KHÔNG AI NỢ AI

KHÔNG AI NỢ AI

NHẠC & LỜI :NGÔ HƯNG

CA SĨ: GIA MINH – (TẢI -MP3)

HÒA ÂM : ĐỨC MINH

Không ai nợ ai – dù chỉ một ngày

tình đến tình cờ – rồi tình lại đi

Không ai nợ ai – dù chỉ một lần

tình đến thật gần – rồi tình xa xăm

Không ai nợ ai – dù đó nợ tình

tình đó nụ quỳnh – vừa tàn hôm mai

Không ai nợ ai – dù đó nợ người

tình nhuốm hồng đời – rồi tình thiên thu

Không ai nợ ai – không ai nợ tình

tình đó một mình – ngồi khóc giữa khuya

Không ai nợ ai – dù chỉ một lần

tình đó mộ phần – nghìn trùng xa nhau

Không ai nợ ai – dù đó nợ người

ai nợ ai người – từng lời thề bay

Không ai nợ ai – chẳng có nợ đời

chỉ có một đời – này cứ rong chơi

MƠ NGƯỜI YÊU THƯƠNG

MƠ NGƯỜI YÊU THƯƠNG 

Nhạc & Lời: Ngô Hưng


Ca Sĩ: PHI PHI
(TẢI – MP3)

HÒA ÂM : ĐỨC MINH

 

Người già bơ vơ 

nằm trơ thân gầy

mắt lệ đong đầy

thương phận bơ vơ

thương phận bơ vơ

Người già đêm mơ

nằm mơ thấy người

Tim người mở rộng

ân cần thương trao

ân cần thương trao

Người già chiêm bao

tim ấm ngọt ngào

trong vòng tay người

trong vòng tay yêu

Người già cô liêu

sáng tối sớm chiều

nay người có người

có người yêu thương

có người yêu thương

Người già đếm sương

Nằm trên hè đường

Mơ người … thương người

Mơ người yêu thương

TRÁI TIM – BỘ ÓC VÀ CÁI LƯỠI

album-art

00:00

TẢI MP3 – MỴ HẰNG

Bạn thân mến,

Có bao giờ trong một lúc an nhàn, ngồi suy tư trong khoảng không gian yên tịnh, bạn hình dung và suy ngẫm vể sự liên kết kỳ thú giữa TRÁI TIM – BỘ ÓC VÀ CÁI LƯỠI chưa?

Nếu bạn chưa có cơ hội này, thì xin mời bạn hãy cùng chúng tôi trải nghiệm và cảm nhận giá trị của 3 “Nhân vật” đặc biệt này nhé!

Một ngày nọ, trái tim, bộ óc và cái lưỡi đồng ý với nhau sẽ không bao giờ nói những lời đơn giản, quê mùa nữa.

  • Trái tim: “Những lời nói đơn giản, quê mùa chỉ làm bận rộn ta thôi. Chúng làm tự cho mình trở nên yếu đuối. Sống trong thời buổi này, trái tim phải trở nên cứng rắn, cương quyết chứ không thể mềm nhũn dễ bị xúc động được.”
  • Bộ óc đồng tình: “Đúng thế, thời buổi này chỉ có những tư tưởng cao siêu, những công thức tuyệt vời, những công trình vĩ đại mới đáng cho bộ óc suy nghĩ tới. Những lời nói đơn giản, quê mùa chỉ làm mất thời gian, mà thời gian là vàng bạc.”
  • Cái lưỡi nghe trái tim và bộ óc nói thế không khỏi hãnh diện và tự cảm thấy mình trở nên rất quan trọng, mặc dù cái lưỡi chỉ là bộ phận nhỏ bé của thân thể. Vì thế lưỡi cũng đồng tình: “Hai anh quả thật đã đạt được tột đỉnh của sự khôn ngoan. Nếu hai anh nghĩ thế thì kể từ nay tôi sẽ chỉ nói những từ cao siêu, những lời văn hoa mỹ, những bài diễn văn sâu sắc hùng hồn.”

Kể từ dạo ấy, trái tim chỉ gửi đến lưỡi những lời nói cứng cỏi, bộ óc chỉ hình thành và gửi xuống lưỡi những tư tưởng cao siêu và lưỡi không còn nói những lời đơn giản, quê mùa nữa.

Thời gian trôi đi. Mặt đất trở nên tẻ nhạt như vạn vật mùa đông. Không một chiếc lá xanh, không một cánh hoa đồng nội và lòng người cũng trở nên chai đá như những tháng hè oi bức.

Nhưng những vị cao niên vẫn còn nhớ những lời nói đơn giản, quê mùa đó. Đôi lúc miệng họ vô tình bật ra những lời nói quê mùa chơn chất.

Lúc đầu họ sợ bị bọn trẻ chê cười. Nhưng kìa, thay vì chê cười, những lời nói quê mùa chơn chất đó lại được truyền từ miệng này sang miệng khác, từ bộ óc này sang bộ óc khác, từ trái tim này qua trái tim nọ. Cuối cùng chúng xuất hiện như những đóa hoa phá tan lớp băng tuyết giá lạnh để vươn cao làm đẹp cho đời.

 

GÓC NHÌN VÀ CẢM NHẬN

album-art

00:00

TẢI MP3 – BÍCH HÀ

Bạn thân mến,

Bốn chữ “góc nhìn” và “cảm nhận” thì chúng ta thường thấy nhan nhãn mỗi ngày trên các trang sách, báo, hay tin tức, nhưng góc nhìn là gì, và cảm nhận là gì, chính là chủ đề mà chúng tôi muốn chia xẻ với bạn hôm nay.

Thế nào là “Góc Nhìn”?

Khi bạn cầm một ly café Starbucks đi trên phố. Một người đi từ phía ngược lại, ánh mắt bỗng toát lên sự  đố kỵ, ganh ghét. Khi  hình ảnh của bạn tiếp xúc với ánh mắt đố kỵ, ganh ghét đó, ý thức của người đó sẽ diễn dịch như sau:

Ồ! Con người hôm nay sao mà sống ảo quá, cứ tưởng là cầm một ly café Starbucks thì cho là mình sang lắm. Không biết có biết thưởng thức café hay không, hay chỉ làm mầu, muốn cho thiên hạ biết mình đang uống café Starbucks, chứ có biết café là cái quái gì.

Sau đó, bạn tiếp tục đi về phía trước, gặp được một người bạn thương gia mà bạn đã hẹn. Anh ta trông thấy bạn cầm ly café Starbucks, tỏ vẻ rất khinh thường, nhưng cũng không nói gì.

Nhưng trong Ý thức của thương gia đó sẽ diễn dịch như sau:

Ồ! Người này kể ra cũng tiết kiệm lắm, thời thế bây giờ, mà vẫn còn uống café Starbucks ư! Người ta sớm đã đổi sang uống café cao cấp từ lâu lắm rồi, vậy mà vẫn còn uống loại café đại chúng này, thì ra địa vị cũng không quyết định được “cái gu” ẩm thực.

Cùng cầm một ly café Starbucks, nhưng qua hai đối tượng khác nhau, và qua hai ánh mắt khác nhau, mà ý thức của mỗi người lại có thể diễn dịch ra những góc độ nhìn khác nhau, dựa trên những quan điểm về kinh nghiệm, hay hoàn cảnh của đối tượng, đang hướng về góc nào.

Hướng về một góc nào đó, theo ngôn ngữ phổ thông thì chúng ta gọi đó là góc nhìn.

Đối với người thứ nhất, anh ta đố kỵ. Vì anh ta cho rằng người bình thường uống café Starbucks trông rất giả tạo, là mầu, khoe khoang.

Đối với người thứ hai, anh ta khinh thường. Vì anh ta cảm thấy những người có quyền lực, mà vẫn uống café Starbucks thì thật là tầm thường.

Vậy còn góc độ nhìn thật sự của tôi là gì? Rất đơn giản, vì “tôi thích uống thì tôi uống”.

