CÓ BỊNH THÌ VÁI TỨ PHƯƠNG

album-art

00:00

TẢI MP3 – VIÊN NGUYỆT

Bạn Thân Mến,

Qua ca dao, tục ngữ, ông cha của chúng ta đã dậy rằng: “Có Bịnh thì Vái Tứ Phương”, vậy, Vái là gì? và Vái như thế nào mới đạt được kết quả? Đó là chủ đề mà chúng tôi muốn chia xẻ với bạn khi chăm sóc cho người thân của chúng tôi.

Theo định nghĩa, Vái có nghĩa là, xá, chắp tay trước trán hay ngực và cúi đầu, cầu khẩn, van xin với người khuất mày khuất mặt, khác với Lậy là quỳ gối và mọp đầu xuống.

Phần đông chúng ta khi “Vái” thường sử dụng ý nghĩa của sự cầu khẩn, hơn là chú trọng đến nghĩa thứ hai, van xin người khuất mày khuất mặt.

Riêng chúng tôi, lại hay sử dụng chữ “vái” theo nghĩa thứ hai, là tạo ra cầu nối để tiếp nhận nguồn năng lượng mà cha ông chúng ta đã tích lũy.

Nếu bạn đã đọc qua bài chín thức, bạn sẽ thấy ngôn ngữ của Ngã Thức thuộc về năng lượng được biểu hiện qua các tần số sóng.

Nếu đem so với ngày xưa, thì tần số sóng là một điều gì đó, không thể thấy được, mà người xưa, chỉ có thể cảm được. Nhưng với sự tiến bộ và khoa học ngày nay, người ta có thể đo được các tần số sóng, người ta có thể chụp hình được những tần số sóng.

Nói về tần số sóng với con người hôm nay thì không thể nói “cảm” không là đủ, mà có thể còn chứng minh được qua hình ảnh hay những biểu đồ.

Ngày xưa, người nào có khả năng nghe được âm thanh, lời nói ở ngàn dặm thì người đó được gọi là thiên lý nhĩ, người nào có thể nhìn xa, thấy được mọi cảnh tượng ở ngàn dặm thì người đó được gọi là thiên lý nhãn (thiên có nghĩa là một ngàn và lý là dặm).

Ai mà có khả năng nhìn xa ngàn dặm, hay nghe xa ngàn dặm, thì không phải “dạng vừa”, mà được phong thần, và khả năng nhìn xa nghe xa này được gọi là thần thông.

Trong những truyện về phong thần, cả thiên đình chỉ có hai vị thần được phong tặng danh hiệu: Thiên Lý Nhĩ và Thiên Lý Nhãn, mà ngay cả Ngọc Hoàng Đại Đế, người nắm quyền tối cao trên thiên đình, cũng không có được khả năng này. Nếu Ngọc Hoàng muốn biết chuyện gì xẩy ra từ ngàn dặm thì Ngọc Hoàng cũng phải nhờ, hay sai hai vị thần này làm cho.

Nhưng ngày nay, phần lớn chúng ta, ai cũng có thiên lý nhãn và thiên lý nhĩ cả. Chỉ cần, chún ta cầm trên tay một chiếc điện thoại thông minh, là chúng ta, không những chỉ biết được chuyện từ ngàn dặm, mà chúng ta còn có thể biết đến chuyện, lên đến cả chục ngàn dặm, cũng là chuyện bình thường.

Nếu đem so với thiên đình ngày xưa, chỉ có hai vị thần có khả năng nghe xa và nhìn xa, thì ngày nay, chúng ta có cả mấy tỷ vị thần, còn cao siêu hơn hai vị thần xưa, vì chúng ta có khả năng nghe và nhìn xa hơn hai vị ít nhất cũng gấp 10 lần.

Vậy, khi bạn cần chiếc điện thoại trên tay, bạn đang là hai vị thần, thiên lý nhãn và thiên lý nhĩ, bạn có thấy bạn có thần thông không?, và bạn có thấy thần thông có cao siêu không?

Chắc chắn là chả có gì mà cao siêu cả, mà đôi khi bạn còn cảm thấy phiền, khi có những việc, bạn đang cần riêng tư, mà lại đang dùng đến thiên lý nhãn (video call).

Cho nên, không phải cứ có thần thông là tốt đâu, mà có thần thông thì cũng có những cái bất tiện lắm đấy.

Vì vậy, nếu có ai đó, khoe với bạn họ có thần thông này hay nọ, thì bạn cũng đừng có ngạc nhiên hay tán phục. Vì bạn cũng có thần thông đấy, không những chỉ là một vị thần, mà bạn còn là cả hai, nghe xa, nhìn rộng cả nghìn dặm, với chiếc điện thoại đang cầm trên tay.

Nói đến điện thoại, thì không ai chúng ta lại không biết đến sóng, vì không có sóng là chúng ta sẽ mất đi “thần thông” ngay.

Như vậy, chức năng của điện thoại chỉ là một công cụ có khả năng thu và tiếp nhận được sóng, và qua song đó, mới thể hiện được thiên lý nhĩ (nói chuyện qua điện thoại) hay thiên lý nhãn (nói chuyên qua ghi hình).

