GIA ĐÌNH LÀ GÌ?

album-art

00:00

TẢI MP3 – BÍCH HÀ
TẢI MP3 – QUẢNG BẢO TÂM
TẢI MP3 – DAVID NGÔ

Bạn thân mến,

Người Mỹ đã dùng danh từ FAMILY, còn người Việt chúng ta thì gọi là GIA ĐÌNH.

Xin mời bạn đọc mẩu chuyện ngắn dưới đây để tìm hiểu giá trị của Family như thế nào nhé ! FAMILY là gì?

Một buổi sáng nọ, tôi đang đi bộ trên đường phố, và đụng phải một người lạ trên phố khi người này đi qua.

“Ồ ! Cho tôi xin lỗi”, tôi nói.

Người kia trả lời: “Cũng xin thứ lỗi cho tôi, tôi đã không nhìn cô”.

Chúng tôi rất lịch sự với nhau.

Nhưng ở nhà thì mọi chuyện lại khác. Tối nọ, lúc tôi đang nấu bếp thì cậu con trai đến đứng sau lưng. Tôi quay người và đụng vào thằng bé, làm nó ngã chúi xuống sàn nhà.

“Tránh ra chỗ khác”- tôi cau mày nói.

Con trai tôi bước đi, trái tim bé nhỏ của nó vỡ tan. Tôi đã không nhận ra là mình đã quá nóng nảy.

Buổi tối, đang mơ màng giấc điệp, tôi bổng nghe một giọng nói thì thầm:

“Khi đối xử với người lạ, con rất lịch sự. Nhưng với con của mình, con đã không làm như vậy.

Hãy đến tìm trên sàn nhà bếp, có những bông hoa đang nằm ở cửa. Đó là những bông hoa mà con trai con đã mang đến cho con. Tự nó hái lấy những bông hoa này: nào hoa hồng, màu vàng và cả màu xanh. Nó đã yên lặng đứng đó để mang lại cho con điều ngạc nhiên, còn con thì không bao giờ thấy những giọt nước mắt đã chảy đẫm lên trái tim bé nhỏ của nó”.

Lúc này thì tôi bật khóc. Tôi lặng lẽ đến bên giường con trai và quỳ xuống: “Dậy đi, con trai bé nhỏ, dậy đi. Có phải những bông hoa này con hái cho mẹ không?”.

Thằng bé mỉm cười: “Con tìm thấy chúng ở trên cây hồng ngoài kia. Con hái cho mẹ vì chúng đẹp như mẹ. Con biết là mẹ thích lắm, đặc biệt là bông hoa màu xanh”.

Bạn cảm thấy thế nào khi đọc xong mẩu chuyện ngắn này?

Giận dữ và yêu thương vốn không có giới hạn, hãy chọn YÊU THƯƠNG để có một cuộc sống của chúng ta được an lạc và hạnh phúc. Đồ vật được làm ra là để SỬ DỤNG và con người sinh ra là để YÊU THƯƠNG…. Vấn nạn của thế giới hôm nay thì ngược lại…. Con người bị SỬ DỤNG, còn đồ vật thì được YÊU THƯƠNG!!!

Thế bạn có biết từ family có nghĩa là gì không?

FAMILY = Father And Mother, I Love You

Xin chúc bạn cùng gia đình một ngày mới nhiều an lạc và hạnh phúc.

CƠ HỘI VÀ SỰ CHỜ ĐỢI

album-art

00:00

TẢI MP3 – MỴ HẰNG 
TẢI MP3 – HỒNG TRẦN
TẢI MP3 – DAVID NGÔ

Bạn thân mến,

Nói đến cơ hội. Ông bà xưa thường dạy bảo con, cháu rằng: “Có ba điểm chủ yếu trong một đời người, nếu để vuột khỏi tầm tay thì sẽ không bao giờ lấy lại được: “THỜI GIAN – LỜI NÓI – CƠ HỘI”, đủ cho chúng ta thấy vai trò của cơ hội trong cuộc sống thường nhật.

Cơ hội là sự xuất hiện những khả năng cho phép người ta làm một điều gì đó. Đó là thời điểm hội tụ một số điều kiện thuận lợi. Đồng thời những gì chúng ta có thể nắm bắt được nhằm làm thay đổi cuộc sống của chúng ta trong mai hậu.

Trong cuộc sống, con người có nhiều cơ hội để nắm bắt nhằm thực hiện một kế hoạch, một mục đích làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn. Tuy nhiên, không phải ai cũng phát hiện cơ hội và nắm bắt cơ hội cho chính mình. Nhìn ra cơ hội đã là việc khó nhưng tận dụng được nó còn khó hơn nhiều.

Giáo sư vật lý nổi tiếng George Gate muốn tìm một phụ tá cho mình khi nghiên cứu về lĩnh vực truyền điện tín. Ông đăng báo tuyển phụ tá.

Ngày hôm ấy, căn phòng chờ đợi rất nhiều ứng viên đến dự tuyển. Mọi người đều chọn cho mình những bộ quần áo sang trọng bậc nhất, nghiên cứu hàng chục cuốn sách về MORSE code trước khi đến phỏng vấn. Họ đều phải chờ ở phòng chờ đợi cho đến khi được vị giáo sư mời vào phỏng vấn.

Trong khi chờ đợi, họ tán gẫu và cố gắng phô trương những kiến thức của mình. Chỉ có một chàng trai trẻ ngồi yên lặng chú tâm quan sát phòng làm việc của George Gate. Anh đã theo dõi từng chi tiết những công trình nghiên cứu trước đó của vị giáo sư này và rất muốn góp sức với ông.

Nhiều giờ trôi qua, cửa phòng thí nghiệm vẫn đóng im lìm. Phòng chờ đợi vẫn ồn ào những tiếng bàn cãi sôi nổi. Bỗng nhiên, chàng trai vẫn ngồi im lặng từ đầu đến giờ, khẽ mỉm cười. Đứng dậy và bước vào phòng thí nghiệm của giáo sư.

Cánh cửa không hề khóa. Thoạt đầu họ nhìn chàng trai với ánh mắt thương hại vì cho rằng anh ta không đủ kiên nhẫn chờ đợi và định xin bỏ cuộc. Nhưng không lâu sau, tất cả mọi người đều bất ngờ khi thấy giáo sư George từ phòng thí nghiệm bước ra cùng chàng trai trẻ.

– Xin cảm ơn mọi người đã đến đây, nhưng tôi đã tìm được người trợ lý thực sự có năng lực cho mình rồi. – Vị giáo sư chỉ vào chàng trai.

Mọi người hết sức ngỡ ngàng trước quyết định của vị giáo sư. Họ đã phải chờ đợi rất lâu, vậy mà thậm chí không có cả một cơ hội để chứng tỏ khả năng của mình.

Giáo sư chậm rãi giải thích:

– Các bạn đã không để ý nhưng ngay từ khi mọi người bước vào đây, máy điện tín của tôi đã liên tục đánh một dòng thông báo bằng tín hiệu như thế này: “Nếu bạn giải mã được lời nhắn này, hãy bước vào gặp tôi”.

Tôi biết mọi người ở đây đều rất giỏi nhưng chỉ có một cơ hội và người biết tập trung vào mục tiêu chính khi đến đây đã giành được cơ hội đó.

Chàng phụ tá trẻ đó chính là Thomas Edison, người đã góp phần làm thay đổi thời đại của chúng ta. Cơ hội dành cho tất cả mọi người. Nhưng chỉ những người có đủ sự tập trung và nhạy bén mới đọc và hiểu được thông điệp của nó.

Bạn thân mến !

Cuộc đời thì hạn hữu, còn thời gian thì vô hạn, khi dừng lại chúng ta sẽ bị bỏ lại phía sau. Thời gian không chờ đợi một ai, thời gian trôi qua không bao giờ trở lại, chính vì vậy chúng ta đừng nên chờ đợi.

Cuộc đời của chúng ta là do chúng ta quyết định. Mỗi người đều có ưu điểm và lợi thế của riêng mình, điều quan trọng là chúng ta phải vận dụng ưu điểm và thời gian của mình để tạo thành cơ hội cho chính mình.

Vậy, bạn còn chần chờ gì nữa. Đừng chờ đợi, hãy nắm lấy cơ hội cho chính mình.

LẬP PHÁP VÀ HÀNH PHÁP

album-art

00:00

TẢI MP3 – THẢO MY

Bạn Thân Mến,

Bạn đừng thấy, chủ đề hôm nay của chúng tôi có những chữ như: lập pháp và hành pháp, thì bạn nghĩ, chúng tôi sẽ chia xẻ với bạn về chủ đề liên quan đến chính trị nhé.

Không đâu, chúng tôi chỉ là những người rất bình thường. Chúng tôi thích sống với sự quan sát và nhìn sâu vào trong cuộc sống, thích học và hành qua thực nghiệm, và trải nghiệm, để kéo dài cái An trong cuộc sống của chúng tôi, hơn là làm chuyện quốc gia đại sự.