Cái chữ “thích” của tôi, đối với người thứ nhất, được diễn dịch thành giả tạo, nhưng đối với người thứ hai, thì lại được diễn dịch thành tầm thường.

Vì vậy, chúng ta đừng nên tùy tiện dùng góc nhìn của mình để phán đoán cuộc sống của người khác, đặc biệt là với cái nhìn đầu tiên. Vì sao?

Vì nếu góc nhìn của bạn:

  • Xa quá thì thành “xem thường”,
  • Gần quá thì thành “phóng đại”, và
  • Hẹp quá thì sẽ thành “hẹp hòi”.

Đáng tiếc là, người có tầm nhìn hạn hẹp, thì rất khó thoát ra khỏi góc nhìn giới hạn của mình, họ sẽ không đứng từ lập trường hay góc nhìn của người khác để nhìn nhận vấn đề, đặc biệt là, họ không có một nhận định rõ ràng về đúng – sai, và hay phát ngôn bừa bãi.

Vậy còn “Cảm Nhận” thì thế nào?

Cảm nhận là sự diễn đạt những suy nghĩ, cảm xúc, nhận xét , đánh giá của cá nhân, về cái hay, cái đẹp của một sự việc, vật, hay một ai đó.

Thí dụ như: Một số người hay thích nói kiểu: Con người của tôi hơi “thẳng tính”, có gì nói nấy, mọi người đừng để bụng.

Khi nói ra câu này, không phải người đó đang nói về tính tình thật của người đó, mà người đó, đang nói về sự “vô trách nhiệm” của người đó, rằng, “tôi nói thật, mà bạn không thích nghe, đó là lỗi của bạn, vì lòng dạ của bạn hẹp hòi”.

Thật ra, nếu bạn là người có sự quan tâm, để ý tới cảm xúc của người khác, bạn sẽ biết cách “lựa lời mà nói”, chứ bạn không thể vin vào cái cớ là bạn thẳng tính, và bắt người khác, khi nghe bạn nói, phải chấp nhận những “vết thương” do bạn gây ra, mà bạn lại không muốn gánh chịu.

Hay khi con cái của bạn học hành kém, bạn sẽ nói: “Mẹ nói thật, sao con vô dụng thế hả con, hết thuốc chữa rồi con ạ!”

Bạn sẽ nói như vậy ư?

Xin Đừng! mà bạn nên nói:

“Lần này, làm bài không tốt cũng không sao, lần sau con hãy cố gắng, xem lại lần trước mình sai ở đâu rồi sửa, chỉ cần tiến bộ, kết quả sẽ khả quan hơn.”

Vì sao bạn lại nói như vậy?

Bởi vì, bạn nhìn trên góc độ con của bạn, bạn đang để ý tới cảm xúc của con bạn, và bạn đồng cảm với con của bạn.

Bạn bè lâu ngày không gặp, cũng chẳng phải bạn bè thân thiết gì, câu đầu tiên bạn thốt ra khi gặp lại họ là: “Ôi trời ơi! Lâu ngày không gặp, sao bây giờ trông mày phát tướng ra, xấu thế!”

Ranh giới giữa đùa vui và nghiêm túc trong câu nói này, quả thực rất mong manh, trong khi, họ thậm chí còn không phải là bạn thân của bạn, dù có là bạn thân, thì bạn cũng nên lựa chọn những từ ngữ tế nhị hơn.

Bạn cho rằng, đó là thẳng thắn, là nói ra để họ biết mình đang trong trạng thái nào, có gì, nếu muốn thay đổi thì còn kịp. Trong khi, chính bạn còn không buồn để ý đến người đối diện, xem họ cảm nhận ra sao, khi nghe câu nói đó của bạn, trước mặt bàng quan thiên hạ.

Bạn cho rằng đó là chân thành, là thẳng thắn góp ý?

Không, đó chính là tầm nhìn hạn hẹp đó bạn ạ!

“Tính… thẳng thì ai ai cũng biết rồi đó”, khi nói ra những câu như thế này, là bạn đang tự tay vứt bỏ đi hai chữ “Tôn Nghiêm”, và tự tay nói “Không” với cảm nhận của người khác.

Giáo sư Tâm lý học tại Trường Đại học London, Tomas Chamorro-Premuzic và Nhà tâm lý học Michael J. Sandel, trong một bài báo trên tạp chí “Harvard Business Review” đã chia xẻ 5 bước chính để phát triển cảm xúc của một người như sau:

Bước 1: Nhìn Nhận Rõ Bản Thân

Thực sự hiểu rõ bản thân là có thể nhận ra điểm mạnh và điểm yếu của bản thân, biết điểm mạnh và điểm yếu này so với người khác như thế nào.

Bước 2: Quan Tâm

Từ quan tâm bản thân của mình đến quan tâm người khác, bắt đầu bằng việc đánh giá cao, và công nhận điểm mạnh, điểm yếu và giá trị của các thành viên khác trong nhóm.

Bước 3. Hỗ Tương Hợp Tác

Trở thành một tương tác qua lại có lợi. Tích cực chia xẻ những kinh nghiệm và kiến ​​thức với nhau, điều này sẽ mang lại lợi ích rất nhiều cho bạn.

Bước 4. Kiểm soát cảm xúc của bản thân

Nếu bạn quá nhạy cảm, dễ xúc động và hay nóng giận, thì bạn hãy suy ngẫm về điều gì khiến bạn tức giận hoặc thất vọng, đồng thời quan sát xu hướng tiêu cực của bản thân khi gặp thất bại.

Không phải chỉ cần biết bạn sẽ có những cảm xúc gì trong các tình huống thực tế, mà quan trọng hơn là phải biết rõ điều gì đã gây ra những cảm xúc đó.

Bước 5. Khiêm tốn

Những người có kỹ năng lãnh đạo thường không quan tâm nhiều đến chức danh của mình vì họ luôn luôn khiêm tốn.

Khả năng duy trì sự cân bằng giữa tự tin và khiêm tốn, không thiên vị, sẵn sàng tiếp nhận ý kiến ​​và thẳng thắn thừa nhận sai lầm của mình là những năng lực rất đáng quý.

Như vậy, qua góc nhìn khác nhau đưa đến những cảm xúc/ giác khác nhau.

Với những góc độ nhìn” hạn hẹp” sẽ đưa chúng ta đến những cảm xúc/ giác cực đoan tiêu cực, và sẽ khiến cuộc sống của chúng ta trầm luân trong đau khổ.

Với những góc độ nhìn “phóng đại” sẽ đưa chúng ta đến sự sống ảo, không thật, xa rời sự thật. Những cảm xúc/giác trồi sụt bất thường bay bổng, sẽ khiến cho cuộc đời của chúng ta luôn chất chứa đầy những phong ba bão táp, ba chìm, bẩy nổi, chín lênh đênh.

Với những góc độ “nhìn xa qúa thành xem thường”, thì chỉ nâng cao thêm những cảm xúc/giác của sự tự kiêu, tự mãn, những nguồn cảm xúc mãnh liệt, sẽ giam hãm tâm tư của chúng ta trong sự kiêu ngạo khôn lường, để rồi, giống như, khi cơn sóng cao qua đi, và rơi xuống, thì sự chìm sâu trong đáy biển tối đen, không biết bao giờ mới có thể trồi lên trên được.

Cho nên, trước khi bạn muốn diễn đạt hay trình bày góc độ nhìn của bạn với bất cứ một ai, hay ngay cả với chính bạn, thì bạn nên để ý đến cảm xúc, hay cảm giác, hay cảm nhận của đối tượng, hay chính bạn, trước khi bạn trình bày hay diễn đạt ý của bạn.

Nếu sự diễn đạt về góc độ nhìn có thể đem đến cảm giác về hạnh phúc và an lạc cho người, và cho mình, thì bạn nên làm, còn nếu như, đem đến cảm giác khổ đau hay phiền muộn cho người, thì bạn nên thay đổi lại góc độ nhìn.

