THIỆN – ÁC CHỈ KHÁC NHAU TRONG MỘT NIỆM

album-art

00:00

TẢI MP3 – BICH HÀ (ĐỌC VÀ NGÂM THƠ)
TẢI MP3 – QUẢNG BẢO TÂM
TẢI MP3 – TÂM TỪ
TẢI MP3 – MỴ HẰNG

Bạn thân mến,

Nói đến thiện ác thì có phải là qúa nhàm không, vì ai trong chúng ta cũng biết thiện và ác, nhưng như thế nào mới là Thiện và như thế nào mới là ác?

Đơn giản!

  • Việc làm lợi cho người trong hiện tại và vị lai, lấy đại chúng làm tiền đề là thiện.
  • Việc làm chỉ nhằm vào lợi ích cho chính mình hiện tại, lấy tổn hại người làm tiền đề là ác.

Qua phần giải thích trên, chúng ta tương đối đã hình dung ra được THIỆN và ÁC.

Nhưng còn niềm vui khi chúng ta làm việc THIỆN và nỗi ray rức khi chúng ta làm điều sai trái sẽ như thế nào?

Mời các bạn cùng với chúng tôi bước vào hành trình THIỆN – ÁC qua câu chuyện ngắn dưới đây.

Trong một ngôi làng nọ, có một gia đình nghèo khó bần cùng, người cha vì không có tiền, thường lợi dụng ban đêm lẻn vào vườn rau nhà hàng xóm hái trộm.

Hôm đó, anh ta đưa cậu con trai đi cùng.

Khi người cha vừa mới hái một trái ngô, đứa con bỗng nhiên ở sau lưng khẽ kêu:

Cha ơi, có người nhìn thấy kìa!

Cha của cậu kinh hãi, ngó nhìn bốn phía, hoảng hốt hỏi:

Người đó ở chỗ nào?

Đứa trẻ vừa chỉ tay lên trời, vừa trả lời: Cha xem kìa, là mặt trăng đang nhìn cha đó!

Người cha nghe con trai nói vậy, anh sững sờ, cảm thấy hối hận vì hành vi của mình.

Có chút hụt hẫng, nhưng lại có chút vui mừng.

Anh lặng lẽ dắt tay con trai đi về nhà.

Dọc đường về, anh thầm nghĩ: “Trộm cắp là gây nghiệp rất lớn, có lẽ là ông trời từ bi, mượn miệng con trai để giúp mình tỉnh ngộ, từ nay phải sửa sai hướng thiện”.

Về phía chủ nhân của vườn rau, vì thường bị mất trộm, anh ta vô cùng tức giận, đêm hôm đó đã sớm núp ở phía sau để rình bắt kẻ trộm.

Anh ta nghĩ thầm: “Đêm nay, nhất định phải tóm gọn tên trộm này”.

Khi anh ta nhìn thấy có kẻ trộm lẻn vào, đang định hô hoán bắt trộm thì nghe được câu nói của đứa trẻ, anh sững người.

Dưới ánh trăng, người chủ vườn rau nhìn thấy được mặt của tên trộm, biết gia đình anh ta là gia đình nghèo khó trong thôn.

Nhìn thấy hai cha con lặng lẽ dắt nhau rời đi, anh ta cũng bất giác ngẩng đầu nhìn ánh trăng, im lặng không nói gì.

Về đến nhà, anh ta đem chuyện này kể lại với vợ.

Vợ anh nói: Mặt trăng kia chẳng phải cũng đang nhìn anh sao?

Cả đêm hôm đó, người chủ vườn rau trằn trọc không sao ngủ được.

Đến trưa hôm sau, anh ta đi tìm hai cha con người ăn trộm kia và nói:

Chào anh, nhà tôi hiện đang cần tìm thêm người làm, anh có thể nhận làm được không? Ngoài tiền công, tôi còn có thể biếu anh một ít đồ ăn để mang về nhà.

Đêm hôm đó, người cha nghèo kia nắm tay con trai, lặng lẽ ngồi ngắm trăng, bỗng đứa trẻ nói:

Cha ơi, cha nhìn xem… Là trăng đang cười kìa.

Trong lúc này ở nhà, người chủ vườn rau cũng đang cùng vợ ngồi ngắm trăng, anh mỉm cười:

Ánh trăng đêm nay thật đẹp. Mình có cảm thấy, Trăng đang cười với chúng ta không?

Ngạn ngữ có câu:

“NGƯỜI ĐANG LÀM, TRỜI ĐANG NHÌN.

THIỆN – ÁC CHỈ KHÁC NHAU TRONG MỘT NIỆM.”

BÀI THƠ:

CHA VÀ CON

Gia đình nọ rất bần hàn khốn khó

Một đêm kia, dắt con nhỏ đi cùng

Lén vào vườn trộm ngô, mãi tay run

Bỗng đứa bé nhẹ nhàng lên tiếng nói

Kìa cha ơi, có người đang nhìn đó.

Tít trên cao ông trăng cứ soi vào

Cả người cha lộng sáng dưới ánh sao…

Trời đất biết, cha và con cùng thấy…”

Cha kinh hãi, giật thót người. Phải vậy không?

Sẽ gây ra nghiệp lớn, khởi từ đây

Ngộ tính “KHÔNG”, “TÂM” thiện tỏ bày

Từ nay cố sửa sai mà hướng thiện…

CHỦ VƯỜN

Lành làm gáo, vỡ làm muôi, quyết liệt

Truy cho ra ai là kẻ trộm đồ

Khổ rồi nhé! Tên trộm ngô không may mắn

Chợt sững lại… “Có ai nhìn ta vậy?”

Trời trên cao cũng đang nhìn ta đó

Bởi từ bi tự sẵn có ở lòng ta

Rộng vòng tay quyện sáng với trăng ngà

Mời họ đến việc nhà ta chia xẻ.

HỌ VỚI NHAU

Thượng tuần đêm, con nhìn cha khẽ nói:

Có ông trăng đang cong khóe miệng cười

Và chủ vườn cùng mĩm cười ngắm nguyệt

Trăng tủm tỉm sáng ngời đôi mắt vợ.

6 GIAI ĐOẠN TỈNH THỨC

album-art

00:00

TẢI MP3 – VIÊN NGUYỆT
TẢI MP3 – DIỆU LIÊN

Bạn Thân Mến,

Trong những ngày qua, chúng tôi có nhận một số điện thư của một số độc giả, sau khi đọc qua những tập Mỗi Ngày Một Chuyện, có những thắc mắc gởi về. Chủ đề hôm nay chúng tôi muốn chia xẻ với bạn về những câu hỏi qua điện thư như sau:

Chào Anh,

Không biết vì nhân duyên nào đó đẩy đưa, mà em được đọc những tập Mỗi Ngày Một Chuyện của anh và chị chia xẻ. Càng đọc thì em lại thấy sao quen quen, mà cũng rất xa lạ.

Quen vì nó gần gủi như hình với bóng, nó thật như những gì đang xẩy ra trong cuộc sống hiện tại, nhưng cũng rất xa lạ, vì những gì anh chị chia xẻ, thì hoàn toàn mới lạ, hoàn toàn khác với những gì em đã học trước đây.

Em cảm thấy rất phân vân, không biết đâu mới là sự thật. Chẳng hạn như, khi em học về tỉnh thức thì có 6 giai đoạn như:

  1. Lập trình
  2. Giác ngộ ban đầu
  3. Tỉnh thức – sáng suốt
  4. Gỡ nghiệp
  5. Sụp đổ
  6. An Lạc và thấm nhuần An Lạc

Nhưng trong Mỗi Ngày Một Chuyện, em chưa thấy anh hay chị chia xẻ về từng giai đoạn, nên em không biết đâu mới là đúng để thực hành.

Nếu anh hay chị có chút thời gian, xin vui lòng chỉ dẫn cho em, để em có thể hiểu rõ, và thực hành trong đời sống hàng ngày.

Rất cám ơn anh chị đã chia xẻ những kinh nghiệm quý báu của anh chị, và xin chúc anh chị một ngày an lành.

Thân Kính

K.

Chào Bạn K,

Rất cám ơn bạn đã bỏ thời gian để đọc những chia xẻ của chúng tôi. Qua thư của bạn, chúng tôi cũng xin hồi đáp lại bạn một số kinh nghiệm của chúng tôi trong qúa trình tĩnh thức và tỉnh thức.

Chúng tôi thì chưa nghe qua về 6 bước tỉnh thức này, nên không biết nội dung như thế nào. Nếu đứng trên góc độ của kiến thức thì sự phân chia đó cũng rất chuẩn.

Bởi vì, nếu muốn hướng dẫn cho người khác, thì chúng ta phải có phương pháp, nghĩa là, phải phân chia ra từng phần một thì người thực tập mới biết để làm theo.

Nhưng đứng trên góc độ của nhận thức hay trải nghiệm của một cá thể, đi từ bản ngã về bản thể, thì có thể sẽ tạo ra vấn đề. Vấn đề gì đây? Vấn đề là, chúng ta sẽ chấp vào những bước, sẽ thỏa mãn với những tầng lớp, hay phương pháp mà chúng ta đặt ra.

Thí dụ, trong phương pháp của bạn có 6 bước, thì bước đầu tiên là lập trình, bước thứ hai là giác ngộ ban đầu, v.v.

