác, thì chương trình học, dậy định nghĩa của Cảm Xúc và Cảm Giác như vầy nè chú.

“Cảm xúc là phản ứng, là sự rung động của con người trước tác động của yếu tố ngoại cảnh. Sự hình thành cảm xúc là một điều kiện tất yếu của sự phát triển con người.

Còn Cảm Giác là một trạng thái tình cảm, được tạo ra từ một cảm xúc, tuy nhiên, nó xẩy ra một cách có ý thức hơn, và người ta có thể chọn duy trì tâm trạng này trong một thời gian dài; khác với cảm xúc là sự duy trì trong một thời gian ngắn. Điều này có nghĩa là, một cảm giác đi từ một thứ gì đó, bản năng hơn, vì nó là cảm xúc, và để nó được tạo ra, phải có một lý do gây ra bởi một ý nghĩ, làm cho người đó nuôi dưỡng nó, và trở thành một cái gì đó lâu dài.

Cảm giác xảy ra khi chúng ta bắt đầu hòa nhập cảm xúc, nghĩ về nó, để cho nó ngấm vào. Cảm giác thường được thúc đẩy bởi sự pha trộn của cảm xúc, và kéo dài hơn cảm xúc.”

Đây, không phải là định nghĩa của Cảm Xúc hay Cảm Giác, mà đây là sự diễn dịch của Cảm Xúc và Cảm Giác. Hèn chi, khi cháu học, cháu vẫn cứ mãi mơ hồ và khó phân biệt được, đâu là Cảm Giác và đâu là Cảm Xúc, đúng nghĩa.

Quả thật đây là những chuẩn cần phải chỉnh chú ạ. Những chuẩn này, vô cùng mâu thuẫn, và thiếu độ chính xác, rõ ràng.

Này người bạn trẻ, tôi thì không chuyên về nghành Tâm Lý, nên không biết điều đó là chuẩn không cần chỉnh hay không? Nhưng nếu dựa trên sự định nghĩa, và sự quan sát nhìn sâu vào sự vận hành của Chín Thức thì định nghĩa của tự điển Hán-Việt tiếp cận với sự thật đúng hơn. Còn định nghĩa theo các nhà Tâm Lý phương Tây thì dựa trên sự phỏng đoán của Trí (Ý Thức) nhiều hơn.

Nếu chúng ta dựa theo tiêu chuẩn, và định nghĩa của cân Đúng-Sai thì nghành Tâm Lý học của Phương Tây tuy chuẩn nhưng cần Chỉnh.

Chẳng hạn như, “Cảm xúc là phản ứng, là sự rung động của con người trước tác động của yếu tố ngoại cảnh. Sự hình thành cảm xúc là một điều kiện tất yếu của sự phát triển con người.”

Trong câu này, phần định nghĩa khá chuẩn, nhưng cho rằng, “Sự hình thành cảm xúc là một điều kiện tất yếu của sự phát triển con người.” thì nên chỉnh lại là: Cảm Giác sẽ chính xác hơn.

Vì chính nhờ sự nhận biết ra từ Giác mà Ngã Thức của chúng ta mới có thể nhìn sâu hơn, sáng tạo hơn, có chọn lựa hơn. Chứ không thể nào, sự phát triển của Ngã Thức lại dựa trên sự tác động của một thói quen mà không hề có sự phân tích, tính toán, so sánh của Ý Thức.

Kiến thức của con người ngày nay, sở dĩ có chiều sâu hơn, và con người hôm nay, tiến bộ hơn, chính là nhờ sự phân tích, so sánh, tổng hợp từ Ý Thức, chứ không phải từ Vô Thức.

Trong khi, qua quan sát, chúng ta biết, Cảm Xúc bắt đầu từ Tiềm Thức mà không phải từ Ngã Thức, hay có thể nói, Cảm Xúc của chúng ta bắt nguồn từ Vô Ý Thức. Cho nên, Cảm Xúc của chúng ta, không thể nào là một điều kiện tất yếu của sự phát triển con người được.

Nếu cần chỉnh, thì đây là điều chúng ta cần nghiêm túc nhìn lại. Nhưng nếu các nhà Tâm Lý học đã khẳng định như vậy cũng không sao. Cái quan trọng nhất là, khi ứng dụng, chúng ta có muốn giải quyết được vấn đề một cách rốt ráo hay không? Nếu như, chưa hay không có thể giải quyết vấn đề một cách triệt để thì chúng ta cần chỉnh lại.

Còn nếu như mục đích của chúng ta, chỉ nhắm đến giải quyết giai đoạn, hay tạm thời thì cách diễn dịch này cũng chuẩn không cần chỉnh.

Trở lại câu hỏi của Bạn, làm sao chúng ta có thể ứng dụng cái cân Đúng-Sai hay cân Khổ Đau-An Lạc đúng cách nhất để đem đến sự hạnh phúc và An Lạc cho con người?

Cũng đơn giản thôi, cân Đúng-Sai, muốn sử dụng một cách chính xác thì chúng ta chỉ nên sử dụng cân Đúng-Sai cho chính chúng ta mà không sử dụng cân Đúng-Sai đối với người khác.

À cháu hiểu ra rồi. Có phải ý chú là, Đúng hay Sai có được là do Ý Thức của người nào đó qua qúa trình phân tích dựa trên những thông tin, dữ liệu, thu được từ kiến thức, hay từ sự tiếp xúc, học hỏi, kinh nghiệm tích lũy,v.v., kết hợp với sự chọn lựa của Ngã Thức. Và quan trọng nhất là, từ sự diễn dịch định nghĩa được “uốn nắn” để thỏa mãn cho Ngã Thức, tạo thành.

Cho nên, khi thiết lập ra tiêu chuẩn của người đó thì tiêu chuẩn đó không đúng với sự thật; mà có thể từ sự phỏng đoán từ Ý Thức, hay tưởng tượng. Vì vậy, những tiêu chuẩn đó thường lệch lạc, không chính xác.

Nhưng vì Ngã Thức của người đó Tin vào sự phỏng đoán, và cho đó là sự thật; thế nên, Ngã Thức của người đó sẽ kiên trì bảo vệ những tiêu chuẩn lệch lạc đó.

Trong khi, trên thực tế, mỗi một người trong chúng ta, ai cũng có quyền diễn dịch định nghĩa cho thích hợp với kinh nghiệm sống mà Ngã Thức của chúng ta đã tích lũy.

Vì thế, Ngã Thức của chúng ta sẽ không chấp nhận những chuẩn mực mà người khác đưa ra; từ đó, mới tạo ra sự tranh cãi, va chạm, gây ra đổ vỡ, đau thương trong cuộc sống.

Nếu mỗi người chúng ta, chỉ cần để ý và nhận thức đúng đắn được rằng, mỗi người chúng ta, ai cũng có quyền diễn dịch định nghĩa theo ý mình và nương tựa trên định nghĩa đó để tư duy hay suy nghĩ.

Và chúng ta, chỉ nên sử dụng Ý thức, phân biệt đúng sai để chỉnh lại chính mình, mà không đem sự đúng hay sai, dù có lợi hay hại của mình làm tiêu chuẩn chung hay định nghĩa chung, áp đặt, hay bắt buộc mọi người phải tuân theo, thì chúng ta sẽ sống có hạnh phúc và An Lạc hơn, có phải không, thưa chú?

Đúng vậy, hầu hết chúng ta, đều đã quen sử dụng cái cân Đúng-Sai để áp đạt thành một tiêu chuẩn chung cho người khác, mà chúng ta không biết được rằng, Cái Cân Đúng-Sai của chúng ta chỉ có giá trị riêng đối với chúng ta mà không phải cho tất cả mọi người.

Nếu chúng ta biết tôn trọng cái quyền diễn dịch này thì chúng ta sẽ không đem những niềm tin, định nghĩa, hay lý lẽ, có lợi cho chúng ta để áp đặt lên trên người khác, và bắt họ phải thay đổi định nghĩa, hay lý lẽ, theo cách của chúng ta.

Khi chúng ta có thể làm được như vậy thì chúng ta sẽ sống có sự hài hòa, yên ổn, an lạc và hạnh phúc hơn.

Nói tóm lại, cái cân Đúng-Sai chỉ nên sử dụng cho chính mình để giúp cho Ngã Thức của mình có thể hoàn thiện mình hơn, chứ không nên áp dụng đối với người khác, dù cho người đó có là ai.

Chúng ta nên tôn trọng những sự diễn dịch của họ, mà không nên phán xét theo tiêu chuẩn Đúng hay Sai mà Ngã Thức của chúng ta đã chọn.

Chúng ta chỉ có thể dùng cái cân Đúng-Sai của chúng ta với người khác, khi nào có sự yêu cầu của người đó. Và chúng ta cũng phải luôn Ý Thức rằng, cái cân Đúng-Sai của chúng ta, đối với ngưới khác, chỉ là những Ý Kiến, chứ không phải là Tiêu Chuẩn mà người đó phải tuân theo hay phải làm theo.

Có nghĩa là, chúng ta phải luôn tôn trọng quyền lựa chọn, và diễn dịch của người kia, và chúng ta không có quyền, lên án, hay chỉ trích sự diễn dịch của người khác.

Cuộc đời của mỗi người chúng ta, ai cũng có quyền chọn lựa theo những gì mình muốn diễn dịch, miễn là chúng ta phải chịu trách nhiệm trước những sự chọn lựa đó. 

Sự thật là, cho dù, chúng ta có không muốn chịu trách nhiệm đi nữa thì môi trường, hoàn cảnh, xã hội, và nhất là lương tâm của chúng ta cũng sẽ bắt chúng ta phải gánh trách nhiệm đó, như thường.

Tóm lại, cách dùng chính xác cho cân Đúng-Sai, đơn giản là, chỉ dùng cân Đúng Sai cho chính mình, và không nên sử dụng cân Đúng-Sai đối với người khác.

Vậy thưa chú còn cân Khổ Đau-An Lạc thì dùng như thế nào?

Qua sự quan sát và nhìn sâu vào các Thức, chúng ta thấy, Cảm Xúc và Cảm Giác đều phát xuất từ Ngã Thức mà không có ở các Thức khác như: Ý Thức, Thân Thể Thức, và Tiềm Thức.

Riêng Cảm Xúc, thì có sự kết hợp đặc biệt với Thân Thể Thức trong quá trình tích lũy kinh nghiệm sống còn. Cho nên, Ngã Thức đã có sự kết hợp, giữa một nguồn năng lượng này với những nguồn năng lượng khác, mà không qua sự phân tích cũng như tính toán của Ý Thức.

Nếu những nguồn năng lượng kết hợp “không tên” này chưa biến thành một thói quen thì khi nguồn năng lượng “không tên” này được phát động từ kho của Ngã Thức và xuất hiện, thì Ngã Thức có thể sử dụng Ý Thức để phân tích lợi hại và đưa ra những giải pháp để ứng phó hay kiềm chế.

Nhưng nếu những nguồn năng lượng “không tên” này đã qua Ngã Thức nhiều lần, mà Ngã Thức vẫn không sử dụng Ý Thức để nhận dạng, phân tích, hay so sánh lợi hại thì sự lập đi, lập lại nhiều lần này sẽ biến thành một thói quen.

Chức năng của Tiềm Thức là, khi một việc gì đó được lập đi, lập lại nhiều lần, biến thành một thói quen thì sẽ không đưa vấn đề này lên trên Ý Thức nữa. Mà sẽ sắp xếp những thói quen này theo sự chọn lựa, sắp xếp của Ngã Thức.

Thế nên, khi Tiềm Thức nhận được những dữ liệu mới đến từ Năm Thức, Thân Thể Thức, hay Ý Thức thì Tiềm Thức sẽ tự động khích hoạt những nguồn năng lượng “không tên” này, mà không cần đưa lên trên Ý Thức hay Ngã Thức để so sánh, phân tích, hay chọn lựa. Việc này, khiến cho Ngã Thức rơi vào trạng thái “tê liệt”, “mất tự chủ”, và chỉ hành xử dựa trên sự tác động của những nguồn năng lượng “không tên” này. 

Ngã Thức chỉ có thể làm chủ được Cảm Xúc khi nguồn năng lượng “không tên” đã “đuối sức”, “tự chấm dứt”, hay khi không còn có sự tác động của tiếp xúc. Lúc đó, Ngã Thức mới có thể sử dụng Ý Thức để phân tích lợi hại, rồi mới sinh ra cảm giác hối hận, hay hối lỗi thì cũng đã muộn màng.

Như vậy, qua sự quan sát và nhìn sâu, chúng ta có thể nói, đầu cân của Cảm Xúc tiêu cực thì đại diện cho sự Khổ Đau, và đầu cân Cảm Giác tích cực thì đại diện cho An Lạc.

Dĩ nhiên, khi chúng ta gán cho, đầu cân của Cảm Xúc tiêu cực đại diện cho Khổ Đau, và đầu cân Cảm Giác tích cực đại diện cho An Lạc, thì chúng ta phải hiểu, đó là chúng ta đang đứng trên góc độ tương đối để diễn đạt chứ không phải tuyệt đối.

Vì trên căn bản, Cảm Xúc không phải chỉ có tiêu cực không thôi, mà có khi, Cảm Xúc cũng có phần tích cực. Cũng tương tự như Cảm Giác.

Cho nên, để tránh hiểu lầm, chúng ta phải nên thêm vào những phần sau của Cảm Giác hay Cảm Xúc như: tiêu cực hay tích cực, mà không nên lược giải nó. Chính sự lược giải này, khiến cho chúng ta dễ rơi vào sự hiểu lầm, không rõ nét. Cũng chính nhờ sự  đính kèm theo tiêu cực hay tích cực, chúng ta mới có thể phân ra được, Cảm Xúc hay Cảm Giác nào có lợi để tiếp tục phát triển, và phần nào có hại để bỏ đi.

Chúng ta phải luôn luôn ghi nhớ rằng, trong Ngã Thức, không phải chỉ có phần Ác, mà còn có phần Thiện, và phần Trung Tính (Không Thiện Không Ác) nữa.

Nếu sự tiếp xúc được kết hợp với những nguồn năng lượng Thiện hay Trung Tính đã thành một thói quen thì dù có chịu sự tác động từ Tiềm Thức, Ngã Thức của chúng ta cũng có thể sẽ hưởng được sự An Lạc và hạnh phúc; thay vì, khổ đau và phiền muộn.

Điều này cũng tương tự như Cảm Giác. Tất cả đều phụ thuộc vào trong kho của Ngã Thức, đã có gì, và chọn lựa những gì.

Theo các nghiên cứu của các chuyên gia Tâm Lý, họ đã công nhận và khẳng định rằng: thông thường, mỗi ngày, chúng ta chỉ sử dụng có 5% Ý Thức, còn lại 95% chúng ta sẽ sử dụng Tiềm Thức.

Nếu như chúng ta, có nhiều cảm xúc tiêu cực, kết hợp với những nguồn năng lượng “không tên” thì cuộc sống của chúng ta sẽ chìm sâu trong khổ đau và phiền muộn.

Nếu như chúng ta, có nhiều Cảm Giác tích cực hơn thì chúng ta sẽ ít gây ra những lỗi lầm hơn; và nhờ sự biết kiềm hãm, giữ lại, không hành động một cách hồ đồ, không kiểm soát thì chúng ta sẽ sống, có An lạc và hạnh phúc hơn.

Có một điều khá thú vị, đó là, cho dù, chúng ta có sử dụng cái cân Đúng-Sai với mọi người thì cái cân cuối cùng chúng ta vẫn phải sử dụng, đó là: cái cân Khổ Đau–An Lạc. Ngược lại, khi chúng ta sử dụng cái cân Khổ Đau-An Lạc thì có khi chúng ta lại không sử dụng đến cái cân Đúng-Sai.

Chú ơi, phần này cháu không hiểu rõ lắm, chú có thể cho cháu một thí dụ để minh họa không?

Này người bạn trẻ, thí dụ như khi bạn tranh cãi với Nhật Minh về một vấn đề gì đó, mà cả hai đều có những định nghĩa khác nhau. Cho dù, bạn có đúng hay không, bạn sẽ cảm thấy thế nào?

Dạ, nếu cháu Đúng, cháu sẽ có cảm giác vui vẻ, nhất là khi anh Nhật Minh đồng ý là anh ấy sai. Còn nếu như anh ấy không chấp nhận định nghĩa của cháu, mà cháu không thể thuyết phục được anh ấy, cháu sẽ có cảm giác buồn bực và giận hờn.

Này người bạn trẻ, nếu bạn quan sát và nhìn sâu vào câu trả lời của bạn, bạn đã có câu trả lời rồi đó.

À, đúng rồi, sao cháu lại ngu ngốc thế nhỉ. Rõ ràng, ban đầu, cháu dùng cân Đúng-Sai, và sau đó, cháu lại dùng cân Khổ Đau-An Lạc.

Thay vì, cháu sử dụng cái cân Đúng-Sai trước, thì cháu nên sử dụng cái cân Khổ Đau-An Lạc trước. Như vậy, cháu có thể cân, đo, đong, đếm, xem lời nói và hành động nào của cháu sẽ gây ra Khổ Đau hay An Lạc.

Và nếu cháu muốn An Lạc, cháu sẽ chọn lựa cách ứng xử như: chấp nhận, và tôn trọng những góc độ nhìn của người khác, cháu không cần dùng đến cân Đúng-Sai mà vẫn đạt được kết quả là An Lạc.

Đúng vậy, Cho nên, nếu một người muốn sống có An Lạc, hạnh phúc nhiều hơn thì chỉ nên sử dụng cái cân Khổ Đau-An Lạc làm thước đo trong cuộc sống.

Khi Ngã Thức của chúng ta tiếp xúc với mọi sự, mọi vật, hay mọi người thì chúng ta chỉ cần quan sát nhìn sâu, cân đo, đong, đếm, cẩn thận cách ứng xử của chúng ta trên cân Khổ Đau-An Lạc.

Chúng ta chỉ nên sử dụng cái Cân Đúng Sai cho riêng bản thân mình để giúp mình hoàn thiện trở nên tốt hơn, và sống có hài hòa, yên ổn hơn.

Rất cảm ơn chú, bài học chiều nay đã khai mở cho cháu những góc độ nhìn chính xác và đúng đắn hơn.

Vang vọng từ xa, một ban nhạc, trong công viên, đang hòa tấu nhạc phẩm “Một Cõi Đi Về” của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.

Ông chú nhìn Diệu Hiền mỉm cười. Cả hai chú cháu cùng im lặng, ngồi lắng nghe, thưởng thức.

TỨ DIỆU ĐẾ

album-art

00:00

TẢI MP3 – QUẢNG BẢO TÂM
TẢI MP3 – TRƯƠNG THU HUYỀN

Chiều nay, chàng thanh niên đến gặp ông chú, chàng không đi một mình. Đi với chàng là một cô gái khá xinh xắn. Gặp ông chú, chàng thanh niên lễ phép cúi chào, rồi nói:

Xin phép chú, chiều nay cháu xin được dẫn theo người bạn gái của cháu, đến xin gặp chú. Cháu xin được giới thiệu với chú, đây là Diệu Hiền.