Bạn đừng qúa quan tâm đến góc độ nhìn ra sao, mà bạn nên quan tâm nhiều đến cảm nhận ra sao, vì chúng ta sống với sự cảm nhận nhiều hơn góc độ nhìn. Bạn nhé!

ÁM THỊ

album-art

00:00

TẢI MP3 – ÁNH TUYẾT
TẢI MP3 – HỒNG TRẦN

Bạn Thân Mến,

Mỗi một ngày, không ít thì nhiều, chúng ta đều sử dụng đến sự ám thị, mà ngay cả chính chúng ta cũng không biết, hay không để ý đến. Vậy ám thí là gì? và công dụng của ám thị như thế nào, chính là chủ đề hôm nay chúng tôi muốn mời bạn cùng quan sát và nhìn sâu.

Theo định nghĩa, Ám Thị là dùng phương pháp gián tiếp, hàm súc để biểu đạt ý tứ; hay theo tâm lý học là dùng ngôn ngữ, khiến cho Ý Thức không còn biết suy xét mà tiếp nhận ý kiến, hoặc làm việc gì từ một ai đó.

Thí dụ, khi chúng tôi còn nhỏ, chưa hề biết ma là gì, nên chúng tôi không hề sợ ma. Có những lần, người hàng xóm họ đem những câu chuyện về ma và kể cho chúng tôi nghe.

Hình ảnh của những con ma được họ “vẽ” trong tiềm thức của chúng tôi bắt đầu có mặt, và bắt đầu được đưa vào trong kho của Ngã Thức. Ma thì luôn được “đánh đồng” với những gì u ám, đen tối, nên màn đêm trở thành thế giới sinh hoạt của ma.

Thế là từ ngày có những hình ảnh ma trong tiềm thức, và Ngã Thức, thì chúng tôi bắt đầu sợ ma. Không những chúng tôi sợ ma, mà chúng tôi còn sợ cả bóng đêm.

Vì thế, cứ mỗi đêm đi ngủ, thì chúng tôi tìm mọi cách để nằm ngủ chung với các chị em, và thường hay chọn nằm chính giữa.

Hình ảnh những con ma này, đeo bám chúng tôi “dai dẳng”, cho đến khi, chúng tôi rơi vào thế, không còn sự lựa chọn, phải nằm trên những ngôi mộ để ngủ thì mới chấm dứt.

Sau này, khi có dịp nghiên cứu về lĩnh vực ám thị thì chúng tôi mới biết, thì ra chúng tôi đã bị người hàng xóm ám thị chúng tôi mà chúng tôi chẳng hề hay biết gì cả.

Người hàng xóm của chúng tôi không phải là người xấu, muốn đi hại chúng tôi, nhưng vì người hàng xóm đó, không biết ám thị là gì, nên đã vô tình sử dụng ám thị trên chúng tôi mà không hề hay biết.

Ngày nay, nếu nói đến Google thì không ai trong chúng ta xa lạ cả. Google ban đầu chỉ là tên gọi cho một công ty, nhưng nay, Google đã có riêng cho mình một định nghĩa là công cụ tìm kiếm thông tin về ai đó hoặc điều gì đó trên internet.

Có nhiều người ở Việt Nam lại còn ví von cho rằng, “muốn biết gì thì cứ lên hỏi bác Google thì biết”. Nói như vậy, để thấy, Google đã trở thành một thư viện mở, mà khi chúng ta muốn biết gì thì cứ lên thư viện đó để kiếm tìm.

Thư viện của Google, nếu đem so với tất cả các thư viện khác, thì không có thư viện nào có thể sánh được. Vì trên Google, chúng ta có thể có rất nhiều thông tin, thật có, giả có, trên mọi góc độ, mà chúng ta muốn tham khảo hay kiểm chứng.

Cái hay của Google ở chỗ đó, và cái dở của Google cũng ở chỗ đó. Nếu chúng ta là người thích quan sát và nhìn sâu nhiều góc độ, thì Google đúng là một công cụ hữu ích, giúp cho chúng ta có nhiều thông tin để có thể kiểm nghiệm, thực nghiệm và chứng nghiệm.

Nhưng cái dở của Google là, những thông tin thật giả lẫn lộn với nhau, mà không hề có sự sắp xếp, đâu là tốt, là đúng, đâu là sai, là xấu, lại khiến cuộc đời của chúng ta thêm đau khổ. Vì sao?

Vì những thông tin đó, sẽ tạo ra những kiến chấp khi chúng ta sử dụng Google bằng Trí, nghĩa là, khi chúng ta nhìn nông, chúng ta không đi kiểm nghiệm, thực nghiệm, mà lại tin ngay vào những thông tin đó, và coi đó là sự thật.

Sở dĩ, chúng tôi phải dài dòng một chút về Google, vì trong Google có một chức năng gọi là “Auto-Suggest” tạm dịch là gợi ý tự động hay đúng hơn là ám thị, có nghĩa là, khi bạn bắt đầu đánh chữ bạn muốn tìm, thì Google sẽ gợi ý cho bạn thêm những chủ đề khác.

Có đôi khi, thay vì chúng ta chú tâm vào việc tìm đúng chủ đề chúng ta muốn tìm, thì chúng ta lại theo những sự gợi ý hay ám thị của Google, và phiêu lưu và trong chủ đề gợi ý, mà quên mất đi chủ đề mà chúng ta đang muốn kiếm tìm.

Cho nên, khi chúng ta sử dụng Google để tìm kiếm các thông tin, thì chúng ta nên cẩn thận, và phải rất ý thức vào những chủ đề, mà chúng ta muốn kiếm tìm, nếu không, chúng ta sẽ bị Google “ám thị” chúng ta, và có thể dẫn chúng ta xa rời mục đích của chúng ta, lúc nào không biết.

Một người quen của bạn có những đau khổ trong cuộc đời, và có những suy nghĩ tiêu cực, muốn tìm đến cái chết, để giải quyết những cảm xúc tiêu cực.

Khi tiếp xúc với bạn, bạn gợi ý, và hướng dẫn cho người đó giải quyết những khổ đau của người đó, và người đó làm theo sự gợi ý của bạn, thì bạn đang sử dụng ám thị với người quen của bạn.

Trong cuộc sống hôm nay của chúng ta, chúng ta đã và đang sử dựng ám thị, và bị ám thị bởi người khác, một cách trực tiếp hay gián tiếp, mỗi ngày. Nếu chúng ta không cẩn thận, hay bị người khác ám thị, thì chúng ta sẽ trở thành con rối lúc nào không hay.

Vậy thì làm sao chúng ta có thể tránh trở thành con rối của người khác, hay do tự chính những nguồn năng lượng tiêu cực, khi sử dụng Ý Thức để dẫn chúng ta đến những nhận thức sai lầm.

Muốn làm được điều này thì chúng ta cần phải hiểu rõ về sự vận hành của các thức. Trong chín thức có ba thức liên quan đến ám thị và cách thức sử dụng ám thị, gồm: Ý Thức, Ngã Thức và Tiềm Thức.

Chức năng của Ý Thức là khả năng: quan sát, phân tích, so sánh, nhận dạng, tổng hợp, phỏng đoán, tưởng tượng theo chiều nông và sâu.

Chức năng của Tiềm Thức là bộ nhớ lâu dài, là kho chứa những thông tin, dữ liệu, có khả năng nối kết các thông tin và dữ liệu lại với nhau.

Chức năng của Ngã Thức là nơi dung chứa những cảm xúc giác, đạo đức, niềm tin, v.v.

Như vậy, khi chúng ta có một ý niệm khởi sinh từ Ngã Thức, thì Ngã Thức sẽ sử dụng Ý Thức để phân tích, so sánh ý niệm đó.