Chúng tôi không biết diễn giả dùng từ “lập trình” ở đây là gì, có thể, đó là những niềm tin mà chúng ta đã tích lũy bấy lâu, mà chưa được kiểm chứng. Chính những niềm tin này là chỗ dựa của Ngã Thức để hành xử trong cuộc đời.

Vì niềm tin chưa được kiểm chứng, đa phần đều là những sản phẩm từ sự phỏng đoán hay tưởng tượng của Ý Thức. Cho nên, niềm tin của chúng ta mới không nhìn đúng với sự thật. Vì vậy, khi chúng ta dựa trên niềm tin đó, chúng ta hay rơi vào những quyết định sai lầm, và từ đó tạo ra những khổ đau trong cuộc sống.

Nếu chúng ta khi tiếp nhận những sự khổ đau, và biết cách đi giải quyết những sự khổ đau đó, một cách rốt ráo, thì chúng ta sẽ có được sự bình an. Sự bình an này có thể dài bao nhiêu, thì tùy thuộc vào mỗi chúng ta có đặt bình an là mục đích sống của chúng ta hay không?

Nếu chúng ta không đặt an làm mục đích sống của chúng ta, thì sau khi chúng ta giải quyết được một vấn đề xong, và có an, thì khi vấn đề khác đến, mà chúng ta lại trốn chạy, hay đè nén, thì cho dù, chúng ta có giải quyết vấn đề kia một cách rốt ráo, cũng không đem đến cho chúng ta được an lâu dài như chúng ta nghĩ.

Sự thật, trong cuộc sống của chúng ta, có muôn ngàn vấn đề mà chúng ta phải đương đầu liên tục, chứ không phải chúng ta chỉ có một vấn đề.

Dĩ nhiên, nếu chúng ta chỉ có một vấn đề để giải quyết, thì khi giải quyết vấn đề đó một cách triệt để, chúng ta sẽ có an liên tục hay an tuyệt đối là chuyện đương nhiên.

Vì vậy, nên diễn giả mới cho rằng, có bước giác ngộ ban đầu. Có nghĩa là, khi chúng ta chấp nhận chúng ta có vấn đề, thì chúng ta mới bắt đầu đặt những câu hỏi để tìm lại chính mình.

Có thể, đối với diễn giả, khi đang sống quay cuồng trong đau khổ, nhưng đột nhiên, chúng ta dừng lại, và sau đó, đặt câu hỏi cho chính chúng ta, khiến chúng ta phải suy nghĩ đến những nhận thức sai lầm của chúng ta.

Chúng tôi thật không hiểu rõ định nghĩa của bốn chữ “Giác Ngộ ban đầu” ở đây là gì, nếu dựa trên qúa trình, thì chúng tôi tạm diễn dịch là qúa trình nhận dạng.

Quá trình nhận dạng là quá trình qua sự trải nghiệm của khổ đau, mới phát hiện ra sự khổ đau đang có mặt, và đang tàn phá cuộc đời của chúng ta, và chúng ta không muốn điều đó xẩy ra cho chúng ta nữa, nên chúng ta muốn đi tìm ra phương pháp để giải thoát.

Chính vì, có quyết tâm đi tìm con đường giải thoát, cho nên, chúng ta, thay vì, cứ quay cuồng theo khổ đau, thì chúng ta dừng lại, và bắt đầu tập quan sát và nhìn sâu vào vấn đề. Chính vì có quan sát và nhìn sâu, nên chúng ta có thể biết được nguyên nhân tạo ra vấn đề.

Bốn chữ “tỉnh thức – sáng suốt” của diễn giả ở đây, có thể đang muốn diễn đạt cách tìm ra gốc rễ của vấn đề, và sau đó, đi giải quyết vấn đề qua hai chữ “gỡ nghiệp”.

Chúng tôi thật sự cũng không hiểu được định nghĩa chữ “nghiệp” của diễn giả là gì, nên không thể diễn giải được.

Sau khi đã “gỡ nghiệp” rồi, thì đến “sụp đổ”. Chúng tôi cũng không biết sẽ “sụp đổ” cái gì. Có thể là, sự sụp đổ những nhận thức sai lầm trong qúa khứ, mà chúng ta đã tin theo, mà không qua kiểm chứng.

Nhưng vì, nay qua quá trình kiểm chứng, thực chứng, thì chúng ta biết được niềm tin đó hoàn toàn sai sự thật. Cho nên, niềm tin đó sụp đổ, và được thay thế bằng một niềm tin mới chăng?

Dĩ nhiên, khi chúng ta đã giải quyết vấn đề một cách rốt ráo, và trong Ngã Thức của chúng ta không còn bất cứ một sự lo âu, phiền não, hay khổ đau nào, thì chúng ta có được an và sau an là lạc.

Còn việc, “thấm nhuần An Lạc” thì chúng tôi cũng không hiểu định nghĩa hai chữ “thấm nhuần” là gì, nên không biết diễn giả đang muốn diễn đạt vào phần nào.

Nếu đứng trên góc độ đi từ bản ngã về bản thể thì 6 bước mà bạn học, cũng có thể gọi là những phương pháp để giúp cho bạn nhận ra được lộ trình của bạn đang đi. Đó gọi là cái lợi, nhưng cái hại là, nếu bạn dựa vào lộ trình này mà tu tập hay để nâng cấp trình độ, thì bạn sẽ không có khả năng để tiếp cận với bản thể.

Một cá nhân thật sự muốn đi từ bản ngã đến bản thể, thì phải tự trải nghiệm, chứ không thể nương tựa trên bất cứ phương pháp nào. Đây là sự khác biệt đầu tiên giữa kiến thức và nhận thức.

Đứng trên góc độ của kiến thức, thì chúng ta phải phân chia thành từng giai đoạn, bởi vì, giai đoạn này là nền tảng căn bản cho giai đoạn kia.

Thí dụ, bạn muốn giải được phương trình bậc hai thì bạn phải có căn bản về bốn phép tính: cộng trừ, nhân, chia. Nếu bạn không có căn bản, và không thật sự hiểu rõ về bốn phép tính trên, thì bạn không thể nào học được cách giải phương trình bậc hai.

Cho nên, khi đứng trên góc độ về kiến thức, sự phân chia giai đoạn, hay những phương pháp từ cơ bản đến cao cấp, là việc làm rất cần thiết. Bởi vì, nếu không có sự phân chia này, chúng ta sẽ bị choáng ngợp trước một rừng kiến thức trộn lộn vào nhau.

Nhưng đứng trên góc độ về nhận thức, thì sự phân chia giai đoạn, hay nâng cấp trình độ, lại hoàn toàn không thể áp dụng.

Thí dụ, khi bạn nhìn con chó và chúng tôi hỏi bạn, bạn đang nhìn con gì đó? Bạn chỉ có thể trả lời là bạn đang nhìn con chó, chứ bạn không thể trả lời là, tôi đang nhìn con gì đó, mà có tai giống con chó, vì tôi chỉ mới học để nhận dạng được đó là tai con chó.

Trong nhận thức thì rất đơn giản và rõ ràng, một là bạn nhận ra sự thật, hai là bạn không nhận ra sự thật, chứ không có giai đoạn trung trung ở chính giữa, là tôi nhìn được một nửa sự thật, hay hai phần ba sự thật.

Cho nên, trong nhận thức, nhất là nhận thức về sự thật của một cá thể, đi từ bản ngã đến bản thể, người đó không thể nương tựa trên bất cứ phương pháp nào, hay của bất cứ một người trải nghiệm nào, mà cá thể đó, phải tự chính mình đi kiểm nghiệm và thực nghiệm trên chính bản thân mình.

Chúng ta, chỉ nên dùng những phương pháp hay kinh nghiệm, trải nghiệm của người khác để chứng nghiệm khi chúng ta đã tiếp xúc được với sự thật.

Mỗi Ngày Một Chuyện không phải là những chia xẻ về quá trình đi từ bản ngã về bản thể, vì chúng tôi biết được rằng, mỗi cá nhân đều có những kinh nghiệm, và cách diễn dịch định nghĩa riêng.

Cho nên, chỉ có chính người đó, mới tìm ra phương pháp thích hợp nhất cho người đó. Ngoài người đó ra, không ai có thể có phương pháp nào đúng nhất cho người đó.

Dĩ nhiên, chúng ta có quyền tham khảo những kinh nghiệm hay trải nghiệm của người khác, nhưng đó, chỉ là những thông tin, mà không phải niềm tin, hay sự thật, mà chúng ta đặt vào.

Phần lớn ngày nay, khi chúng ta học một điều gì từ ai đó, thì chúng ta hay sử dụng những phương pháp được phân chia theo kiến thức, mà không phải là nhận thức.

Cho nên, chúng ta phí rất nhiều thời gian để trải qua nhiều giai đoạn. Mỗi một giai đoạn chúng ta trải qua, chúng ta đặt cho nó một giá trị, và chúng ta tự hào về những giá trị mà chúng ta đã trải qua.

Chúng ta không biết được rằng, khi chúng ta chấp vào những giai đoạn chúng ta đã trải qua, thì chúng ta đang tạo ra những rào cản, không cho chúng ta tiếp xúc với sự thật.

Không ít những người trong chúng ta, thay vì, đi tiếp tới sự thật, thì chúng ta dừng lại nơi những thành quả đó, và phóng tưởng đó chính là sự thật.

Chúng ta càng học nhiều bao nhiêu thì ý thức của chúng ta càng phân tích rộng bấy nhiêu, và Ngã Thức của chúng ta càng trở nên tinh vi bấy nhiêu.