Ông bà xưa có dậy rằng: “Tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, chúng tôi thấy, nội việc “tề gia” mỗi ngày, chúng tôi đều phải: vừa học, vừa hành, vừa chỉnh sửa liên tục, còn chưa xong, thì làm sao có đủ hùng tâm tráng trí, mà trị quốc hay bình thiên hạ được.

Cho nên, tuy chủ đề là lập pháp và hành pháp, nhưng câu chuyện của chúng tôi muốn chia xẻ với bạn hôm nay, liên quan đến một người quen, khi anh đến thăm nơi sinh hoạt về tâm linh của chúng tôi, và bốn chữ lập pháp và hành pháp từ đây mà có.

Anh tự giới thiệu, anh là một trong năm đại đệ tử của một vị cao tăng, rất nổi tiếng, của Phật giáo. Trong năm người, vì anh có trí nhớ tốt, nên thường được đi theo vị cao tăng thuyết pháp, ghi nhớ lại, và sau đó, viết và ấn bản thành kinh sách.

Thế nên, khi nói về kinh điển của Phật giáo, thì kinh điển nào anh cũng làu thông, và ghi nhớ rất rõ ràng. Những người quen biết anh, đặt cho anh một biệt danh là “tàng kinh các”, nghĩa là, nơi lưu giữ những kinh điển của Phật giáo, hay có thể gọi là, thư viện kinh điển của Phật giáo.

Ngày anh gặp chúng tôi, thì anh đã sử dụng ngay “sở trường” của anh để thuyết cho chúng tôi nghe về tính vô thường, vô ngã của đạo Phật. Chúng tôi vẫn im lặng ngồi nghe anh, thao thao bất tuyệt, trong hai tiếng đồng hồ.

Cuối cùng, anh hỏi chúng tôi, có hiểu được sự mầu nhiệm của ý kinh, không thể nghĩ bàn của đức Phật, không?

Lúc đó, chúng tôi mới lên tiếng, trả lời anh:

Thưa anh, anh thì đang “lập pháp”, còn chúng tôi thì đang “hành pháp”, cho nên, chúng tôi không hiểu gì cả.

Anh nghe câu trả lời “trật bàn đạp” của chúng tôi, anh không vui mấy, vì không vô đúng chủ đề của anh muốn, là phải thán phục sự làu thông kinh điển của anh. Cho nên, anh quyết định “bắt bẻ” chúng tôi đến cùng. Anh nhìn chúng tôi một lúc, rồi nói:

“Chúng ta đang nói về kinh điển của một bậc Y Vương, thị hiện xuống cõi trần, để cứu độ muôn loài, mà sao bạn lại lái qua đề tài chính trị.”

-Thưa anh, chúng tôi đâu có đổi chủ đề, chúng tôi cũng đang nói về chủ đề tôn giáo đấy chứ. Chúng tôi đáp.

“Sao, đề tài về tôn giáo ư, tôi thì chỉ thấy liên quan đến chính trị, nếu không thì lôi lập pháp và hành pháp vào làm gì.” Anh nói.

– Thưa anh, không phải trong đạo Phật, khi nói về vô thường hay vô ngã thì đó gọi là pháp sao. Anh thì cứ lập đi lập lại những phương pháp của đức Phật, nhưng anh lại không chia xẻ về cách anh thực hành, cách anh trải nghiệm, cách anh thực nghiệm như thế nào.

Cho nên, chúng tôi mới gọi anh là “lập pháp”, nghĩa là, anh chỉ lập đi lập lại những kinh nghiệm, những trải nghiệm hay những phương pháp của người khác, mà không phải là của chính anh.

Còn chúng tôi, gọi chúng tôi là hành pháp, bởi vì, khi chúng tôi học được điều gì, hay phương pháp nào, thì chúng tôi sẽ bắt đầu thực hành ngay điều đó, qua sự kiểm nghiệm, thực nghiệm, và chứng nghiệm.

Sau đó, chúng tôi đúc kết lại thành những kinh nghiệm riêng cho chúng tôi dùng trong cuộc sống, và chia xẻ lại phương pháp này với những ai, khi họ cần đến, để ứng dụng trong cuộc sống của họ.

Khi hướng dẫn hay chia xẻ cho họ, chúng tôi luôn nhấn mạnh đến yếu tố, đừng tin vào phương pháp của chúng tôi, mà chỉ nên tin vào kết quả mà họ đạt được, khi đã trải qua sự kiểm nghiệm, thực nghiệm và chứng nghiệm của chính họ.

Với chúng tôi, chân lý chỉ thật sự là chân lý, khi có mặt của sự kiểm nghiệm, thực nghiệm và chứng nghiệm, giúp cho chúng tôi tiếp xúc được đúng với sự thật.

Cho nên, với chúng tôi, người nào mà có những trải nghiệm này, thì chúng tôi gọi người đó là người “hành pháp – thực hành các phương pháp”, còn người nào, mà chưa trải qua, nhưng lại hay nói về những phương pháp, thì chúng tôi gọi là người “lập pháp – lập đi lập lại những phương pháp nhưng chưa bao giờ thực hành”.

Anh nghe xong biến sắc một chút, rồi nói:

“Thật lòng mà nói, nếu bạn có thể làm được như vậy, thì ngay cả các bậc cao tăng cũng ít có vị làm được.”

Sau đó, anh kiếu từ ra về. Tiễn anh về xong, chúng tôi mới nghĩ, công việc mà chúng tôi đang học và đang hành thì đâu có gì là khó đâu. Ai cũng có thể làm được, sao các bậc cao tăng lại không làm được.

Với chúng tôi, dù là người thường, hay cao tăng, thì ai tu, nấy hưởng. Các vị cao tăng tu thì các vị đạt được sự giải thoát và có được sự An Lạc cho các vị, còn chúng tôi tu thì chúng tôi cũng đạt được sự giải thoát và bình an như các vị, cũng là việc rất bình thường.

Bởi vì, sự An Lạc và giải thoát đều có sẵn nơi mỗi người, không phải do bất cứ ai ban tặng, hay thần linh nào ban bố, mà chỉ khác nhau là trong phương pháp học và hành mà thôi.

Nếu như khi học mà học cho nghiêm túc, học cho đến nơi đến chốn, học không câu chấp, học hiểu ý quên lời. Nhất là đi tìm định nghĩa cho rõ ràng.

Sau đó, thì đem những điều học đó vào thực hành ngay trong cuộc sống mỗi ngày. Trong quá trình thực hành, thì bắt đầu bằng cách, đem những điều học hỏi được để kiểm nghiệm lại, nghĩa là, kiểm nghiệm lại xem, từ lý thuyết đến thực hành có đúng không, hay có sự sai biệt nào không. Nếu có, thì sai biệt thế nào, và nếu không, thì có thể ứng dụng trên góc độ nào, và không thể ứng dụng trên góc độ nào.

Kế tiếp, là qua qúa trình thực nghiệm. Qúa trình thực nghiệm là quá trình đem những điều học, sau khi qua sự kiểm nghiệm, ứng dụng vào trong những môi trường và hoàn cảnh, hay cuộc sống, dưới sự quan sát và nhìn sâu của từng góc độ.

Trong qúa trình này, thì phải liên tục chỉnh sửa lại những điều thiếu sót, hay bổ sung thêm vào lý thuyết những điều chưa có, để tránh gây ra sự lầm lẫn, hay hiểu lầm.

Cuối cùng là chứng nghiệm. Qúa trình chứng nghiệm là qúa trình đem những kết quả của thực nghiệm, bổ sung hay sửa sai, đi so sánh lại với những kinh nghiệm của những người trải nghiệm khác, xem có những sự tương đồng hay dị biệt nào.

Nếu là tương đồng không có dị biệt, thì giữ lại để sử dụng, và khi sử dụng, thì biến thành thói quen, để có thể dễ dàng ứng phó, khi có những sự cố xẩy ra qúa nhanh, đến độ Ý Thức chưa kịp tìm ra cách giải quyết.

Nếu có dị biệt, thì dị biệt trên góc độ nào, và dị biệt đó có còn thích hợp, và đúng với môi trường hay hoàn cảnh trong hiện tại hay không? Nếu những dị biệt, mà không còn thích hợp thì loại những dị biệt đó ra, mà không cần quan tâm đến.

Thí dụ như, trong kinh điển nguyên thủy của Phật giáo, hoặc Ma Ha Bà La Đa thứ 12 do hòa thượng Thích Quảng Độ dịch, cho rằng:

“Đao Diệp Lâm Địa Ngục, là nơi đi đến của những người bỏ kinh Vệ Đà để chạy theo những đạo khác, và những người này gọi là kẻ mê tín dị đoan”

Tuy điều này, được ghi lại trong kinh điển có cả ngàn năm của Ấn Độ giáo, cũng như của Phật giáo, nhưng không có nghĩa là, kinh điển đã hợp lý.

Trong khi ngày nay, giáo dân của Thiên Chúa giáo đã có hơn cả tỷ người, mà những giáo dân của Thiên Chúa giáo, không hề biết, hay tin, vào kinh Vệ Đà, vậy họ đều bị đọa vào địa ngục “Đao Diệp Lâm” sao?