Diệu Hiền mỉm cười, cúi đầu chào ông chú, rồi nói:

Cháu rất hân hạnh được gặp chú.

Thưa chú, cháu đã được nghe anh Nhật Minh nói rất nhiều về những chia xẻ của chú. Cháu rất ngưỡng mộ chú, và đã năn nỉ anh Nhật Minh nhiều lần, xin được đến gặp chú, nhưng mãi đến chiều nay, anh Nhật Minh mới đồng ý.

Cháu không biết, việc làm đường đột của hai cháu có làm chú phiền lòng hay không? Nếu có, cháu thành thật xin lỗi chú. 

Sở dĩ, cháu phải mạo muội đến xin gặp chú, vì cháu có một vấn đề, mà cháu đã thắc mắc bấy lâu nay, nhưng vẫn chưa giải đáp được. Không biết chú có vui lòng giúp cháu không?

Ông chú nhìn Diệu Hiền mỉm cười, nói:

Bạn thật khách sáo. Tôi chẳng có gì phiền lòng cả. Rất vui khi được gặp hai bạn. Nào, mời hai bạn cùng ngồi xuống, nghỉ chân đã.

Diệu Hiền và Nhật Minh nghe ông chú mời, cùng ngồi xuống thảm cỏ xanh êm ái, mặt đối diện với ông chú.

Ông chú lên tiếng. Thật ra, kinh nghiệm sống của tôi cũng có giới hạn. Thế nên, vấn đề mà bạn thắc mắc, chưa chắc tôi đã có kinh nghiệm để chia xẻ lại với bạn. Này bạn, nếu như thắc mắc của bạn vượt quá kinh nghiệm của tôi, tôi sẽ không thể chia xẻ gì với bạn cả. Mong bạn thứ lỗi cho.

Cháu biết chú khiêm tốn thôi, chứ vấn đề của cháu đối với chú chỉ là “chuyện nhỏ”.

Này bạn, tôi thích đôi chân của tôi đi trên mặt đất hơn trên mây, bạn nhé. Ông chú nói.

Diệu Hiền cười to. Cháu nói thật đấy chú. Cháu không thích tâng bốc, hay nâng “tầng” ai đâu. Sỡ dĩ, cháu nói vậy, là vì, anh Nhật Minh là người rất ít khi ngưỡng mộ một ai. Chỉ riêng với chú, anh Nhật Minh luôn miệng đề cập đến chú trong những khi chúng cháu chia xẻ. Cho nên, cháu mới dám nói, vấn đề thắc mắc của cháu chỉ là chuyện nhỏ đối với chú đó mà.

Vậy sao bạn Diệu Hiền không nhờ bạn Nhật Minh giúp bạn giải đáp thắc mắc của bạn?

Dạ, cháu cũng đã nhờ, nhưng anh Nhật Minh bảo, chú sẽ có nhiều kinh nghiệm hơn nên sẽ giúp cháu dễ hiểu hơn.

Vậy vấn đề Bạn Thắc mắc là gì?

Dạ, thưa chú, Tứ Diệu Đế.

Thưa chú, trong tất cả kinh điển của Phật Giáo thì cháu tâm đắc nhất với Tứ Diệu Đế. Bởi vì, Tứ Diệu Đế liên quan đến chuyên nghành của cháu là Tâm Lý học.

Tuy là bác sĩ về tâm lý đã nhiều năm, nhưng cháu vẫn cảm thấy, nghành Tâm Lý học của phương Tây có rất nhiều vấn đề, nhất là trong phương pháp giải quyết các vấn đề liên quan đến tâm lý.

Một trong những vấn đề quan trọng nhất, đó là: các bác sĩ tâm lý, sau một thời gian giúp bịnh nhân chữa trị tâm lý thì chính họ lại trở thành bịnh nhân tâm lý do những bịnh nhân của họ tạo ra, và luôn cần sự hỗ trợ, chữa trị, từ một bác sĩ tâm lý khác.

Đây đúng là chuyện khôi hài. Ai nghĩ sao, cháu không biết, nhưng với cháu, đó là điều không thể chấp nhận được.

Cháu biết, trong đạo Phật có Phương Pháp Tứ Diệu Đế, và cháu cũng biết, phương pháp Tứ Diệu Đế rất tuyệt vời. Nhưng vì kinh nghiệm và kiến thức của cháu còn nông cạn. Cho nên, khi ứng dụng phương pháp Tứ Diệu Đế vào chữa trị cho bịnh nhân, cháu cũng chưa đạt được hiệu quả như cháu mong muốn.

Vì vậy, cháu mới xin anh Nhật Minh giúp cháu đến gặp chú, mong chú có thể giúp cháu.

Đúng như bạn nói, Tứ Diệu Đế quả thật là một phương pháp tuyệt vời trong việc giúp cá thể giải quyết tất cả mọi vấn đề một cách rốt ráo để đạt được trạng thái An Lâu Dài. Nhưng muốn hiểu và áp dụng đúng cách của Tứ Diệu Đế, thì cho đến nay, cũng ít ai chia xẻ một cách đúng đắn về phương pháp này. Vậy theo như kinh nghiệm và hiểu biết của bạn, Tứ Diệu Đế là gì?

Thưa chú, theo kinh nghiệm của cháu, Tứ Diệu Đế là Bốn Sự Thật vi diệu, bao gồm: Khổ Đế, Tập Đế, Diệt Đế và Đạo Đế.

Theo Định Nghĩa:

  • Khổ Đế là thực trạng đau khổ của con người hay bản chất của khổ đau
  • Tập Đế là nguồn gốc hay nguyên nhân dẫn đến thực trạng của đau khổ
  • Diệt đế là sự chấm dứt hay kết thúc của khổ đau
  • Đạo đế là con đường, hay phương pháp thực hành dẫn đến chấm dứt sự khổ đau

Đúng trên góc độ sắp xếp theo thứ tự thì:

  • Khổ Đế là Đế thứ Nhất
  • Tập Đế là Đế thứ Hai
  • Diệt Đế là Đế thứ Ba
  • Đạo Đế là Đế thứ Tư

Đây là thắc mắc đầu tiên của cháu về cách thức sắp xếp thứ tự của Tứ Diệu Đế; theo cháu, có vẻ như, cách sắp xếp này không ổn, chú ạ.

Thí dụ như, nếu không tìm ra được con đường hay phương pháp giải quyết khổ đau (Đạo Đế) thì làm sao chúng ta có thể chấm dứt, hay kết thúc được sự khổ đau (Diệt Đế).

Nhưng ở đây, lại là sự sắp xếp thứ tự trong kinh điển đã có mấy ngàn năm. Nếu thật sự không ổn thì phải có nhiều người lên tiếng, hay chỉnh sửa lại. Sự thật, cho đến nay, cháu vẫn chưa thấy có ai.

Chính vì vậy, cháu rất hoang mang, nên khi cháu ứng dụng phương pháp Tứ Diệu Đế vào chữa bịnh thì cháu luôn bị bế tắc ở đâu đó. Không biết, có phải sự sắp xếp đó có một “ẩn ý” gì sâu xa mà cháu chưa hiểu được không, mong chú có thể giải thích dùm cháu.

Dĩ nhiên, tôi có thể chia xẻ với bạn về những “ẩn ý” này, nhưng bạn có thể cho tôi hỏi, nếu như cho bạn sắp xếp lại thì bạn sẽ sắp xếp thứ tự như thế nào?

Cháu sẽ sắp xếp theo thứ tự: Khổ Đế, Tập Đế, Đạo Đế và cuối cùng là Diệt Đế.

Tại sao bạn lại sắp xếp thứ tự như thế? Ông chú hỏi.

Theo Cháu, nếu xếp theo lối cũ có 2 điều không đúng với trình tự và lý luận:

  • Nếu đã có sự chấm dứt khổ đau rồi thì tìm ra phương pháp giải quyết để làm gì. Thế nên, chúng ta không cần đến Đạo Đế nữa, mà chỉ cần Tam Đế là đủ. Như vậy sẽ hợp lý hơn.
  • Còn nếu như, muốn chấm dứt khổ đau thì phải có phương pháp trước, rồi khi áp dụng các phương pháp để giải quyết các vấn đề xong, mới đem đến kết quả là chấm dứt khổ đau. Cho nên, Đạo Đế phải xếp thứ Ba trước Diệt Đế, như vậy, mới hợp lý và tránh gây ra hiểu lầm.

Rất hợp lý, và tôi cũng đồng ý với cách sắp xếp của bạn. Bây giờ, chúng ta hãy cùng quan sát cách sắp xếp theo lối cũ, xem các tiền nhân của chúng ta có ẩn ý gì?

Trước hết, chúng ta hãy quan sát trong kinh Chuyển Pháp Luân (Tương Ưng & Tạp A Hàm) đã giảng giải về Tứ Diệu Đế ra sao?

1) Khổ Đế (Dukkha): Khổ đau là một thực trạng mà con người cảm nhận từ lúc mới lọt lòng mẹ cho đến khi nhắm mắt xuôi tay, không ai phủ nhận điều này. Con người của chúng ta luôn có xu hướng muốn vượt thoát khổ đau, và tìm kiếm an lạc, hạnh phúc. Nhưng vì họ không hiểu rõ được bản chất của khổ đau, nên họ đã không tìm ra được lối thoát thực sự; đôi khi ngược lại, họ càng tìm kiếm hạnh phúc, an lạc nhiều bao nhiêu thì họ lại càng tạo ra thêm khổ đau, phiền não, nhiều bấy nhiêu.

Theo Khổ Đế, Khổ có thể chia ra làm 3 phương diện như sau:

  1. a) Về Phương Diện Sinh Lý: Khổ là một cảm giác khó chịu, bức bối, đau đớn, v.v có được từ Thân.

Thí dụ như: da bị trầy xướt vì té ngã, hay một hạt cát bay vào trong mắt; tạo ra cảm giác khó chịu và đau đớn trên thân thể, thì những sự đau đớn, hay khó chịu này gọi là sự đau đớn, hay khó chịu, về thể xác. Đúng như câu Lão Tử đã nói: Có thân mới có khổ (Ngô hữu đại hoạn do ngô hữu thân).

  1. b) Về Phương Diện Tâm Lý: Khổ nẩy sinh do không được toại ý, không vừa lòng. Hay những mất mát, thua thiệt trong cuộc đời. Hay người mình thương muốn gần mà không được; người mình ghét mà cứ gặp gỡ hoài; Những ước mơ không được toại ý, lòng luôn khát khao mong đợi, bức bách v.v, tạo nên sự bi quan, chán chường, phiền muộn, lo âu. Đây là những nỗi khổ thuộc về tâm lý.
  2. c) Khổ Là Sự Chấp Thủ Năm Uẩn: Cái khổ thứ ba, bao gồm hai cái khổ trên, gọi là: “Chấp thủ năm uẩn là khổ”.

Theo ý kinh, năm uẩn là năm yếu tố nương tựa vào nhau để tạo ra con người, bao gồm: thân thể vật lý, và cấu trúc tâm lý như: hình tướng, cảm giác, niệm tưởng, hành và thức (sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Khi chúng ta bám víu vào 5 yếu tố trên, và có nhận thức sai lầm rằng: 5 uẩn đó là tôi, là của tôi, là tự ngã của tôi thì sự khổ đau sẽ có mặt. Ý niệm về “thân thể của tôi”, “tình cảm của tôi”, “tư tưởng của tôi”, “tâm tư của tôi”, “nhận thức của tôi”, v.v, hình thành một cái tôi ham muốn, vị kỷ; từ đó, mọi khổ đau phát sinh. Mọi khổ đau, lo âu, sợ hãi, thất vọng, điên cuồng, đều gắn liền với ý niệm về “cái tôi” ấy.

Tóm lại, cái khổ về mặt hiện tượng là cảm giác khổ về thân, sự bức bối của hoàn cảnh, sự không toại nguyện của tâm lý. Về mặt bản chất, khổ đau là do sự chấp thủ, ngã hóa từ năm uẩn mà ra.

2) Tập Đế (Samudaya): Tập là tích tập, tụ tập các phiền não lại tạo thành năng lực đưa đến khổ đau; đây là nguyên nhân, là nguồn gốc của các khổ. Khi nhận thức được bản chất của khổ một cách rõ ràng, chúng ta mới có thể đi vào con đường, đoạn diệt khổ đau (Đạo đế).

Cuộc đời là khổ hay không? Chọn lựa câu trả lời nào, tùy thuộc vào trạng thái tâm lý, cảm thọ, và nhận thức của mỗi người. Nguyên nhân của khổ có nguồn gốc sâu xa từ trong tâm tưởng, hay sự lựa chọn của con người.

Theo Phật giáo, các nguyên nhân chính của đau khổ, không phải phát sinh chính từ vật chất, hay hoàn cảnh xã hội, mà gốc rễ chính là từ tâm thức của mỗi cá thể.

Chẳng hạn như, một trong nguyên nhân của khổ thường được các kinh đề cập đến là sự tham ái; vì có sự tham ái mà sinh ra chấp thủ, bám víu vào các đối tượng của tham ái. Rồi từ sự chấp thủ này, sinh ra sự khao khát, mong muốn. Và khi sự khao khát, mong muốn, không được thỏa mãn, hay toại nguyện thì sẽ nẩy sinh ra sự khổ đau.

Và nếu chúng ta cứ tiếp tục nhìn sâu hơn thì chúng ta thấy, chấp thủ cũng chưa phải là nguyên nhân hay gốc rễ chính của sự tham ái, mà sự tham ái này lại bắt đầu bằng vô minh.

Vô Minh tức là không sáng suốt, si mê, không thấy rõ bản chất của sự vật hiện tượng đều nương vào nhau mà sinh khởi, đều vô thường và chuyển biến, không có cái chủ thể, cái bền vững độc lập ở trong chúng.

Chính vì, chúng ta không nhận thức được rõ ràng, nên chúng ta sinh ra tâm tham muốn, ôm giữ lấy các đối tượng lạc thú. Từ đó, mới lầm tưởng rằng, “cái tôi” là quan trọng nhất, là cái có thật cần phải bám víu, củng cố, và cần phải thỏa mãn nhu cầu của nó, bằng bất cứ giá nào. Chính vì vậy, mà tạo những nỗi thống khổ của cuộc đời.

Tóm lại, cuộc đời của chúng ta khổ hay không đều bắt nguồn từ những nhận thức của chúng ta như thế nào.

Nếu nhận thức của chúng ta bị cuốn hút vào sự tham lam do vô minh thì tâm thức của chúng ta sẽ sinh ra chấp thủ. Khi tâm thức của chúng ta bắt đầu chấp thủ thì chúng ta bắt đầu sản sinh ra khổ đau.

Nếu như nhận thức của chúng ta không khởi đầu bằng sự chấp ngã, dục vọng, vị kỷ hay phiền não; và không bị những yếu tố này khuấy động, chi phối, hay ngự trị trong tâm thức của chúng ta thì cuộc đời của chúng ta sẽ sống có an lạc, hạnh phúc.

3) Diệt Đế (Nirodha): Diệt là chấm dứt, là dập tắt. Diệt Đế là sự chấm dứt hay dập tắt phiền não, nguyên nhân đưa đến đau khổ, và sự chấm dứt khổ đau; cũng có nghĩa là hạnh phúc, an lạc. Diệt Đế đồng nghĩa với Niết Bàn (Nirvana).

Đạo Phật xác nhận rằng: cuộc đời này, có đầy dẫy những đau khổ, đó là sự thật. Nhưng đạo Phật cũng xác định rằng: có một sự thật khác nữa, đó là An Lạc. Theo đạo Phật, ai trong chúng ta, cũng có thể đạt được sự thật về An Lạc.Vậy theo đạo Phật, An Lạc là gì?

Trong giáo lý của đạo Phật, An Lạc được phân chia thành hai phần: An Lạc Tương Đối và An Lạc Tuyệt Đối.

  1. An Lạc Tương Đối: An Lạc Tương Đối là sự An Vui có được, khi chúng ta đã làm lắng dịu lòng tham ái, chấp thủ, những nỗi lo âu, sợ hãi, bất an, đã giảm hẳn; và thân tâm trở nên thanh thản, đầu óc tỉnh táo; giúp chúng ta nhìn mọi vấn đề trở nên đơn giản, và rộng rãi hơn.
  2. An Lạc Tuyệt Đối: An Lạc Tuyệt đối cũng là sự An Vui, dựa trên sự ứng dụng tuệ quán, hướng tâm đến đoạn trừ toàn bộ phiền não vi tế, thâm sâu, để đạt đến sự tuyệt đối, và tối thượng là Niết Bàn. Diệt Đế chính là Niết Bàn. Niết Bàn là sự Thanh Tịnh, hay là sự An Lạc Tuyệt Đối.

4) Đạo đế (Magga): Đạo là con đường, là phương pháp thực hiện để đạt được an lạc, hạnh phúc trong đời sống hàng ngày, hay An Lạc Tuyệt Đối-Niết Bàn.

Như vậy, nếu chúng ta dựa trên sự diễn giải của kinh Chuyển Pháp Luân, chúng ta có thể hiểu, Tứ Diệu Đế trong kinh điển của Phật giáo, được trình bầy dưới dạng của người Thể Nghiệm, bao gồm Tam Đế: Khổ Đế, Tập Đế và Diệt Đế, ứng dụng trong sự thực tập để đạt được trạng thái An Lạc của một cá thể; và Đạo Đế, được trình bầy dưới dạng Dụng Nghiệm, làm sao ứng dụng sự An Lạc của cá thể đó trong đời sống hằng ngày.

Hay nói khác hơn, ở đây, Tứ Diệu Đế bao gồm luôn cả hai phạm trù: Thể Nghiệm và Dụng Nghiệm vào chung một phương pháp.

Đó chính là phần “ẩn ý” của tiền nhân mà bạn thắc mắc.

Rất đồng ý với bạn, khi nói về ứng dụng thì Tứ Diệu Đế theo lối cũ đã thiếu một phần, đó là, trước Diệt Đế phải thêm phần Đạo Đế. Nếu không có Đạo Đế thì không thể có Diệt Đế được.

Hơn nữa, Đạo Đế của người Thể Nghiệm thì khác với Đạo Đế của người Dụng Nghiệm. Cho nên, không thể dùng Đạo Đế của Dụng Nghiệm để thay thế cho Thể Nghiệm được. Và nếu khiên cưỡng, bắt buộc phải thay thế thì Đạo Đế vẫn phải xếp trên Diệt Đế, chứ không thể xếp theo lối cũ.

Cám ơn chú, bây giờ thì cháu đã hiểu được Tứ Diệu Đế một cách rõ ràng hơn. Nhưng cháu vẫn còn chút thắc mắc, phần Đạo Đế đứng trước Diệt Đế sẽ ứng dụng như thế nào?