Khi Ngã Thức trở nên tinh vi bao nhiêu thì Ngã Thức của chúng ta sẽ tiếp tục củng cố thành trì của Ngã Thức thêm kiên cố bấy nhiêu.

Cho nên, khi ngã thức của chúng ta đã xây vững thành trì, thì cuộc đời của chúng ta sẽ bị giam cầm trong thành trì đó suốt đời, khó mà thoát ra được.

Trong Mỗi Ngày Một Chuyện, sở dĩ, chúng tôi không đưa ra những phương pháp hướng dẫn bạn đi từ bản ngã về bản thể, có vài lý do, như sau:

  • Mỗi người trong chúng ta, nếu muốn đi đến bản thể của mình, thì phải tự đi bằng chính đôi chân của mình, mà không thể sử dụng đôi chân của người khác.
  • Chỉ khi, đi bằng chính đôi chân của chúng ta, chúng ta mới biết đích chúng ta muốn tới là gì, và chỉ như thế, chúng ta mới kiên trì để đi đến cùng, mà không bỏ cuộc nửa chừng.
  • Đã có quá nhiều diễn giả chia xẻ kinh nghiệm, hay trải nghiệm, trên qúa trình đi từ bản ngã về bản thể, cho nên nếu có thêm phần chia xẻ của chúng tôi hay không thì cũng không cần thiết.
  • Trong khi, qúa trình ứng dụng của dụng nghiệm (đi từ bản thể về lại bản ngã) thì lại có rất ít diễn giả chia xẻ.

Cho nên, Mỗi Ngày Một Chuyện chỉ tập trung chia xẻ với bạn, những gì chúng tôi đang học và hành trong đời sống hàng ngày, để kéo dài An, hơn là, chia xẻ những phương pháp giúp bạn tiếp xúc với bản thể của bạn.

Đi tìm về bản thể của chính mình, là một hành trình dài hay ngắn, tùy theo kinh nghiệm tích lũy của mỗi người. Nói đến việc đi từ bản ngã tới bản thể, thì Thiền là một trong những phương pháp khá độc đáo.

Đây là câu chuyện đã xẩy ra với chúng tôi khoảng hơn ba mươi năm về trước, khi có một bậc thức giả đến để tham vấn về Thiền.

Khi vị thức giả đến gặp chúng tôi hỏi “Tâm là gì?” chúng tôi nói: Xin ngài đặt câu hỏi, rồi tự trả lời. Sau đó, chúng tôi xin góp ý.

Thức giả: Tâm?

Thức giả trả lời: Âm

Góp ý: Trầm

Thức giả: Tâm?

Thức giả trả lời: Lâm

Góp ý: Lầm

Thức giả: Tâm?

Thức giả trả lời: Câm

Góp ý: Cầm

Một người khách khác ngồi ngoài, nghe đối thoại bổng thốt:

HÂM

Nếu chúng tôi dừng lại câu chuyện ở đây, thì sẽ khiến cho rất nhiều bạn sẽ “điên đầu” để hiểu cuộc đối thoại của chúng tôi với vị thức giả kia là gì.

Nhưng nếu bạn đọc tiếp những lời giải thích của chúng tôi thì bạn sẽ thấy, cũng không có gì là “bí hiểm” lắm.

Ngày xưa, những người khao khát học đạo, đến gặp thiền sư, chỉ mong duy nhất có một điều, đó là, được thiền sư điểm đạo.

Khi họ đến, họ mang theo những kiến thức, những tư tưởng, suy nghĩ, so sánh của riêng mình, và cho đó là đúng nhất.

Nên trong sách thiền, gọi họ là thức giả, nghĩa là, những người chỉ biết lý thuyết, mà không bao giờ biết thực hành. Trái với thức giả, là Tuệ giả, người giỏi cả lý thuyết lẫn thực hành.

Câu chuyện bắt đầu khi vị thức giả hỏi tâm là gì, và ông thao thao bất tuyệt, chứng minh hết sách này đến sách kia, để chứng minh là ông biết thế nào là Tâm. Ông dùng âm thanh để diễn tả nên có chữ “Âm”.

Sau khi, nghe xong vị thức giả trình bầy, chúng tôi mới góp ý bằng chữ “Trầm”, có nghĩa là, hôn trầm = u mê.

Vị thức giả, sau khi nghe, và biết mình chưa chuẩn, nên tiếp tục lý luận.

Nếu không thể dùng âm để giải được tâm thì người tu đạo phải lên rừng (Lâm) để tu tập. Vì thế gian này, ô trọc qúa, không xứng đáng để ở lại, tìm tâm.

Nghe xong, chúng tôi mới góp ý, bằng chữ “Lầm”, vì Tâm vốn ở khắp mọi nơi, chứ chẳng phải cứ lên rừng ở, mới có Tâm, còn ở giữa chợ thì không có Tâm.

Sau khi nghe chúng tôi góp ý, vị thức giả cũng hỏi Tâm là gì? nhưng không dùng kiến thức để lý luận so đo nữa, ông Câm = im lặng, và nhìn sâu vào trong tâm thức của mình, và nhận diện được Tâm ở khắp nơi.

Trạng thái im lặng và nhìn sâu vào nội tâm của người thức giả này, đã tự mình trả lời được câu hỏi tâm là gì, nên chúng tôi mới góp ý bằng chữ “Cầm”.

Chữ “Cầm” ở đây, có nghĩa là, chúng tôi đã trao cho người thức giả chiếc chià khoá, để mở ra cánh cửa Tâm. Trong Thiền học, gọi đó là “trao truyền tâm ấn”.

Có một người khách khác, mà người này không bao giờ khát khao tìm đạo, nên khi chứng kiến hành động đối đáp của vị thức giả với chúng tôi, thì cho là Hâm = khùng.

Chúng tôi ghi lại bài thơ này để diễn tả về các trạng thái tâm lý của ba nhân vật thức giả, chúng tôi và người khách khác.

Cùng một vấn đề, mà 3 người suy nghĩ khác nhau, và đều đưa ra ba trạng thái kết quả khác nhau.

Tuy cả ba đều là Tâm, nhưng Tâm bất tận không cùng. Khi tâm ở người thì là tâm người. Khi Tâm ở thú thì thành tâm thú, và khi ở hoa thì thành tâm hoa.

Nên mới có câu: “một là tất cả – tất cả là một” là vậy. Người thức giả thì phân chia tâm ra có cao, có thấp, có tử, có sinh, rồi đắm chìm trong so đo, mà bó tâm lại cho riêng mình. Nên khi thấy mất đi thì tiếc, lấy được thì mừng.

Ngược lại, người thực nghiệm và dụng nghiệm vì bìết tâm ở khắp mọi nơi, nên sống hay chết, mất hay được, cũng là chuyện tự nhiên, như hoa và rác.

Phân rác không vì mình có mùi hôi mà coi thường mình, ngược lại, vẫn toàn tâm toàn ý, biến thành những chất dinh dưỡng để nuôi hoa.

Hoa cũng không vì mình có hương sắc mà dám coi thường phân rác, vì hoa biết, ngày mai kia, mình cũng sẽ là phân rác, để tiếp tục cống hiến dinh dưỡng cho những bông hoa kế tiếp.

Thiền là thế. Không phải dùng kiến thức để tranh luận, so đo để nhận ra thực tại, mà dùng sự nhìn sâu để biết được mình.

Nhưng với ngày nay, Thiền lại khác. Có muôn ngàn cách trình bầy, hướng dẫn. Mục đích cuối cùng thì cũng giống nhau, nghĩa là tiếp cận được với bản thể.

Cho nên, nếu bạn cần một lời góp ý, thì chúng tôi chỉ xin góp ý với bạn là, bạn hãy tự mình thắp đuốc mà đi. Vậy bạn sẽ thắp đuốc như thế nào?

Có vài điều bạn có thể suy ngẫm:

  • Hãy tìm hiểu kỹ càng về định nghĩa của bạn, nhất là những định nghĩa liên quan đến cảm xúc/giác
  • Hãy xác định lại mục đích sống của bạn có phải là an lạc và hạnh phúc không, và nếu bạn có mục đích an thì mục đích đó là dài hạn hay ngắn hạn?
  • Dù bạn lựa chọn phương pháp nào để đi theo, thì bạn phải đem điều bạn học, áp dụng vào trong thực hành, chứ đừng có học, hay ôm đồm cả đống phương pháp, mà bạn không thực hành gì cả.
  • Khi học bất cứ một phương pháp nào thì bạn chỉ xem những bài học đó là những thông tin, và bạn cần phải đi kiểm nghiệm, thực nghiệm và chứng nghiệm.
  • Sau khi, trải qua ba qúa trình trên, mà kết quả ra đúng với những bài học mà bạn học, thì lúc đó bạn mới tin. Bạn chỉ nên tin vào kết quả, qua sự kiểm nghiệm, thực nghiệm và chứng nghiệm trên bản thân của bạn.
  • Sau đó, bạn phải thực tập liên tục phương pháp mà bạn đã trải nghiệm để trở thành một thói quen, và bạn sẽ sử dụng thói quen này, trong sự sinh hoạt của bạn với những người chung quanh bạn.

Nếu bạn có thể làm được những điều nêu trên, thì bạn có thể tiếp xúc với bản thể, hay sự thật, cũng không có gì là khó khăn lắm.