Như vậy, cho dù, đó là điểm khác biệt so với quá trình chứng nghiệm, nhưng dị biệt này không còn thích hợp, và cũng không đúng với sự thật, nên dù, có viết trong kinh điển ngàn năm, chúng tôi vẫn loại bỏ như thường.

Với chúng tôi, không phải, cứ có trong kinh điển ngàn năm là có giá trị, mà phương pháp chỉ có giá trị khi đem ứng dụng, hay khi thực hành, phải đem đến sự giải thoát hay đạt được An kéo dài. Nếu không thì cũng không ích lợi gì.

Còn với những dị biệt, mà sau khi qua kiểm nghiệm, và thực nghiệm lại, thấy hợp lý, hay đúng hơn, thì chúng tôi lại tiếp tục sửa sai, rồi thực hành lại, cho đến khi ra kết quả, mà không phải là hậu quả.

Khi đã chứng thực được, qua cách ứng dụng trên những góc độ khác nhau, mà đều đưa những kết quả giống nhau, thì mới tổng hợp lại, và lập thành một phương pháp để ứng dụng, cũng như, chia xẻ phương pháp này với những người khác, khi họ cần đến sự giúp đỡ.

Đây chính là chỗ khác biệt giữa người “lập pháp” và “hành pháp”. Trong khi, người lập pháp thì chỉ thích lập đi lập lại những phương pháp mỗi ngày, nhưng không thực hành phương pháp đó.

Còn người “hành pháp” thì không lập đi lập lại những phương pháp đó, mỗi ngày, mà họ chỉ sử dụng những phương pháp đó, trong qúa trình thứ ba là chứng nghiệm, để so sánh và rút ra những sự tương đồng hay dị biệt qua qúa trình trải nghiệm của họ.

Về niềm tin, thì người “lập pháp” có thể tin vào những kinh nghiệm của những người đã trải nghiệm qua, mà không cần qua qúa trình kiểm nghiệm, thực nghiệm và chứng nghiệm của bản thân.

Nhưng với người “hành pháp” thì những phương pháp của những người trải nghiệm khác, chỉ là những thông tin, và cần qua qúa trình kiểm nghiệm, thực nghiệm và chứng nghiệm của bản thân, khi tiếp xúc được với sự thật.

Với những người “hành pháp”, họ chỉ tin, khi họ tiếp xúc được với sự thật, và họ chỉ tin vào sự thật, chứ họ không tin vào những thông tin, hay kinh nghiệm của người khác. Tại sao?

Vì, kinh nghiệm của mỗi cá thể trước khi tiếp xúc với sự thật đều khác nhau, cho nên, không thể lấy kinh nghiệm của người đã trải nghiệm, làm kinh nghiệm chuẩn, dùng chung cho tất cả mọi người được.

Hãy lấy một thí dụ làm minh họa.

Huế là một địa danh có những thắng cảnh đẹp, có một người đang sinh sống ở miền Bắc, và người đó đi từ Bắc vào Huế (từ trên đi xuống, theo địa lý). Sau khi đến Huế về, người đó đem kinh nghiệm của anh, vẽ thành lộ trình để hướng dẫn cho những ai, muốn thưởng thức cảnh đẹp của Huế, có thể đến Huế để thưởng thức.

Dĩ nhiên, nếu bạn là người đang sống ở miền Bắc thì bạn có thể ứng dụng theo lộ trình này. Nhưng nếu bạn đang sinh sống trong miền Nam, mà bạn ứng dụng lộ trình này, thì bạn không thể nào đến được Huế, mà bạn lại có thể đến Thái Lan không chừng.

Thái Lan thì chắc chắn không phải là Huế rồi, và đó là sự thật. Nhưng vì bạn qúa tin tưởng vào kinh nghiệm của người ở miền Bắc, Bạn tin rằng. người đó đúng là người trải nghiệm, không phải là người giả mạo. Nhưng bạn lại quên mất một điều vô cùng quan trọng, đó là bạn đang ở đâu.

Không sai, người trải nghiệm ở miền Bắc chỉ dẫn rất cặn kẽ, rất rõ ràng, nhưng những sự trải nghiệm đó, chỉ có giá trị khi bạn biết rất rõ ràng, là bạn đang ở miền Bắc, chứ không phải bạn đang ở miền Nam.

Nếu bạn thật sự đang ở miền Nam, mà lại tin theo sự hướng dẫn đó, và kiên trì đi theo lộ trình đó, thì bạn sẽ chẳng bao giờ đến đúng được địa danh mà bạn muốn đến.

Tệ hại hơn là, khi bạn đến được Thái Lan, mà bạn lại cứ khăng khăng khẳng định, đó là Huế, vì bạn đã đi, và làm đúng với lộ trình mà người trải nghiệm kia đã chia xẻ lại, và bạn đã tin là đúng.

Trong khi, Huế đích thực, thì càng xa bạn hơn, vì bạn đã đi chệch hướng, lộn đường.

Còn một người có kinh nghiệm về địa lý , thì họ biết, họ đang ở đâu, và Huế đang ở đâu, so với chỗ của họ. Tuy họ chưa đến Huế, chưa biết phong cảnh của Huế đẹp như thế nào? Nhưng có một điều, họ biết chắc chắn, là họ không thể dựa vào lộ trình của người trải nghiệm ở miền bắc để đi theo.

Họ phải đi theo lộ trình do chính họ tìm ra (từ dưới đi lên, theo địa lý), và họ chỉ sử dụng sự trải nghiệm của người miền Bắc, khi cần phải xác định địa điểm họ đến, có giống như người trải nghiệm đã tả về phong cảnh của Huế hay không?

Khi họ đã tiếp xúc và đến được Huế, đúng như những gì mà người từng trải ở miền Bắc đã diễn tả, thì họ mới tin là họ đã tìm đúng địa danh, mà không có sự tưởng tượng hay phỏng đoán nào cả.

Câu chuyện này, ai nghe xong cũng biết được, ai đi đúng hướng, ai đi chệch đường. Nhưng trên thực tế, chúng ta đang là người ở miền nam, nhưng vẫn đang kiên trì đi theo lộ trình do người miền bắc hướng dẫn.

Chúng ta càng đi, thì chúng ta càng xa rời sự thật, nếu chúng ta chỉ thích “lập pháp” hơn là “hành pháp”.

NHẬN LỖI

album-art

00:00

TẢI MP3 – TRẦN THIỆN TÍCH 
TẢI MP3 – TÂM TỪ
TẢI MP3 – CHÂN TRÚ LẠC
TẢI MP3 – DIỆU LIÊN

Bạn Thân Mến,

Nói đến hai chữ nhận lỗi là nói đến một việc gì đó, mà chúng ta đã nói hay làm, nhưng không đúng với một ai đó, hay với chính mình, khi đã vượt qúa những ranh giới mà chúng ta đã quy định.

Nhận lỗi là một chủ đề lớn, mà rất nhiều các nhà hiền triết trên thế giới, đã cố gắng trao truyền và giảng giải cho con người, từ xưa cho đến nay. Các Ngài đang cố gắng tận hết sức mình để giúp người, giúp đời. Nhưng cho đến nay, muốn nói đến hai chữ “nhận lỗi” thì không ít người trong chúng ta vẫn cảm thấy đó là việc vô cùng khó khăn để thực hiện. Vì sao?

Vì, khi chúng ta nhận lỗi với một ai đó, cũng đồng nghĩa với việc, chúng ta đã làm sai điều gì, hay chúng ta đã tin sai, nên mới đưa đến hành động hay lời nói sai.

Nói sai hay làm sai thì cũng chẳng có gì là to tát cả, nhưng điều đó sẽ trở nên to lớn, khi lời nói, hay hành động sai, trong Ngã Thức của chúng ta, bắt đầu khích hoạt những vùng cảm xúc/giác như: xấu hổ, mất mặt, tự ty, tự tôn, v.v.

Khi những nguồn cảm xúc/giác này bắt đầu “khống chế” Ngã Thức của chúng ta, và sử dụng Ý Thức để làm công cụ “biện minh” cho lời nói, hay hành động sai, thì lúc đó, cho dù, qua sự phân tích của Ý Thức, có biết là chúng ta sai, nhưng nguồn năng lượng tiêu cực nêu trên, nhất là nguồn năng lượng của tự tôn sẽ không bao giờ cho Ngã Thức của chúng ta chấp nhận, chúng ta sai.

Chính vì vậy, tuy học thuyết “nhận lỗi” rút gọn từ “Tiên trách kỷ, hậu trách nhân” đã có cả ngàn năm, nhưng có bao nhiêu người trong chúng ta chịu thực tập.

Chúng ta chỉ thích ca tụng, tán thưởng, những câu danh ngôn như trên; chúng ta chỉ thích lý luận để phô trương kiến thức và sự hiểu của mình, nhưng tai hại nhất là, chúng ta lại không chịu thực hành.

Các nhà hiền triết đã bỏ ra bao tâm huyết, bao trải nghiệm, để rút tỉa ra phương pháp cho chúng ta thực hành, chứ không phải, để “tô hồng” thêm cho kiến thức của chúng ta.