Muốn phân tích và so sánh thì Ý Thức phải dùng đến kho dữ liệu của Tiềm Thức để lấy những thông tin, hay dữ liệu cần thiết cho việc so sánh, quan sát, phân tích theo chiều nông hay sâu. Chiều nông hay sâu sẽ do Ngã Thức muốn chọn chiều nào.

Nếu Ngã Thức muốn đốt giai đoạn, mà nhìn theo chiều nông, thì Ý Thức sẽ sử dụng thêm chức năng phỏng đoán hay tưởng tượng vào để đưa ra kết quả.

Nếu Ngã thức muốn theo chiều sâu thì Ý Thức sẽ ứng dụng sự kiểm nghiệm, thực nghiệm và chứng nghiệm để tìm ra kết quả.

Như vậy, nếu muốn ám thị một người, hay tự ám thị chính chúng ta, thì chúng ta phải tìm cách ngăn chặn sự có mặt của Ý Thức.

Nếu chúng ta không thể ngăn chặn được Ý Thức, thì Ý thức với khả năng phân tích, so sánh, v.v. sẽ không để cho những gợi ý hay những ý kiến của người khác tác động, trừ khi, lúc đó, Ngã Thức đã chấp nhận hay tin tưởng người kia, thì Ngã Thức mới ra lệnh cho Ý Thức vắng mặt, và để cho Ý Thức của người kia có mặt, để phân tích hay so sánh dùm cho chúng ta.

Nếu như Ngã Thức của chúng ta không chấp nhận hay không tin người kia thì Ngã thức sẽ ra lệnh cho Ý Thức tìm mọi cách để chống trả lại những sự gợi ý hay ám thị của người khác.

Thí dụ, chúng ta tin là nếu trong ba ngày tết mà chúng ta quét nhà, thì chúng ta sẽ quét hết tiền bạc của chúng ta trong một năm ra bên ngoài, và cả năm chúng ta sẽ gặp khó khăn về tài chính, hay mất mát về tiền bạc.

Mặc dù, chúng ta đã có rất nhiều những chúng minh rằng, chẳng có chứng cứ nào cho việc quét nhà trong ba ngày tết, sẽ ảnh hưởng đến tài chính của chúng ta cả.

Nhưng đó là niềm tin nơi ngã thức đã dựa trên đó, nên tuy có những chứng minh theo khoa học, nhưng Ngã Thức của chúng ta sẽ ra lệnh cho Ý Thức của chúng ta, đi tìm những lý lẽ, để củng cố cho niềm tin của Ngã Thức thêm vững chắc, và Ngã Thức không chịu thay đổi.

Như vậy, nếu muốn thay đổi sự lựa chọn từ Ngã Thức thì chúng ta có thể sử dụng ám thị để thay đổi niềm tin nơi Ngã Thức.

Muốn thực hiện được sự ám thị có hiệu quả cao thì người thực hành ám thị phải biết cách đánh lừa Ý Thức của người bị ám thị.

Với những người có kinh nghiệm về ám thị, thì họ sẽ lựa chọn vào lúc ban đêm. Vì sao? Vì lúc đó, Ý Thức và Ngã Thức đã tạm ngưng hoạt động thì mới dùng những lời ám thị, đưa vào trong tiềm thức, và lợi dụng chức năng nối kết của tiềm thức để thay đổi niềm tin.

Thí dụ, nếu chúng ta có đứa con thích quậy phá, và không nghe lời, và chúng ta muốn thay đổi đứa con đó thành đưa trẻ ngoan và dễ bảo, thì chúng ta phải đợi khi đứa con đó ngủ, và bắt đầu ám thị những gì chúng ta muốn đứa con sẽ trở thành.

Chẳng hạn như: “Con là đứa con ngoan, hiếu thảo, có đạo đức, và biết thương người. Mỗi ngày, lòng thương yêu của con sẽ phát triển và hoàn thiện hơn.”

Ngôn ngữ sử dụng trong cách ám thị phải dùng, đó là, những ngôn ngữ không theo dạng phủ định, gồm những chữ như: không, đừng, dừng, phải v.v, mà nên lựa chọn những từ ngữ đúng như chúng ta mong muốn, mang chiều hướng tích cực hơn tiêu cực.

Tiếc thay, phần đông những người thực hành phương pháp ám thị, vì thiếu kinh nghiệm, nên hay dùng sai cách. Vì vậy, nên thường không ra kết qủa, mà lại ra hậu quả, đơn giản là, họ không hiểu được sự vận hành của các thức một cách rõ ràng.

Thay vì, dùng những ngôn ngữ như thí dụ trên, thì chúng ta lại ám thị như sau:

“Con là đứa con quậy phá và không nghe lời, mẹ muốn con từ nay sẽ không quậy phá nữa, và phải biết nghe lời. Khi mẹ nói thì con phải làm theo, nếu không con là đứa trẻ hư.”

Nếu đứa con “được” người mẹ ám thị với những lời này, thì đứa con sẽ trở nên càng quậy phá, càng không nghe lời, không những chống đối lại người mẹ, mà còn trở thành đứa con hư như bà mẹ đã ám thị. Vì sao?

Đơn giản, vì trong tiềm thức vốn không có so sánh, hay phân tích, nên trong đó, không có thể phủ định, bắt đầu bằng những chữ như: không, đừng, phải, dừng v.v.

Cho nên, khi bà mẹ ám thị đứa con, mà dùng những từ như: không đừng, phải, v.v, trước những từ ngữ tiêu cực, thì Tiềm Thức sẽ chọn những từ ngữ tiêu cực, và tiếp tục phát triển thành thói quen trên đó.

Bạn thấy đứa con nhỏ của bạn đang đưa bàn tay nhỏ bé của nó vào ngọn lửa nóng, và bạn quát lên:

“Đừng đưa tay vào lửa”.

Khi bạn chưa kịp phản ứng để giúp con của bạn, thì đứa con của bạn, đã đưa tay vào lửa rồi, vì Tiềm Thức của con bạn, không biết gì về “đừng” cả, mà chỉ biết lấy hành động theo sau chữ “đừng” để khích động.

Cho nên, Tiềm Thức con của bạn sẽ diễn giải câu mệnh lệnh của bạn như sau: “đưa tay vào lửa”. Thế là, đứa con trẻ của bạn, đưa tay vào lửa, là chuyện tất nhiên.

Nếu bạn không biết về sự vận hành của các thức, và bạn cũng không biết về sự hoạt động của ám thị, thì bạn sẽ cáu, giận, tức, tại sao con của bạn lại “ngu” như vậy, vì bạn đã bảo nó “đừng”, mà nó cứ tiếp tục làm.

Bạn có biết không, khi một người cha hay người mẹ mắng đứa con là đồ ngu, đồ vô dụng, hay quân phá hoại, không biết nghe lời, thì chính người cha hay người mẹ đang trực tiếp ám thị đứa con của mình, và “bắt” nó trở thành người ngu hay người vô dụng.

Khi đứa con của bạn đã trở thành người ngu, hay vô dụng, như lời ám thị của bạn, thì bạn trách móc, ghét bỏ đứa con, mà bạn lại không biết rằng, bạn mới chính là tác nhân gây ra hậu quả mà đứa con phải gánh chịu, chứ không phải tự đứa con tạo ra.

Thật đáng buồn thay, chúng ta ám thị con của chúng ta mỗi ngày, bằng những ý niệm tiêu cực, sai trái, mà ngay cả chúng ta cũng không biết; và khi chúng ta không biết, hay không thể giải thích được, thì chúng ta lại có thói quen đổ lỗi cho người, hay tin vào những lời ngụy biện, để chứng minh rằng, đó không phải lỗi của chúng ta.

Trong Văn hóa Việt, có một đức tính mà chúng ta hay sử dụng đó là sự khiên tốn, thí dụ:

Một người khác thấy con của bạn giỏi và khen con bạn, cách đáp trả của bạn thông thường sẽ là:

Ôi, cái thằng con của tôi nó có làm được gì đâu, tối ngày cứ cắm đầu vào học, chẳng biết cái gì cả. Hay, nó thì có giỏi gì, ngoài chuyện học ra, thì việc gì làm cũng hư hỏng, lười biếng vô cùng, v.v.