Đuốc thì đã có trong tay của bạn, mồi lửa thì cũng có sẵn trong tay của bạn, bạn có muốn thắp đuốc cho bạn đi hay không thì chỉ có bạn mới biết, bạn thật sự cần hay không cần ánh sáng mà thôi.

Mong thay, với sự thực hành nghiêm túc của bạn, bạn sẽ sớm tiếp xúc được với bản thể của bạn.

Thật mong lắm thay.

TIÊU CHUẨN KÉP

album-art

00:00

TẢI MP3 – QUẢNG BẢO TÂM (HUẾ)
TẢI MP3 – MỴ HẰNG

Bạn Thân Mến,

Chắc không ai trong chúng ta lạ gì ba chữ “tiêu chuẩn kép”, Vì sao? Bởi vì, chúng ta sử dụng ba chữ này, quá nhiều lần trong cuộc đời. Nhưng tại sao chúng ta lại thích dùng tiêu chuẩn kép hơn tiêu chuẩn đơn, là chủ đề hôm nay chúng tôi muốn chia xẻ với bạn.

Định nghĩa của hai chữ tiêu chuẩn là căn cứ, đúng, hay mẫu dùng để đo lường, cân nhắc sự vật, hay việc; và kép là đôi, cặp, hay ghép vào.

Như vậy, tiêu chuẩn kép là một mẫu mực đúng được ghép vào với một tiêu chuẩn khác, mà tiêu chuẩn thứ hai lại thường khác với tiêu chuẩn đầu tiên.

Một người vợ đi mua sắm, thấy chiếc ví đắt tiền rất thích, nên quyết định mua chiếc ví đó. Người chồng đi kế bên, thấy vợ mua chiếc ví, nên cũng chọn cho mình một chiếc cà vạt. Nhưng khi ra trả tiền, người vợ lại lấy chiếc cà vạt của chồng bỏ ra, và chỉ trả tiền chiếc ví mà người vợ chọn.

Trên đường lái xe về nhà, người chồng bất mãn lên tiếng:

“Sao lúc nẫy em không mua luôn cái cà vạt cho anh.”

Người vợ trả lời: Anh còn có cả đống cà vạt ở nhà, sao không đeo, mà mua chi cho tốn tiền, trong khi tài chánh của chúng ta cũng đang eo hẹp.

Người chồng nghe xong ấm ức, nhưng không nói. Anh không phục, vì vợ của anh cũng có cả đống ví, đang để trong tủ quần áo, mà vợ anh có dùng đâu, sao lại đi mua cái mới.

Hơn nữa, giá tiền của cái ví, đắt hơn gấp chục lần cái ca vạt, nếu là tài chính eo hẹp, thì vợ của anh nên mua cái cà vạt, ít tiền hơn để tiết kiệm, chứ sao lại mua chiếc ví đắt tiền hơn, rồi lại cho rằng, vì tài chính eo hẹp, nên không thể mua cái cà vạt cho anh.

Cách ứng xử của người vợ với người chồng trong câu chuyện trên, chúng ta gọi là tiêu chuẩn kép. Có nghĩa là, khi chị mua sắm thì được, nhưng khi chồng chị mua sắm thì không được.

Hay qua quan sát và nhìn sâu, chúng ta thấy, tuy cùng làm một việc, nhưng với mình thì đó là đúng, còn với người khác thì lại là sai.

Trong khi tiêu chuẩn đơn, có nghĩa là, nếu đúng với mình thì đúng với người, mà hễ sai với mình thì sai với người. Trong tiêu chuẩn đơn không có sự tham gia của ngụy biện, bào chữa, mà chỉ có một nguyên tắc để tuân theo làm chuẩn mực.

Vậy tại sao chúng ta lại thích sử dụng tiêu chuẩn kép? Bởi vì, khi sử dụng tiêu chuẩn kép chúng ta có thể thõa mãn cho sự ham muốn của chúng ta một cách dễ dàng.

Như câu chuyện nêu trên, nếu người vợ sử dụng tiêu chuẩn đơn, nghĩa là, chị có quyền mua sắm, thì chồng chị cũng có quyền mua sắm.

Nếu chị cảm thấy tài chính gia đình của chị bị eo hẹp thì chị

cũng không nên mua chiếc ví đắt tiền để làm gì, mà chị nên sử dụng những chiếc ví mà chị đã mua và cất trong tủ quần áo ra để xài. Như vậy mới là tiết kiệm.

Nhưng ở đây, chị lại cho chị cái quyền, mua những gì chị thích. Chị muốn thỏa mãn cho Ngã Thức của chị, mà không hề quan tâm đến sự thỏa mãn về Ngã Thức của chồng chị.

Chị đã không ý thức được rằng, khi chị bắt đầu sử dụng tiêu chuẩn kép, cũng có nghĩa là, chị đang “rước” khổ đau vào trong gia đình của chị.

Sự ấm ức và không phục của chồng chị, có thể tùy theo định nghĩa mà anh diễn dịch về sự chịu đựng, yêu thương, như thế nào.

Nếu chỉ một lần thì không sao, vì nguồn năng lượng bất mãn còn nhỏ, nhưng nếu cứ tiếp tục lập đi lập lại, thì nguồn năng lượng kia sẽ được tích tụ lại, và khi nguồn năng lượng đó kết hợp với những nguồn năng lượng khác như: giận, tức, bực, và trở thành nguồn năng lượng không tên, khống chế Ngã Thức, thì lúc đó sự bùng nổ, tan vỡ, sẽ trở nên tàn bạo và khốc liệt hơn.

Một đám cháy rừng, không phải bắt đầu bằng một sự đốm lửa lớn, mà bắt đầu sự nhem nhúm từ một mồi thuốc lá vô tình.

Phần đông chúng ta cứ qúa ỷ y là chúng ta hiểu người kia rất rõ ràng, cho nên, chúng ta cho phép chúng ta sử dụng tiêu chuẩn kép, mà bắt người kia phải sử dụng tiêu chuẩn đơn.

Nếu có ai đụng chạm đến tiêu chuẩn kép của chúng ta thì

chúng ta sẽ “xù lông” như con nhím, để sẵn sàng làm tổn thương đối phương. Nhưng cũng thật là lạ, nếu ai đó dùng tiêu chuẩn kép, và ép chúng ta phải dùng tiêu chuẩn đơn, thì chúng ta cũng “xù lông” chống trả không kém.

Nghĩa là, chúng ta không chấp nhận chúng ta bị người khác ép chúng ta dùng tiêu chuẩn đơn, nhưng chúng ta lại muốn dùng tiêu chuẩn kép với mình, và bắt người khác phải dùng tiêu chuẩn đơn, và người đó không có quyền phản kháng hay “xù lông” chống lại mình.

Chúng ta đang sống trong thế giới của tương đối, nhưng cách hành xử của chúng ta ứng dụng lại là tuyệt đối. Chính vì vậy, chúng ta không những đã tạo ra khổ đau cho chính chúng ta, mà chúng ta cũng đang tạo ra biết bao khổ đau cho những người chung quanh chúng ta.

Chúng ta thích nói về lòng từ bi, lòng yêu thương, lòng lân mẫn, nhưng trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, chúng ta lại luôn sử dụng tiêu chuẩn kép, chúng ta luôn tạo ra những khổ đau cho mình và cho người.

Vậy thì, những chất liệu như từ bi, yêu thương kia có “đất” đâu mà lớn mạnh, trong khi, những chất liệu khổ đau do chính chúng ta, cứ tiếp tục tích lũy, qua cách ứng xử tiêu chuẩn kép của chúng ta mỗi ngày; và tệ hại hơn, những khổ đau mà chúng ta trao tặng cho người khác, họ cũng “đáp lễ” lại cho chúng ta, đâu có kém hơn chút nào.

Chính vì vậy, cuộc sống của chúng ta luôn “đón nhận” hai nguồn năng lượng của khổ đau. Một do chính chúng ta tạo ra, và hai, khổ đau của người khác vẫn tiếp tục hiến tặng chúng ta mỗi ngày.

Khi sự khổ đau trong chúng ta được tích tụ và lớn mạnh, chúng ta không thể đối đầu, thì chúng ta lại tìm cách trốn chạy, hay tìm cách đè nén, và một trong những cách chúng ta hay sử dụng nhiều nhất, đó là: đổ lỗi cho người.

Cuộc đời của chúng ta, nếu cứ tiếp tục vướng vào sự trốn chạy, đè nén, và đổ lỗi cho người, thì chúng ta sẽ sống trong khổ đau phiền não triền miên, đâu có gì là lạ.

Có một chị, trước những ngày bầu cử của tổng thống Mỹ, chị chọn lựa vị tổng thống đương nhiệm, và cho rằng, vị ứng cử viên tổng thống không xứng đáng.

Thế nên, chị đã cùng với nhóm của chị tuần hành mỗi cuối tuần để đi vận động cho vị tổng thống, mà đối với chị là vĩ đại nhất.

Dĩ nhiên, chúng ta đang sống trong thế giới của tương đối, nếu chị ủng hộ người này, thì cũng có những người khác ủng hộ người kia. Thế là đôi bên biến thành hai chiến tuyến, đi công kích và nói xấu lẫn nhau. Họ bàn luận sôi nổi, và tin tưởng rằng, vị tổng thống đương nhiệm nhất định sẽ thắng cử.

Không may cho vị tổng thống đương nhiệm là, trong lúc ông đang điều hành quốc gia, thì nước Mỹ lại rơi vào trận đại dịch lớn trên toàn cầu.