Nếu chúng ta khi học những câu danh ngôn này, mà chỉ học để “tô hồng” thêm cho kiến thức của chúng ta, thì há chẳng phải là, chúng ta đang lãng phí đi những tinh hoa mà cha ông của chúng ta đã tích lũy hay sao.

Danh ngôn ngày nay thì lan tràn trên internet. Đâu đâu cũng thấy nhan nhãn nhưng câu danh ngôn, được trang hoàng lộng lẫy trên những nền rất đẹp, và đăng đầy rẫy trên những diễn đàn, hay mạng xã hội.

Người đăng có khi bỏ công ra trang trí những câu danh ngôn, hay đi sưu tầm những câu của người khác làm, rồi đăng lên trên mạng xã hội, mỗi ngày, mỗi giờ. Nhưng nếu chúng ta hỏi người đăng, có Biết những gì họ vừa đăng, và có thực hành theo những điều đó không, thì chắc chắc, câu trả lời là: Không.

Vậy thì, cho dù những câu danh ngôn có hay bao nhiêu, có

nhiều bao nhiêu, thì có ích lợi gì. Hay, cho dù, kiến thức của chúng ta có cao bao nhiêu, có thuộc lòng bao nhiêu, thì cũng thành vô dụng. Vì sao?

Vì khi chúng ta gặp vấn đề cần phải giải quyết, thì chúng ta chẳng có chút xíu kinh nghiệm nào để sử dụng cả.

Mớ kiến thức mà chúng ta tự hào, huyên thuyên, khi chưa có vấn đề kia, chẳng giúp ích gì cho chúng ta trong việc giải quyết vấn đề của chúng ta một cách rốt ráo; và khi giải quyết vấn đề, thì chúng ta cũng chẳng sử dụng đến những câu danh ngôn mà chúng ta đã tán tụng, ngợi khen.

Sự thật là, nếu chúng ta nghiêm túc thực hành, thì đôi khi, chỉ một câu danh ngôn, cũng khiến chúng ta phải dành cả một đời mới thực hiện được.

Cho nên, chúng ta không cần thiết phải đi sưu tầm cả ngàn câu danh ngôn để làm gì. Chỉ cần, chúng ta chọn một câu mà chúng ta tâm đắc nhất, và đi thực hành câu đó, cho đến khi đạt được kết quả mới thôi. Như vậy, xem ra có lợi ích cho chúng ta nhiều hơn là, hiểu cả ngàn câu, nhưng không biết câu nào cho ra hồn.

Trở lại chủ đề “Nhận Lỗi” hay “tiên trách kỷ, hậu trách nhân”. Tiên trách Kỷ, có nghĩa là, trước tiên hãy trách mình (kỷ), còn Hậu trách Nhân, nghĩa là, sau đó (hậu) mới trách người (nhân).

Trách mình thì trách gì đây? Chữ Trách là động từ, theo định nghĩa là: vạch ra và tỏ ý chê bai, bắt lỗi, đổ thừa chỗ sơ hở của người khác.

Khi học định nghĩa này trong cuốn Việt Nam Tự Điển của

tác giả Lê Văn Đức, chúng tôi thấy có chỗ không ổn, thí dụ như: “đổ thừa chỗ sơ hở của người khác” chẳng hạn. Nếu dùng định nghĩa vào câu, “tiên trách kỷ”, có nghĩa là, trước tiên, chúng ta nên đi đổ thừa chỗ sơ hở của người khác, trước khi nói về lỗi của mình.

Nếu định nghĩa là như vậy thì đây không thể nào là câu danh ngôn được, vì hành động đó, không được đẹp chút xíu nào, mà còn dậy chúng ta nên trốn tránh trách nhiệm, không cần gánh lấy hậu quả do chính chúng ta gây ra.

Cho nên, ngay cả khi học trực tiếp từ trong tự điển thì chúng ta cũng phải rất cẩn thận khi xem phần giải nghĩa có đúng không.

Chẳng hạn định nghĩa chữ trách như trên, nhưng khi chúng ta nói hai từ: trách nhiệm (cũng là động từ) thì lại mang một ý nghĩa khác, là gách vác công việc (nhiệm) và nhận mọi hậu quả hay kết quả từ công việc ấy.

Như vậy, chữ trách trong trách nhiệm, lại mang một ý nghĩa hoàn toàn trái ngược với định nghĩa của chữ trách là đổ thừa lỗi sơ hở của người khác.

Thế nên, khi chọn lựa câu danh ngôn này để thực tập trong đời sống hàng ngày, chúng tôi lại diễn dịch chữ “trách” thành nhận lỗi và xét lỗi.

Qua sự diễn dịch này, chúng tôi thấy định nghĩa của chữ “trách”, có thể ứng dụng được cho câu danh ngôn “tiên trách kỷ, hậu trách nhân”, và hai chữ trách nhiệm khá chính xác, có nghĩa là, trước tiên nhận lỗi về mình, rồi sau đó mới đi xét lỗi người.

Chữ xét ở đây có nghĩa là nghiệm lại, suy nghĩ lại, tìm ra lẽ phải. Và với hai từ “trách nhiệm” thì nhờ chúng ta nhận ra lỗi gây ra hậu quả, nên chúng ta mới gánh chịu hậu quả.

Khi diễn dịch lại định nghĩa xong, chúng tôi mới đem câu danh ngôn thực tập vào trong đời sống hàng ngày. Trong qúa trình ứng dụng này, chúng tôi lại thấy, khi chúng tôi đã nhận lỗi về mình, thì chúng tôi cũng chẳng cần phải suy xét về lỗi của người kia để làm gì.

Vì trong cách ứng xử của hai người, nếu như một người đã có lỗi và nhận lỗi thì người kia đương nhiên trở thành vô tôi hay không có lỗi.

Cho nên, chúng tôi rút gọn cả câu danh ngôn “Tiên trách kỷ, hậu trách nhân” lại, chỉ còn hai chữ “nhận lỗi” là vậy.

Vậy thì, khi chúng ta nhận lỗi về chúng ta, thì chúng ta sẽ có được những lợi ích gì?

Khi chúng ta biết nhận lỗi về chúng ta, thì chúng ta có được ít nhất 8 điều lợi lớn như sau:

Thứ nhất: Chúng ta sẽ sửa sai và ít khi tái phạm vào những sai lầm đó thêm lần nữa.

Thứ hai: Chúng ta sẽ không phải chịu sự khổ đau lâu dài, vì chờ đợi người kia nhận lỗi hay tha thứ cho chúng ta.

Thứ ba: Chúng ta có nhiều cơ hội hơn để hiểu về chính chúng ta.

Thứ tư: Chúng ta dễ dàng tha thứ cho chính chúng ta.

Thứ năm: Chúng ta luôn được người khác quý mến hơn, vì chúng ta luôn là người chấp nhận lỗi về chúng ta.

Thứ sáu: Chúng ta sống có tự chủ hơn, có thể tự giải quyết vấn đề hay khổ đau của chúng ta mà không lệ thuộc vào ai.

Thứ bẩy: Chúng ta là người có dũng khí và đảm lược nên chúng ta sẽ dễ thành công hơn.

Thứ tám: Nơi nào có mặt của chúng ta là nơi đó có hạnh phúc, bình an.

Thứ nhất: Chúng ta sẽ sửa sai và ít khi tái phạm vào những sai lầm đó thêm lần nữa.

Không cần phải bàn rộng về việc này, vì ai trong chúng ta, khi chịu nhận lỗi và chịu sửa sai lỗi của mình, thì chúng ta sẽ ít tái phạm vào cùng một lỗi, hay những lỗi tương tự.

Dĩ nhiên, cũng có nhiều khi chúng ta lại tái phạm, và những lần tái phạm như thế, thường lương tâm của chúng ta sẽ khiển trách chúng ta, và chúng ta cũng biết được, chúng ta đã làm sai và có lỗi, chứ không như trường hợp, chúng ta không nhận sai, hay thấy không có lỗi. Vì sao?

Vì lúc đó, Ngã Thức của chúng ta sẽ “chống đối kích liệt” và sẽ loại bỏ những phân tích của Ý thức, khi cho rằng, chúng ta sai hay Ngã Thức sai.

Cho nên, nếu chúng ta cần bàn, thì chúng ta nên bàn xem, cách thức nào, để chúng ta sẽ không thể tái phạm thì hay hơn.

Vậy làm sao chúng ta có thể đạt được sửa sai một lần mà dùng cả đời?

Muốn làm được điều này, thì chúng ta phải biết được, gốc rễ của lỗi lầm mà chúng ta gây ra từ đâu? Nếu chúng ta không thể biết được gốc rễ, mà chỉ nhận lỗi “trên ngọn”, thì khi gốc rễ phát triển, hoa trái của lỗi lầm mà chúng ta không muốn thấy, hay có, sẽ tiếp tục trổ ra.