Đạo Đế là phương pháp giải quyết vấn đề, nếu đem so với phương pháp của phương Tây, cũng không khác mấy. Chẳng hạn, đối với phương pháp giải quyết vấn đề của phương Tây, họ chú trọng vào câu hỏi “Làm Sao – How”, hơn là chú trọng vào câu hỏi “Tại Sao – Why” như phương pháp của Tứ Diệu Đế.

Hay nói một cách rõ ràng hơn, theo phương pháp của phương Tây, họ thiếu phần Tập Đế (câu hỏi tại sao). Chính vì không hỏi Tại Sao, nên phương pháp giải quyết vấn đề của phương Tây chỉ giải quyết được phần ngọn mà không giải quyết được phần gốc. Cho dù, họ có thể giải quyết được vấn đề thì họ cũng chỉ đạt được trạng thái An tạm thời ngắn hạn, và khi phần ngọn đó lại phát sinh, nẩy nở thì lại tạo ra sự bất an kế tiếp. 

Còn Tứ Diệu Đế theo lối cũ, có phần Tập Đế, tức là sử dụng câu hỏi tại sao, rất nhiều lần, cho đến khi tìm ra gốc rễ. Cho nên, khi kết hợp với Đạo Đế là phương pháp giải quyết thì sẽ đạt được trạng thái An kéo dài.

Rõ ràng, khi gốc rễ gây ra vấn đề đã bị đứt đoạn thì phần ngọn không thể nẩy nở phát sinh. Tiếc thay, phương pháp trong Tứ Diệu Đế lại thiếu phần Đạo Đế (câu hỏi làm sao). Vì vậy, khiến cho nhiều người, khi ứng dụng, dễ rơi vào bế tắc, không biết nên dùng cách nào cho có hiệu quả.

Ồ, thì ra là thế. Cháu bây giờ mới hiểu rõ được nguyên nhân tại sao, nhiều bịnh nhân của cháu, sau khi được cố vấn những cách giải quyết vấn đề, thì họ chỉ được một thời gian ngắn có được An Vui. Nhưng sau đó, những vấn đề đó lại tiếp tục phát sinh.

Có nhiều người, có một vấn đề, khi trong quá trình trị liệu thì dứt hẳn, nhưng khi trở lại môi trường sống của họ thì họ lại có vấn đề như ban đầu.

Thưa chú, vậy chú có thể chia xẻ với cháu, làm sao ứng dụng Tứ Diệu Đế vào cách trị liệu trong tâm lý không?

Được chứ. Nếu chuyên nghành của bạn về Tâm Lý thì chúng ta sẽ không sử dụng ngôn ngữ của Tứ Diệu Đế, mà chúng ta có thể chuyển hẳn qua những ngôn ngữ của khoa Tâm Lý như:

Bốn Bước Để Giải Quyết một vấn đề, như sau:

Bước 1: Xác Định Mình Có Vấn Đề

Bước 2: Nguyên Nhân Tạo Ra Vấn Đề

Bước 3: Phương Pháp Giải Quyết Vấn Đề

Bước 4: Thời Gian Giải Quyết Vấn Đề

Dĩ nhiên, hai chữ “vấn đề” dùng ở đây, bao gồm tất cả những nguồn cảm xúc/giác như: phiền muộn, tức giận, ganh ghét, thù hận, đau khổ, hạnh phúc, vui vẻ v.v.

Hay quá! Chú có thể giảng giải chi tiết từng bước một cho cháu không?

Được chứ, Này người bạn trẻ, phần đông chúng ta vẫn có một thói quen là “coi thường” vấn đề. Khi có một vấn đề, đa phần chúng ta thường chọn cách “coi như không có vấn đề”, hoặc “vấn đề đó nhỏ, không cần phải giải quyết”, v.v.

Dù cho chúng ta chọn cách nào thì đó cũng chỉ là những lý lẽ “ngụy biện” của “bản ngã” để trốn tránh, không muốn đương đầu với vấn đề.

Trong Tâm Lý học của phương Tây, hay Duy Thức học của phương Đông thì Tâm Thức của một cá thể được chia ra làm ba Thức, gồm: Ý Thức, Ngã Thức, và Tàng/Tiềm Thức hay Căn Bản Thức (Duy Thức học).

Trong Duy Thức học, ngoài 3 Thức trên, còn có thêm 5 Thức khác, bao gồm: Nhãn Thức, Nhĩ Thức, Tỷ Thức, Thiệt Thức, và Thân Thức, gộp chung gọi là Tám Tâm Vương hay Tám Thức.

Ở đây, chúng ta dùng phương pháp của phương Tây, nên chỉ bàn về cách dùng ba Thức mà thôi.

Về công dụng, thì chức năng của ba Thức được phân chia như sau:

Chức năng của Ý Thức:

  • Phân tích, nhận diện, tính toán, tổng hợp, so sánh, phỏng đoán, tưởng tượng
  • Ngôn ngữ chính: lời nói, chữ
  • Trí nhớ: tạm thời
  • Về sự vận hành hay hoạt động của Ý thức, thì Ý thức có thể nhận thông tin, và dữ liệu từ ba chiều. Chiều thứ nhất: đến từ năm giác quan: Mắt Mũi, Tai, Lưỡi và Thân. Chiều thứ hai: từ tư tưởng và cảm giác bên trong Bản Ngã, và chiều thứ ba: từ Tiềm Thức.

Sau khi nhận được những thông tin, dữ liệu, hay vấn đề từ ba chiều thì Ý Thức sẽ tùy theo những đòi hỏi của những thông tin, rồi tiến hành những quá trình như phân tích, tổng hợp, tính toán, nhận dạng, v.v. qua việc sử dụng hầu hết các dữ liệu từ kho dữ liệu của Tiềm Thức.

Nếu trong qúa trình đang tìm ra phương pháp đang tiếp diễn thì Ý Thức sẽ sử dụng bộ nhớ ngắn hạn của Ý Thức để ghi nhớ. Khi đã giải quyết xong các thông tin, hay vấn đề thì Ý Thức sẽ đem toàn bộ thông tin hay vấn đề đó gởi vào bộ nhớ lâu dài của Tiềm Thức.

Chức năng của Tiềm/Tàng Thức:

Tàng thức, hay Tiềm Thức, hay Căn Bản Thức là Thức ở ẩn sâu bên trong, với chức năng quan trọng nhất là: Khởi đầu và kết hợp với Thân Thể Thức để duy trì mạng sống của cá thể.

Gần như, 95% trong ngày, con người của chúng ta sử dụng Tiềm Thức, và chỉ có 5% là sử dụng Ý Thức. Thế nên, Ý Thức chỉ hoạt động trong giai đoạn ngắn trong ngày, như khi cần phải phân tích hay tính toán một dữ liệu, hay thông tin gì đó, mà Ngã Thức, Thân Thể Thức, hay Tiềm Thức đòi hỏi. Nếu không có sự đòi hỏi của các Thức, thì Ý Thức luôn vắng mặt, đặc biệt nhất khi chúng ta ngủ. Ngược lại, Tiềm Thức thì hoạt động liên tục trong 24 giờ, không ngừng nghỉ. Khi Tiềm Thức và Thân Thể Thức của một cá thể ngừng nghỉ, thì cũng là lúc cá thể đó chia tay cuộc đời.

Ngoài chức năng quan trọng nêu trên, Tàng Thức/Tiềm Thức còn có rất nhiều chức năng khác như:

  • Kho chứa tất cả các thông tin, dữ liệu từ 5 giác quan, Ý Thức, Ngã Thức và Thân Thể Thức
  • Duy trì bộ nhớ lâu dài và nối kết các thông tin dữ liệu, có khả năng sáng tạo
  • Đòi hỏi những thông tin, dữ liệu, hoặc vấn đề chưa được giải quyết triệt để, để tạo sự hoàn chỉnh
  • Cung cấp thông tin liên tục cho Ngã Thức.
  • Ngôn ngữ Chính: Hình Ảnh.
  • Chính vì không có các chức năng như phân tích, tính toán, tổng hợp, v.v của Ý thức, nên Tiềm Thức không có thể phủ định, cũng như, không có qúa khứ và tương lai.

Thời gian hoạt động mạnh nhất của Tiềm thức, là khi Ngã Thức và Ý Thức ngưng hoạt động.

Thí dụ: Khi cá thể ngủ, thì Ý Thức và Ngã Thức đều tạm ngừng hoạt động, và chỉ có Tiềm Thức hoạt động. Những giấc mơ đến với cá thể, chính là qúa trình sắp xếp, kết nối các thông tin, và dữ liệu thu thập trong ngày. Khi Ý thức hay Ngã Thức hoạt động thì Tiềm Thức lại ẩn vào trong, và nhường quyền hoạt động lại cho Ý Thức hay Ngã Thức.

Chức năng của Ngã Thức: hay Thức về cái tôi, hay Bản Ngã, là thức được ẩn sâu bên trong.

Chức năng quan trọng nhất của Ngã Thức, đó là:

  • Thành trì trú ngụ và phát sinh cảm xúc/giác
  • Đạo đức
  • Danh dự
  • Niềm tin qua kinh nghiệm tích lũy v.v.

Khi Cảm Xúc/Giác, hay Đạo Đức, hay Niềm Tin, v.v của cá thể, bị tác động từ những dữ liệu của 5 giác quan gởi về kho Tiềm Thức, hay từ Thân Thể Thức, hay do những vấn đề tích tụ dưới kho Tiềm Thức chưa được giải quyết một cách triệt để, trồi lên trên Ý Thức đòi giải quyết, thì Cảm Xúc/Giác tiêu cực bị tác động mạnh, gây ra khổ đau, phiền muộn cho cá thể. Lập tức, Ngã Thức sẽ khích hoạt cơ chế tự bảo vệ, và sử dụng Ý Thức để phân tích, tổng hợp, tính toán, các cách thức chống trả, hay trốn chạy.

Trong Ngã Thức, vì có chức năng Đạo Đức, nên trong Ngã Thức được chia làm ba phần, gồm các cặp đối lập như: Thiện-Ác; Tích Cực-Tiêu Cực, v.v., và phần thứ ba, Trung Tính – không Thiện, không Ác… Vì có sự đối lập của chức năng Đạo Đức trong Ngã Thức, nên cá thể khó có thể duy trì được sự quân bình liên tục. Vì vậy, hay tạo ra sự xáo trộn (bất An) trong Ngã Thức.

Thật ra, Ý Thức và Tiềm Thức của một cá thể, được phân chia, nhằm giúp cho chúng ta hiểu được các chức năng, và hoạt động của mỗi thức khác nhau như thế nào. Nhưng trên thực tế, Ngã Thức mới chính là chủ nhân ông của các thức; còn Ý thức và Tiềm Thức, chỉ là công cụ cho Ngã Thức sử dụng. Cho nên, trong Ý Thức và Tiềm Thức đều không có cảm xúc như: vui sướng, buồn phiền, khổ đau, an lạc. Tất cả những cảm xúc/giác đó đều nằm gọn trong Ngã Thức.

Nếu Ngã thức của cá thể nghiêng về phần thiện, tích cực nhiều hơn thì cá thể đó sống hạnh phúc, an lạc nhiều hơn. Nếu ngược lại, thì đau khổ nhiều hơn.

Dĩ nhiên, đề tài liên quan đến Ý Thức, Tiềm Thức, và Ngã Thức là một đề tài lớn, chúng ta cần phải có rất nhiều thời gian mới có thể hiểu sâu sắc, và biết ứng dụng về ba Thức một cách linh hoạt và chính xác được.

Nhưng ở đây, chúng ta chỉ cần nắm những chức năng căn bản của ba Thức nêu trên, thì chúng ta đã có thể ứng dụng cho Phương Pháp Bốn Bước Giải Quyết Một Vấn Đề một cách triệt để.

Nào, chúng ta hãy trở lại Bước 1: Xác Định Mình Có Vấn Đề.

Tại sao lại phải xác định mình có vấn đề?

Đơn giản, là vì, khi chúng ta không xác định chúng ta có vấn đề thì làm gì chúng ta có vấn đề để giải quyết. Vấn đề chỉ trở thành vấn đề, khi vấn đề đó, tác động lên vùng cảm xúc/giác. Và vùng cảm xúc/giác bị tác động nhiều nhất là vùng cảm xúc/giác tiêu cực.

Khi vùng cảm xúc/giác tiêu cực bị khích hoạt thì những cảm xúc/giác tiêu cực như: giận dữ, bực tức, khó chịu, chán nản, thù ghét, v.v, sẽ đại diện cho Ngã Thức và sai sử Ý Thức tìm cách chống trả để làm dịu đi những cảm xúc/giác tiêu cực đó.

Ý Thức khi nhận lệnh từ những cảm xúc/giác tiêu cực sẽ sử dụng kho dữ liệu từ Tiềm Thức, để phân tích, tính toán, so sánh những kinh nghiệm, hay kiến thức trong qúa khứ, để tìm ra cách thức, hay phương pháp chống trả làm sao có thể thỏa mãn cho những cảm xúc/ giác tiêu cực.

Nếu trong qúa trình chống trả, mà những phương pháp, hay cách thức của Ý Thức bị thua kém đối thủ, hay bị đối thủ tấn công ngược lại (trong trường hợp có chủ thể và đối tượng), thì cảm xúc/giác lại tiếp tục thúc đẩy Ý Thức tiếp tục tìm ra những giải pháp khác.

Nếu như Ý Thức đã sử dụng hết những kinh nghiệm, hay kiến thức có được trong Tiềm thức rồi mà vẫn không thể tìm ra cách thức chống trả, và bỏ cuộc, thì Ngã Thức bị đuối lý.

Khi bị đuối lý, Ngã Thức sẽ rơi vào trong hai trạng thái: một là chấp nhận thua cuộc, hai là không chấp nhận thua cuộc.

Khi Ngã thức chấp nhận thua cuộc, cộng thêm với những cảm xúc/giác tiêu cực liên tục đang có, và việc thua cuộc xẩy ra rất nhiều lần thì khích hoạt cảm giác tự ty mặc cảm.

Nếu như Ngã thức không chấp nhận thua cuộc thì sẽ gia tăng cảm xúc/giác tiêu cực với đối thủ, bắt đầu từ nhẹ đến nặng như: ganh, ghét, thù, hận, v.v bắt đầu được nâng cấp.

Tất cả những hậu quả, dù là chấp nhận hay không của Ngã Thức đều được đưa trở lại trong kho dữ liệu của Tiềm Thức để gìn giữ trong phần kinh nghiệm, và hình thành cá tính của cá nhân.

Ngã thức sẽ sử dụng những kinh nghiệm hay cá tính chọn lọc này để tiếp tục sinh hoạt với chính mình, hay đối với người khác.

Như vậy, qua sự quan sát nhìn sâu vào căn bản của ba Thức, chúng ta thấy rằng: đứng trên góc độ có chủ thể và đối tượng thì sự hoạt động của cả ba Thức, đều dựa trên những cảm xúc/giác của cá thể để đưa ra cách ứng xử, phản ứng với đối tượng như thế nào.

Nhưng nếu đứng trên góc độ của cá nhân, khi có chủ thể là chính mình, và đối tượng là các cảm xúc/giác của mình thì sự vận hành của ba Thức sẽ khác. Vì sao?

Vì có đối tượng là các cảm xúc/giác của chính mình mà không phải từ người khác, nên đứng trên góc độ của cá nhân thì đa phần lại từ Ngã Thức, Thân Thể Thức, và Tiềm Thức của người đó, chứ không phải từ một người nào đó tạo tác.

Như chúng ta đã biết, một trong những chức năng của Tiềm Thức là sắp xếp, và liên kết các thông tin và dữ liệu.

Trong quá trình thu thập, sắp xếp, và liên kết các thông tin dữ liệu trong một ngày, bao gồm: từ năm giác quan, Ý Thức và Ngã Thức, thì Tiềm Thức có thể sẽ đem những vấn đề mà cá nhân đã cố gắng đè nén, trốn tránh, không chịu giải quyết một cách triệt để, lên trên Ý Thức, và sử dụng khả năng phân tích, tổng hợp của Ý Thức để giải quyết.

Vì đã là những vấn đề không được giải quyết, có nghĩa là, trong qúa khứ, Ý Thức của cá nhân đó đã tận dụng hết khả năng nhưng vẫn không giải quyết được; nên Ngã Thức mới  phải dùng đến khả năng đè nén, trốn chạy để không phải suy nghĩ đến nữa.

Nay, Tiềm Thức lại cũng đem những vấn đề đó lên, cộng thêm những vấn đề mới, và đòi Ngã Thức phải giải quyết, khiến cho cảm xúc/giác tiêu cực của Ngã Thức luôn bị khích hoạt, và khiến cho Ngã Thức luôn rơi vào trong trạng thái bất An, đau khổ.

Khi con người của chúng ta cô đơn, đó là lúc mà Ý và Ngã Thức của chúng ta ít hoạt động nhất; đó cũng chính là cơ hội cho Tiềm Thức hoạt động. Nhưng trong những trường hợp đặc biệt, có liên quan đến sự sống còn của cá thể, thì cho dù, ngay cả khi Ý và Ngã Thức đang hoạt động, Tiềm Thức cũng sẽ lấn quyền Ý và Ngã Thức, và đòi hỏi Ý và Ngã Thức phải giải quyết các vấn đề do Tiềm Thức đòi hỏi một cách nhanh nhất, hay cho đến khi nào có giải đáp thích đáng.

Đa phần, Tiềm Thức ít khi sử dụng quyền này, và thường nhượng bộ Ý và Ngã Thức, cho đến khi, cá thể đó rơi vào trạng thái cô đơn thì Tiềm Thức mới bắt đầu hoạt động.

Thế nên, khi con người cô đơn thì những vấn đề chưa được giải quyết, hay giải quyết chỉ mang tính cách tạm thời sẽ liên tục xuất hiện trên bề mặt của Ý Thức, và bắt Ý Thức phải hoạt động để tìm ra giải pháp.

Chính vì thiếu hiểu biết, nên chúng ta thường “coi” cô đơn như là một “kẻ thù” luôn “gieo rắc” những khổ đau cho chúng ta; mà chúng ta không biết được, công dụng đặc biệt của cô đơn, chính là đang cho chúng ta những cơ hội để sửa sai, chấn chỉnh, hay đi tìm ra gốc rễ của vấn đề và đi giải quyết vấn đề một cách triệt để.

Cuộc đời của chúng ta đã không biết bao nhiêu lần, Ngã Thức của chúng ta đã lựa chọn trốn chạy, hay tự đánh lừa bản thân mình rằng: mình không có vấn đề.

Ngã Thức của chúng ta đã không biết bao nhiêu lần dùng sự đè nén, hay chồng chất những vấn đề khác lên trên nhau để ngụy biện, hay tự đánh lừa chính mình rằng: mình không có vấn đề.