Có lẽ, vì thiếu kinh nghiệm đương đầu với đại dịch, cho nên, vị tổng thống đương nhiệm đã đưa ra những nhận xét thiếu chính xác về đại dịch, nên đã khiến cho rất nhiều con dân của ông đã chết trong cơn đại dịch.

Khi được phỏng vấn trên các đài ti-vi và báo chí, người ta hỏi ông, tại sao lại đưa ra những thông tin hay nhận xét không đúng với sự thật về đại dịch.

Ông đã trả lời: vì ông không muốn quần chúng lo sợ về dịch nên ông đã dùng những thông tin trên để “trấn an” quần chúng. Đối với ông, ông không tin có con vi khuẩn tạo ra đại dịch.

Không may cho ông, sau đó, chính ông lại là người bị con vi khuẩn mà ông không tin đó “thâm nhập” vào trong cơ thể của ông. Với một đội ngũ Y khoa giỏi, chuyện ông vượt qua sinh tử cũng khá dễ dàng.

Chỉ khoảng hai tuần chữa trị, thì ông đã bình phục, và tiếp tục cuộc vận động tranh cử cho chức vụ tổng thống nhiệm kỳ hai của ông.

Mặc dù, ông được sự ủng hộ khá đông của quần chúng, nhưng vì số người chết vì đại dịch qúa nhiều, nên kết quả cuối cùng, ông thất cử, và vị ứng cử viên thổng thống, chính thức trở thành tổng thống.

Khi vị tổng thống mà chị yêu quý và kính phục bị thất cử thì chị rất đau buồn, nên chị cùng nhóm của chị quyết định, chống lại vị tổng thống mới đến cùng.

Khi vừa nắm quyền tổng thống, thì vị tổng thống mới đã dồn mọi nguồn năng lực của quốc gia cho việc chống dịch. May cho ông, lúc đó, đã có những viện bào chế tìm ra được vắc xin (vaccine) chống dịch.

Tuy vị tổng thống mà chị yêu quý không kêu gọi trực tiếp, là không nên chích vắc xin, nhưng trong những thông điệp

của ông thì gián tiếp nhắc đến điều đó. Cho nên, phần lớn những người ủng hộ vị cựu tổng thống, nhất định không chịu chích vắc xin (vaccine), mặc dù, chích ngừa hoàn toàn miễn phí.

Cũng xui cho chị, là chị bị trúng dịch, cho nên, cả chị và gia đình chị phải đi chích ngừa. Tuy vậy, chị vẫn không tin là con vi khuẩn có thật, mà chỉ do chính quyền đặt ra để khống chế quần chúng.

Vài tháng sau, đứa con của chị sống ở tiểu bang khác gọi cho chị, và báo sẽ về thăm chị, vì tiểu bang nơi con chị sinh sống, là tiểu bang ủng hộ vì cựu tổng thống, nên không chịu chích ngừa. Vì thế, nên anh và vợ của anh, không thể đi làm được.

Khi gọi điện thoại cho chúng tôi, chị lên án những người không chịu chích ngừa, nên mới ảnh hưởng đến sự nghiệp con và dâu của chị. Chị gọi những người không đi chích ngừa, tin vào vị cựu tổng thống, là nhưng kẻ “cực đoan”, trong khi, ngày xưa, khi đối lập với nhóm khác, họ gọi chị là “cực đoan”, thì chị lại cho chị là chính nghĩa.

Nhưng lạ thay, nay, cũng với những người “trung thành” với vị cựu tổng thống như chị lúc xưa, khi ảnh hưởng đến gia đình của chị, lại biến thành kẻ “cực đoan” trong suy nghĩ của chị.

Những câu chuyện về tiêu chuẩn kép chúng ta gặp trong đời, nếu có thể ghi chép lại, có thể thành một thư viện khổng lồ, vì ai trong chúng ta, không ít thì nhiều, cũng đều sử dụng tiêu chuẩn kép trong cuộc đời của mình.

Chúng tôi cũng như bạn cũng đã từng sử dụng tiêu chuẩn kép trong cuộc đời của chúng tôi. Nhưng từ ngày chúng tôi bắt đầu sử dụng sự quan sát và nhìn sâu, để thấy được những hậu quả mà tiêu chuẩn kép đã để lại cho chúng tôi, thì chúng tôi bắt đầu chấm dứt sử dụng tiêu chuẩn kép.

Còn bạn thì sao, bạn vẫn tiếp tục sử dụng tiêu chuẩn kép trong cuộc đời của bạn, và bạn tiếp tục tích lũy khổ đau cho bạn, và những người chung quanh bạn, hay bạn lựa chọn, cách đem đến hạnh phúc và an lạc cho bạn và cho người, qua cách sử dụng tiêu chuẩn đơn?

Dĩ nhiên, chỉ có bạn mới có thể đưa ra quyết định cuối cùng là gì. Nhưng có một điều bạn luôn ghi nhớ, nếu bạn đã đưa ra quyết định lựa chọn nào, thì bạn phải chịu trách nhiệm với quyết định đó.

Bạn đừng đòi hỏi có quyền quyết định, nhưng khi xẩy ra hậu quả, thì bạn lại bắt người khác phải gánh chịu hậu quả do bạn gây ra, và coi đó là chuyện tất nhiên.

Trên đời này, khó có ai có thể chấp nhận cách sống đó của bạn, và nói chi xa, chính bạn, bạn cũng sẽ không chấp nhận một người nào đó, sống với bạn, mà họ ra quyết định, còn bạn thì đi gánh hậu quả cả.

CHIẾC LÁ CUỘC ĐỜI

album-art

00:00

TẢI MP3 – MỴ HẰNG
TẢI MP3- QUẢNG BẢO TÂM (HUẾ)
TẢI MP3 – DAVID NGÔ

Bạn thân mến,

Nếu bạn nhìn vào một cây ăn trái thì bạn sẽ thấy gì? Dĩ nhiên, bạn sẽ thấy có thân cây, rồi từ thân cây có cành nhánh, và trên cành nhánh thì có lá,  đến mùa thì đơm hoa, và cuối cùng là trái.

Thân và cành là những lá chắn, và nơi cung cấp những chất dinh dưỡng cho lá có cơ hội đơm chồi nẩy lộc trước khi ra hoa và kết trái.

Theo thư viện mở: “lá cây có vai trò quan trọng trong đời sống sinh lý của cây. Lá cây là cơ quan chủ yếu biến năng lượng mặt trời thành năng lượng hóa học (với đa số loài thực vật bậc cao). Trong quan hệ tương tác với các loài sinh vật khác, lá cây là điểm đầu của các chuỗi thức ăn (là thức ăn chủ yếu của đa số các loài sinh vật tiêu thụ bậc 1). Lá cây có vai trò chủ đạo trong đời sống của các sinh giới.”

Lá có trước hoa và trái, nhưng lá lại nhường vinh dự cho hoa và trái. Người ta chờ hoa đợi trái để ngắm, để trưng bày, để ăn và để bán.

Sự thường, hoa và trái có giá hơn lá. Dù vậy, lá vẫn vui vì được là vật che chắn, làm chất xúc tác, làm đồ trang điểm cho hoa trái. Đó là niềm vui phục vụ, không tranh giành mà lặng lẽ, chỉ âm thầm mà mạnh mẽ. Chẳng buồn, chẳng ghét, chẳng ganh, chẳng giận.

Lá xanh tươi và óng mượt là dấu của cây tốt, cây đẹp, cây khỏe. Lá vàng úa và khô héo là dấu của cây bệnh, cây khô và cây chết. Lá trở thành dấu hiệu để biết cây.

Lá rụng chẳng ai thương. Lá rơi chẳng ai tiếc. Hoa rơi lắm người tiếc nuối. Trái rụng lắm kẻ tiếc thương. Còn riêng lá thì đa phần coi như phân rác. Thế mà lá, cứ bình thản vô tư, chẳng hề than vãn vẫn vui đùa với cơn gió vi vu.

Lá xanh, lá tươi, lá vàng, lá già, lá khô rồi lá rụng. Thế mà lá cứ hồn nhiên đơn sơ, tung tăng giữa trời và đất. Vui với nắng, đùa với gió, nghịch với mưa. Lá tàn nhưng không phế. Lá rụng nhưng vẫn hữu dụng.

Lá chấp nhận hy sinh, nhưng vẫn vui, khi bị tuốt trụi cho những cánh mai vàng nở rộ khoe sắc xuân. Bởi lá biết, mình khi rụng xuống là trở về với cội nguồn mẹ đất.

Trên cây, lá giữ cho hoa trái tươi lâu, làm bóng mát cho người và vạn vật nghỉ chân. Dưới đất, lá làm cho đất ẩm, che phủ cho gốc cây mát. Lá khô tan vỡ dưới bàn chân người và vật, rồi dần tan vữa ra khi mưa xuống, đất lại càng thêm màu mỡ.

Lá khô được người nghèo dùng để nấu bếp, được nông dân đốt thành tro bụi để vun bón cho cây. Thật kỳ lạ, lúc lá tan biến, nó lại gặp được hoa và trái. Cuộc giao duyên kỳ diệu, cuộc hội ngộ ngỡ ngàng trong hành trình cuộc đời của lá.