Cho nên, việc đi tìm ra gốc rễ của vấn đề là quan trọng nhất, và phương pháp cũng như cách ứng dụng của việc tìm ra gốc rễ của vấn đề, đã được chúng tôi trình bầy trong rất nhiều bài viết.

Nếu cần tóm gọn thì đây là bốn bước:

  1. Xác định mình có lỗi
  2. Nguyên nhân tạo ra lỗi
  3. Phương pháp giải quyết lỗi
  4. Thời gian giải quyết lỗi

Chỉ cần chúng ta thực tập phương pháp bốn bước này, chúng ta có thể giải quyết được lỗi của mình, và làm sao sửa sai cho đúng cách, mà không bao giờ tái phạm.

Thứ hai: Chúng ta sẽ không phải chịu sự khổ đau lâu dài, vì chờ đợi người kia nhận lỗi, hay tha thứ cho chúng ta.

Khổ đau trong cuộc sống của con người thì vô vàn không sao kể xiết, nếu chúng ta không nhận lỗi, và cứ lại chất chứa thêm những khổ đau từng ngày, thì cuộc sống của chúng ta rơi vào khổ đau triền mien, cũng đâu có gì là lạ.

Rõ ràng, chẳng phải từ kiếp trước hay nghiệp lực nào, đem đến cho chúng ta khổ đau, mà nếu chúng ta chịu khó quan sát và nhìn sâu, chúng ta thấy, chính vì chúng ta không học cách nhận lỗi về chúng ta, đã chiếm hơn 80% những khổ đau trong cuộc sống của chúng ta rồi.

Trong sự khổ đau này, cái đau nhất, chính là thời gian chờ đợi. Thời gian chờ đợi càng dài bao nhiêu thì chúng ta càng đau khổ nhiều bấy nhiêu.

Có nhiều khi, chúng ta chờ đợi đến ngày chúng ta chết đi, mà người kia cũng không chịu nhận lỗi về phần họ, hay họ sẽ không tha thứ cho chúng ta, khi họ đã “quyết định” đó là lỗi của chúng ta.

Chính vì vậy, thay vì chúng ta hoàn toàn bị lệ thuộc, bị bị động, rơi vào thế đợi chờ, thì chúng ta có thể biến thế bị động đợi chờ người kia tha thứ cho chúng ta, thành thế chủ động: chúng ta tự nhận lỗi về mình.

Với thế chủ động này, chúng ta bắt đầu áp dụng phương pháp bốn bước để đi giải quyết tận gốc rễ. Khi chúng ta đã giải quyết xong thì sự khổ đau của chúng ta chấm dứt, mà không cần phải chờ đến chết mới được người khác thứ tha hay nhận lỗi.

Thứ ba: Chúng ta có nhiều cơ hội hơn để hiểu về chính chúng ta.

Khi nhận lỗi về phần chúng ta, và chúng ta đi tìm phương pháp để giải quyết cái lỗi đó, nếu chúng ta dùng đúng cách, thì chắc chắn chúng ta sẽ có cơ hội hiểu sâu hơn về chúng ta.

Chúng ta có thể hiểu được sự vận hành của Ngã Thức. Chúng ta có thể hiểu được tại sao cảm xúc/giác lại có mặt trên Ngã Thức, và cảm xúc/giác khích hoạt hay sử dụng Ý Thức như thế nào.

Chúng ta cũng có thể suy xét những niềm tin mà chúng ta đã thâu thập và tích lũy trong qúa khứ, nhưng chưa từng qua kiểm chứng, và thực chứng.

Chúng ta cũng có thể quan sát và nhìn sâu vào những niềm tin đó, đã ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng ta như thế nào, khi chúng ta sử dụng trong cách ứng xử với người, và với chính mình.

Như vậy, qua việc chúng ta nhận lỗi về chúng ta thì chúng ta đang cho chính chúng ta những cơ hội để hoàn thiện, chỉnh sửa lại chính mình.

Thứ tư: Chúng ta dễ dàng tha thứ cho chính chúng ta.

Tha thứ là hai chữ mà chúng ta đã nghe, thấy, và cũng đã sử dụng rất nhiều lần trong cuộc sống. Thông thường, khi chúng ta nghe, thấy, hai chữ tha thứ, thì chúng ta liên tưởng ngay đến việc, đối tượng nào đó đang bỏ qua một điều gì đó, mà chúng ta đã làm sai với đối tượng, và đối tượng đã không còn chấp nhất, hay bắt lỗi về việc làm sai của chúng ta nữa.

Như vậy, định nghĩa của hai chữ tha thứ là: bỏ qua, không bắt lỗi. Nhưng trên thực tế, thì có sự tha thứ của người nào đó cho chúng ta, mà sự tha thứ đó, có thật sự là tha thứ không?

Hay đó, chỉ là “tạm tha” trong giai đoạn, và khi chúng ta có một lỗi nào khác nữa, thì cái lỗi mà đã được gọi là tha thứ đó, lại quay về cộng chung vào cái lỗi mới.

Người vợ đang nấu phở, nhưng thiếu củ hành tây bỏ vào cho ngọt nước, nên sai người chồng, đi chợ mua một củ hành tây.

Người chồng lái xe ra chợ, thấy hành tây đang giảm giá bán $1/cho ba củ hành, trong khi, một củ bán lẻ giá 50 xu. Người chồng, thay vì, mua một củ hành như người vợ dặn, thì anh lại bị hấp dẫn bởi quảng cáo hạ giá, cho nên, anh đã mua ba củ hành.

Người chồng, sau khi trả tiền và lái xe về nhà, hí hửng vào khoe với vợ, về sự “khéo tính” của mình. Người vợ, không những không khen người chồng, mà còn quay sang quạt cho anh một trận, vì tội không biết tiết kiệm và hoang phí, trong khi, vợ chồng lại ít ăn hành tây, và chỉ dùng hành tây cho nấu phở.

Người chồng khi bị vợ mắng thì tiu nghỉu đi ra phòng khách, ngồi mặt bí xị. Khi người chồng bước đi thì người vợ nói với theo sau:

-Lần này tôi “tha” cho ông, lần sau, ông không được xài hoang phí như thế nữa.

Nửa tháng sau, người vợ nấu bún riêu, nhưng lại thiếu cà chua, nên sai người chồng, đi chợ mua thêm 5 trái cà chua. Người chồng lần này ra chợ, lại bị bảng hạ giá $1/ 10 trái hấp dẫn, nên anh lại mua một đồng cà chua đem về cho vợ.

Nhìn thấy gói cà chua có hơn năm quả, người vợ quát thật to:

“Tôi đã dặn ông, đi mua 5 trái, sao ông lại mua 10 trái, tôi càng tiết kiệm bao nhiêu, thì ông càng phá của bấy nhiêu. Lần trước, tôi nói ông đi mua một củ hành, thì ông lại vác về 3 củ hành; lần này, tôi kêu ông đi mua 5 trái cà chua thì ông đi vác về 10 trái, bộ ông tính chọc cho tôi tức chết ông mới vừa lòng sao.”

Nửa tháng trước, người vợ đã dõng dạc tuyên bố “tha cho ông”, nhưng hai tuần sau, thì cái lỗi của ông không những không được tha, mà còn được cộng thêm với cái lỗi mới.

Cho nên, khi mà chúng ta đã bị ghi vào sổ “bìa đen” là có lỗi, tuy người kia đã nói tha lỗi cho chúng ta, cái tha đó không phải là “tha thứ”, không còn nghĩ đến nữa, hay bỏ qua, mà chỉ là “tạm tha” trong giai đoạn mà thôi. Hiếm khi nào có sự tha thứ, đúng như định nghĩa.

Ngược lại, khi chúng ta nhận lỗi về chúng ta, thông thường, chúng ta hay sử dụng sự tha thứ cho chúng ta rất đúng với định nghĩa của tha thứ, đôi khi còn “qúa lố” nữa là khác.

Nửa tháng trước, khi đi khám bác sĩ về gan, bác sĩ cho anh biết, anh đã sử dụng rượu qúa nhiều, cho nên, gan của anh bắt đầu có triệu chứng bị sơ.

Nghe bị sơ gan, anh rất sợ, và thấy đó là lỗi của anh, khi đã uống rượu khá nhiều. Anh quyết định cai rượu để chuộc lại lỗi lầm của mình.

Gìn giữ được mươi ngày, thì người bạn thân, lại rủ anh đến ăn tiệc thôi nôi con của người bạn. Lúc đầu, anh còn giữ được kỷ luật, nên không uống, nhưng qua vài tua khích bác, thì anh đã say bí tỉ đêm hôm đó.

Anh không những, không giữ được kỷ luật do anh đặt ra, mà anh còn tha thứ “trọn vẹn” cho cái lỗi ham uống rượu, mà bác sĩ đã cảnh cáo anh, nếu anh không bỏ uống rượu, thì cơ hội gan của anh bị sơ là rất lớn.

Qua hai câu chuyện trên, chúng ta thấy, ít ai trong chúng ta có thể tha thứ cho người khác một cách trọn vẹn, nếu có chăng, thì đó chỉ là “tam tha” để mai kia tính lại, chứ không phải bỏ qua, không bao giờ nghĩ đến lỗi đó nữa.