Hay, ôi nó làm sao mà so với thằng B con của ông A, thằng B mới là giỏi, cái gì cũng làm được, chứ con của tôi, có đi xách dép cho thằng B cũng không xứng.

Chúng ta cứ nghĩ, khi chúng ta đang “hạ bệ” con của chúng ta xuống, là chúng ta đang thể hiện sự khiêm tốn, nhưng chúng ta không biết rằng, chúng ta đang ám thị xấu cho con của chúng ta, chúng ta đang gieo và tưới tẩm những hạt giống xấu đó tiếp tục phát triển.

Khi những sự ám thị xấu đó được chúng ta lập đi lập lại nhiều lần, thì nó trở thành thói quen, và đứa con của chúng ta sẽ bị những thói quen đó khống chế, và hành xử trên thói quen đó, thì chúng ta trách móc, giận hờn, tức giận đứa con của chúng ta, vì nó làm cho chúng ta xấu hổ, mất mặt.

Nhưng “thủ phạm” làm cho chúng ta “mất mặt” không phải là đứa con của chúng ta, mà chính là chúng ta đã ám thị nó mỗi ngày.

Định nghĩa của khiêm tốn là nhún nhường, hạ mình xuống, có nghĩa là dậy chúng ta cách để “khống chế” sự tự tôn của chúng ta, chứ không phải để chúng ta đi hạ bệ người khác, và lý luận rằng chúng ta đang thực hành khiêm tốn. Trong khi, hạ mình xuống thì chỉ liên quan đến mình mà thôi.

Thí dụ, nếu người ta khen chúng ta giỏi, thì chúng ta có quyền dùng sự khiêm tốn, để “dằn” sự tự tôn của chúng ta xuống. Chúng ta có thể đáp lại như:

Ai trong chúng ta mà không giỏi, tôi thì chỉ biết hơn một chút về vấn đề đó, vì tôi có hứng thú và thích nghiên cứu về nó, còn bạn thì chưa có nhiều thời gian đầu tư vào đó thôi.

Chứ không phải chúng ta trả lời là: tôi thì chẳng có gì, cái mà anh cho tôi giỏi đó, chỉ là may mắn tôi học được từ thầy của tôi, chứ tôi chẳng có khả năng để làm được như anh nghĩ đâu.

Qua hai câu trả lời trên, chúng ta thấy, câu trả lời một, đáp ứng đúng theo định nghĩa là “hạ mình xuống” nhưng không có nghĩa là không công nhận kết quả.

Còn câu thứ hai, đó không phải là sự khiêm tốn, mà đó là sự tự ty, chúng ta tự ty vì không tin vào khả năng của chúng ta có. Tiếc thay, chúng ta lại hay diễn giải định nghĩa của sự khiêm tốn thành sự tự ty.

Như vậy, ám thị không phải là “trò đùa” mà chúng ta có thể bỏ qua, vì ám thị không có ảnh hưởng gì đến cuộc đời của chúng ta cả, mà thật ra ám thị có ảnh hưởng rất quan trọng đến cuộc sống của chúng ta. Vì sao?

Vì chúng ta không những bị ám thị bởi người khác, mà chính những nguồn năng lượng tiêu cực “không tên” của chúng ta, cũng luôn sử dụng sự ám thị trên Ngã Thức mỗi khi chúng có mặt.

Có một câu chuyện của người quen của chúng tôi khá lý thú như thế này:

Anh là một kỹ sư khá giỏi trong công ty, cứ mỗi lần trong công ty có thăng chức thì tên của anh luôn có trong danh sách, nhưng cứ mỗi lần phỏng vấn thì anh lại bị trượt. Anh không phục vì anh biết những người được thăng chức không giỏi bằng anh.

Anh nhiều lần tâm sự với chúng tôi, anh rất buồn, nhưng không hiểu tại sao, anh cứ bị trượt mãi. Cho đến một lần, anh mời chúng tôi đến nhà anh dùng bữa tối, vì cũng khá thân, nên vợ của anh cũng không còn giữ ý tứ như với những người khách khác.

Khi anh đi lấy đá bỏ vào ly nước ngọt, vì bất cẩn, anh để những viên đá rơi xuống sàn nhà. Vợ của anh hơi to giọng nói:

Anh thật là vô dụng cả một việc nhỏ như lấy đá, cũng không làm xong, hèn gì công ty anh không cho anh thăng chức cũng phải.

Chúng tôi ngồi yên nghe chị vợ cằn nhằn anh, mới biết được nguyên nhân tại sao anh cứ bị trượt những kỳ thăng chức. Vì anh đã bị vợ anh ám thị.

Để kiểm nghiệm việc đó, chúng tôi mới kéo anh ra ngoài sân để ngồi tâm sự. Chúng tôi hỏi anh về câu: anh “vô dụng” được vợ anh sử dụng bao giờ. Anh cho biết gần như mỗi tuần, chỉ cần anh làm cái gì không vừa ý với vợ của anh, thì anh trở thành người vô dụng.

Sau đó, chúng tôi mới lấy hẹn với vợ của anh để gặp riêng chị. Chúng tôi chia xẻ với chị về ám thị và sức ảnh hưởng của sự ám thị. Chị nghe xong, rất hối hận, và đề nghị chúng tôi hướng dẫn cho chị thay đổi cách ám thị.

Sau hai tháng thực hành cách ám thị mới, may sao, công ty của anh lại có một người cấp cao nghỉ hưu, nên anh lại có trong danh sách được đề cử. Lần này thì anh được thăng chức.

Hai vợ chồng anh mới quyết định tổ chức một bữa ăn để cám ơn chúng tôi. Sau khi ăn uống xong, chúng tôi mới hỏi anh tại sao lần này, anh lại được thăng chức? Anh trả lời:

Anh không biết tại sao, nhưng lần này, so với những lần trước thì anh tự tin hơn. Chính vì sự tự tin này đã giúp anh được thăng chức. Dĩ nhiên, chúng tôi không dừng lại ở đó, mà tiếp tục đặt câu hỏi với anh.

Vậy so với những lần phỏng vấn trước có khác nhau không?

Anh trả lời: Không có khác, chỉ khác là anh không thấy anh vô dụng, nên anh tự tin hơn thế thôi.

Có thể anh không biết sự tự tin của anh từ đâu đến, nhưng chị vợ và chúng tôi biết, sự tự tin của anh từ đâu đến, và đến từ ai.

Hướng mắt về vợ của anh, chúng tôi thấy vợ anh mỉm cười trên khuôn mặt rạng rỡ vui mừng của chị. Chị chấp hai tay trước mặt khẽ cúi đầu khi chạm ánh mắt của chúng tôi, và chúng tôi cũng đáp lễ lại chị những hành động tương tự.

Câu chuyện thứ hai, xẩy ra với một chị làm thợ nail trong tiệm của một người quen của chúng tôi.

Không biết lúc xưa, khi ở Việt Nam chị sống ở đâu, nhưng mỗi khi chị bực tức ai, thì chị hay dùng từ “đao to búa lớn”: “đập chết cha nó đi”, giống như kiểu nói đệm thêm mắm dặm muối, cho câu nói thêm mặn mà, mạnh mẽ.

“Đập chết cha ai” thì chưa biết, nhưng có một ngày, hai cha con chị cãi nhau, trong tay chị đang cầm cái chầy giã tỏi, và chị cầm cái chầy, đập vào đầu ông cha thật.

Ông cha bị một cú đập qúa mạng của chị, lăn quay ra xỉu. Mẹ của chị sợ hãi, nên gọi xe cứu thương đưa chồng vô nhà thương.