Có chiếc lá rơi xuống dòng suối, lặng lẽ trôi lững lờ. Một con sâu sắp chết đuối được cứu sống. Nó bám vào lá. Lá chẳng xua đuổi, dù đó là kẻ thù của nó khi còn ở trên cây. Lá dạt vào bờ. Con sâu bò lên. Rồi dông tuốt! Chiếc lá dần tan rữa ra, làm thức ăn cho những sinh vật li ti dưới nước.

Ở bất kỳ vị trí nào, trong bất cứ hoàn cảnh và giai đoạn nào, lá vẫn luôn hữu ích cho vạn vật. Nó có giá trị, nhưng lại ít được biết đến, nhớ đến và nhìn nhận. Dù vậy, đời lá vẫn an, lòng lá vẫn vui.

Bởi vì lá biết, lá là ai và sẽ đi về đâu. Lá luôn khiêm tốn và can đảm chấp nhận thực tại, và vị trí đời lá trong cuộc hành trình phục vụ và cho đi, trong tiến trình trở về và gặp gỡ đầy ngỡ ngàng và kỳ diệu.

Ước mong, mỗi người trong chúng ta sẽ có được một cuộc sống an lạc, hạnh phúc và làm chiếc lá trong vườn hoa muôn sắc, hay trong vườn trái cây xanh tươi của nhân loại, lặng lẽ nhưng mạnh mẽ, góp phần làm nở rộ hoa, trái yêu thương.

 

TU HỌC VÀ TU HÀNH

album-art

00:00

TẢI MP3 – BÍCH HÀ

Bạn Thân Mến,

Tu học và tu hành là bốn chữ mà chúng ta nghe rất nhiều lần trong cuộc đời, nhưng tu học là gì và tu hành là gì? Chính là chủ đề của hôm nay, mà chúng tôi muốn mời bạn, hãy cùng chúng tôi quan sát và nhìn sâu.

Theo định nghĩa, Tu có nghĩa là: sửa, sửa chữa, trau giồi; Học là: nhận sự dậy dỗ của người khác; và Hành có nghĩa là: làm, việc làm, trải qua, di chuyển, v.v.

Như vậy, Tu Học có nghĩa là, nhận sự dậy dỗ của người khác để trau giồi, hay sửa chữa lại những cái chưa hay, chưa đúng của mình; và Tu Hành là sửa chữa lại những việc làm, nhưng hành động đã trải qua, mà chưa được đúng, hay chưa được đẹp.

Nếu chúng ta tách riêng bốn chữ tu học và tu hành ra, thì chúng ta còn lại ba chữ là: tu, học và hành.

Học thì ai trong chúng ta cũng phải học. Nếu nói rộng nghĩa hơn, thì không phải chúng ta chỉ học bằng sự dậy dỗ của người khác, mà đôi khi, chúng ta cũng chẳng cần ai dậy dỗ, chúng ta cũng học được qua sự quan sát và nhìn sâu.

Chẳng hạn, khi chúng ta nhìn một chiếc lá vàng rơi vào mùa thu, qua sự quan sát và nhìn sâu, chúng ta cũng có thể học được tính vô thường của vạn pháp. Chiếc lá không hề có ý định dậy dỗ chúng ta. Chiếc lá chỉ đang làm đúng bổn phận,

theo đúng quy luật của tự nhiên.

Nhưng qua chiếc lá vàng rơi, dưới sự quan sát và nhìn sâu, chúng ta lại học được bài học về tính vô thường, để khi, chúng ta có những niềm đau nỗi khổ, chúng ta có thể dùng bài học vô thường này, để giải quyết những khổ đau, và đạt được An.

Nếu chúng ta chỉ “cắm đầu” vào học không thôi, mà khi chúng ta có khổ đau, lại không ứng dụng được bài học đó, thì giá trị của bài học đó, chỉ là con số không, tròn trĩnh.

Cho nên, cái quan trọng không phải là chúng ta học được gì, hay học có thâm sâu không, mà quan trọng là, khi chúng ta ứng dụng qua hành, có đem đến đúng như kết quả chúng ta muốn hay không?

Nếu như, qua phần thực hành, mà không đem đến cho chúng ta kết quả nhưng lại đem đến cho chúng ta những hậu quả, thì chúng ta phải “tỉnh táo” để chỉnh sửa lại cái học của chúng ta.

Nói đến học thì có nhiều cách học. Phần đông chúng ta, thường dựa vào định nghĩa của chữ học, là phải có người dậy dỗ chúng ta, thì chúng ta mới gọi đó là học.

Cho nên, chúng ta nghĩ, muốn học thì phải đến trường, đến lớp, có thầy, có cô có bằng cấp để dậy dỗ cho chúng ta. Khi vào trường để học, thì chúng ta lại lệ thuộc vào sự phân chia thứ tự trước sau, để đánh giá trình độ học của một người.

Thí dụ, với trẻ năm sáu tuổi, thì bắt đầu từ lớp mẫu giáo, rồi lên lớp một, lớp hai, tiểu học, trung học, rồi đại học.

Người có bằng đại học thì trình độ học của họ cao hơn người trung học, và người có trình độ trung học thì cao hơn tiểu học v.v.

Từ đó, đưa chúng ta đến suy luận và tin rằng, nếu muốn giỏi thì phải học, mà muốn học thì phải có lớp, có trường. Nếu nơi nào, không có trường, có lớp, thì nơi đó, chúng ta sẽ không có gì để học.

Quan niệm này, đã khiến cho biết bao sinh viên, sau khi tốt nghiệp ra trường, rơi vào thế “lao đao”, khi tiếp xúc với những công việc trong trường đời.

Vì trong trường đời, thì học không phải chỉ thu gọn trong lớp, có thầy, có cô có bằng cấp dậy dỗ, mà trong trường đời, thì không có lớp, và ai cũng có thể là thầy cô, mà không cần bằng cấp.

Không những, chỉ có con người, mà ngay cả động vật, thực vật, hay những sự vận hành tự nhiên của trời đất, cũng trở thành thầy cô để dậy cho chúng ta những bài học, đáng giá nghìn vàng.

Không ít những nhà tiến sĩ (cấp cao nhất trong hệ thống giáo dục), khi ra trường đời, mới “bé cái lầm” rằng, thì ra, còn có muôn ngàn điều ở trường đời, mà họ vẫn còn chưa học được trong trường học.

Như vậy, không phải cứ tốt nghiệp trong trường học thì sẽ có đủ mọi kiến thức và cách ứng xử trong trường đời. Sự thật là, trường đời mới là trường mà con người phải học suốt cả một đời, mà vẫn không thể tốt nghiệp.

Cho nên, trong trường đời, đòi hỏi người học phải có sự

quan sát và nhìn sâu, để tiếp cận được với sự thật, nếu không, sẽ gây ra khổ đau cho người và cho mình, chứ không như trường học, là học để mở mang kiến thức.

Với một người nông dân, việc các nhà khoa học, du hành đến sao hỏa, hay sao kim, cũng chẳng có gì là quan trọng. Bởi vì, đối với người nông dân, bài học quan trọng nhất với họ, đó chính là đồng ruộng: lúa, đất, nước, phân.

Thiếu những bài học này, thì khổ đau sẽ có mặt ngay trong gia đình của họ. Con cái họ sẽ đói ăn, và tài chánh gia đình của họ sẽ trở nên “giật gấu vá vai”.

Có nhiều bạn sẽ cho rằng, nếu không có trường học thì làm sao có những kỹ sư để chế ra những máy móc, hay phân bón, để làm ra lúa gạo nhanh hơn.

Đồng ý với bạn là, với những máy móc và phân bón vô cơ mới, sẽ giúp cho quá trình phát triển của cây lúa nhanh hơn, và khi cầy cấy, hay thu hoạch, thì đỡ tốn công hơn. Nhưng sự thật cũng đã chúng minh rằng, chính những phân bón mới, giúp cây lúa trổ nhanh hơn, lại tạo ra những gen (gene) đột biến có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của con người.

Các nhà khoa học có tự trọng, khi nghiên cứu qua lâm sàng đã đưa ra những chứng minh về sự tai hại khi tạo ra gen (gene) đột biến, và tiếng nói cảnh tỉnh của họ đã có không ít người hưởng ứng.

Những người tiêu thụ trong thời đại mới (new age), họ đòi hỏi những thực phẩm cung cấp cho họ, phải được trồng theo phương pháp hữu cơ (organic), và giá cả của thực phẩm hữu cơ thì cao gần gấp đôi so với giá do máy móc và những phát minh đột biến tạo ra, nhưng họ vẫn vui lòng tiêu thụ.

Như vậy, với nhà khoa học thì họ thích nghiên cứu học hỏi về không gian vũ trụ, nhưng ngược lại, người nông dân lại thích học về: lúa, đất, nước, phân.

Vậy thì cái học nào cao hơn cái học nào? Vốn dĩ, chẳng có sự học nào cao hơn sự học nào cả, mà là, sự học đó có giá trị hay không, mới là quan trọng. Nếu điều học đó, mà không thể đem ứng dụng được, thì điều học đó, trở nên vô dụng.

Bắt một khoa học gia xuống làm ruộng thì không khác gì, chúng ta đang bắt bỏ tù họ vậy, hay ngược lại, bắt bác nông dân lên điều khiển chiếc tầu vũ trụ thì lại khiến bác chết, không toàn thây.

Cho nên, trước khi học, chúng ta cần phải xác định rõ ràng chúng ta học gì, và chúng ta phải học như thế nào cho đúng cách.