Ngược lại tha thứ khi dùng cho chúng ta, thì mới có tha thứ một cách trọn vẹn và đúng nghĩa nhất.

Thứ năm: Chúng ta luôn được người khác quý mến hơn, vì chúng ta luôn là người chấp nhận lỗi về chúng ta.

Không cần nói, thì ai trong chúng ta, cũng nhận thấy được lợi ích này, bởi vì, khi chơi với ai, mà người đó luôn chịu gánh lỗi, và chúng ta là người vô tội, thì ai mà chẳng muốn chơi với người đó, và ai mà chẳng yêu mến người đó chứ.

Dĩ nhiên, chúng ta yêu mến người đó vì lợi ích của chúng ta đã có người sẵn sàng chịu lỗi cho chúng ta. Nhưng chắc chắn người biết nhận lỗi kia, cũng có những lợi ích như: vừa học hoàn chỉnh họ, vừa tạo được môi trường sống không có thù hận, khổ đau. Không cần phải sống giả dối, lừa gạt nhau.

Thứ sáu: Chúng ta sống có tự chủ hơn, có thể tự giải quyết vấn đề hay khổ đau của chúng ta mà không lệ thuộc vào ai.

Đây có thể nói là lợi ích vô cùng quan trọng với chúng ta vì chính nhờ lợi ích này, mà chúng ta có thể quyết định cuộc đời của chúng ta như thế nào?

Cho dù, chúng ta có vấn đề từ nội tâm hay do ngoại cảnh, khi chúng ta có sự tự chủ, thì chúng ta có thể thay đổi hậu quả thành kết quả. Chúng ta có thể sống ít lầm lỗi và nhiều hạnh phúc an lạc hơn.

Thứ bẩy: Chúng ta là người có dũng khí và đảm lược nên chúng ta sẽ dễ thành công hơn.

Biết nhận lỗi với người, và dám gánh những hậu quả do mình gây ra, đó không phải là việc bình thường, ai cũng có thể làm được.

Muốn làm được điều đó, đòi hỏi chúng ta phải có sự quan sát và nhìn sâu rất vững chãi, mới có thể làm được. Khi đã có sự nhìn sâu vững chãi, và tiếp xúc được với sự thật, thì đạo giáo gọi đó là người có dũng khí và đảm lược.

Định nghĩa của hai chữ dũng khí là: nguồn năng lực (khí) mạnh mẽ (dũng), hay lòng can đảm. Hai chữ: can là gan, và đảm hay đởm là mật, là hai cơ quan, gánh những nhiệm vụ nặng nề trong việc bài tiết cholesterol và các chất độc thải ra ngoài cơ thể. Còn hai chữ: đảm lược, có nghĩa là, không biết sợ hãi, giỏi tính toán sắp đặt.

Như vậy, khi chúng ta nhận lỗi về chúng ta, và chúng ta biến đó thành thói quen, thì bất cứ làm việc gì, chúng ta cũng dùng sự quan sát và nhìn sâu, để tìm ra gốc rễ của vấn đề, và đi giải quyết nó, thì không những, chúng ta có thể đem an lạc và hạnh phúc cho chúng ta, mà yếu tố quan sát và nhìn sâu khi ứng dụng trong tất cả mọi nghành nghề, vẫn luôn là hai chất liệu quan trọng nhất để đưa đến thành công.

Vấn đề là, chúng ta phải tập thành thói quen sử dụng quan sát và nhìn sâu liên tục, nếu không, chúng ta sẽ rơi vào tình trạng lúc nhớ lúc quên, và hiển nhiên, quên nhiều hơn nhớ, khi va chạm với vấn đề.

Thứ tám: Nơi nào có mặt của chúng ta là nơi đó có hạnh phúc, bình an.

Lợi ích này thì không cần phải bàn rộng ra, vì ai trong chúng ta cũng hiểu, khi chúng ta đã nhận lỗi, tìm ra nguyên nhân lỗi, và đi giải quyết cái lỗi, thì chúng ta sẽ không còn khổ đau do những lỗi mà chúng ta gây ra. Cho nên, chúng ta có bình an và hạnh phúc là chuyện tất nhiên.

Là con người, nếu chúng ta sống hướng ngoại, và đi tìm bình an và hạnh phúc từ bên ngoài, thì chúng ta thường thiếu bình an và hạnh phúc. Cho nên, nếu chúng ta là người có bình an và hạnh phúc kéo dài, thì chúng ta có thể đem những bình an và hạnh phúc mà chúng ta có, để chia xẻ với những người đang thiếu.

Như vậy, chúng ta đang tạo ra một môi trường sống lành mạnh, môi trường mà, con người có thể sống với nhau có bình an và hạnh phúc, hiến tặng cho nhau.

Như vậy, qua tám lợi ích kể trên, chúng ta không những làm lợi cho người, mà chúng ta cũng đang làm lợi cho mình. Lợi cho người thì không biết là bao nhiêu, nhưng khẳng định, ít nhất chúng ta cũng đã có 8 điều lợi.

Chúng tôi thì vẫn đang học và hành nhận lỗi mỗi ngày, còn bạn, bạn có “dám” nhận lỗi về phần mình hay không?

TẠI SAO VIẾT CHÌ CÓ CỤC TẨY?

album-art

00:00

TẢI MP3 – TÂM TỪ

Bạn thân mến.

Có người hỏi: Tại sao viết chì có cục tẩy? Chẳng phải câu trả lời đã quá rõ ràng rồi sao.

Đó là để xóa đi những chữ viết sai, viết chưa đẹp, hoặc để xóa hoàn toàn một đoạn văn nào đó…

Vậy, có bao giờ bạn tự hỏi mình: Phải chăng trong cuộc sống này, chúng ta cũng cần có một cục tẩy cho riêng mình? để xóa đi những sai lầm của người khác và của chính bản thân ta.

Có lúc, chúng ta keo kiệt, không dùng đến cục tẩy đó, khiến cho những trang giấy của “cuộc đời” đầy những nhem nhuốc, những dòng gạch,  xóa!

Ai trong chúng ta, cũng có lúc gặp phải sai lầm, và chúng ta, cũng gây ra những lỗi lầm khắc sâu trong lòng người khác.

Có người ghi nhớ để rồi mãi mãi khắc khoải vì vết thương đó! Có người đi giải quyết, và tạo lên trang giấy trống trơn, phẳng lặng, để viết lên những bài viết về cuộc đời, đặc sắc hơn, ý nghĩa hơn.

Người ta nói rằng, cuộc đời là một trang giấy trắng, và chính chúng ta sẽ quyết định viết nó như thế nào.

Khi một đứa trẻ mới vào lớp một, cô giáo không cho chúng viết bằng viết nguyên tử mà viết bằng viết chì! Vì sao?

Bởi vì, bàn tay yếu ớt của các em bé nhất định sẽ có lúc, viết những nét nguệch ngoạc, sai từ này, từ khác… Và khi đó, các em bé phải cần dùng đến cục tẩy, để tẩy đi những chữ viết chưa đúng, chưa đẹp của mình.

Chúng ta cũng vậy, không ai sinh ra, đã có thể viết lên được những bài ca về cuộc đời của chúng ta một cách chuẩn không cần chỉnh.

Có lúc, chúng ta vì vội vã mà đi sai phương hướng, dẫn đến những hậu quả khôn lường, có lúc vì chủ quan mà mắc sai lầm không thể sửa chữa.

Vậy khi mắc phải những sai lầm, thì chúng ta phải làm sao? Chúng ta ngồi trách móc bản thân, hay hứng chịu những lời trách móc của người khác? Như vậy, có giải quyết được gì không?

Lúc ấy, nếu chúng ta biết dùng cục tẩy “bốn bước”để xóa đi những sai lầm mắc phải, và làm lại từ đầu, với những bước đi thận trọng hơn. Như thế không phải là tốt hơn sao.

Bạn nên nhớ, không ai có thể trưởng thành, mà chưa một lần vấp ngã hay mắc sai lầm!

Mỗi em bé trước khi biết đi, cũng trải qua quá trình chập chững, với không ít lần vấp ngã… Đừng tự trách bản thân mình quá nhiều bạn nhé!

Cũng đừng trách móc những người khác, khiến họ cảm thấy họ kém cỏi, mất hết niềm tin vào chính bản thân họ.

Hãy biết chấp nhận sai lầm như một điều tự nhiên trong cuộc sống, để đối mặt với sai lầm và thất bại một cách nhẹ nhàng hơn.

Bạn biết đấy, cục tẩy sinh ra để xóa đi những chữ viết chưa được tròn trịa, chưa được chính xác, thì chúng ta cũng hãy dùng cục tẩy “bốn bước” của mình, để tẩy đi những sai lầm của mình và người khác mắc phải.

Đừng quá khắt khe với người khác, cũng đừng chỉ nhìn vào những sai lầm của họ mà đánh giá con người họ!