Nhưng với sự hoạt động độc lập, không chịu sự khống chế của Ngã Thức, thì Tiềm Thức của chúng ta cũng sẽ lại lôi các vấn đề đó trở lại, nếu như, trong những thông tin hay dữ liệu thu thập trong ngày có liên quan đến các vấn đề mà chúng ta đã tìm cách đè nén, hay đã trốn chạy, hay chưa giải quyết.

Nếu chúng ta có sự hiểu biết đúng đắn về các chức năng của ba Thức, chúng ta thấy rằng, cho dù, Ngã Thức của chúng ta có là chủ nhân ông, có khả năng tự chọn, có khả năng đè nén, trốn chạy, thì Ngã thức của chúng ta vẫn không có thể khống chế được sự hoạt động độc lập của Tiềm Thức.

Ngã Thức của chúng ta có thể khống chế 100% Ý Thức, nhưng Ngã Thức của chúng ta lại không có thể khống chế 100% Tiềm Thức hay Thân Thể Thức. Hay nói đúng hơn, Ngã Thức của chúng ta chỉ có thể lợi dụng các chức năng của Tiềm Thức để phục vụ cho Ngã Thức mà Thôi.

Thí dụ: Ngã thức muốn tạo cho mình một thói quen tốt, đi ngủ đúng giờ. Ngã thức có thể ra lệnh cho Ý Thức phân tích lợi hại của việc đi ngủ đúng giờ ra sao, thiết lập sự giới hạn, kỷ luật thế nào. Sau đó, Ý Thức đưa lập trình này vào trong Tiềm Thức. Tiềm Thức sẽ ghi nhớ cách chọn lựa này, và chờ sự quyết định, sắp xếp thứ tự quan trọng do Ngã Thức quy định. Khi Ngã Thức đã quyết định xong thì đưa trở ngược lại kho Tiềm Thức.

Sau khi nhận được dữ liệu từ Ngã Thức, Tiềm Thức sẽ theo qui định riêng của mình để tạo thành một thói quen.

Tiến trình tạo thành một thói quen theo Tiềm Thức là, bất cứ một việc gì muốn trở thành một thói quen phải trải qua một qúa trình lập đi lập lại liên tục, ít nhất trong 21 ngày, và lâu nhất trong 3 tháng.

Sau khi trở thành một thói quen rồi, Tiềm Thức mới sắp xếp lại thứ tự theo yêu cầu của Ngã Thức. Nếu việc của Ngã Thức yêu cầu chỉ ở trong gia đoạn đang cấu thành thói quen, Tiềm Thức sẽ không tuân theo, hay chịu bất cứ một sự khống chế, hay đe dọa nào từ Ngã Thức để thỏa mãn theo mong muốn của Ngã Thức.

Đó chính là lý do tại sao, có những lúc Ngã Thức muốn việc đó xẩy ra liền, hay trong một giai đoạn ngắn thì Tiềm Thức lại luôn từ chối; vì việc đó, chưa đủ thời gian lập đi lập lại liên tục để trở thành một thói quen.

Từ đó, dẫn đến việc Ngã Thức mất niềm Tin, trở nên bi quan, tiêu cực, phát sinh tự ty mặc cảm v.v.

Cho nên, việc trốn chạy hay đè nén một vấn đề, theo thói quen thông thường của chúng ta, không phải là cách tối ưu để giải quyết vấn đề. Bởi vì, chúng ta không thể trốn chạy vấn đề.

Vì sao? Vì trước hay sau gì, chúng ta cũng phải đương đầu với vấn đề, và đi giải quyết nó. Sự thật là, hễ chúng ta càng trốn chạy, hay đè nén vấn đề càng sâu chừng nào, thì khi Tiềm Thức liên kết vấn đề cũ với những vấn đề khác, vấn đề cũ và mới này sẽ trở nên nặng nề và càng khó giải quyết hơn.

Thế nên, xác định mình có vấn đề là việc làm vô cùng cần thiết. Bởi vì, khi đó, chúng ta đã chấp nhận chúng ta sẽ đương đầu để giải quyết vấn đề. Khi Ngã Thức của chúng ta đã chấp Nhận đi giải quyết vấn đề thì Ngã Thức chúng ta mới không sử dụng những khả năng như: đè nén, hay tự đánh lừa mình. Và nhờ đó, Ngã Thức của chúng ta sẽ cho chính mình những cơ hội sử dụng khả năng của Ý Thức, nhìn sâu hơn.

Chính vì, nhờ khả năng nhìn sâu hơn nên chúng ta mới có thể tiếp cận đúng với sự thật của vấn đề hơn. Và khi tiếp xúc được với sự thật, hay gốc rễ của vấn đề một cách chính xác, rõ ràng, thì lúc đó, Ngã Thức của chúng ta mới có thể giải quyết vấn đề đó một cách triệt để.

Cách thức hay nhất khi áp dụng bước thứ nhất: Xác Định Mình Có Vấn Đề, đó là, nên tìm một nơi chốn chỉ có một mình, hay cô đơn thì chúng ta sẽ có nhiều cơ hội tiếp cận với sự thật của vấn đề đúng hơn.

Cháu cám ơn chú nhiều lắm. Tuy cháu đã từng học về ba Thức theo khoa Tâm Lý học phương Tây, nhưng cháu vẫn cảm thấy bất ổn, nhất là trong cách họ phân tích các chức năng của ba Thức, vô cùng lộn xộn, lệch lạc, không được rõ ràng và chi tiết như chú đã trình bầy.

Bây giờ, cháu đã hiểu, tại sao những bịnh nhân của cháu muốn có một thân hình cân đối, lại cứ tiếp tục béo phì. Hoặc họ có thể đạt được trong một thời gian ngắn, rồi sau đó, họ lại béo phì trở lại. Nguyên nhân phát sinh là do Tiềm Thức chưa biến thành thói quen, và cách Ngã Thức sắp xếp thứ tự quan trọng bị thay đổi liên tục. Chính vì vậy, mà tại sao kết quả không được lâu bền như mong muốn.

Vậy, còn Bước thứ 2: Nguyên Nhân Tạo Ra Vấn Đề thì sao hả chú?

Ai trong chúng ta cũng biết, cho dù chúng ta đang sinh hoạt trong bất cứ một lĩnh vực nào, khi có một vấn đề phát sinh, nếu chúng ta không biết được nguyên nhân tạo ra vấn đề thì chúng ta không thể tìm ra cách thức giải quyết vấn đề.

Thông thường, khi chúng ta Chấp Nhận chúng ta có vấn đề thì ai trong chúng ta cũng sẽ đi tìm nguyên nhân. Nhưng tìm nguyên nhân như thế nào thì lại là một vấn đề.

Theo cách thức phổ thông, khi chúng ta đi giải quyết một vấn đề, chúng ta sẽ đặt vấn đề bằng câu hỏi, thí dụ như:

Tháng này tôi không đủ tiền trả tiền nhà, vậy tôi phải Làm Sao để giải quyết được việc này?

Vì câu hỏi của chúng ta là Làm Sao? Cho nên, cách thức giải quyết của Ý thức của chúng ta sẽ hướng đến cách phân tích, tổng hợp, những cách thức giải quyết liên quan đến làm sao như: gọi điện thoại mượn tiền bạn; lấy tiền từ thẻ tín dụng; về nhà xin tiền bố mẹ, anh, chị, em; gọi điện thoại xin khất trả tiền nhà, v.v.

Với những cách thức này, giả sử như, chúng ta thành công thì coi như vấn đề đó được giải quyết, và chúng ta tạm có An; vì sự lo âu không có tiền trả tiền nhà đã được giải quyết.

Nhưng sự thật, vấn đề thiếu tiền để trả tiền nhà có được giải quyết một cách triệt để chưa? Chắc chắn là chưa. Vì sao?

Vì sự thật, chúng ta đang tạo ra thêm những vấn đề mới: chúng ta sẽ làm gì có tiền, để trả lại số tiền, mà chúng ta đã vay mượn. Nếu chúng ta cứ “chai mặt” ra, và quỵt nợ thì chúng ta sẽ tạo ra vô số các hậu quả khác như: mất uy tín, không ai tin tưởng, không ai muốn chơi với mình, và khi gặp khó khăn trong tương lai sẽ không có ai giúp đỡ, v.v.

Còn nếu như chúng ta có lòng tự trọng, muốn đi kiếm tiền ra để trả nợ thì chúng ta sẽ làm gì để kiếm ra tiền? Nếu không có tiền để trả nợ thì lương tâm của chúng ta sẽ cắn rứt bao lâu? Hoặc người cho mượn, vì nguyên nhân nào đó phát sinh mà họ cần chúng ta phải trả lại số tiền đó cho họ, để họ giải quyết vấn đề của họ, mà chúng ta lại không có tiền để trả thì lương tâm của chúng ta sẽ như thế nào?

Nếu như chúng ta không giải quyết được, và tình trạng thiếu trả tiền nhà lại kéo dài qua tháng sau, thì sao? Có thể nói, chúng ta đang tạo ra một chuỗi những phiền toái, lo âu; cái này chưa dứt thì cái kia đã khởi đầu.

Và nếu như, Ngã Thức của chúng ta bị cuốn hút vào trong những hậu quả tác động liên tục như thế thì sự tự ty mặc cảm của chúng ta sẽ bị khích hoạt liên tục. Khi đã được khích hoạt liên tục và biến thành thói quen, thì lúc đó, hình thành cá tính của chúng ta. Và khi đã biến thành cá tính tự ty mặc cảm rồi thì muốn thay đổi lại cũng cực kỳ là khó khăn.

Tệ hại hơn, khi chúng ta đã hình thành cá tính tự ty rồi, và khi chúng ta làm được một việc nhỏ nhoi nào đó, chúng ta lại tự phóng đại và tôn sùng nó lên cao để rồi cá tính tự tôn được hình thành nhằm khỏa lấp đi gốc rễ của sự tự ty.

Khi đã có mặt của tự tôn thì Ngã Thức sẽ vận dụng tối đa Ý Thức để ngụy biện, hay bào chữa cho tính tự tôn này. Và cơ hội để nhìn ra sự thật, hay tiếp cận với sự thật sẽ trở nên cực kỳ khó khăn.

Trong khoa Tâm Lý học, chữa trị cho bịnh tự ty thì dễ gấp trăm lần so với bịnh tự tôn.

Đây lại là một đề tài khác, nếu chúng ta có duyên, chúng ta sẽ quan sát vào chi tiết sâu hơn.

Trở lại vấn đề ở đây, đó là, cách thức mà chúng ta đặt câu hỏi cho vấn đề của mình. Đây chính là Then Chốt, là Tinh Hoa, hay Gốc Rễ của Bốn Bước Giải Quyết vấn đề. Nếu trong phần này, chúng ta không nắm được tinh hoa của Bước thứ Hai này, thì cả Ba Bước kia, cũng sẽ thành vô dụng. Vì sao? Vì chúng ta sẽ không đạt được Kết Quả như chúng ta mong muốn. Điều này, cũng đúng với phương pháp của Tứ Diệu Đế.

Phương pháp Tứ Diệu Đế, hay phương pháp Bốn Bước thì khác với phương pháp của phương Tây, đó là: chú trọng vào câu hỏi Tại Sao? Dĩ nhiên, trong phương pháp ứng dụng của phương Tây, cũng có lúc họ hỏi Tại Sao? Nhưng khi họ hỏi Tại Sao thì họ chỉ hỏi có một lần. Ngược lại, phương pháp của Tứ Diệu Đế, hay Bốn Bước, lại hỏi Tại Sao rất nhiều lần.

Công thức là: Câu hỏi Tại Sao tiếp theo sẽ lấy câu trả lời trước, rồi cộng thêm chữ Tại Sao vào đầu câu. Cách thức này, có thể ứng dụng cho tất cả các câu hỏi Tại Sao, cho đến khi tìm ra nguyên nhân gốc.

Để cho dễ hiểu, chúng ta có thể lấy thí dụ sau đây để minh họa:

  • Tại sao bạn lại thiếu tiền trả tiền nhà tháng này?
  • Vì tôi thấy có một cái ví Gucci đẹp qúa, nên đã dùng tiền, trả tiền nhà để mua ví.
  • Tại sao bạn lại phải mua ví Gucci, trong khi, bạn có thể mua các loại ví rẻ tiền khác, mà bạn không phải dùng đến tiền trả tiền nhà?
  • Bởi vì tôi không muốn bạn bè của tôi coi thường tôi.
  • Tại sao bạn bè của bạn lại coi thường bạn?
  • Bởi vì tôi không giầu có như họ, tôi không đẹp bằng họ, tôi thua thiệt họ đủ điều, nên tôi muốn chứng minh với họ, cái gì họ có, tôi cũng có.
  • Tại sao bạn lại muốn chứng minh với họ, trong khi bạn không giầu có như họ?
  • Vì tôi tự ty mặc cảm.

Qua thí dụ trên, chúng ta thấy, cũng cùng một vấn đề, nhưng cách thức đặt câu hỏi khác nhau thì cho ra kết qủa khác nhau.

Với cách thức đặt câu hỏi của Bước thứ Hai, chúng ta có thể tìm ra được gốc rễ gây ra sự thiếu tiền trả tiền nhà, bắt nguồn từ sự tự ty mặc cảm, chứ không phải bắt đầu bằng việc thích chiếc ví Gucci.

Nếu như, chúng ta không áp dụng phương pháp hỏi Tại Sao nhiều lần, và chỉ một lần; và cho đó chính là nguồn gốc gây ra sự thiếu tiền thì nguồn gốc đó chưa đúng sự thật.

Và nếu như chúng ta lại lầm lẫn, khi cho rằng, vì mua cái ví Gucci là sự thật, và chúng ta đi tìm cách giải quyết, bằng cách thuyết phục bản ngã của chúng ta sẽ không chọn ví Gucci nữa; vì ví đó, gây ra cho chúng ta phiền não, lo âu. Vậy thì, có thể tháng sau, chúng ta cũng sẵn sàng phạm vào cái lỗi thiếu tiền trả tiền nhà tiếp theo.

Vì sao? Vì chúng ta có thể chọn mua cái ví Chanel chẳng hạn. Nguyên do, chúng ta sẽ chọn cái ví Chanel là vì, những người bạn mà chúng ta có cảm giác tự ty đã đổi sang dùng Chanel, thay vì Gucci.

Như vậy, khi chúng ta không tìm ra gốc rễ thực sự của vấn đề, và chỉ đi giải quyết phần ngọn, thì cho dù, Ngã Thức của chúng ta có răn đe, biết lỗi, không muốn tái phạm, hay đặt cho mình những giới hạn, hay kỷ luật hay đến bao nhiêu, thì điều đó cũng trở nên vô dụng. Bởi vì, khi gốc rễ được khích hoạt thì sự nẩy nở của nhánh cành trên ngọn vẫn tiếp tục phát sinh.

Các nhà Thực Vật học kinh nghiệm đều cho rằng, khi càng cắt tỉa những cành nhánh bao nhiêu thì sự tăng trưởng và sinh sôi của cành nhánh đó càng mạnh bấy nhiêu. Tương tự như cách giải quyết vấn đề, Bước thứ Hai. Nếu chúng ta không chấm dứt từ gốc rễ của vấn đề mà chỉ giải quyết bằng cách cắt tỉa phần ngọn, thì vấn đề đó, càng ngày càng trở nên mạnh mẽ hơn, và khó chuyển hóa hơn.

Chính vì vậy, hỏi Tại Sao nhiều lần, giúp cho chúng ta có dịp nhìn sâu hơn, và hiểu chúng ta sâu sắc hơn. Khi chúng ta có thể hiểu chúng ta sâu sắc hơn, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra được sự thật rõ ràng. Vì vậy, chúng ta sẽ ít phạm lỗi hơn, và có nhiều cơ hội làm chủ được chính mình. Cho nên, cuộc sống của chúng ta sống có ý nghĩa và An Lạc hơn.

Nếu như chúng ta đem so sánh cách đặt câu hỏi của Tập Đế (Tại Sao), và cách đặt câu hỏi theo Đạo Đế (Làm Sao) của phương Tây, thì chúng ta thấy, cách giải quyết bằng Làm Sao, luôn sẽ tạo ra những hậu quả kế tiếp, cũng như phát sinh ra những vấn đề kế tiếp, khiến đời sống của chúng ta luôn vây quanh bởi những vấn đề.

Ngược lại, khi chúng ta hỏi Tại Sao, chúng ta có cơ hội tìm ra được gốc rễ của vấn đề., Cho nên khi chúng ta áp dụng phương pháp Bước thứ Ba để tìm giải pháp, chúng ta sẽ chú trọng vào gốc rễ, thay vì phần ngọn.

Khi gốc rễ đã được chúng ta giải quyết thì chúng ta sẽ không còn tái phạm những sai lầm. Hay có thể nói, chúng ta không những giải quyết được vấn đề chúng ta đang có một cách triệt để, mà chúng ta còn có thêm một lợi ích khác, tránh không tạo ra những lỗi lầm tương tự, từ vấn đề chúng ta gặp phải. Nhờ vậy, chúng ta sống sẽ có hạnh phúc, và an lạc hơn.

Thật là một phương pháp qúa tuyệt vời, và cũng vô cùng đơn giản, nếu như chúng ta có sự hiểu biết và biết cách ứng dụng đúng đắn, phải không chú?

Cháu sẽ nghiêm túc nghiên cứu về Bước thứ Hai này. Cháu biết, khi thực hành đúng những điều như chú trình bầy sẽ giúp ích cho bản thân cháu và các bịnh nhân của cháu rất nhiều.

Vậy, còn Bước thứ Ba: Phương Pháp Giải Quyết Vấn Đề sẽ ứng dụng như thế nào, thưa chú? Diệu Hiền hỏi.

Như lúc đầu tôi đã chia xẻ với bạn, nếu trong phương pháp của phương Tây thiếu Bước thứ Hai là Tập Đế, thì trong Bước thứ Ba này, phương pháp của Tứ Diệu Đế lại không đề cập đến phương pháp này.

Bước thứ Ba là bước sẽ sử dụng câu hỏi Làm Sao để có thể giải quyết vấn đề một cách tối ưu nhất.

Nếu bạn để ý chữ tôi dùng, bạn có thấy, tôi nhấn mạnh đến hai chữ “Tối Ưu” không? Theo bạn, tại sao tôi lại dùng thêm hai chữ “Tối Ưu”?

Thưa chú, sở dĩ chú dùng thêm hai chữ Tối Ưu, vì, trong quá trình tìm những con đường hay phương pháp giải quyết thì chúng ta có rất nhiều cách hay nhiều con đường. Và trong những cách hay con đường đó, chúng ta phải sàng lọc để chọn ra những giải pháp tốt nhất cho vấn đề. Cho nên, ý nghĩa của hai chữ Tối Ưu là như vậy, có phải không, thưa chú?

Đúng vậy, bạn rất thông minh. Nhưng ngoài ý nghĩa đó ra, hai chữ Tối Ưu, còn có một ý nghĩa khác, bạn có nhận ra không?