Nếu không, chúng ta chỉ phí thời gian vào hý luận, mà khi gặp sự cố, thì chúng ta lại chẳng ứng dụng được gì cho việc chúng ta giải quyết vấn đề, hay sự cố, một cách chuẩn không cần chỉnh.

Sự thật đã chứng minh rất rõ ràng, cái chúng ta cần học thì vô hạn, nhưng sức học của chúng ta thì lại hữu hạn, chúng ta không thể đem cái hữu hạn để “đuổi theo” cái vô hạn được.

Chính vì vậy, chúng ta cần phải có sự lựa chọn trong cái vô hạn kia, xem cái học nào có thể giúp cho chúng ta giải quyết những vấn đề trong cuộc sống của chúng ta một cách toàn vẹn, không để lại những di chứng về sau.

Nếu chúng ta không cẩn thận lựa chọn, chúng ta không có mục đích rõ ràng, thì chúng ta sẽ học miên man, học lang bang, học trường kỳ, rồi cuối cùng, chúng ta chỉ ôm một mớ kiến thức vụn vặt, không đâu vào đâu cả.

Chúng ta vừa tốn tiền, vừa tốn thời gian, mà còn tạo ra biết bao cảm xúc/giác tiêu cực, khi không thể sử dụng mớ kiến thức đó vào đâu cho hợp lý.

Cho nên, khi học, chúng ta nên đặt cho chúng ta những câu
hỏi chính xác như:

  • Chúng ta học để làm gì?
  • Có đúng với mục đích của chúng ta không?
  • Có giúp cho chúng ta giải quyết vấn đề của chúng ta một cách trọn vẹn không?
  • Có đem đến an vui và hạnh phúc cho người và cho chúng ta không?
  • Có giúp cho chúng ta tiếp xúc được với sự thật không v.v.

Dĩ nhiên, chúng ta có thể đặt ra muôn ngàn câu hỏi, nhưng chỉ cần chúng ta hỏi chúng ta những câu hỏi như trên, cũng đủ giúp cho chúng ta xác định được, chúng ta nên học gì, và học ra làm sao cho có kết quả.

Khi đã lựa chọn xong những gì chúng ta muốn học, thì chúng ta đừng tin ngay vào những trải nghiệm, hay kinh nghiệm của những người đi trước, hay tiền nhân, mà chúng ta chỉ xem đó như là những thông tin, và bắt đầu từ những thông tin đó, chúng ta đi kiểm nghiệm, thực nghiệm và chứng nghiệm, qua sự quan sát nhìn sâu vào bản thân của chúng ta, hay qua đối tượng, hay những hiện tượng.

Sau khi chúng ta đã trải qua những quá trình đó, và quá trình đó giúp chúng ta tiếp cận được với đúng sự thật, thì lúc đó chúng ta mới tin. Chúng ta chỉ nên tin vào kết quả, chứ không tin vào sự trải nghiệm hay kinh nghiệm của bất cứ một ai.

Nếu chúng ta làm được như vậy, thì những gì chúng ta học mới có giá trị, mới có chiều sâu, mới có sự tinh tế. Chính nhờ sự tinh tế và có chiều sâu này, mới giúp chúng ta giải quyết được những vấn đề của chúng ta một cách trọn vẹn.

Như vậy, khi thêm chữ tu vào trước chữ học, thành tu học, thì chúng ta mới biết, chúng ta cần sửa, hay sửa chữa cái gì trong qúa trình chúng ta học.

Nếu không thì chữ tu đặt vào đầu câu, cũng trở nên vô nghĩa, vì chính cái chúng ta học, chúng ta còn không hiểu chúng ta đang học gì, thì chúng ta làm sao biết chỗ nào sai đâu mà tu với sửa. Vậy nên, khi chúng ta sử dụng hai từ tu học chúng ta phải rất cẩn thận.

Ngày xưa, ở miền nam Việt Nam, những người kỹ sư cơ khí, muốn nâng cao trình độ về kỹ thuật máy móc, thì thường đi tu học tại các quốc gia tiên tiến về kỹ thuật như Mỹ, Anh hay Đức, v.v.

Có nghĩa là, họ đã học và biết về máy móc và kỹ thuật rồi, nhưng với những phát minh, hay những sự bổ sung trong kỹ thuật sửa chữa mới, họ chưa được cập nhật, cho nên, họ cần phải đến các quốc gia tiên tiến, học tiếp, để sửa chữa hay trau giồi thêm những kinh nghiệm trong ứng dụng.

Nhưng ngày nay, hai chữ tu học thường được gắn liền với tôn giáo. Mỗi tháng, ít nhất chúng tôi cũng nhận được hai ba lá thư gởi về, kêu gọi chúng tôi, ghi danh đi tham dự khóa tu, hay tu học, được tổ chức khắp mọi nơi, không những trong nước Mỹ, mà có khi, tới tận cả trời Âu.

Tu học về vật chất thì còn đỡ, vì chúng ta còn có vật để sờ, để mó, để chạm. Nhưng tu học về tâm linh, thuộc về vô hình, vô ảnh. Chúng ta không thể sờ hay mó vào được, mà chỉ nương tựa vào nhận thức và niềm tin của chúng ta.

Nếu như, những nhận thức hay niềm tin của chúng ta không may bị lệch lạc, mê mờ, thì chắc chắn, con đường tu học của chúng ta sẽ dần dần dẫn về ngõ cụt.

Cho nên, trước khi chúng ta muốn Tu thì chúng ta phải biết rất rõ mục đích của chúng ta học để làm gì. Chúng ta đã nắm rõ được những gì chúng ta học chưa? Nhận thức của chúng ta đã rõ ràng chưa?, và sự rõ ràng đó, chúng ta dựa trên tiêu chuẩn nào để đáng giá.

Đó chính là những nét căn bản của việc học. Sau đó, chúng ta mới dựa trên những căn bản đó, để tiếp tục trau giồi hay tu sửa lại những chỗ chưa đúng hay chưa chính xác.

Trong qúa trình tu sửa việc học này, chúng ta không phải chỉ dùng sư tư duy không mà thôi, mà chúng ta phải đem những điều chúng ta đang tu học ứng dụng trong thực hành. Chúng ta phải thực hành không những trên một góc độ, mà chúng ta còn phải thực hành trên nhiều góc độ.

Như vậy, bắt đầu từ học đến tu, rồi từ tu qua hành, và từ hành tiếp tục tu, rồi từ tu lại bắt đầu học. Qúa trình này gọi là quá trình tu học và tu hành.

Nếu muốn dễ hiểu hơn thì chúng ta sẽ đặt lại theo thứ tự

như sau: học, tu, hành, tu, học, v.v. Trong qúa trình tu hành và tu học này, chúng ta phải cần đến thêm ba yếu tố hỗ trợ khác, bao gồm: kiểm nghiệm, thực nghiệm và chứng nghiệm.

Thiếu ba yếu tố này, thì chúng ta sẽ dễ phiêu lưu trong thế giới của suy luận, phỏng đoán, và tưởng tượng.

Khi mà chúng ta để nhận thức, hay niềm tin của chúng ta “dính” đến phỏng đoán hay tưởng tượng, thì nhận thức hay niềm tin của chúng ta sẽ không còn gần với sự thật, mà chúng ta đang bắt đầu rời xa sự thật.

Cho nên, trong qúa trình học hay hành thì chúng ta cũng phải luôn sử dụng ba yếu tố này. Được như vậy, thì việc chúng ta tu học hay tu hành mới có kết quả.

Còn nếu không, thì chúng ta chỉ phí thời gian cho cái học vô bổ, không những đã không giúp ích gì cho chúng ta trong việc tiếp cận sự thật, mà cái học đó, đôi khi lại trở thành một rào cản, một “nhà tù”, nhốt chúng ta vào trong những cuộc tranh luận, hay tranh cãi, gây nên sự thù hận, oán ghét, lẫn nhau.

Tệ hại hơn là, chúng ta tiếp tục “nâng cấp” sự tự tôn của chúng ta lên tận mây xanh, và xem như đó là một thành quả mà chúng ta đáng tự hào. Nhưng khi, có những vấn đề của chúng ta cần phải giải quyết tận gốc rễ, thì chúng ta lại trốn chạy, hay đè nén vấn đề đó xuống.

Tu học hay tu hành là một việc vô cùng cần thiết cho tất cả những ai muốn thăng tiến, muốn đạt được thành công hơn thất bại, dù trong cuộc đời hay đời sống tâm linh. Nhưng nếu chúng ta không cẩn thận trong việc tu học và tu hành thì chúng ta sẽ tạo ra những kiến chấp (chấp vào những kiến thức mà mình học được), những nhận thức sai lầm, sẽ gây ra khổ đau cho người và cho mình.

Có một người quen, anh rất tự hào về kiến thức mà anh học được trong kinh điển của đạo Phật, và anh thường cho rằng anh đã hiểu đúng với những gì đức Phật dậy, vì anh đã đi tu học với biết bao vị cao tăng. Cho nên, mỗi khi gặp anh, anh luôn dậy chúng tôi làm sao phát triển lòng từ bi và trí tuệ.

Theo lời anh “học lại” thì các vị cao tăng đã dậy:

“Từ bi là thương cao thượng bất vụ lợi, thương tất cả mọi loài không vì bản ngã của mình.