Cũng may cho chị, khi bị cảnh sát thẩm vấn thì mẹ của chị đã khai man là cha của chị bị vấp té đập đầu vào cái chầy.

Nếu không thì chắc cuộc đời của chị cũng rất rắc rối với chính quyền.

Cái may thứ hai cho chị là, cha của chị chỉ bị khâu hai ba  mũi, nhưng không bị nức xương sọ. Khi rước ông cha về, chị vô cùng ăn năn, hối lỗi, chị vô cùng đau khổ, và không tha thứ cho lỗi của chị, vì dám đánh cha mình, dù ông đã nói tha lỗi cho chị.

Khi chị ngồi kể lại câu chuyện với chúng tôi, chị khóc và nói rằng, không biết chị bị “ma xui qủy khiến” gì mà chị lại có một hành động cực kỳ ngu xuẩn như vậy.

Chị thì không biết nguyên do, nhưng chúng tôi biết, chị đã tự ám thị chị những khi bực tức, và khi nguồn năng lượng không tên trỗi dậy, cộng với sự tức giận, và ám thị của chị, thì tiềm thức của chị đã khích động hành động đập cha của chị, mà không hề có Ý Thức của chị tham gia.

Nếu cần bàn rộng về sức ảnh hưởng của ám thị thì thật vô cùng, và sự ám thị ngày nay đã được sử dụng một cách cực kỳ tinh vi, đến độ ngay cả chính quyền cũng phải e sợ.

Theo thống kê thì chúng ta “bị tiếp nhận” những mẫu quảng cáo hay tiếp thị đến hơn 3,500 lần, mỗi ngày. Trong những mẫu quảng cáo hay tiếp thị, ngoài một số tữ ngữ khích thích sự ham muốn, thì thường, tiếp thị hay quảng cáo sẽ sử dụng những hình ảnh khiến chúng ta “nhập tâm” lúc nào không hay biết.

Thí dụ, khi bạn xem một quảng cáo của Coca-Cola cho thấy những người đang vui vẻ uống cạn ly Coke với đá lạnh, thì những hình ảnh đó, được tiềm thức của bạn diễn dịch thành uống Coke là những khoảnh khắc hạnh phúc trong cuộc sống.

Hay khi bạn xem quảng của Advil, cho bạn biết rằng, thuốc advil sẽ loại bỏ đi nỗi đau, thì tiềm thức của bạn sẽ diễn dịch khi dùng advil sẽ loại bỏ đi nỗi đau để làm những gì bạn yêu thích.

Cho nên, khi bạn muốn có những khoảng khắc hạnh phúc thì bạn sẽ tự động chọn dùng coke với đá lạnh. Hay khi bạn yêu thích điều gì đó, thì điều yêu thích đó sẽ làm bạn đau và bạn sẽ sử dụng Advil.

Trong bài “Một Vốn Bốn Lời” có đoạn nghiên cứu của ODI (Overseas Development Institute) như sau:

“Theo nghiên cứu của Robert Wood Johnson Foundation, 99% quảng cáo từ McDonald’s cho đến Burger King, nhắm đến trẻ em.

Dù các nhà quảng cáo ngày nay, dưới áp lực của xã hội, cũng đã tung ra những quảng cáo “lành mạnh hơn”, nhưng điều quan trọng, không phải là nội dung quảng cáo, mà là những hình ảnh này càng khiến trẻ nhỏ, đặc biệt, những em vốn đã thừa cân, hay béo phì, càng nhớ lâu những cái tên như McDonald’s, Burger King, KFC… và vòi vĩnh cha mẹ dẫn đến những địa điểm này.

Quả thực, theo báo cáo của Ủy ban Thương mại Hoa Kỳ, 45% trẻ em tiếp xúc với những quảng cáo này, tiêu thụ nhiều thức ăn hơn so với những em không xem.

Thậm chí, 5 năm sau, khi được tiếp xúc với chương trình khuyến mãi của các loại thực phẩm không lành mạnh, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng, trẻ em tiếp tục mua ít trái cây, rau và ngũ cốc nguyên hạt hơn, song lại gia tăng lượng tiêu thụ về thức ăn nhanh, thức ăn chiên xào và thức uống ngọt.”

Rõ ràng, những hình thức ám thị trong quảng cáo ngày nay, nhất là qua sự tiếp tay của điện ảnh thì sự ám thị càng một tinh vi hơn, và ảnh hưởng đến đời sống của chúng ta mạnh mẽ hơn.

Nếu đem so với cách dùng ngôn ngữ của ngày xưa, thì phương pháp dùng hình ảnh của ngày nay, lợi hại hơn nhiều. Vì sao? Đơn giản, vì ngôn ngữ của tiềm thức là ngôn ngữ của hình ảnh.

Hay nói một cách rõ ràng hơn, là các nhà quảng cáo đang dùng hình ảnh “trực tiếp nói chuyện” với Tiềm thức của chúng ta, và họ đã vượt qua được “rào cản” Ý Thức của chúng ta.

Cho nên, những gì chúng ta tiếp xúc hôm nay sẽ ám thị chúng ta ngay khi chúng ta đang “mở mắt”, mà không cần phải chờ đến khi chúng ta gần rơi vào trạng thái ngủ mới ám thị.

Những khám phá mới của các nhà tâm lý cho rằng, cứ trong một giây thì tiềm thức của chúng ta tiếp nhận khoảng 11 triệu thông tin, trong khi, Ý Thức của chúng ta chỉ có thể nhận dạng và xử lý được có 40 thông tin.

Hay có thể nói, chỉ trong một giây, chúng ta có thể bị ám thị đến cả triệu lần, tùy theo thông tin đó là gì.

Như vậy, làm sao chúng ta có thể “chống chọi” lại các sự ám thị luôn đang vây quanh chúng ta mỗi ngày?

Câu trả lời là rất khó, vì chúng ta không thể lúc nào
cũng dùng đến Ý Thức để nhận dạng và phân loại xem, cái nào là tốt, là đúng, hay cái nào là xấu, là sai.

Như vậy, có nghĩa là chúng ta sẽ bó tay sao? Dĩ nhiên, chúng ta sẽ không bó tay, vì chúng ta đang sống trong thế giới của tương đối.

Nghĩa là, nếu ám thị của người khác dùng để khống chế, hay thay đổi nhận thức của chúng ta, bằng cách dùng hình ảnh để tác động, thì khi chúng ta có cảm xúc/giác bị khích động, chúng ta sẽ chú ý đến cảm xúc/ giác, và giải quyết cảm xúc/giác đó một cách trực tiếp.

Hay chúng ta cũng có thể sử dụng tự kỷ ám thị, nghĩa là, chúng ta lựa chọn những hình ảnh đẹp, và liên tục ám thị chúng ta về những hình ảnh đó.

Với kinh nghiệm của những người làm chủ được cảm xúc/giác thì sự ám thị không ảnh hưởng nhiều đến họ. Tại sao?

Bởi vì những hình ảnh bị ám thị, muốn được thực hiện bằng hành động, thì phải đi qua vùng cảm xúc/giác. Nếu không có sự khích hoạt của vùng cảm xúc/giác thì sẽ không có hành động theo sau.

Cho nên, khi tiềm thức sắp xếp hay nối kết những hình ảnh trong giấc mơ, sẽ khích hoạt lên những vùng cảm xúc/giác, và vì quen giải quyết những cảm xúc/giác một cách rốt ráo,

nên khi những hình ảnh có khích hoạt thì những thói quen giải quyết vấn đề của Ngã Thức được khích hoạt, và tự động giải quyết, mà không cần đến sự có mặt của Ý Thức.

Ngược lại, với những người chưa có kinh nghiệm làm chủ cảm xúc/giác, thì họ không thiết lập được hệ thống tự động giải quyết vấn đề rốt ráo.

Cho nên, họ chỉ còn lại một cách duy nhất, đó là, sử dụng sự tự kỷ ám thị, hay tự mình ám thị mình, bằng những hình ảnh mà mình lựa chọn.