Diệu Hiền im lặng suy nghĩ một lúc, mỉm cười, nói:

Thưa chú, đó chính là cách sắp xếp thứ tự quan trọng của các giải pháp. Bởi vì, nếu không biết sắp xếp thứ tự thì chúng ta sẽ không phân biệt được giải pháp nào là tốt nhất hay thích hợp nhất.

Đúng vậy, đây chính là những vấn đề mà nhiều người trong chúng ta khi ứng dụng Bước thứ Ba, luôn vấp phải trong việc lựa chọn cách giải quyết nào sẽ là tối ưu.

Bạn có biết không? Cái khuyết điểm của một nhân cho ra nhiều quả này, hay, có một vấn đề mà có quá nhiều cách giải quyết, lại khiến cho chúng ta bị rơi vào sự mơ hồ, và hoang mang, vì không biết lựa chọn cách nào.

Hãy lấy thí dụ trước đây làm minh họa:

Khi chúng ta có một vấn đề: thiếu tiền trả tiền nhà, và chúng ta hỏi: Làm Sao để có tiền để trả tiền nhà? Chúng ta cũng đã có ít nhất từ ba đến năm giải pháp khác nhau như:

  • Gọi điện thoại mượn tiền bạn
  • Lấy tiền từ thẻ tín dụng
  • Về nhà xin tiền bố mẹ, anh, chị, em
  • Gọi điện thoại xin khất trả tiền nhà
  • Bán đồ đạc dư dùng v.v.

Vậy làm sao chúng ta có thể biết giải pháp nào sẽ là giải pháp tối ưu hay tốt nhất?

Muốn biết giải pháp nào tối ưu, hay tốt nhất thì chúng ta lại phải Biết ứng dụng một số những quá trình như sau:

Đầu tiên là quá trình So Sánh. Trong quá trình so sánh này, chúng ta sẽ bắt đầu bằng cách, phân chia thành hai phần, gọi là ưu và khuyết điểm của mỗi đáp án, hay giải pháp.

Sau đó, chúng ta sẽ liệt kê ra tất cả các ưu và khuyết điểm của mỗi giải pháp. Hoàn tất việc này xong thì đến tiến trình thứ hai là Phân Tích.

Trong quá trình phân tích này, chúng ta sẽ phải phân tích lợi và hại, hậu quả hay kết quả của từng ưu và khuyết điểm theo nhiều góc độ khác nhau, và liệt kê tất cả các góc độ đó xuống.

Sau khi có đầy đủ những thông tin và dữ liệu từ hai quá trình So Sánh và Phân Tích rồi, chúng ta mới sử dụng đến tiến trình thứ ba, Sắp Xếp Thứ Tự các giải pháp, hay đáp án.

Cách Sắp Xếp Thứ Tự Quan Trọng của các giải pháp hay đáp án như sau:

Giải pháp hay đáp án nào có lợi nhiều nhất, và có hại ít nhất được xếp đứng đầu, và cứ thế tuần tự sắp xếp cho đến hết các giải pháp hay đáp án.

Chính nhờ sự So Sánh, Phân Tích, và Sắp Xếp Thứ Tự Quan Trọng này sẽ giúp chúng ta có thể nắm rõ được từng ưu và khuyết điểm, cũng như lợi và hại, hậu quả hay kết quả trên nhiều góc độ.

Sau đó, qua sự sắp xếp sẽ giúp cho chúng ta biết, phải sử dụng giải pháp nào trước, giải pháp nào sau. Nếu trong qúa trình ứng dụng các giải pháp mà có xẩy ra các sự cố, thì ít nhất, chúng ta cũng biết những hậu quả, hay kết quả nào mà chúng ta sẽ phải đối mặt.

Con người của chúng ta, chỉ phát sinh sự lo âu hay sợ hãi khi chúng ta không biết được kết quả. Nếu như chúng ta đã biết trước, hay lường trước được những hậu quả hay kết quả sẽ phát sinh thì chúng ta sẽ không còn sự lo âu hay sợ hãi nữa. Chúng ta sẽ bình tĩnh hơn, và có thể đưa ra những quyết định sáng suốt hơn để tránh gây ra nhiều lỗi lầm, hay khổ đau trong cuộc sống hiện tại, hoặc sau này.

Thật rất tuyệt vời, rất rõ ràng và đầy đủ mọi chi tiết.

Cháu thiết nghĩ, với “công thức” đơn giản này, nếu ai trong chúng ta cũng sử dụng để giải quyết vấn đề thì cơ hội để giải quyết vấn đề tận gốc rễ không phải chỉ dành cho các chuyên gia, mà ai trong chúng ta cũng có thể làm được.

Vậy thưa chú, còn Bước thứ Tư tại sao lại phải là xác định thời gian?

Này bạn, mục đích của Bước thứ Tư là, giúp cho chúng ta đạt đến cái An nhanh nhất có thể. Nếu chúng ta không có Bước thứ Tư này, chúng ta sẽ không chịu tiến hành đi giải quyết vấn đề. Nếu như chúng ta không tiến hành đi giải quyết vần đề, thì cho dù, chúng ta đã sử dụng đúng cách cả Ba Bước trên, cũng bằng không.

Sự Thật là, khi chúng ta càng cố kéo thời gian giải quyết vấn đề dài bao nhiêu thì chúng ta càng kéo dài sự bất An trong chúng ta nhiều bấy nhiêu.

Thêm vào đó, nếu chúng ta kéo dài qúa lâu thì chúng ta sẽ sinh ra sự do dự, hay lưỡng lự, khi đưa ra quyết định. Khi sự do dự hay lưỡng lự có mặt thì lập tức ảnh hưởng đến niềm tin của chúng ta vào phương pháp. Khi niềm tin vào phương pháp của chúng ta bị lung lay thì chúng ta sẽ lại tiếp tục trì hoãn. Và thế là, sự bất An trong chúng ta lại tăng dần.

Chính vì vậy, Chúng ta cần phải xác định rõ ràng thời gian nào là thích hợp nhất để ứng dụng. Nếu không có sự xác định này thì tất cả những gì chúng ta đã làm trong Ba Bước sẽ không còn giá trị. Và vấn đề của chúng ta sẽ không được giải quyết.

Khi những vấn đề liên tục không được giải quyết, và chồng chất lên nhau thì cuộc đời của chúng ta sẽ chìm trong đau khổ lâu dài.

Cháu xin cảm ơn chú rất nhiều. Nếu không có duyên gặp được chú hôm nay, cháu sẽ vẫn mãi mơ hồ về Tứ Diệu Đế, và cháu cũng không thể nào hiểu được sâu sắc sự tương tác và ứng dụng của ba Thức như thế nào.

Phương pháp Bốn Bước của chú chia xẻ, thật rất chi ly, tỉ mỉ, và vô cùng hợp lý.

Với Phương pháp Bốn Bước này, cháu chắc chắn sẽ giúp ích rất nhiều cho cháu và các bịnh nhân của cháu có thể đạt được kết quả tốt nhất trong việc giải quyết những vấn đề trong cuộc sống một cách triệt để.

Nắng vàng vừa tắt, một vài người với nét mặt đăm chiêu, cúi đầu, bước đi vội vã.

Ba chú cháu nhìn nhau, cùng mỉm cười.

AN RIÊNG VÀ AN CHUNG

album-art

00:00

TẢI MP3 – DIỆU LIÊN
TẢI MP3- VIÊN NGUYỆT

Chàng thanh niên bước đi những bước chân thong thả, trên con đường đến gốc cây nơi ông chú đang ngồi. Khi đến gần chỗ ông chú, chàng lễ phép cúi đầu chào, ngồi xuống, rồi nói:

Chú ơi, chiều qua, chúng ta đã có dịp nói đến An Riêng và An Chung. Vậy chiều nay, chúng ta có thể mở rộng đề tài này để cho cháu có thể học hỏi thêm một số kinh nghiệm được không ạ?

Không thành vấn đề. Vậy chúng ta hãy cùng nhau quan sát nhé.

Này người bạn trẻ, trong quá trình đi từ Bản Ngã tới Bản Thể, phần đông chúng ta đều hay có thói quen thích sử dụng kinh nghiệm của người khác, và lầm tưởng rằng, đó chính là kinh nghiệm của mình. Điều này, cũng giống như chúng ta đang đói bụng, rồi đi tìm những người, họ có kinh nghiệm họ ăn no bụng, rồi họ trình bầy cách thức họ ăn như thế nào, rồi chúng ta tin rằng, chúng ta đã có kinh nghiệm của người no bụng.

Thật ra, kinh nghiệm của người ăn no là kinh nghiệm của bụng no/không đói, chứ không phải là kinh nghiệm người khác chỉ cách ăn no, rồi chúng ta không ăn gì mà có kinh nghiệm no được.

Trên thực tế, khi cơ thể của chúng ta đói, chúng ta phải tự ăn mới có thể giải quyết vấn đề đói của chúng ta một cách triệt để. Ngoài cách này ra, cho dù chúng ta có trích dẫn bao nhiêu kinh nghiệm của người khác, hay còn tệ hơn, đi so sánh cách ăn của người này no hơn cách ăn của người khác, thì trước hay sau gì chúng ta sẽ trở thành ma đói.

Chúng ta sẽ chết vì thiếu thực phẩm. Dù rằng, chúng ta có đầy đủ kiến thức của người biết ăn no, thì sao? Tất cả đều vô dụng.

Tương tự như vậy, người Thể Nghiệm là người phải tự mình đi tới Bản Thể của mình và không hề nương tựa vào bất cứ kinh nghiệm của một ai. Ngày nào, trong suy nghĩ của chúng ta còn dính đến khái niệm của bất cứ một ai, thì lúc đó, chúng ta không còn là chúng ta nữa, mà chúng ta đã trở thành khái niệm của người khác.

Giá trị kinh nghiệm của người khác, không phải để chúng ta noi theo, mà để chúng ta dùng làm kiểm chứng kết qủa cuối cùng mà chúng ta có được khi chúng ta đã tiếp cận được với Bản Thể.

Tiếc thay, chúng ta lại làm ngược lại. Cho nên, trong quá trình đi tới Bản Thể của nhiều người đã và đang gặp vô vàn khó khăn. Rồi khi sự khó khăn chồng chất vì những nhận thức lệch lạc, chúng ta lại tự phong cho những người Thể Nghiệm là: có trí tuệ cao siêu, không thể nghĩ bàn, v.v.

Thật ra, đối với người Thể Nghiệm thì chẳng có gì là cao siêu hay không thể nghĩ bàn cả. Các vị Tổ của Thiền đã chẳng phải nói rất rõ ràng: đói ăn, khát uống, đó sao.

Cách giải quyết rốt ráo khi mình đói là mình phải tự ăn, chứ không phải nhờ người khác ăn dùm, rồi mình no. Hay khi mình khát thì tự mình phải uống, chứ không thể nhờ ai uống dùm mà mình hết khát được.

Cho nên, chúng ta ngày nay, đều vấp phải một số lỗi lầm chung, đó là: thích đi thâu lượm tất cả kinh nghiệm của người khác, rồi cho đó là kinh nghiệm của mình. Chúng ta không biết rằng, đó không phải là kinh nghiệm hay trải nghiệm, mà đó chỉ là mớ kiến thức mà chúng ta học được của người khác, và hoàn toàn không có dính líu chút nào đến kinh nghiệm của chúng ta cả.

Cái nguy hiểm nhất, đó là, chúng ta coi những mớ kiến thức đó là chân lý, đó là sự thật. Trong khi, chúng ta lại hoàn toàn chưa hề có khả năng tiếp xúc được với sự thật. Sự nguy hiểm này còn gia tăng, khi chúng ta bắt đầu dựa dẫm vào mớ kiến thức đó để đi giảng giải cho những người khác, khiến cho họ tin theo một cách mù quáng, mê lầm.

Quá trình đi từ Bản Ngã tới Bản Thể của mỗi một cá nhân đều khác nhau, tùy theo kinh nghiệm mà người đó đã tích lũy. Cho nên, không ai có thể giống ai. Vì vậy, không có sách vở nào có thể viết ra đầy đủ mọi chi tiết được.

Thí dụ: Có hai người, cùng có chung một câu hỏi khi đi tìm tới Bản Thể: Tôi là ai?

Nếu trong qúa trình đi từ Bản Ngã tới Bản thể, một người có kiến thức và kinh nghiệm về Cơ Học Lượng Tử, và một người nghiên cứu về đạo Phật. Tuy họ có cùng chung một câu hỏi đi tìm tới Bản Thể của họ, nhưng qúa trình trải nghiệm của họ lại hoàn toàn khác nhau.

Với người chuyên nghiên cứu về đạo Phật, họ có thể dùng Vô Ngã, Vô Thường v.v. để quan sát. Nhưng với người có kiến thức về Cơ Học Lượng Tử, người đó có thể dùng chính thân thể của họ để quan sát.

Người đó, có thể quan sát từ thân tướng, rồi kết hợp với sự nhìn sâu hơn để có thể nhận thấy, thân thể của họ được cấu tạo bởi các phân tử. Rồi từ phân tử, họ lại tiếp tục quan sát và nhìn sâu hơn để nhận thấy, sự kết hợp của phân tử bắt nguồn từ nguyên tử, v.v.

Như vậy, nếu phải đặt một sự so sánh về qúa trình đi từ Bản Ngã tới Bản thể, người có kinh nghiệm về Cơ Học Lượng Tử sẽ đi nhanh hơn. Vì người này, có thể nhận thấy “tôi chính là những hạt nguyên tử”.

Và nếu họ tiếp tục quan sát và nhìn sâu, người đó sẽ nhận thấy, tất cả các pháp, mọi vật, đều bắt nguồn từ hạt nguyên tử. Từ đó, người đó có thể nhận thấy được sự tương tức, hay bản chất gốc của vạn pháp một cách rõ ràng, không có sự lệch lạc.

Nếu người đó là người Tĩnh Thức thì người đó sẽ dừng lại ở đây và chấp nhận đây là sự thật. Khi người đó chấp nhận và nhận biết đó là sự thật, thì người đó sẽ có được một trạng thái Bình An.

Khi có được Bình An, và từ trạng thái An đó, người đó cũng có thêm một trạng thái khác đi kèm theo, đó là Lạc. Lạc là niềm vui lâng lâng nhẹ nhàng, khác với Hỉ là niềm vui sướng cao độ.

Nhưng nếu người đó là nhà khoa học, thì người đó sẽ không chấp nhận sự khởi nguồn của vật chất là từ hạt nguyên tử, mà người đó sẽ tiếp tục phân tích, nhìn sâu để tìm ra những hạt như proton, neutron, electron, rồi trong những hạt đó, họ lại tìm ra những hạt nhỏ xíu khác như: Quark, Higgs v.v.

Và nếu là Triết Gia thì người đó sẽ không chấp nhận, tất cả mọi vật có trong vũ trụ này đều được cấu tạo từ hạt nguyên tử. Điều mà Triết gia luôn muốn đi tìm đáp án, đó là: Hạt nguyên tử từ đâu sinh ra? Cũng giống như nhà khoa học, họ muốn biết hạt đó từ đâu ra, và từ cái gì tạo ra hạt đó.

Hãy tưởng tượng, giả sử, các Triết gia và Khoa Học gia, biết được các hạt từ đâu sinh ra, thì sao? Với các Triết gia, kết quả cuối cùng mà họ đạt đến, cũng chỉ sự thỏa mãn, An Lạc mà thôi. Còn với các nhà Khoa Học, họ cũng chỉ chế thêm ra được những loại vật chất khác, và cái cuối cùng họ đạt được cũng chỉ là sự thỏa mãn, An Lạc, không có gì khác so với người Tĩnh Thức.

Sự khác biệt giữa người Tĩnh Thức với Triết gia và Khoa Học gia, đó là, với Người Tĩnh Thức, cái họ đi tìm là Sự Thật chứ họ không đi tìm nguồn gốc nguyên thủy tạo ra sự vật.

Trong khi, các Triết gia và Khoa Học gia, vẫn còn luôn đang sống trong những sự suy tư, băn khoăn, bức bối, bực dọc, vì chưa tìm ra đáp án mà họ mong muốn; thì người Tĩnh Thức, họ chấp nhận sự thật là: tất cả mọi vật trên vũ trụ này, đều có chung nguồn từ hạt nguyên tử, chủ thể là nguyên tử Hydrogen, họ dừng lại và đạt được trạng thái An Lạc.

Dĩ nhiên, nếu người Tĩnh Thức muốn tiếp tục nhìn sâu hơn, người đó có thể nhận thấy, từ nguyên tử Hydrogen này, khi kết hợp với khoảng Không Co Giãn giữa các nguyên tử sẽ tạo ra vũ trụ và vật chất. Chính khoảng Không Co hay Giãn này, khi bị tác động sẽ tạo ra năng lượng khác biệt giữa những loại vật chất khác nhau và tạo ra những vật thể khác nhau, trong đó có con người.

Chẳng hạn như, nếu để 2 nguyên tử Hydrogen có một khoảng Không vừa đủ thì chúng ta sẽ có hai hạt sinh hoạt hoàn toàn độc lập. Nhưng nếu chúng ta rút hết khoảng Không của hai nguyên tử ở các chiều thì hai nguyên tử của Hydrogen sẽ trở thành một. Như vậy, nếu không có khoảng Không Co hay Giãn thì không có vũ trụ và vạn vật, kể cả con người.

Nếu nhìn sâu hơn vào con người, chúng ta cũng nhận thấy, nếu không có khoảng Không Co hay Giãn thì chúng ta không thể lớn lên được. Điều này, khi quan sát và nhìn sâu vào tất cả mọi vật trên vũ trụ, chúng ta cũng đều thấy giống nhau.

Đó gọi là Chân Lý. Chân lý là lý lẽ chân thật mà không hề bị thay đổi theo không gian và thời gian.

Chính vì vậy, Chân Lý trở thành Sự Thật. Tiếp xúc được với Sự Thật, và chấp nhận đó là Sự Thật. Đó chính là hành trình đi từ Bản Ngã tới Bản Thể của người Tĩnh Thức, hay người Kiến Ngộ.

Sở dĩ, người Thể Nghiệm đạt được trạng thái An, vì người đó biết chấp nhận Sự Thật qua chính những sự trải nghiệm của mình. Cũng qua quá trình trải nghiệm này, người Thể Nghiệm, mới biết được, lúc xưa, người đó đã sống trong những trạng thái mơ hồ, phân vân, lo âu, phiền muộn. Chính những trạng thái này khiến cho sự An Thường Hằng không xuất hiện.  

Thế cho nên, người đó luôn sống trong trạng thái mất Quân Bình. An chỉ có thể xuất hiện khi Tâm Thức của người đó phải ở trong trạng thái Quân Bình, không xáo trộn, trồi lên sụt xuống.

Chính vì vậy, với những người Thể Nghiệm, họ luôn luôn nói Bình An. Vì Khi có Bình thì mới có An, và khi có An thì mới có Lạc.