Bất kỳ ai cũng có lúc mắc phải sai lầm, quan trọng là họ biết họ sai để sửa! Còn chúng ta, đừng chỉ biết nhìn vào những sai lầm đó, mà hãy nhìn và nghĩ đến những gì họ đã cố gắng, đã nỗ lực để làm tốt công việc của họ.

Có câu chuyện về chiếc bánh bị cháy, bạn đã nghe bao giờ chưa?

Một người phụ nữ phải làm việc 8 giờ một ngày, lại còn chăm sóc gia đình, và làm hết mọi công việc của một người nội trợ.

Một ngày nọ, cô mệt nhoài với hàng tá công việc ở văn phòng, khiến cô có cảm giác như kiệt sức. Về nhà, cô còn phải dọn dẹp nhà cửa và nấu ăn cho chồng và con của cô.

Khi người chồng đón con từ trường về, cũng là lúc chị nướng xong mẻ bánh quy trong lò. Thế nhưng, vì quá mệt, nên cô đã để quên nó một lúc, khiến cho một vài cái bị cháy!

Lúc ăn tối, đứa con quan sát xem có ai nói gì về những chiếc bánh cháy đó không, nhưng chẳng có ai lên tiếng cả!

Khi dọn bát đĩa, người vợ ngỏ ý xin lỗi về những cái bánh cháy, nhưng người chồng dịu dàng nói:

Có gì mà em phải xin lỗi chứ, hơn nữa mùi vị nhưng chiếc bánh ấy rất ngon.

Người vợ mỉm cười hạnh phúc…

Khi đứa con đi ngủ, nó thì thầm hỏi cha nó: Có thật ba thích ăn bánh quy cháy không?

Người cha trả lời: Không con ạ. Nhưng hôm nay, mẹ con rất mệt, mà vẫn phải chuẩn bị bữa ăn cho cha con chúng ta. Cho nên, chúng ta không nên làm mẹ buồn. Mà con này, một vài chiếc bánh cháy, có ảnh hưởng đến ai đâu chứ! 

Thế đấy! Có bao nhiêu người, không để ý đến một vài chiếc bánh cháy trên đĩa bánh? Không nhiều lắm phải không bạn?

Cũng như vết mực đen trên tờ giấy trắng. Có lúc, chúng ta chỉ biết nhìn vào những sai lầm, khuyết điểm của người khác, để rồi lên tiếng chỉ trích, mà quên rằng họ đã cố gắng rất nhiều.

Hãy sống bao dung hơn bạn nhé! Để cục tẩy của bạn mòn dần theo năm tháng, đừng bao giờ để cục tẩy của bạn mãi mãi như mới xuất xưởng!

Bởi vì, nếu không sử dụng đến cục tẩy, cuộc đời của chúng ta, sẽ chi chít những vết gạch xóa, sau những lần mắc sai lầm.

Một tờ giấy như vậy, có đẹp đẽ gì không bạn? Hãy để nó là một tờ giấy được viết nên bởi những trãi nghiệm, những thử thách, quyết tâm và cả sự tha thứ và bao dung nữa, bạn nhé!

CỔ – KIM HOÀ ĐIỆU

album-art

00:00

TẢI MP3 – QUẢNG BẢO TÂM (HUẾ)
TẢI MP3 – DAVID NGÔ

Bạn thân mến,

Chủ đề liên quan đến con cái và cha mẹ là chủ đề bất tận, nói hoài, không bao giờ dứt. Câu chuyện hôm nay chúng tôi muốn chia xẻ với bạn, là câu chuyện về một người bạn thân của chúng tôi, khi chúng tôi có cơ hội được sống chung với gia đình của anh, và đã học hỏi được những gì.

Chúng tôi quen biết nhau khi còn rất trẻ. Anh và chúng tôi lúc đó, có cùng chung một mục đích muốn giữ gìn và phát huy nền văn hóa Việt. Cũng như, đem áp dụng đạo Phật vào trong đời sống hàng ngày.

Cuộc đời của anh, nếu muốn viết thành một phim truyện, hay một cuốn tự truyện, thì chắc sẽ hấp dẫn với người xem, và người đọc. Bởi vì, trong cách ứng xử của anh vừa khôi hài lại vừa gây cấn.

Không biết có phải vì cuộc đời của anh đã sớm học ở trường đời hơn trường học hay không, nhưng nhân sinh quan sống của anh thì rất khác lạ so với người bình thường. Anh chỉ sống với hiện tại, mà không sống với quá khứ và tương lai.

Chúng tôi với anh thì như những con chim cánh cụt, nên cứ “lông bông”, hết chỗ này đến chỗ khác. Cho nên, có những khoảng thời gian, chúng tôi không sinh hoạt chung với nhau, nhưng tình nghĩa giữa chúng tôi với anh, chưa bao giờ bị đứt đoạn.

Thế nên, khi chúng tôi có cơ hội về sống chung với gia đình của anh thì chúng tôi có nhiều thời gian hơn để ngồi hàn huyên, tâm sự.

Cái lạ trong gia đình của anh, đó là, cách anh cư xử với những đứa con của anh. Hễ nơi nào có anh ngồi, là những đứa con của anh, bu quanh anh như “ruồi gặp mật” vậy.

Chúng tíu tít đùa vui, nói cười cùng anh, giữa anh và các con của anh, hình như, không có khoảng cách giữa cha và con, mà ở đó, chỉ là những người bạn thân, luôn chia xẻ với nhau những buồn vui trong cuộc sống.

Mỗi khi cha con anh ngồi nói chuyện với nhau, thì anh thường kể cho các con của anh nghe về tuổi thơ, đi quậy làng, quậy lớp của anh. Nếu một tháng có 31 ngày, thì ba má của anh đã nhận đến 32 lời “mắng vốn” gay gắt từ xóm giềng và của các thầy cô.

Câu chuyện mà các con anh, rất “tâm đắc” hay đem ra chọc anh là “trẻ hư – bad boy” liên quan đến câu ca dao, tục ngữ, mà ai trong chúng ta cũng biết, “nhất qủy, nhì ma, thứ ba học trò” như sau:

Vì không ưa cô giáo ngoài miền bắc đã bắt phạt anh vô cớ hôm trước, cho nên, anh nhất định “trả thù” cho bằng được. Thế là ngày hôm sau, anh đã mang trái mắt mèo vào lớp, trây lên bàn và ghế của giáo viên này.

Kết quả thế nào thì chắc bạn cũng có thể hình dung ra được. Khoảng 3 phút, sau khi ngồi vào bàn để điểm danh sĩ số của học sinh, cô giáo đã gãi lia lịa ở hai cườm tay nghe sột sột. 

Ở đời, đúng là gieo nhân nào thì gặt quả đó. Cuối cùng, anh bị đuổi học, và “hân hạnh” được ngồi lại lớp sáu thêm một năm nữa.

Cái lạ là, tuy anh đem những chuyện quậy phá xóm làng, phá trường, phá lớp, hay những thói xấu của anh khi còn nhỏ, kể lại cho các con của anh nghe, thì chúng  chỉ phá ra cười. Nhưng những đứa con của anh, thì bao giờ cũng “chê” anh là “trẻ hư – bad boy”, mà chẳng bao giờ học theo những gì anh đã làm. Ngược lại, qua những câu chuyện kể xấu về anh, thì con của anh lại học được rất nhiều điều từ điều xấu ấy.

Trong khi, không ít những bậc phụ huynh khác thường “lên lớp” dạy anh rằng: anh không nên làm như vậy, vì sẽ khiến cho con cái của anh không còn kính trọng anh,  sẽ xem thường anh, và không chịu làm theo những gì anh dạy dỗ.

Anh nghe xong chỉ cười, không đáp trả. Vì, với anh, ai cũng có quyền lựa chọn cách sống của mình. Riêng anh, anh quan niệm rằng, học tốt thì dễ. Nhưng học từ những điều xấu để có thể nhận ra đó là xấu và không bao giờ làm theo điều đó, mới là khó.

Cho nên, khi anh đem những kinh nghiệm xấu của anh khi còn trẻ kể cho các con nghe, với anh, đó là cách giáo dục tốt nhất.

Bởi vì, con của anh có thể hiểu về anh nhiều hơn, gần gũi với anh hơn; và cũng qua sự gần gũi và những câu chuyện xấu đó, mà anh mới hiểu được con anh sâu sắc, nên anh có thể hướng dẫn cho con của anh những góc độ nhìn khác nhau, mà con anh chưa có kinh nghiệm.

Chinh vì quan niệm như vậy, cho nên, anh không bao giờ kể cho các con của anh nghe về những việc làm tốt của anh trong xã hội.

Mặc dù, có rất nhiều lần, chỉ vì đi giúp cho những người con lai mới qua, không biết tiếng Anh, bị ăn hiếp, mà anh đang đi làm, cũng bỏ về, để đi giúp họ, khiến anh bị khiển trách và bị đuổi việc bao lần. Nhưng hễ nơi nào, những người Việt bị ức hiếp mà cần đến anh giúp, thì dù ngày hay đêm, anh cũng đều có mặt.