Phần đông chúng ta, khi dùng phương pháp tự kỷ ám thị, thường không biết dùng hình ảnh để ám thị, mà hay dùng ngôn ngữ để ám thị. Cho nên, thường chúng ta không đủ kiên nhẫn để chờ đợi kết quả, mà hay bỏ cuộc nửa chừng.

Dĩ nhiên, dùng ngôn ngữ để ám thị cũng có hiệu quả, nhưng thời gian sẽ lâu hơn và còn tùy thuộc vào cách dùng ngôn ngữ của chúng ta.

Thí dụ: Nếu chúng ta muốn ám thị chúng ta có hạnh phúc, mà chúng ta không kèm theo một hình ảnh, để diễn tả hạnh phúc là gì, thì Tiềm Thức của chúng ta sẽ không thể hiểu và thi hành được.

Việc này, cũng giống như chúng ta không biết tiếng Mỹ, nhưng muốn bán một ổ bánh mì cho người Mỹ. Nếu chúng ta cứ chào: “mua bánh mì đi”, thì người khách Mỹ sẽ không hiểu chúng ta nói gì, và người khách đó, cũng chẳng biết họ sẽ làm gì, vì họ không hiểu chúng ta nói gì.

Nhưng nếu chúng ta nói bánh mì, và đưa ra hình ảnh bánh mì, thì người khách Mỹ kia sẽ hiểu ngay ra là, chúng ta đang muốn họ mua bánh mì.

Cho nên, khi chúng ta muốn tự ám thị mình cho có hiệu quả, thì việc đầu tiên chúng ta cần phải làm là, chọn lựa những hình ảnh, nhất là những hình ảnh liên quan đến cảm xúc/giác, rồi dựa vào hình ảnh đó, mới thêm vào phần diễn dịch, thì Tiềm Thức của chúng ta mới biết là chúng ta muốn gì.

Thí dụ, chúng ta cầm một tấm hình chụp của chúng ta đang vui vẻ với con của chúng ta, rồi chúng ta nhìn vào hình ảnh đó, và diễn dịch thêm vào những gì chúng ta muốn.

Chẳng hạn như, tôi muốn cảm giác hạnh phúc và vui vẻ như khi đang ôm con của tôi, và tôi cũng muốn có sự hạnh phúc và vui vẻ này khi tiếp xúc với mọi người.

Việc thêm vào sau khi có hình ảnh và diễn dịch “dùm” cho Tiềm Thức thì Tiềm Thức lúc đó sẽ dựa vào sự diễn dịch đó để khích hoạt hay thi hành.

Nếu mỗi một ngày, trước khi đi ngủ chúng ta đem những hình ảnh mà chúng ta đã lựa chọn diễn tả về cảm xúc/giác, và để chung vào một cuốn album, rồi lật xem từng hình, và diễn dịch thêm vào sau những hình ảnh cảm xúc/giác này, thì chúng ta có thể thay thế được những sự diễn dịch của tiềm thức dưới dạng vô Ý Thức thành có Ý Thức.

Dĩ nhiên, bất cứ sự thực hành nào cũng có những khó khăn của nó lúc ban đầu, nhưng nếu chúng ta chỉ cần kiên trì thực tập liên tục trong vòng 30 đến 60 ngày, thì chúng ta sẽ biến thành thói quen và lúc đó tiềm thức của chúng ta sẽ đưa đến những hành động theo sự diễn dịch có Ý Thức chủ đạo.

Theo kinh nghiệm của chúng tôi thì chúng ta đừng nên đi lên trên internet để kiếm những hình ảnh diễn tả về cảm xúc/giác của chúng ta, mà chúng ta nên dùng những hình ảnh của những người thân, như vậy, sẽ khiến chúng ta cảm thấy gần gũi hơn, và cảm xúc/giác mạnh hơn.

Điểm lợi khi dùng hình ảnh của những người thân so với những người xa lạ là, chúng ta đang tiếp tục nuôi dưỡng cảm xúc/giác với những người thân của chúng ta, và phát triển những cảm xúc/giác đó.

Nếu như, khi chúng ta có những xung đột với người thân thì những cảm xúc/giác của người thân cũng được khơi dậy, có thể giúp cho Ngã Thức của chúng ta không bị những nguồn năng lượng không tên khống chế.

Dĩ nhiên, nếu chúng ta không có những hình ảnh của người thân thì việc dùng hình ảnh của người xa lạ cũng tốt. Chỉ khác là, những vùng cảm xúc/giác sẽ không thể lớn mạnh, nên đôi khi, chúng ta có xung đột với người thân, thì chúng ta không có hình ảnh của người thân trong đó, nên không thể khơi nguồn được sự yêu thương hay vui vẻ hạnh phúc.

Thí dụ, một người mẹ nhìn hình một em bé của ai đó đang cười, và hình ảnh đứa con của mình cười, thì cảm xúc/giác của người mẹ như thế nào, chắc chúng ta không cần phải giải thích có phải không?

Hay như trường hợp, gặp một cô gái vui vẻ, và hình ảnh người yêu đang vui vẻ, chắc chắc cảm xúc/giác sẽ hoàn toàn khác nhau.

Cho nên, khi ứng dụng phương pháp ám thị, bạn cần phải thông minh, tùy nghi mà ứng dụng. Bởi vì, khi đã thành một phương pháp thì luôn có những giới hạn.

Nguyên do của sự giới hạn, là vì, mỗi người chúng ta có sự diễn dịch định nghĩa khác nhau, và niềm tin khác nhau. Cho nên, không có phương pháp nào hoàn hảo cả.

Nếu có chăng, thì sự hoàn hảo chỉ có thể xuất hiện duy nhất trong bạn, khi bạn đã thỏa mãn được những gì đúng như bạn muốn.

Bạn muốn tự bạn ám thị theo Ý thức của bạn, hay bạn muốn bị ám thị của người khác khống chế qua sự diễn dịch của tiềm thức theo vô Ý Thức, thì bạn có toàn quyền lựa chọn.

Bạn chọn như thế nào thì cuộc đời của bạn sẽ như thế đấy, và bạn chỉ cần nhớ, bạn phải gánh chịu trách nhiệm với sự lựa chọn của bạn, là được.

AI CẦN AI?

album-art

00:00

TẢI MP3 – THẢO MY

Bạn Thân Mến,

Chủ đề hôm nay chúng tôi muốn chia xẻ với bạn cũng hơi lạ đó là ai cần ai?

Nếu nhìn về thưở hồng hoang của con người thì con người có thể là loại động vật yếu đuối nhất, nếu đem so với những chú khủng long, hay những con voi, tê giác khổng lồ.

Còn nếu đem so khả năng của con người với các loài động vật khác, thì mũi của con người không thính hơn mũi của con chó. Hay mắt của con người thì không tinh bằng mắt con chim đại bàng từ trên không cách cả cây số, vẫn có thể nhìn thấy rõ con mồi, và có thể lao nhanh xuống đất để bắt con mồi.

Thậm chí, nếu đem so con người với con kiến bé li ti thì con người cũng thua luôn con kiến, vì con kiến có khả năng nâng được một vật nặng hơn cả chục lần so với cơ thể của kiến, còn con người thì lại không.

Cho nên, vì sự sinh tồn, con người của ngày xưa đã biết sống theo bầy đàn, để hỗ trợ lẫn nhau, chống lại những loài động vật khác. Tinh thần bầy đàn này, vẫn được tiếp tục trao truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác và vẫn còn tồn tại đến ngày nay.

Vì vậy, là con người, chúng ta luôn sống và cần đến những người khác. Cho nên, ai cần ai cũng là một đề tài khá thú vị

mà chúng ta ít khi để ý đến.

Trong sinh hoạt về tâm linh, có một chị, nhà của chị có rất nhiều vấn đề, nên đến nhờ chúng tôi giúp cho chị cách giải quyết vấn đề, mà chị đang bất an.