Cái An của người Tĩnh Thức, hay người Thể Nghiệm có được, không phải là cái An từ trên trời rơi xuống, hay từ ở một cõi nào ban phát cho. Mà cái An đó, vốn vẫn Thường Hằng trong mỗi con người.

Nhưng vì trong cuộc sống, chúng ta đã có những nhận thức sai lầm. Chúng ta đã có những định nghĩa sai lầm. Cho nên, chúng ta tạo ra những lo âu, phiền não. Khi những lo âu và phiền não qúa nhiều, và chúng ta lại phải bận lòng đi giải quyết chúng. Cho nên, chúng ta đã không nhận diện được cái An đang có trong ta.

Khi người Thể Nghiệm đã tiếp xúc được với Sự Thật. Nhận ra và chấp nhận Sự Thật, thì lúc đó, tất cả những lo âu, phiền não, lầm tưởng, đều tan biến. Khi Tâm Thức không còn lại những phiền não, lo âu, thì lúc đó, sự có mặt của An là chuyện tất nhiên, và sau An là Lạc cũng là điều tất yếu.

Chính vì trạng thái An đó đến từ quá trình trải nghiệm của một cá nhân, mà không hề có sự tham gia của những người, hay vật thể khác. Cho nên, cái An đó, gọi là cái An Tuyệt Đối (không có ai để so sánh), hay còn gọi là An Riêng, có nghĩa là: cái An chỉ Riêng cho người đó.

Thật ra, muốn đạt được cái An Riêng, cũng chẳng khó gì. Muốn đạt được cái An Riêng thì người đó phải hiểu được giá trị của sự cô đơn. Nếu không có cô đơn thì không có một Cá Thể nào có thể tiếp xúc được với Bản Thể của chính họ được.

Nhưng tiếc thay, ngày nay, con người của chúng ta lại rất sợ cô đơn. Vì khi một người cô đơn thì Tiềm Thức của người đó sẽ trồi lên trên mặt của Ý Thức những vấn đề mà họ đã trốn chạy trước đây để đòi một cách giải quyết triệt để. Vì vậy, con người của ngày nay đã “đánh đồng”, hay “định nghĩa” cô đơn là đau khổ.

Họ đau khổ, vì những vấn đề họ chưa giải quyết triệt để, hay họ không muốn giải quyết, hay họ không biết cách giải quyết, luôn chiếm hữu Ý Thức của họ, khiến họ phải suy tư. Chính những sự suy tư đó, khiến cho họ cảm thấy khổ đau, và phiền muộn chồng chất.

Và khi khổ đau và phiền muộn chồng chất, họ đã chọn lựa giải pháp tiêu cực như: tham dự các khóa tu học, bận rộn tham gia các mạng xã hội, để khen chê, lên án hay chỉ trích người này, hay người khác, v.v.

Với mục đích, họ muốn trốn chạy các vấn đề của họ, hay họ khiến cho Ý Thức của họ luôn bận rộn, không có những khoảng trống cho Tiềm Thức của họ có dịp khơi dậy lại những vấn đề mà họ cần phải giải quyết. Hay tệ hại hơn, họ sử dụng rượu, cần sa, ma túy, hay những chất khích thích để “ru ngủ” Ý Thức của họ, để họ không phải đương đầu với các vấn đề của chính họ.

Chính vì vậy, so với ngày xưa thì những người Thể Nghiệm ngày nay càng ngày càng ít đi, và cuộc sống của con người hôm nay, cũng mang đậm dấu ấn của khổ đau và phiền muộn hơn nhiều.

Đúng vậy, đấy chú. Cháu cũng là nạn nhân từ việc sợ hãi cô đơn và luôn trốn chạy việc giải quyết vấn đề.

Qủa thật, khi cháu thay đổi định nghĩa của sự cô đơn, và cháu nhận thức được, sự cô đơn là chất liệu qúy giá trong quá trình tìm tới Bản Thể, cháu đã không còn sợ hãi nữa.

Khi mà cháu không còn sợ hãi và biết sử dụng sự quan sát, phân tích tổng hợp và nhìn sâu vào vấn đề, cháu thấy, cũng không khó như những gì cháu tưởng tượng trước đây.

Đúng như chú nói, khi các vấn đề được giải quyết trọn vẹn thì lúc đó An mới có mặt. Theo cháu nghĩ, ai trong chúng ta cũng đều có khả năng để thể nghiệm việc này cả.

Đúng vậy, ai trong chúng ta cũng đều có khả năng để giải quyết những vấn đề của mình một cách rốt ráo và đạt được cái An cho Riêng mình.

Nhưng vấn đề ở đây, chúng ta có dám đặt ra những câu hỏi, có dám đương đầu với các vấn đề, và quan trọng nhất là, có dám cô đơn không? Nếu chúng ta không có được những điều đó thì chúng ta không thể trải nghiệm.

Khi mà chúng ta không có trải nghiệm thì cho dù chúng ta có tích lũy được bao nhiêu kiến thức từ những người trải nghiệm khác, cũng trở thành vô dụng. Vì sao? Vì đó chỉ là những trải nghiệm của ai đó chứ không phải trải nghiệm của chính mình.

Giờ thì cháu đã hiểu rõ ràng tại sao chú lại dùng hai chữ An Riêng. Vậy thưa chú, còn An Tương Đối, hay An Chung, thì sao?

Như lần trước tôi đã chia xẻ với bạn, có nhiều người trong chúng ta đã có dịp tiếp xúc với Bản Thể, nhưng vì không có kinh nghiệm nên chính chúng ta cũng không biết.

Có nhiều người, lướt qua Bản Thể trong một gia đoạn ngắn. Lúc đó, họ cảm nhận được sự An Lạc. Nhưng sau đó, vì những tác động từ bên ngoài hay vì cuộc sống, họ dần quên đi sự có mặt của An Lạc, và họ lại trở về sống trong sự phiền muộn và khổ đau.

Có những người, vì quá khát khao đi tìm sự thật, và sự khát khao của họ càng lớn bao nhiêu thì sự phiền muộn và khổ đau của họ càng nhiều bấy nhiêu. Điều này, cũng có thể dùng để lý giải nguyên do tại sao những người có khát khao lớn trong cuộc sống của họ luôn gặp những trắc trở, phiền muộn, khổ đau. Bởi vì, lòng khao khát của họ muốn đi tìm Sự Thật, chứ không hề liên quan gì đến trả Nghiệp trong kiếp trước.

Chính vì vậy, khi họ được tiếp xúc được với Sự Thật và chấp nhận Sự Thật, họ cảm nhận được An và họ nhận thức được giá trị của An. Cho nên, họ Trụ trong cái An đó được một khoảng thời gian.

Thời gian dài hay ngắn, phụ thuộc vào sự khát khao của họ trong quá trình đi tới Bản Thể của họ như thế nào.

Có người thì Trụ được khoảng một tháng. Có người có thể kéo dài được 3 tháng. Nhưng ít có ai có thể sống mãi trong cái An đó bất tận.

Vì sao? Vì cái An đó, vốn là Thường Hằng và luôn sẵn có trong mỗi người. Cho nên, dù họ có muốn Trụ lâu hơn, cũng không được. Có ba nguyên do:

  • Sự tác động của tập thể lên cá thể khiến cho cá thể đó, không thể sống trong cái An Riêng đó suốt đời.
  • Họ biết được, cái An mà họ đã nhận ra, vốn đã có sẵn trong họ chứ không phải từ ai ban phát, hay cõi nào ban tặng. Chính vì vậy, họ không cần phải Trụ ở đó cả đời.
  • Họ nhận thức được rất rõ ràng về sự tương tức (cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không), giữa cá thể và tập thể. Cho nên, họ muốn đem những sự trải nghiệm của chính họ để chia xẻ lại với mọi người.

Chính vì vậy, nên thường, ít ai chịu Trụ lâu trong Cái An Riêng. Thời gian dài nhất chỉ kéo dài khoảng 6 tháng. Sau đó, người Thể Nghiệm sẽ đi từ Bản Thể trở về lại Bản Ngã, và người đó sẽ bắt đầu cuộc sống bình thường với một nhận thức mới.

Trước khi chúng ta quan sát sâu hơn về quá trình ứng dụng An Riêng của Cá Thể vào trong cái An Chung của Tập Thể, có một điều vô cùng quan trọng mà chúng ta cần chú ý đến, đó là: sự khác biệt về thời gian An Trú của mỗi cá thể sẽ ảnh hưởng như thế nào khi ứng dụng cái An Riêng vào An Chung.

Nếu đứng trên góc độ của An Riêng, thì bất cứ người trải nghiệm nào, khi đã tiếp xúc và chấp nhận “Sự Thật Như Nó Đang Là”, thì cái An của người đó, nếu đem so với những cá thể trải nghiệm khác, đều không có sự khác biệt, bất kể thời gian họ An Trú là bao lâu.

Nhưng nếu đứng trên góc độ ứng dụng An Riêng vào An Chung thì thời gian Trụ trong cái An Riêng của mỗi cá thể lại vô cùng quan trọng.

Vì sao? Vì thời gian người đó Trụ trong An Riêng càng lâu bao nhiêu thì người đó càng có nhiều cơ hội để tập thành một thói quen, nhận diện An, hay trở về với An Riêng bất cứ lúc nào họ muốn một cách nhanh chóng và dễ dàng bấy nhiêu.

Nếu không có thói quen này, và chỉ Trụ trong một khoảng thời gian ngắn khi chưa tạo thành một thói quen, Nhận Diện An, thì khi trở về với Bản Ngã, người đó sẽ dễ quên đi cái An mà mình đã trải nghiệm. Và người đó lại sống một cuộc sống như lúc trước khi trải nghiệm. Đó là cuộc sống vây quanh bởi những phiền muộn và khổ đau.

Cho nên, không phải cứ có trải nghiệm là sẽ có An Vĩnh Viễn. Trừ khi, ngay lúc người đó đang Trụ trong cái An Riêng và chết trong cái An đó, thì người đó mới đạt được cái An Riêng Tuyệt Đối Vĩnh Viễn.

Trong thực tế, vốn không có An Vĩnh Viễn, mà chỉ có An Kéo Dài. An được kéo dài bao lâu, lệ thuộc vào sự ứng dụng linh hoạt của người Dụng Nghiệm thực hành liên tục ra sao.

Hay qúa chú ạ. Chưa bao giờ cháu được nghe ai hay đọc bất cứ sách vở nào trình bầy một cách dễ hiểu và rõ ràng như chú chia xẻ.

Phần đông, những sách hay kinh nghiệm chia xẻ của những người Trải Nghiệm ngày nay, chỉ hướng về cách dậy làm sao đi tới Bản Thể. Nhưng khi tới Bản thể rồi, chẳng thấy ai chia xẻ phải làm gì sau đó.

Chẳng hạn như, nếu chú không chia xẻ về sự khác biệt giữa Trụ lâu và mau ra sao, thì với một người mới trải nghiệm như cháu, sẽ không biết thời gian Trụ lâu sẽ được gì, và Trụ mau sẽ ra sao? Cháu xin cám ơn chú rất nhiều.

Xin chú hãy tiếp tục chia xẻ với cháu về sự ứng dụng giữa An Riêng và An Chung.

Như tôi vừa chia xẻ với bạn, nếu đứng trên góc độ của An Riêng thì cái An đó là cái An Tuyệt Đối. Vì cái An đó có được là nhờ người đó đã tiếp xúc được với Sự Thật, hay Bản Thể, và người đó đã chấm dứt những phiền muộn, khổ đau, hay những vấn đề liên quan đến cá nhân đó. Hay nói một cách rõ hơn, ở đó, không có đối tượng cần phải giải quyết. Mà lúc đó, chỉ có chủ thể, chính là cá thể đó mà thôi.

Ngược lại, khi nói về cái An Chung lại bao gồm hai yếu tố: có chủ thể và đối tượng, có cá thể và có tập thể. Cho nên, dù người đó có trải nghiệm, có nhận diện được An, nhưng chưa chắc, đối tượng của người đó có chung nhận thức hay định nghĩa về An giống như người Thể Nghiệm.

Nếu như người Thể Nghiệm không thể thiết lập được cái An Chung thì cách sống của người Thể Nghiệm sẽ gây ra rất nhiều khổ đau cho người khác.

Hoặc giả như, nếu người Thể Nghiệm vẫn tiếp tục đem cái An Tuyệt Đối của mình để ứng xử với mọi người; với cách ứng dụng không chuẩn đó sẽ khiến cho nhiều người tìm cách xa rời người đó.

Nếu người đó không vững chãi duy trì được cái An Riêng, người Thể Nghiệm đó sẽ vì “áp lực” chung quanh mà bỏ cái An Riêng của họ. Hay, họ sẽ rơi vào cảnh, sống cô độc trọn đời nếu họ muốn tiếp tục duy trì được cái An Riêng.

Nguyên nhân chính là, đứng trên góc độ của An Chung, An chỉ là Tương Đối chứ không bao giờ có Tuyệt Đối như An Riêng.

Hãy dùng thuyết Nhân Quả để chúng ta có thể thấy được sự khác biệt như thế nào?

Giả sử, nếu chúng ta đứng trên góc độ đi từ Bản Ngã tới Bản Thể, hễ gieo Nhân nào thì gặt Quả đó. Nhưng nếu chúng ta đứng trên góc độ đi từ Bản Thể về lại Bản Ngã thì gieo Nhân này, chưa chắc đã cho ra Quả kia.

Thí dụ: Ngày nay, người ta có thể dùng gốc từ Nhân Cam mà ghép thành ra Qủa Quýt. Như vậy, nếu chúng ta đang trong qúa trình Thể Nghiệm, chúng ta sẽ không thể chấp nhận việc gieo Nhân này mà ra Quả kia. Vì sao?

Vì trong qúa trình Thể Nghiệm, nếu chúng ta có một nhân là giận mình đã làm sai điều gì đó thì cái Qủa mà chúng ta nhận, đó là: phiền não, và khổ đau cho chính chúng ta. Nhưng trong qúa trình Dụng Nghiệm, vì có chủ thể và đối tượng, nếu chúng ta giận người khác vì họ đi nói xấu chúng ta, thì chỉ có chúng ta đau khổ vì giận, còn người khác chưa chắc họ đau khổ. Có khi họ còn vui là khác.

Hay nói một cách ngắn gọn hơn, dù khởi đầu bằng một cái Nhân, nhưng trong qúa trình tư duy khác nhau thì cái Quả có thể là Hậu Quả hay Kết Quả.

Chẳng hạn như, “Cá không ăn muối, cá ươn”, ở đây, nếu Cá Không Ăn Muối thuộc về Nhân, thì Cá Ươn, thuộc về Quả. Hay đúng hơn, là Hậu Quả. Nhưng với sự tiến bộ ngày nay, người ta có thể dùng máy xấy khô cá, hoàn toàn không dùng đến muối mà cá cũng đâu có ươn.

Như vậy, nếu nhìn theo thuyết Nhân Quả của câu trên, từ một Nhân “Cá Không Ăn Muối” sẽ đưa ra một Hậu Quả là “Cá Ươn”. Nhưng trong qúa trình chế biến ngày nay, “Cá không ăn muối” “Cá vẫn không Ươn”. Hay nói rõ hơn, từ một Nhân “Cá Không Ăn Muối”, Cá vẫn đưa ra một Kết Quả tốt, không bị Ươn, nhờ qúa trình xấy khô cá.

Thế nên, nếu ứng dụng thuyết Nhân Quả trong thực tế, hoàn toàn khác biệt. Và An dùng trong An Chung cũng sẽ khác biệt với cái An Riêng.

Hay nói về Giới, Định, Tuệ theo quan niệm phổ thông thời nay thì Giới luôn là điều phải có trước tiên, vì không có Giới thì không có Định, và không có Định thì không có Tuệ. Điều này, chỉ đúng với những ai muốn đi từ Bản Ngã tới Bản Thể.

Nhưng nếu đi từ Bản Thể về Bản Ngã thì Tuệ lại là lựa chọn mà người Thực Nghiệm phải sử dụng đầu tiên, sau đó, tùy theo môi trường, và hoàn cảnh, mới đến Định, Giới, hay Giới, Định.

Vì sao? Vì người Thể Nghiệm, lúc đó, chưa biết sử dụng Tuệ. Nhưng với người Dụng Nghiệm, họ đã biết sử dụng Tuệ rồi. Cho nên, trong cách ứng xử với người khác, họ sẽ sử dụng Tuệ trước. Vì chỉ có Tuệ mới giúp họ thiết lập được cái An Chung.

Chính vì vậy, có thể nói, vì hai quá trình Đi và Về khác nhau, nên cách ứng dụng từ lý thuyết đến thực hành cũng hoàn toàn khác nhau. Có nhiều môi trường, hoàn cảnh, có thể đối nghịch nhau.

Với những người Thể Nghiệm, khi chưa có đủ kinh nghiệm về Dụng Nghiệm, sẽ trở nên “choáng ngợp” trước cách tạo ra An Chung và An Riêng. Nếu lúc đó, họ không biết sử dụng Tuệ Giác của họ một cách linh hoạt thì họ sẽ rơi vào hai trạng thái:

  • Thấy sự trải nghiệm của họ vô dụng. Họ dần quên An Riêng, và họ trở lại sống quay cuồng trong khổ đau và phiền não.
  • Họ sẽ xa lìa thế gian và con người, quy ẩn về một nơi chốn, không có ai, để sống với cái An Riêng của họ.

Vậy thưa chú, giữa An Chung và An Riêng có những điểm tương đồng, và dị biệt nào, có thể giúp cho chúng ta tránh được những lỗi lầm khi ứng dụng?

Giữa An Chung và An Riêng có ba điểm tương đồng, đó là: Trạng thái An, tiếp xúc với Sự Thật, và Chấp Nhận. Còn những điểm dị biệt thì vô số như: ứng dụng Nhân Quả, thái độ ứng xử, qúa trình tiến hành, diễn đạt định nghĩa, niềm tin khác biệt, tương đối, tuyệt đối,v.v.

Hay có thể nói đơn giản hơn, An Riêng thuộc về thế giới của Nhất Nguyên, còn An Chung thuộc về thế giới của Nhị Nguyên.

Thế giới của Nhất Nguyên là thế giới “qui về một mối”, ĐI từ quan sát, phân tích, nhìn sâu, và VỀ Tổng Thể; còn thế giới của Nhị Nguyên, là thế giới của đối đãi phân nghành, Bắt Đầu từ Tổng Thể, rồi đến sự Quan Sát và Nhìn Sâu qua nhiều góc độ.

Chính vì vậy, trong thế giới Nhị Nguyên, Tuệ Giác luôn được sử dụng liên tục. Vì sao? Vì mỗi hoàn cảnh xẩy ra luôn chịu sự tác động của đối tượng. Cùng một sự việc xẩy ra, nhưng cách ứng xử với mỗi người lại khác nhau, tùy theo niềm tin, kinh nghiệm, môi trường, cách sống, văn hóa vùng miền v.v., của mỗi người khác nhau.