Có nhiều người, cho rằng anh dễ bị lợi dụng, nhưng với anh, có lẽ, anh cũng quan niệm như chúng tôi, “Hãy làm Lợi cho người khác dụng” và anh luôn vui vẻ, khi đã giúp họ xong, thì chẳng bao giờ thấy anh phàn nàn hay than thở gì cả.

Gia đình anh thì khá đông con, nhất là trên xứ Mỹ. Anh có năm đứa con, bốn trai và một gái. Đứa lớn nhất đã gần tốt nghiệp đại học. Đứa thứ hai thì mới vào đại học, còn hai đứa thì cũng sắp sửa tốt nghiệp trung học.

Cái lạ trong gia đình của anh đó là, các con của anh lúc nhỏ, chỉ ở trong nhà, anh em chơi với nhau, mà không ra ngoài giao du với các bạn khác.

Tuy rằng, anh đã khuyến khích và tạo điều kiện cho con của anh, đi giao du với bạn bè bên ngoài, nhưng các con của anh đều cho rằng, chơi với anh em trong nhà, vui hơn là chơi với bạn khác. Cho nên, cứ đi học về là anh em lại quây quần chơi đùa với nhau.

Mặc dù, đó là lựa chọn của con anh, và anh tôn trọng điều đó, nhưng làm cha mẹ, anh vẫn cảm thấy như các con của anh đang sống “thiếu tự do”, cả ngày các con của anh chỉ quây quần bên trong bốn bức tường.

Vì vậy, những buổi chiều, lúc anh cần ngủ để lấy sức làm việc cho ca ba của anh, thì cũng là lúc mà sinh hoạt trong nhà của anh sôi động nhất.

Những tiếng cười to, hét lớn, tranh đuổi nhau, vẫn vang lên mỗi ngày. Nếu là những bậc cha mẹ khác, chắc phải “tức điên lên” và dùng quyền làm cha mẹ, để bắt chúng ngồi yên, không gây ra tiếng động.

Nhưng với anh lại khác, anh ngủ ngon lành, như đang ngủ trong thiền phòng, nơi âm thanh chỉ là những tiếng chim hót, suối reo.

Có nhiều người rất ngạc nhiên về cách anh ứng xử này, họ cho rằng, chắc anh đã đạt đến trình độ “Thỏng tay vào chợ” như 10 bức tranh chăn trâu, nhưng anh chỉ cười rồi nói:

“Làm gì có thỏng tay hay thỏng chân, chỉ vì, thấy tội nghiệp mấy đứa con, cả ngày học tập ở trường đã quá mệt mỏi rồi, nên khi về nhà, cho tụi nhỏ giảm stress một tí. Chỉ cần nghĩ như vậy là ngủ ngon lành thôi, chứ đâu có gì “đao to búa lớn” thỏng tay hay thỏng chân vào chợ”.

Có một lần, anh dành dụm được tiền, để mua cái ti-vi 55” về để hát karaoke mỗi cuối tuần với bạn bè, và cũng để cho các con của anh giải trí trong những ngày thường.

Khi đi học về, những đứa con của anh, sau khi làm bài tập xong thì chia phe đá banh trong phòng khách. Chúng hăng say tranh giành banh và đá vào cái ti-vi mới mua được vài ngày.

Cái ti-vi ngã xuống đất, vỡ toang màn ảnh. Những đứa con của anh cũng hơi sợ, nên dọn dẹp lại phòng khách, và đi vào phòng. Khi anh thức dậy chuẩn bị đi làm thì những đứa con của anh chạy ra, thấy anh đang đứng trong phòng khách, chúng xin lỗi anh, nhưng anh chỉ cười rồi nói:

Các con đâu có lỗi gì, ba mua ti-vi về, để cho các con giải khuây khi bị căng thẳng. Nay các con đã vui chơi không căng thẳng, thì đâu cần ti-vi để làm gì.

Sau đó, mấy cha con vui vẻ phụ nhau khiêng cái ti-vi bỏ ra ngoài thùng rác, mà xem như, chưa có chuyện gì xảy ra.

Vì nhà khá đông con, nên nhà anh có đến 3 chiếc xe. Cứ cuối tuần, anh lại đảo vòng vòng xem chiếc xe nào cần sửa chữa hay bảo trì. Thông thường, anh hay tự một mình làm, trừ khi xe bị hư nặng, thì anh mới cần đến con anh giúp.

Nhưng cách thức anh nhờ con anh giúp cũng rất lạ, đó là, anh chỉ nhỏ nhẹ nói với con anh, là anh cần nó giúp. Nếu con của anh tự nguyện vui vẻ ra giúp thì ra, nhưng nếu chúng không tự nguyện, không vui vẻ, và không ra giúp, thì anh cũng không bao giờ mắng hay chửi cả, anh vẫn vui vẻ ra làm tất cả những gì trong sức của anh có thể làm được.

Theo quan niệm của anh, giáo dục con cái thời nay, không phải là la hét, hay đòn, roi như ngày xưa nữa. Nhất là ở xã hội Tây phương, nơi trẻ em được giáo dục bằng phương pháp suy luận, bằng sự tự do phản biện theo chính quan điểm riêng của mình (mặc dù, chưa biết là quan điểm đó đúng hay sai?).

Nhưng sự thật đã chứng minh, trong qúa trình tiến hóa của đời sống và xã hội, thì mỗi thời đại, đều có những nét riêng và chung, những nét tương đồng và dị biệt, với những thời đại khác.

Từ thời cha mẹ cho đến thời con cái thì sự tương đồng hay dị biệt cũng đã khác nhau khá nhiều, huống hồ chi, nói đến thời ông bà và thế hệ cháu nội, hay ngoại. Rõ ràng, sự dị biệt lại “nâng cấp” hơn nhiều.

Vậy mà, ba thế hệ này, có nhiều lúc, vẫn phải sống chung trong một gia đình, và lại bắt buộc phải sống theo phong tục tập quán của người Á Đông, như thế, tránh sao khỏi những va chạm và bất đồng quan điểm.

Chẳng hạn như, nếu đứng tên góc độ của tuổi trẻ thời nay, khi đọc thơ “Lục Vân Tiên” của cụ Nguyễn Đình Chiểu, đoạn Vân Tiên cản ngăn không cho Nguyệt Nga vén rèm kiệu bước ra tạ ơn cứu nạn:

” Khoan khoan ngồi đó chớ ra,
Nàng là phận gái, ta là phận trai.”

thì tuổi trẻ bây giờ, không khỏi ôm bụng cười lăn trước cách cư xử của người xưa. Nhưng vào thời xưa, thuyết “nam nữ thọ thọ bất tương thân” là biểu hiện của sự giữ Giới của con nhà nho giáo, đáng quý trọng. Bởi vì, chính nhờ sự giữ giới này, mà xã hội ngày xưa, lại sống ít có bạo hành, tội ác hơn ngày nay.

Nhưng cái giới đó, nếu đem ứng dụng trong ngày nay thì không còn thích hợp. Vì xã hội ngày nay, đòi hỏi sự giao tiếp trực diện giữa nam và nữ, nếu không có sự giao tiếp trực diện này thì chẳng đạt được sự thành công.

Cho nên, cái đúng của thời xưa, chưa chắc đã đúng với thời nay, vì thế, đối với anh, vấn đề không phải là ai đúng hay sai, mà là, anh có biết cách giải quyết vấn đề một cách trọn vẹn hay không, mới là quan trọng nhất? Nếu chỉ vì đúng, mà gia đình tan nát, cha con xa lìa, thì đúng để làm gì?

Chính vì hiểu được điều đó, cho nên, mỗi khi cần giải quyết một vấn đề với con của anh, anh thường lắng nghe tâm tư, và diễn đạt tư tưởng của các con anh, hầu có thể tìm ra phương pháp để giải quyết vấn đề cho vẹn toàn.

Thế nên, mỗi ngày, khi gia đình ngồi quây quần ăn uống, trò chuyện, tâm tình, chia xẻ và học hỏi lẫn nhau thì các con, cháu, được phép tranh luận với cha mẹ, ông bà, nhưng cách nói phải ôn tồn lễ độ, và phải biết lắng nghe suy gẫm từ mọi phía, tìm ra chỗ đúng sai cho thật chính xác để cùng nhau học hỏi và sửa sai.

Khi đã biết thương yêu nhau đúng cách, thì sự chăm sóc, nhường nhịn sẽ có mặt, và tự nhiên mang đến hạnh phúc và an lạc trong gia đình.

Biết rằng, dù rất khó để dung hoà giữa ba thế hệ, nhưng nếu chúng ta là “bậc bề trên” mà chỉ cần chúng ta chịu “lùi bước”, bằng cách: lắng nghe, quan sát, nhìn sâu, để giảm tối đa giai cấp “gia trưởng”, và hòa đồng cùng con cháu, và nếu chúng ta có thể dung hoà được ba thế hệ, theo phương pháp “Cổ không phụ, Kim không chê” thì tự nhiên “Cổ – Kim sẽ hoà điệu”.

We use cookies in order to give you the best possible experience on our website. By continuing to use this site, you agree to our use of cookies.
Accept