Chị than thở đủ điều, từ đứa con lớn của chị đã làm dược sĩ, đến đứa con nhỏ của chị, đã tốt nghiệp đại học, nhưng vẫn lông bông chưa thích đi làm.

Chúng tôi vẫn ngồi yên lặng và lắng nghe những tiếng thở dài và than thở của chị. Sau khoảng bốn tiếng thở than thì chị bắt đầu ra điều kiện cho chúng tôi nếu muốn giúp chị giải quyết sự bất an của chị.

Điều kiện của chị là chúng tôi phải bảo đảm sẽ giải quyết sự bất an của chị một cách rốt ráo nếu không chúng tôi phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về sự bất an của chị.

Nghe xong những điều kiện của chị chúng tôi chỉ cười vì không biết phải nói gì với chị. Hình như chị đang quên mất là ai cần ai?

Chị đến sinh hoạt tâm linh với chúng tôi thì hoàn toàn miễn phí, ngay cả những khi chúng tôi đóng vai trò cố vấn, thì cũng không tính tiền, vậy thì, tại sao chúng tôi lại phải chịu trách nhiệm cho việc giải quyết sự bất an của chị và phải bảo đảm là chị có an.

Sự thật thì, chị đang cần chúng tôi giúp chị có những góc độ nhìn mới, để giải quyết vấn đề của chị, nhưng hành động của chị, lại biến chúng tôi thành người cần sự bất an của chị để giải quyết. Cho nên, chúng tôi phải bảo đảm với chị là giải quyết được vấn đề của chị, nếu không, chị sẽ không đưa

sự bất an của chị cho chúng tôi giải quyết.

Mặc dù nhân sinh quan sống của chúng tôi là làm Lợi cho người khác Dụng, nhưng không có nghĩa là chúng tôi có thể làm bất cứ gì ngoài tầm với của chúng tôi.

Chị bất an thì có vô vàn nguyên nhân, mà ngay cả chính chị còn không biết rõ thì làm sao chúng tôi có thể làm được chuyện “phi thường” này. Thế mà, chị lại bắt chúng tôi phải thực hiện nếu muốn giúp chị.

Chúng tôi thật sự đâu có muốn giúp chị vì đâu phải chỉ có chị mới có bất an không đâu mà chúng tôi cũng có và vẫn đang nỗ lực giải quyết từng ngày.

Cho nên, chúng tôi không cần thêm sự bất an của chị. Điều mà chúng tôi có thể làm cho chị là, chia xẻ lại những phương pháp mà chúng tôi qua ứng dụng đã rút tỉa lại để sử dụng cho chúng tôi, và chị phải là người đích thân đi giải quyết vấn đề bất an của chị chứ không phải là chúng tôi .

Chị phải ý thức được ai cần ai? Nếu chị không hiểu được rõ ràng điều này, thì cuộc đời của chị sẽ kéo dài trong bất an và trong đau khổ. Vì sự thật, sự đòi hỏi của chị là không tưởng, và không ai có thể làm được cho chị, trừ chính chị.

Tiếc thay, chị lại không muốn gánh trách nhiệm về sự bất an của chị, mà chị lại đi bắt người khác phải gánh lấy sự bất an của chị, và phải chịu trách nhiệm về sự bất an của chị nếu như không giải quyết được.

Lại là một câu chuyện khác về ai cần ai?

Có một cặp vợ chồng, không biết là ai giới thiệu, nên biết

nơi sinh hoạt tâm linh của chúng tôi và đã đến thăm. Khi vợ chồng nhấn chuông, chúng tôi đang bận việc nên không ra mở cửa.

Anh chị tiếp tục nhấn chuông liên tục, cho đến khi chúng tôi giải quyết xong việc mới ra mở cửa . Vừa gặp mặt chúng tôi anh chi đã lớn giọng nói:

“Sao nơi sinh hoạt về tâm linh mà cửa lại đóng và khi chúng tôi đã nhấn chuông nhiều lần thì mới ra mở cửa. Có biết thời gian của chúng tôi thật qúy lắm không?”

Chúng tôi nghe xong chỉ mỉm cười vì chúng tôi biết anh chị này chưa biết gì về nơi sinh hoạt tâm linh của chúng tôi. Nơi sinh hoạt này, ban đầu, do chúng tôi lập ra như một phương tiện cho chúng tôi thực hành trong đời sống hàng ngày.

Sau đó, những thân hữu của chúng tôi thấy được giá trị từ sự bình an nơi sinh hoạt của chúng tôi, nên mới xin chúng tôi đến sinh hoạt cùng. Chúng tôi chưa hề công bố, đó là nơi phục vụ cho công cộng, cho nên chúng tôi không nhất thiết phải đáp ứng mở cửa cho anh chị vào.

Điều thứ hai, anh chị biết thời gian của anh chị quý chẳng lẽ thời gian của chúng tôi không quý sao. Trong khi, anh chị đang cần đến nơi sinh hoạt của chúng tôi để giải quyết chuyện gì của anh chị nhưng anh chị lại biến chúng tôi trở thành đang cần anh chị nên phải phục vụ cho anh chị.

Cho nên, sau khi chào hỏi anh chị xong, chúng tôi cũng cho anh chị biết nơi sinh hoạt tâm linh của chúng tôi không phải là nơi công cộng và là chốn riêng tư, vì vậy, chúng tôi không nhất thiết phải mở cửa cho anh vào vào và cũng yêu cầu anh chị nếu anh chị có việc muốn đến chỗ sinh hoạt tâm linh của chúng tôi thì làm ơn phải lấy hẹn trước chứ không phải cứ tự động đến là chúng tôi sẽ mở cửa đón tiếp và phải phục vụ cho anh chị.

Anh chị có vẻ không hài lòng với câu trả lời của chúng tôi, rồi nói:

“Chúng tôi không phải chỉ đến để xin giải quyết vấn đề mà không có trả lễ chúng tôi sẽ cúng dường số tiền lớn.”

Nghe anh chị nói xong chúng tôi mỉm cười rồi đáp:

Cơ sở sinh hoạt tâm linh của chúng tôi vốn không hề nhận bất cứ một sự cúng dường nào cho dù là một xu hay một cắc. Cho dù anh chị có cúng dường cả triệu đô đối với chúng tôi cũng vô nghĩa vì chúng tôi không cần đến.

Anh chị nghe xong không vui ra về, không biết, khi anh chị về, anh chị có nghĩ đến ai cần ai không?

Đời sống của chúng ta, không ít thì nhiều, chúng ta luôn cần đến người khác. Chúng ta có thể cần đến sự giúp đỡ của họ trong vấn đề này hay trong vấn đề khác.

Có đôi khi, chúng ta không cần đến sự giúp đỡ chúng ta mà chúng ta chỉ cần sự có mặt của họ cũng đem đến cho chúng ta sự bình an.

Vì vậy, khi chúng ta cần một ai đó thì chúng ta phải xác định rõ ràng chúng ta là người đang cần người khác giúp và chúng ta đừng nên đặt những điều kiện với người chúng ta cần họ giúp, vì họ không có bổn phận hay trách nhiệm phải giúp chúng ta. Nếu chúng ta muốn là theo cách của chúng ta thì chúng ta nên tự mình làm lấy vì chỉ có chúng ta mới

biết chúng ta cần gì nhất và chính xác nhất. Chúng ta đừng cho chúng ta có cái quyền là muốn giúp chúng ta thì phải theo nhưng điều kiện của chúng ta.

Đây không phải là cách ứng xử của người đi cần người khác giúp, mà chúng ta đang là người ban phát sự giúp cho người khác.

Lầm lẫn trong việc đi nhờ người khác, thành người ban phát cho người khác, thì sự thiệt thòi chắc chắn sẽ thuộc về bạn.

We use cookies in order to give you the best possible experience on our website. By continuing to use this site, you agree to our use of cookies.
Accept