Còn trí tuệ được phân ra làm hai loại: Trí thế gian và trí xuất thế gian. Trí thế gian là thấy biết đúng tinh thần nhân quả, và Trí xuất thế gian là người biết rõ mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý nghĩ, là cái nhân đưa tới đau khổ, thì tránh không làm, không nói, và không nghĩ.

Như vậy, từ bi và trí tuệ đi đôi và gắn liền với nhau, vì từ nguồn trí tuệ mà suối từ bi tuôn chẩy, nhờ suối từ bi cho nên cây trí tuệ trổ hoa.”

Khi nghe lời anh dậy cho chúng tôi, chúng tôi mới hỏi anh, thương cao thượng là gì, và thương bất vụ lợi ra sao, thì anh lại không giải thích được.

Nếu nói từ bi là thương cao thượng thì thương thế nào mới là thương cao thượng, và thương thế nào mới là không cao thượng. Quả thật, chúng tôi nghe xong, cũng không thể nào hiểu được, mà nếu chúng tôi không hiểu được thì làm sao chúng tôi hành.

Nếu chúng tôi không thể hành, thì có phải, những gì chúng tôi học, chỉ là một mớ kiến thức vô bổ, vì khi chúng tôi muốn phát khởi lòng từ bi, thì chúng tôi biết dựa vào đâu để thực hành.

Còn câu: “từ bi và trí tuệ đi đôi và gắn liền với nhau, vì từ nguồn trí tuệ mà suối từ bi tuôn chảy, nhờ suối từ bi cho nên cây trí tuệ trổ hoa.” Có nghĩa là gì?

Nếu chúng tôi không biết được lòng từ bi, thì chúng tôi không thể có trí tuệ, đúng không? Bởi vì, từ bi là gốc rễ, nên mới có thể sinh ra hoa trái là trí tuệ. Nếu không có lòng từ bi thì sẽ không có trí tuệ.

Trong khi, qua thực nghiệm, kiểm nghiệm, và chứng nghiệm thì tuệ giác mới là gốc rễ để sinh ra hoa trái là từ bi. Nếu không có Tuệ Giác thì từ bi có thể sẽ dẫn đến khổ đau như thường.

Dĩ nhiên, ở đây chúng tôi không đem ra xét nét sự tu học hay tu hành của anh là đúng hay sai, mà chúng tôi chỉ muốn chia xẻ lại với bạn, khi chúng ta học một điều gì, thì chúng ta phải đem điều chúng ta học và thực hành ngay với sự kiểm nghiệm, thực nghiệm và chứng nghiệm trên bản thân của chúng ta.

Chỉ khi, trải qua ba yếu tố đó, và kết quả ra đúng với định nghĩa đó, thì chúng ta mới tin vào định nghĩa đó, chứ không nên đi học thì nhiều, nhưng hành lại chẳng bao nhiêu. Đến khi có chuyện cần giải quyết thì chúng ta lại không hề sử dụng đến những gì chúng ta đã học.

CHO VÀ NHẬN

album-art

00:00

TẢI MP3 – ÁNH TUYẾT
TẢI MP3 – VIÊN NGUYỆT
TẢI MP3 – DAVID NGÔ

Bạn thân mến,

Thế nào là cho và nhận?

Cho ở đây mang nghĩa bao quát. Khi chúng ta yêu thương mọi người, giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn hơn mình, cho đi tình cảm, tấm lòng, sẵn sàng vì người khác để khiến cho xã hội này tốt hơn.

Còn nhận ở đây là sự an lạc, hạnh phúc. Khi chúng ta cho đi, giúp đỡ, yêu thương người khác.

Cho và nhận là hai khái niệm tưởng chừng như đối lập nhau, vừa là vô hình vừa là hữu hình nhưng lại song hành với nhau trở thành những bài học quý giá cho mọi người.

Người sẵn sàng cho đi với mong muốn xã hội tốt hơn, mong cuộc sống của người bất hạnh tốt đẹp hơn mà không hề toan tính thiệt hơn hay mong được tư lợi.

Tuy nhiên, trong cuộc sống không phải ai cũng sống với tình thương, sẵn sàng cho đi. Ngoài kia vẫn còn có nhiều người lạnh lùng, vô cảm trước nỗi đau khổ và sự bất hạnh của người khác, chỉ biết sống cho bản thân mình.

Mỗi ngày khi ta sống có ích, biết cách lắng nghe quan tâm người khác một chút thì chúng ta cũng sẽ cảm thấy cuộc sống có ý nghĩa hơn bao giờ hết.

Xin mời các bạn nghe mẩu chuyện ngắn sau đây, hầu có thể cảm nhận được sự cho đi là gốc rễ của hạnh phúc.Với một trái tim rộng mở, bạn mới có thể đón nhận được yêu thương, và bạn có mỉm cười, bạn mới nhận được nụ cười đáp lễ.

Anna, 9 tuổi, là cô bé gầy gò đến từ một ngôi làng nhỏ. Em đã học đến năm lớp 4 tại làng của mình. Khi lên lớp 5, Anna đã chuyển sang học tại một ngôi trường ở thành phố lớn gần đó. Cô bé đã vô cùng hạnh phúc khi biết mình được nhận vào một ngôi trường khá danh tiếng trong vùng.

Ngày đầu tiên đi học. Anna đã đứng chờ từ rất sớm ở trạm xe buýt và lên ngay chuyến xe đầu tiên để di chuyển đến thành phố. Trên xe đến trường, em đã gặp rất nhiều bạn học, trông ai cũng gọn gàng, sáng sủa. Sau khi hỏi thăm đường đến lớp, cuối cùng cô bé cũng đã có mặt tại chỗ ngồi của mình trong niềm háo hức rộn ràng.

Tuy nhiên, đó không phải là một buổi học đầu tiên tuyệt vời như trong tưởng tượng của Anna. Khi vừa nhìn thấy em bước vào lớp, rất nhiều bạn học đã lập tức tỏ ý chế giễu, sau khi biết Anna đến từ một ngôi làng nghèo, và càng tỏ thái độ xem thường hơn, với bộ đồ cũ kỹ mà em đang mặc.

Sự ồn ào bàn tán chỉ kết thúc khi giáo viên chủ nhiệm đến, và yêu cầu cả lớp im lặng. Cô giới thiệu Anna và cho biết em sẽ bắt đầu học tại lớp này kể từ hôm nay.

Mọi chuyện bắt đầu khi cả lớp được yêu cầu làm một bài kiểm tra đột xuất. Với câu hỏi “Em hãy liệt kê ra 7 kỳ quan của thế giới”. Cả lớp đã nhanh chóng hoàn tất bài kiểm tra, ngoại trừ Anna.

Tất cả các học sinh khác đã có câu trả lời của mình một cách nhanh chóng, còn Anna thì không.

“Có chuyện gì vậy em. Đừng lo, chỉ cần viết những gì em biết, các bạn khác cũng chỉ vừa mới học cách đây vài ngày thôi.” – Cô giáo lo lắng hỏi Anna.

Anna trả lời:

“Cô ơi, em đang nghĩ về rất nhiều thứ và không biết mình phải chọn 7 nơi nào để viết cả…”

Chần chừ một hồi, Anna cũng hoàn thành đáp án của mình. Để kết thúc giờ kiểm tra, cô giáo chủ nhiệm đã công bố đáp án chính xác cho câu hỏi về 7 kỳ quan, đó chính là:

  1. Vạn lý trường thành,
  2. Đấu trường La Mã,
  3. Tháp nghiêng Pisa,
  4. Kim tự tháp Giza,
  5. Lăng Tajmahal,
  6. Vườn treo Babylon
  7. Bãi đá cổ Stonehedge.

Cô giáo chủ nhiệm rất hài lòng khi ai cũng dễ dàng vượt qua bài kiểm tra đơn giản này, cho đến khi chấm đến bài của Anna. Với riêng phần trả lời của Anna, cô đã ngạc nhiên và đọc lớn bài kiểm tra của Anna cho cả lớp cùng nghe.

Câu trả lời như sau: 7 kỳ quan của thế giới:

Kỳ quan thứ nhất: Có thể thấy

Kỳ quan thứ hai: Có thể nghe

Kỳ quan thứ ba: Có thể cảm nhận

Kỳ quan thứ tư: Có thể cười

Kỳ quan thứ năm: Có thể suy nghĩ

Kỳ quan thứ sáu: Có thể tử tế

Kỳ quan thứ bẩy: Có thể yêu thương

Từng chữ một trong câu trả lời thật thà của cô bé xuất thân từ ngôi làng bé nhỏ đã khiến toàn bộ học sinh trong lớp không nói lên lời.

Hôm nay, chính cô bé từng bị chế giễu hết lời đã mang đến cho các bạn đồng môn một bài học vô cùng quý giá về kỳ quan thật sự của cuộc sống.

Bạn thân mến,

Khi ta trao yêu thương cũng là lúc ta nhận lại hạnh phúc, xây dựng và nuôi dưỡng cho tâm hồn giàu đẹp. Cuộc sống chỉ thật sự có ý nghĩa khi có sự chia xẻ, kết nối giữa con người với con người.

Đã bao giờ bạn tự hỏi rằng mình đã làm được gì cho người khác? Mình đã thực sự cho đi hay chỉ mong nhận về?

Xin hãy sống vì mọi người để cuộc sống này không đơn điệu và để trái tim có những nhịp đập yêu thương.

We use cookies in order to give you the best possible experience on our website. By continuing to use this site, you agree to our use of cookies.
Accept