Cho nên, khó có thể nào chỉ dậy hay đặt ra một phương pháp có thể ứng dụng cho tất mọi người; mà ở đây, đòi hỏi mỗi người Dụng Nghiệm phải dùng Tuệ Giác của mình, tùy nghi ứng xử, để thiết lập được cái An Chung cho cả chủ thể và đối tượng, hay giữa cá thể với cá thể, hay giữa cá thể với tập thể.

Đây là một đề tài vô tận, không bao giờ bàn cho hết được. Đó là đứng trên góc độ của “ngọn”. Nhưng nếu đứng trên góc độ của “gốc”, nghĩa là, dựa trên căn bản của nền tảng Nhân Quả, thì An Chung vẫn có thể dựa trên năm nguyên tắc sau đây để thiết lập:

  • Phải nhận diện được cái Nhân trước khi gieo trồng.
  • Khi không muốn cái Qủa xẩy ra, thì nên chấm dứt từ cái Nhân chứ không nên tốn kém thời gian đi sửa chữa lại cái Quả.
  • Thuyết Nhân Quả của An chung là Tương Đối chứ không phải Tuyệt Đối, nên trong An Chung sẽ luôn có hai Quả. Một là Hậu Quả, hai là Kết Quả. Hậu Quả là cái Quả tạo ra Nhân mới, và tiếp tục tạo ra Hậu Quả mới. Kết Qủa là Quả không tạo ra Nhân mới.
  • Mặc dù khi nhận diện được Đúng Nhân trước khi gieo trồng, nhưng trong qúa trình phát triển thành Quả, quá trình này sẽ bị ảnh hưởng bởi môi trường, hoàn cảnh, kinh nghiệm sống, niềm tin của mỗi cá thể, sẽ ảnh hưởng đến sự hình thành Quả. Qủa có thể là Hậu Quả, chứ không phải là Kết Quả, cho dù đã chọn Đúng Nhân.

Thí dụ như, kêu gọi giúp người trong hoạn nạn là một Nhân Đúng, nhưng nếu trong quá trình thu góp và phân phối số tiền cứu trợ, lại không đúng người, đúng việc, đúng thời gian, v.v. thì lại tạo ra Hậu Quả, chứ không phải là Kết Quả.

  • Khi mà đã ra Quả là Hậu Quả, nếu không chọn cách thay Nhân mới, thì Chấp Nhận Hậu Quả sẽ thay đổi Hậu Quả thành Kết Quả.

Nếu như bất cứ một người Thể Nghiệm nào, muốn trở thành người Dụng Nghiệm, đều có thể dựa trên năm nền tảng Nhân Quả trên, kết hợp với Tuệ Giác của người đó, thì người đó sẽ tránh được rất nhiều sự “choáng ngợp” trong qúa trình Dụng Nghiệm. Nếu không, người đó sẽ rơi vào những “bế tắc”, và tệ hại hơn, họ sẽ sống đau khổ hơn, vì họ đã mất đi niềm tin vào cái An của chính họ.

Thế nên, đừng cứ tưởng rằng, khi đã là người Thể Nghiệm thì sẽ không còn đau khổ nữa, hay chỉ cần tu để “đạt đạo” một lần là sẽ không bao giờ khổ đau. Đây là một quan niệm hết sức lệch lạc cần phải chỉnh.

Sự Thật đã chứng minh, đức Phật và các bậc Thiền Tổ, sau khi Thể Nghiệm và bắt đầu quá trình Dụng Nghiệm với con người, các Ngài vẫn phải tiếp tục tu tập cách ứng dụng giữa An Riêng, và thiết lập An Chung. Tăng đoàn của đức Phật là một minh chứng cho việc ứng dụng An Riêng và An Chung khác biệt như thế nào.

Thật tuyệt vời qúa chú ạ. Nếu không có sự chia xẻ của chú chiều nay thì cháu không thể nào hiểu được thế nào là An Chung và An Riêng. Cũng như, cháu cũng sẽ không hiểu được, sự khác biệt trong ứng dụng giữa An Chung và An Riêng như thế nào.

Giờ thì cháu đã hiểu, tại sao có những người Thể Nghiệm lại hay tạo ra mâu thuẫn khi hướng dẫn cho những người khác.

Vì họ đã không phân biệt được sự khác nhau trong ứng dụng giữa An Chung và An Riêng.

Có những câu hỏi được đặt ra để tìm cái An Chung thì diễn giả lại hướng dẫn đi tìm cái An Riêng. Có những câu hỏi được đặt ra để tìm cái An Riêng thì diễn giả lại hướng dẫn cách tạo ra An Chung.

Cuối cùng, người hỏi vẫn không biết làm cách nào để giải quyết vấn đề của mình một cách rốt ráo. Và diễn giả cũng đang “mơ hồ” với chính mình.

Cháu thấy cái nguy hiểm ở đây là, khi một diễn giả muốn hướng dẫn cho một ai đó, thì người đó phải chắc chắn biết đúng sự thật bằng sự trải nghiệm của chính người đó. Nếu như chưa tỏ rõ thì không nên chia xẻ, và hướng dẫn. Vì nếu không sẽ tạo ra những kiến chấp cho những người đã tin tưởng vào diễn giả.

Khi niềm tin vào một điều gì đó đã hình thành, nếu niềm tin đó không đúng với sự thật, thì diễn giả đó, đang làm hại cho những người họ đang hướng dẫn, biết bao nhiêu.

Cháu chính là nạn nhân của các diễn giả trong biết bao năm trời. May chiều nay được chú chia xẻ cháu mới có thể hiểu rõ được ngọn nghành.

Cháu cám ơn chú rất nhiều.

Không có chi. Mỗi người chúng ta, ai cũng có những thuận duyên và nghịch duyên. Có đôi khi, thuận duyên chưa chắc đã tốt, hay nghịch duyên đã xấu. Mà đôi khi, ngược lại. Đó chính là sự mầu nhiệm của cuộc đời. Quan trọng nhất là, chúng ta có Chấp Nhận hay không mà thôi.

Khi có mặt của sự Chấp Nhận thì thuận hay nghịch duyên đều không còn tồn tại, mà chỉ còn lại là Duyên. Cũng tương tự như An Riêng hay Chung, khi có mặt của sự Chấp Nhận thì dù An Riêng hay Chung, cũng chỉ còn lại là An.

Nếu mỗi người chúng ta chỉ cần đặt mục đích của chúng ta là An Lạc, và khi chúng ta có bất cứ vấn đề nào xẩy ra với chúng ta, nếu những vấn đề đó có ảnh hưởng, hay làm thay đổi mục đích An Lạc của chúng ta, thì chúng ta đừng trốn chạy, và phải tìm cách giải quyết vấn đề đó, bằng cách: dùng Tuệ Giác, dùng khả năng quan sát, phân tích, tổng hợp, nhìn sâu để tìm ra nguyên nhân tạo ra vấn đề đó.

Sau đó, chúng ta chấm dứt cái Nhân đó, thì chúng ta không tạo ra những hậu quả liên tiếp sẽ xẩy ra trong cuộc đời của chúng ta. Từ đó, chúng ta sẽ có sự An Lạc Kéo Dài từ ngày này sang ngày khác, từ năm này sang năm khác, cho đến khi mãn phần.

Nếu ai trong chúng ta cũng có thể làm được như vậy, chúng ta chẳng cần phải phân biệt An Chung và An Riêng, cách ứng xử thế nào cho thích hợp. Vì An nào thì cũng là An.

Đúng vậy, thưa chú. Sự thật thì vô cùng đơn giản. Sự thật chỉ trở nên phức tạp và mơ hồ khi kết hợp với những nhận thức lệch lạc và sự hoang tưởng của con người.

Mặt trời đã khuất núi, trong công viên, những ngọn đèn đã tỏ. Những tiếng cười nắc nẻ của những đứa trẻ đang vui đùa bên bố mẹ, vọng về. Chàng thanh niên và ông chú ngồi yên, thưởng thức cái An Chung và An Riêng của chính mình.

10 BỨC TRANH CHĂN TRÂU

album-art

00:00

TẢI MP3 – TRẦN THIỆN TÍCH
TẢI MP3- BÍCH HÀ
TẢI MP3 – VIÊN NGUYỆT

Ngày hôm sau, chàng thanh niên trở lại hội trường để tìm ông chú với một tâm trạng háo hức. Ông không còn ngồi ở đó, khiến chàng hơi hụt hẫng. Đối diện với hội trường là một công viên có nhiều người đang sinh hoạt. Thay vì, quyết định quay về, chàng thanh niên lại đổi ý, rảo bước hướng về công viên.

Chàng bước đi mà trong đầu vẫn đang miên man suy nghĩ về 10 Bức Tranh Chăn Trâu.

Tiếng cười lớn của 2 đứa bé đi bên cạnh làm chàng giật mình, thoát ra khỏi sự miên man trong suy nghĩ. Ánh mắt chàng hướng về phía trước, và bắt gặp hình ảnh ông chú đang ngồi. Chàng vui vẻ, bước về hướng ông, lễ phép chào, rồi ngồi xuống.

Ông chú hướng ánh mắt về chàng trai trẻ, mỉm cười, nói:

Chào anh bạn trẻ, chiều nay nhìn bạn tươi tắn hơn nhỉ.

Dạ cám ơn chú. Thưa chú, chiều nay, cháu có một số vấn đề muốn xin chú chia xẻ, không biết cháu có làm phiền chú không?

Không đâu, bạn muốn tôi chia xẻ về vấn đề gì? Ông chú nói.

Chàng thanh niên liền móc trong cặp ra một xấp giấy và trao cho ông chú, trong đó, có 10 bức tranh chăn Trâu của Thiền Tông, rồi nói:

Thưa chú, bàn về Thiền Tông thì 10 bức tranh Chăn Trâu được ví như một la bàn, giúp cho người thực tập có thể nương theo đó để tìm đến đích mà không bị lạc hướng. Cho đến nay, đã có muôn ngàn lời giải thích về ý nghĩa của 10 bức tranh này, và mỗi người, mỗi ý. Vậy đâu là ý nghĩa thật sự của 10 bức tranh Chăn Trâu, chú có thể giải thích cho cháu không?

Này anh bạn trẻ, trước khi chúng ta đi tìm ý nghĩa thật sự về 10 bức tranh Chăn Trâu, tôi có thể hỏi bạn một câu được không?

Xin chú cứ hỏi.

Tại sao lại Chăn Trâu mà không phải Chăn Bò, hay Chăn Ngựa?

Ừ nhỉ, tại sao lại Chăn Trâu mà lại Không Chăn những con khác?

Chàng thanh niên nhắm mắt, im lặng… ông chú cũng ngồi yên, không nói tiếng nào.

Một lúc sau, chàng thanh niên mở mắt, ánh mắt sáng rực, rồi nói:

Thưa chú, thời xưa, con người ta sống được là nhờ lúa gạo. Muốn làm ra lúa gạo, người ta cần phải cày bừa để gieo hạt. Trong qúa trình cày bừa, đòi hỏi phải mất rất nhiều công sức. Để giải quyết vấn đề công sức này, người nông dân đã biết sử dụng con Trâu là con vật mạnh nhất nếu đem so với tất cả các loại gia súc khác.

Chính vì vậy, thời xưa, con Trâu được xem như một báu vật đối với nhà nông. Đó là đứng trên góc độ về giá trị vật chất. Nhưng, nếu đứng trên góc độ về tinh thần, rõ ràng, sự đóng góp công sức của con Trâu đã đem đến sự No Ấm, An Vui, cho con người. Cho nên, các vị Thiền Tổ đã dùng hình ảnh con Trâu để biểu tượng cho sự An Lạc mà không dùng những con khác.

Này bạn trẻ, bạn nói hay lắm. Khả năng quan sát, phân tích, nhìn sâu, của bạn, thật tinh tế. Này bạn, hãy dùng sự quan sát, phân tích, và nhìn sâu của bạn để diễn giải ý nghĩa về 10 bước tranh này đi.

Nói xong, ông chú liền đưa xấp giấy lại cho chàng thanh niên. Cầm lại xấp giấy, chàng thanh niên bắt đầu quan sát, rồi nói:

Bức tranh thứ Nhất, Tìm Trâu: Ý nghĩa của bức tranh này, diễn tả một sự quyết định đi tìm lại một cái gì đó. Ở đây, diễn tả qúa trình của một người đã đánh mất đi sự An Lạc (Trâu) của mình, và quyết định muốn đi tìm lại sự An Lạc đó. Yếu tố quan trọng nhất trong bức tranh này, đó là, sự xác Định (tìm). Nếu không có sự xác Định này thì sẽ không có những bức tranh kế tiếp.

Bức tranh thứ Hai, Thấy Dấu: Ý nghĩa của bức tranh này, diễn tả những điều kiện cần phải có (Dấu), và sự chấp nhận để đạt (Thấy) được sự An Lạc.

Bức tranh thứ Ba, Thấy Trâu: Ý nghĩa của bức tranh này, diễn tả người đi tìm sự An Lạc đã tìm ra được nguyên nhân tạo ra sự mất An Lạc của mình và tìm ra giải pháp để giải quyết sự mất An Lạc của mình.

Bức tranh thứ Tư, Được Trâu: Ý nghĩa của bức tranh này, diễn tả trạng thái của người đó cảm nhận được sự An Lạc thật sự, hay là Chân An Lạc.

Thưa chú, cháu chỉ có thể giải được đến bức tranh thứ Tư thôi, còn những bức tranh kế tiếp, cháu chịu, không thể nào giải được.

Ông Chú nhận lại xấp giấy từ chàng thanh niên, mỉm cười, rồi nói:

Này anh bạn trẻ, khả năng quan sát, phân tích và nhìn sâu của bạn thật tuyệt vời.

Này bạn, nếu 3 bức tranh này, dùng để diễn tả qúa trình của một người đi tìm Bản Thể của chính người đó, thì bức thứ Tư, diễn tả về kết quả mà người đó đạt được sau khi tiếp xúc được với Bản Thể của chính họ, hay có thể rút gọn thành, Bản Cá Thể (dáng gốc của cá nhân). Khi người đó đã nhận diện được Bản Cá Thể rồi, người đó cũng có cơ hội để nhận ra được Bản Thể của Vạn Pháp.

Vì vậy, để gọi tên cho cả qúa trình của 4 bức tranh này, trong Thiền học, gọi là Kiến Ngộ (Kiến = sự gặp gỡ, Ngộ = sự hiểu biết thông suốt, không còn vướng mắc.)

4 bức tranh này, nếu tóm gọn lại, chính là la bàn cho qúa trình Kiến Ngộ.

Từ bức tranh thứ Năm cho đến bức tranh thứ Mười, dùng để diễn tả về quá trình đi từ Bản Thể Trở Về Bản Ngã. Qúa trình này, trong Thiền học gọi là Thực Ngộ (thực hành sự hiểu biết thông suốt, không vướng mắc), hay Dụng Ngộ (ứng dụng sự hiểu biết thông suốt, không vướng mắc).

Bởi vì, hai quá trình ĐI (Kiến Ngộ), và VỀ (Thực Ngộ), hoàn toàn khác nhau, nên sự ứng dụng cũng khác nhau. Tiếc rằng, vì nhiều người trong chúng ta thiếu sự trải nghiệm xuyên suốt, nên tưởng rằng, hai qúa trình này là một. Từ đó, gây ra sự lầm lẫn trong cách ứng dụng.

Nếu chúng ta chịu quan sát sâu hơn, chúng ta sẽ nhận thấy: Bốn bức tranh đầu tiên, diễn tả về qúa trình đi tìm An Lạc và đạt đến sự An Lạc. Nhưng từ bức tranh thứ Năm đến bức tranh thứ Mười, lại diễn tả về cách ứng dụng của sự An Lạc trong đời sống hằng ngày.

Nào, chúng ta hãy cùng bắt đầu sự quan sát bức tranh thứ Năm.

Bức tranh thứ Năm, Chăn Trâu: Chăn có nghĩa là nuôi dưỡng. Vì vậy, ý nghĩa của bức tranh này là nuôi dưỡng (Chăn) sự An LạcTuyệt Đối, hay gọi là An Riêng.

Chú ơi, Tại sao đã có An Lạc Tuyệt Đối hay An Riêng rồi, mà lại còn cần phải nuôi dưỡng?

Thực tế, trên đời này, có rất nhiều người đã có những trải nghiệm qua qúa trình  Kiến Ngộ. Có người, họ cũng không biết đó là Kiến Ngộ. Có người, họ An Trú (Chăn) trong đó vài ngày, rồi lại trở về Bản Ngã của họ và họ sống giống như xưa. Có người, họ có thể An Trú (Chăn) lâu hơn khoảng vài ba tháng. Chính nhờ sự An Trú lâu hơn này, họ có được cơ hội Nhận Ra được Bản Thể của Vạn Pháp.

Sở dĩ, thời gian An Trú của mỗi người khác nhau, tùy thuộc vào sự khao khát đi tìm Bản Thể lúc ban đầu của mỗi người khác nhau như thế nào. Người nào, càng khao khát mãnh liệt bao nhiêu, họ càng qúy trọng và gìn giữ sự An Lạc bấy nhiêu. Cho nên, họ có thể kéo dài thời gian An Trú.

Sự thật, sự An Lạc vốn Thường Hằng và luôn Có Mặt. Nhưng vì, những nhận thức sai lầm, khiến cho chúng ta không nhận ra sự Thường Hằng đó.

Chính vì vậy, không có người Kiến Ngộ nào có thể An Trú trường tồn trong trạng thái An Lạc đó. Vì sao? Vì sự An Lạc vốn đã có sẵn. Chỉ vì nhận thức sai lầm nên người đó không nhận ra. Khi người đó đã nhận ra rồi, thì người đó, trước hay sau gì cũng phải từ Bản Thể về lại Bản Ngã.

Thời gian lưu lại lâu trong Bản Thể, gọi là quá trình kéo dài thời gian An Trú, hay còn gọi là quá trình nuôi dưỡng, hay gọi là quá trình CHĂN.

Nhờ có quá trình Chăn này, người đó mới tạo thành một thói quen, nhận dạng được sự An Lạc. Chính thói quen này, giúp cho người đó, khi trở về sinh hoạt trong đời thường, dùng thói quen đó để ứng xử.

Thói quen này, giống như mỏ neo vậy, giúp cho người đó, dù có bị sóng gió bao nhiêu trong cuộc sống cũng không bị trôi dạt mất hướng. Cho nên, tại sao trong 10 bức tranh thì bức thứ Năm, được chọn làm đại diện cho tổng thể của 10 bức tranh là vậy.

Bức tranh thứ Sáu, Cỡi Trâu Về Nhà: Nếu bức Tranh thứ Năm là biểu hiện của qúa trình khởi đầu cho sự chuẩn bị Về Lại Bản Ngã, thì ý nghĩa của Bức tranh thứ Sáu dùng để diễn tả qúa trình đem sự cảm nhận về sự An Lạc Tuyệt Đối, hay An Riêng, từ Bản Thể về lại Bản Ngã để ứng dụng trong đời sống hằng ngày.

Chú ơi, chú có thể dừng lại một chút để giải thích An Lạc Tuyệt Đối, hay An Riêng là gì hay không, chú?

Này anh bạn trẻ, khi một người nào đó, đạt được trạng thái An Lạc cho chính họ, ngoài họ ra, không có ai khác, thì sự An Lạc đó có phải là Tuyệt Đối (một mình không có ai để so sánh) không?

Dĩ nhiên rồi. Cho nên, khi chúng ta nhập chung vào thì thành sự An Lạc Tuyệt Đối. Còn An Riêng cũng là sự An Lạc Tuyệt Đối, nhưng rút gọn hơn. Chính nhờ sự rút gọn này sẽ giúp cho người Dụng Nghiệm dễ dàng ứng dụng giữa cá thể với tập thể, và tránh gây ra sự hiểu lầm.

Trong ứng dụng của bức tranh thứ Sáu: Cỡi Trâu Về Nhà, chúng ta sẽ có thêm những tên gọi mới như: An Lạc Tương Đối và An Chung.

An Riêng hay An Chung sẽ là một chủ đề dài, nếu anh bạn trẻ muốn hiểu sâu sắc về chủ đề này, chúng ta sẽ có một buổi quan sát khác.

Trở lại bức tranh thứ Bẩy, Quên Trâu Còn Người: Nếu bức tranh thứ Năm, diễn tả về qúa trình nuôi dưỡng sự An Lạc Tuyệt Đối, và trong qúa trình nuôi dưỡng đó, thì người đó cũng tạo thành một thói quen về sự An Lạc Tuyệt Đối.

Khi một điều gì đó biến thành một thói quen thì sự vận hành của thói quen đó không cần sự có mặt của Ý Thức. Vì vậy, nên gọi là Quên Trâu.

Quên Trâu ở đây, không nên hiểu là quên đi sự An Lạc, mà nên hiểu là, thói quen An Lạc Tuyệt Đối được vận hành một cách tự nhiên, không cần sự có mặt (Quên) của Ý Thức. Còn 2 chữ: Còn Người; nhấn mạnh đến cách ứng xử giữa cá thể, có thói quen An Riêng, đối với người khác.

Chưa chắc thói quen An Riêng cho cá thể này đã thích hợp khi ứng dụng cho cả tập thể kia. Vì vậy, mới có thêm hai chữ, Còn Người, có nghĩa là, còn cái An của người khác nữa.

Ngắn ngọn hơn, ý nghĩa của bức tranh thứ Bẩy, diễn tả về cách ứng xử của một cá thể có thói quen An Riêng Tuyệt Đối đi tìm cái An Chung Tương Đối (Cái An mà cá nhân đó có thể đem ra ứng xử để tạo ra cái An cùng người khác).

Bức tranh thứ Tám, Người Trâu Đều Quên: Ý nghĩa của bức tranh thứ Tám này, diễn tả qúa trình tìm ra An Chung Tương Đối, rồi biến cách hành xử An Chung Tương đối thành thói quen trong cách ứng xử giữa cá thể với tập thể. Khi An Chung Tương Đối biến thành thói quen rồi thì qúa trình này được gọi là: Người Trâu Đều Quên. Vì lúc đó, An Riêng hay An Chung, cũng chỉ là An.

Bức tranh thứ Chín, Trở Về Nguồn Cội: Ý nghĩa của bức tranh thứ Chín này, diễn tả quá trình thực hành cái An Chung của cá thể trong tập thể. Nếu trong qúa trình thực hành cái An Chung này, cá thể không thể thiết lập được cái An Chung cho tập thể, thì cá thể này vẫn có thể sống chung với tập thể mà vẫn không hề bị ảnh hưởng bởi tập thể, nhờ sự trở về với cái An Riêng Tuyệt Đối của mình. Cho nên, gọi là Trở Về Nguồn Cội.

Bức tranh thứ Mười, Thõng Tay Vào Chợ: Ý nghĩa của bức tranh thứ Mười này, cũng diễn tả quá trình thực hành cái An Chung của cá thể trong tập thể. Nếu trong qúa trình thực hành cái An Chung này, cá thể có thể thiết lập được cái An Chung cho tập thể, thì cá thể này sẽ tiếp tục sống chung với tập thể và vẫn tiếp tục dùng Cái An Chung Tương Đối này. Cho nên, mới gọi là: Thõng Tay Vào Chợ.

Thì ra, ý nghĩa 10 bức tranh Chăn Trâu lại sâu sắc đến như vậy.

Ngày xưa, khi cháu nghe giảng giải về 10 bức tranh Chăn Trâu, hầu như, diễn giả nào cũng chỉ nhấn mạnh đến, đó là, qúa trình đi tìm lại Tâm. Bắt đầu từ bức thứ Nhất đến bức thứ Chín, và bức thứ Mười là đại diện cho vào đời hành đạo sau khi đắc đạo.

Lúc đó, cháu cứ thắc mắc, nếu 10 bức tranh Chăn Trâu, diễn đạt về qúa trình của sự thực chứng, thì bức tranh Trở Về Nguồn Cội mới là bức tranh phải đặt tên cho toàn bộ tác phẩm. Nhưng tại sao lại chọn bức thứ Năm là Chăn Trâu thì cháu thật không thể nào nghĩ ra.

Nhưng bây giờ, cháu đã hiểu, tại sao bức tranh thứ Năm Chăn Trâu lại quan trọng như vậy. Cho nên, chọn 2 chữ Chăn Trâu cho toàn bộ 10 bức tranh thật là tuyệt vời.

Một cơn gió mát thoảng qua, giữa buổi chiều oi bức, hai chú cháu cùng ngồi im lặng thưởng thức cơn gió vô tình.

NGƯỜI TĨNH THỨC VÀ NGƯỜI TỈNH THỨC

album-art

00:00

TẢI MP3 – PHẠM PHÚ THỊNH     
TẢI MP3 – NGỌC YẾN – VIÊN NGUYỆT

Trong hội trường, diễn giả đang thao thao bất tuyệt chia xẻ những kiến thức cao siêu về người Tĩnh Thức. Những tiếng vỗ tay của khán thính giả vang lên không đều, lúc to lúc nhỏ.

Một chàng thanh niên lầm lũi bước ra khỏi hội trường. Trên con đường đi về, chàng thanh niên nhìn thấy một người đàn ông ăn xin đang ngồi trên bãi cỏ phía trước mặt. Chàng thanh niên bước đến chỗ ông ngồi, rồi đứng lại. Chàng móc trong túi ra một số tiền, cúi xuống, bỏ vào chiếc nón trước mặt người đàn ông. Mắt ông vẫn hướng về những đóa hoa dại mọc bên kia đường. Khi chàng thanh niên chuẩn bị bước đi, ông lên tiếng:

Này anh bạn trẻ, sao trong hội trường mọi người đang hào hứng để học trở thành người Tĩnh Thức, riêng anh lại ra về sớm thế?

Chàng thanh niên đáp:

Thưa chú, vì nể lời mời của người bạn nên cháu mới đến đây. Nhưng trong không gian đó cháu luôn cảm thấy cháu vô cùng cô đơn. Cháu thiết nghĩ, phương pháp mà diễn giả trình bầy có lẽ không thích hợp với cháu, nên cháu quyết định ra về.

Người đàn ông nở nụ cười thân thiện, nói:

Chúc mừng Bạn! Người Tĩnh Thức Tương Lai.

Chú nói sao, cháu là Người Tĩnh Thức Tương Lai? Làm Sao Chú Biết?

Này người bạn trẻ, trước khi tôi trả lời bạn làm sao tôi biết bạn là người Tĩnh Thức Tương Lai, có một vấn đề, mà tôi nghĩ, chúng ta cần phải thống nhất với nhau.

Này bạn, bạn có đồng ý với tôi: mỗi định nghĩa khác nhau sẽ dẫn đến suy nghĩ khác nhau; và những suy nghĩ khác nhau sẽ tạo ra cảm giác khác nhau. Khi cảm giác khác nhau sẽ dẫn đến hành động khác nhau; và khi hành động khác nhau sẽ tạo ra cái kết qủa khác nhau không?

Đó là sự thật hiển nhiên rồi chú, đâu cần phải bàn cãi.

Vậy, nếu như bạn sử dụng lầm lẫn giữa định nghĩa này sang một định nghĩa khác, bạn có ra kết qủa như bạn muốn không?

Không bao giờ.

Vậy theo như bạn, định nghĩa của Tĩnh Thức là gì? và Tỉnh Thức là gì?

Theo như những sách và tài liệu mà cháu đọc được, Tĩnh Thức là Ý Thức Yên Tĩnh, và Tỉnh thức là cái Thức Tỉnh dậy, không còn mê mờ.

Vậy, đó là những định nghĩa của “người ta” hay đó cũng là định nghĩa của bạn?

Thú thật, bản thân cháu vẫn chưa biết chính xác định nghĩa về 4 chữ đó, cho nên, cháu mới tạm  mượn định nghĩa của người khác để diễn giải. Nhưng cháu vẫn cảm thấy chưa chuẩn lắm, và cần chỉnh lại, nhưng cháu chưa biết chỉnh như thế nào?

Này anh bạn trẻ, 4 chữ Tĩnh Thức và Tỉnh Thức đều là chữ Hán Việt: Tĩnh nghĩa là Lắng Xuống, Lặng Xuống; Thức là Nhận Ra, hay Biết Ra; còn Tỉnh là Xem Xét, Kiểm Điểm Chính Mình, và Thức cũng là Nhận Ra, hay Biết Ra.

Hay diễn rộng ra, Người Tĩnh Thức là người, trong hành trình trải nghiệm đi từ Bản Ngã đến Bản Thể, có khả năng làm Lắng Đọng những sự lao xao, xáo trộn, mơ hồ trong suy nghĩ của người đó. Và khi những sự suy nghĩ này lắng đọng xuống, người đó nhận ra được Bản Thể của chính mình. Khi đã nhận diện được Bản Thể của chính mình, người đó sẽ cảm nhận được một trạng thái gọi là: sự An Lạc Tuyệt Đối, hay còn gọi là An Riêng.

Còn người Tỉnh Thức, là tên gọi, để diễn tả về một người trong hành trình trải nghiệm đi từ Bản Thể Về Lại Bản Ngã. Trong qúa trình này, vì người đó đã nhận ra được Bản Thể của mình rồi, và bắt đầu quay trở về để sống với tập thể cộng đồng. Cho nên, người đó phải Suy Xét, Kiểm Điểm Chính Mình và phải biết hành xử như thế nào để đạt được cái An Chung.

Hay có thể nói ngắn gọn, người Tĩnh Thức là người đi từ Bản Ngã Đến Bản Thể có khả năng làm lắng đọng những sự xáo trộn trong tư duy, và đạt đến trạng thái An Riêng Tuyệt Đối. Còn người Tỉnh Thức là người đi từ Bản Thể Về Lại Bản Ngã. Trong hành trình ĐI VỀ này, người Tỉnh Thức luôn suy xét, kiểm điểm chính mình, và phải biết hành xử ra sao để đem đến trạng thái An Chung Tương Đối.

Bởi vì, hành trình có khác nhau, nên cách ứng xử trong hai hành trình cũng khác nhau. Nếu trong định nghĩa, chúng ta diễn dịch không chuẩn, hay lệch lạc, thì đó cũng là nguyên nhân gây ra nhận thức sai lầm đưa đến cách ứng xử lệch lạc và tạo ra khổ đau. Đây chính là hậu quả mà chúng ta nhận lãnh từ những nhận thức sai lầm này.

Này người bạn trẻ, Cô Đơn là bước khởi đầu của một người đi từ Bản Ngã tới Bản Thể, nên tên gọi là Tĩnh Thức (sự nhận ra, biết ra, nhờ sự lắng đọng những suy nghĩ lao xao, xáo trộn). Còn Cô Đơn trong Tỉnh Thức lại là sự lựa chọn, chứ không phải là bước khởi đầu.

Thí dụ: người Tỉnh Thức có thể lựa chọn sống một mình (cô đơn) hay sống chung với mọi người, mà vẫn sống trong sự An Lạc. Ngược lại, đối với người Tĩnh Thức thì cô đơn lại là phương tiện để thể nghiệm về sự An Lạc.

Ồ, thì ra sự khác biệt giữa 2 định nghĩa và kết quả của hai cặp chữ này khác nhau một trời một vực, chú nhỉ. Cháu chưa đọc bất cứ tài liệu hay sách vở nào phân tích bốn chữ Tĩnh Thức và Tỉnh Thức rõ ràng như chú cả.

Nhưng chú ơi, chữ Tĩnh và Tỉnh có nhiều vùng miền khi nói ra có thể giống nhau. Từ đó, có thể gây ra những sự hiểu lầm. Vậy có cách nào để tránh gây ra sự nhầm lẫn này không?

Này anh bạn trẻ, thay vì gọi là người Tĩnh Thức, chúng ta có thể thay thế bằng: người Thể Nghiệm. Có nghĩa là, người trải nghiệm qua quá trình tiếp xúc với Bản Thể; và Người Tỉnh Thức là người Dụng Nghiệm, nghĩa là, người đem những kinh nghiệm đã tiếp xúc với Bản Thể để ứng dụng trong đời sống hàng ngày. Như vậy, chúng ta có thể tránh gây ra sự hiểu lầm trong ứng dụng.

Hay quá chú ơi! Rõ ràng, khi gọi tên là Thể Nghiệm và Dụng Nghiệm, thì rất dễ dàng để phân biệt mình đang ở đâu, và trạng thái mình cảm nhận được sẽ là gì. Rất khác với tên là Tĩnh Thức và Tỉnh Thức. Qủa thật, sẽ tránh gây ra sự hiểu lầm, chú ạ.

Thưa chú, trước khi nói chuyện với chú, cháu rất mơ hồ về định nghĩa của bốn chữ Tĩnh Thức và Tỉnh Thức; cho nên, cháu luôn rơi vào trạng thái ứng dụng lẫn lộn giữa Tĩnh Thức và Tỉnh Thức. Nhưng bây giờ, khi thay thế bốn chữ đó bằng: Thể Nghiệm và Dụng Nghiệm, cháu đã phân biệt được rất rõ ràng. Rất cảm ơn chú.

Thưa chú, lúc nẫy cháu có hỏi chú, làm sao chú biết cháu là người Tĩnh Thức. Nhưng bây giờ, cháu đã hiểu chú dựa trên tiêu chuẩn nào để chú biết. Nhưng cháu vẫn còn một chút thắc mắc, làm sao chú có thể biết cháu đang cô đơn trong dạng nào?

Trước khi tôi trả lời bạn, bạn có thể trả lời tôi một số câu hỏi không?

Vâng, xin chú cứ hỏi.

Này người bạn trẻ, khi bạn có một quyết định lớn, và quyết định lớn này có thể ảnh hưởng tới cả cuộc đời của bạn, bạn cần phải suy nghĩ chín chắn thì bạn làm sao?

Dạ, cháu sẽ tìm một nơi vắng vẻ, không có ai làm phiền tới cháu, rồi cháu sẽ suy nghĩ, tính toán xem, những quyết định nào sẽ đem đến cái lợi nhất cho cháu thì cháu sẽ chọn.

Bạn trả lời hay lắm. Vậy có ai dậy bạn, khi bạn có vấn đề thì đi tìm một chỗ vắng vẻ, không có người, để suy nghĩ và tìm ra giải pháp không?

Không, chẳng ai dậy cả, mà cháu thấy, hình như ai cũng có khả năng này. Hễ khi có vấn đề mà họ cần phải giải quyết thì họ cũng đều làm như cháu thôi.

Người đàn ông bật cười sảng khoái một hồi, nhìn chàng trai rồi nói:

Này người bạn trẻ, không phải bạn vừa mới nói với tôi, khi bạn có vấn đề, bạn đi tìm chỗ vắng vẻ, không có người, để suy nghĩ đó sao? Như vậy, không phải bạn đang xa rời tất cả, bạn chỉ có một mình bạn, bạn đang cô đơn sao?

Và cũng chính nhờ sự cô đơn đó, mà bạn mới tận dụng được khả năng quan sát, phân tích, tổng hợp, và nhìn sâu để tìm ra câu trả lời chính xác nhất sao?

Này anh bạn trẻ, trong qúa trình Thể Nghiệm cũng giống như vậy. Nếu như bạn không có sự cô đơn, bạn sẽ không có khả năng để chạm vào được Bản Thể.

Cô đơn được ví như bước chân đầu tiên, vô cùng quan trọng, trong hành trình bạn đi tìm tới Bản Thể của bạn. Nếu không có bước chân đầu tiên này, bạn vĩnh viễn không bao giờ biết được Bản thể của bạn là gì?

Này anh bạn trẻ, không phải chiều nay, bạn đến đây để nghe diễn giả trình bầy về qúa trình đi tìm đến Bản Thể hay sao?

Nếu như bạn đã biết về qúa trình đó, bạn có đi nghe không?

Chắc chắn là không. Vì sao? Vì bạn đã biết Bản Thể là gì, thì đường nào đi đến Bản Thể cũng không quan trọng. Cái quan trọng nhất đó chính là Bản Thể.

Cho nên, chẳng có con đường nào đúng nhất, cũng chẳng có con đường nào chánh nhất, cũng chẳng có con đường nào cao nhất. Tất cả mọi con đường, chỉ là phương tiện mà không phải là cứu cánh.

Vì vậy, chẳng có một lý do chính đáng nào, khiến bạn phải phí thời gian để đi tìm hiểu con đường đi đến Bản Thể của diễn giả là gì.  

Nếu có chăng, vì bạn chưa biết Bản Thể là gì; cho nên, bạn mới hy vọng, con đường của diễn giả đó, sẽ giúp bạn tìm tới Bản thể.

Sự hiện diện của bạn chiều này đã chứng minh, bạn chưa thực sự tiếp xúc với Bản Thể. Trong buổi diễn thuyết đông người, bạn lại cảm thấy cô đơn. Mà cô đơn là bước khởi đầu của người Tĩnh Thức.

Đó chính là lý do tại sao tôi chúc bạn là người Tĩnh Thức tương lai, mà không chúc mừng bạn là người Tỉnh Thức.

Chàng thanh niên nghe xong bật cười ha hả…

Ánh mắt chàng sáng ngời…lung linh như những giọt nắng chiều đang xuyên qua bóng dâm của đám lá cây thẫm mầu, dầy đặc.

Người Tĩnh Thức là người biết lắng
Biết lặng yên cay đắng trong lòng
Bổn nguyên một cõi thong dong
An nhiên tự tại ruỗi rong vui đùa

Người Tỉnh Thức là người áp dụng
Đem An Riêng loan phụng An Chung
Thong dong giữa chốn khốn cùng
Cùng người sánh bước bao dung hiền hòa

 

We use cookies in order to give you the best possible experience on our website. By continuing to use this site, you agree to our use of cookies.
Accept