Cơ thể của chúng ta cũng như chiếc điện thoại, là công cụ để tiếp nhận sóng và phát sóng. Hệ thống thần kinh và não bộ, cũng như các tế bào của chúng ta, vừa là trạm tiếp nhận tần số sóng, và cũng là trạm phát sóng từ trong cơ thể ra bên ngoài.

Có thể nói, cơ thể chúng ta giống như một đài phát thanh, nơi có thể vừa nhận sóng và phát sóng.

Khi bạn mở radio trong khi lái xe, thí dụ, đài FM100 quen thuộc, nếu bạn qua vùng phủ sóng, tuy bạn vẫn dùng đài FM100, nhưng bạn lại nhận được những sóng mới, những tiếng nói mới, những chương trình mới.

Không ai trong chúng ta xa lạ điều này, và hai chữ “phủ sóng” với chúng ta, cũng không cần phải giải thích nhiều, vì ai cũng biết.

Y học ngày nay, với những máy móc tối tân như EEG (ElectroEncephaloGraphy) hay chức năng chụp cộng hưởng từ  (fMRI – functional Magnetic Resonance Imaging), các bác sĩ và nhà khoa học thần kinh có thể đo lường những thay đổi trong não của chúng ta, mà không cần mổ não của chúng ta ra, như lúc xưa.

Trong tác phẩm bán chạy nhất, “Power vs Force” (Năng lượng tâm linh), bác sĩ David R.Hawkins đã chứng minh được mối liên hệ mật thiết giữa bệnh tật của con người và những suy giảm năng lượng trong cơ thể, đến từ những tư tưởng tiêu cực.

Để chứng minh điều này, bác sĩ David đã dùng phương pháp thực nghiệm khoa học để đo tất cả các tư tưởng, suy nghĩ, cảm nhận của một người; rồi từ đó, ông ghi nhận được tần số rung động về ý thức hệ của người đó.

Qua nghiên cứu của ông, những người thiếu thương yêu, hay có tư tưởng tiêu cực, oán giận, chỉ trích, hận thù người khác, hoặc sống ích kỷ, đều có tần số rung động thấp.

Theo bác sĩ David, khi những người đó trách móc, hận thù người khác, họ sẽ làm tiêu hao rất nhiều năng lượng của họ; đồng thời, họ cũng tạo ra rất nhiều áp lực trên cơ thể, khiến tần số rung động của họ bị giảm. Vì vậy, họ có nguy cơ bị mắc rất nhiều loại bệnh.

Sau hơn 20 năm dài thực nghiệm lâm sàng với hàng triệu tư liệu được ghi lại. Sau khi, thông qua các phân tích, thống kê tỉ mỉ, bác sĩ David đã phát hiện ra rằng:

Các tầng ý thức khác nhau của con người đều tương ứng với các chỉ số năng lượng nào đó. Từ đó, ông thống kê ra được những mức tần số năng lượng chủ yếu như sau:

Khai Ngộ, Chính Giác: 700 ~ 1000

Điềm Tĩnh, Thanh Thản: 600

Vui Vẻ, Thanh Tĩnh: 540

Tình Yêu Và Sự Tôn Kính: 500

Lý Tính, Thấu Hiểu: 400

Khoan Dung, Độ Lượng: 350

Hy Vọng, Lạc Quan: 310

Tin Cậy: 250

Can Đảm, Khẳng Định: 200

Tự Cao, Khinh Thường: 175

Ghét, Thù Hận: 150

Dục Vọng, Khao Khát: 125

Sợ Hãi, Lo Âu: 100

Điều này, có nghĩa là, khi bạn khởi sinh một ý niệm thì bạn bắt đầu tạo ra tần số sóng, và bạn có thể phát tần số sóng của bạn ra không gian. Nếu ai đó, có trạm thu nhận được tần số sóng của bạn, thì họ có thể “bắt” được tư tưởng của bạn là chuyện rất bình thường.

Người xưa có câu: Trên đầu ba thước có thần linh, dĩ nhiên, họ không có máy móc để đo hay chụp được những tần số sóng, nhưng họ vẫn có thể “cảm” được tần số sóng.

Định nghĩa của cảm là một nguồn năng lượng, mà có năng lượng là có tần số sóng, và tần số sóng của cảm có thể tương tác với các năng lượng hay tần số sóng ở ngoài cơ thể của chúng ta khi có chung một tần số rung động.

Giống như người chơi đàn guitar, khi họ đánh một dây đàn, tạo ra một tần số song, thì những dây đàn nào, lên cùng một tần số đều rung lên.

Như vậy, qua quan sát những hiện tượng về vật chất cũng như về tinh thần, chúng ta thấy, con người của chúng ta là trạm thu và phát ra những nguồn năng lượng với những tần số sóng qua tư tưởng, cảm giác, các cơ quan và tế bào.

Vì có thu, cho nên, chúng ta có thể tiếp xúc được với những nguồn năng lượng (tư tưởng, cảm giác,v.v) của các bậc tiền nhân, đồng thời, chúng ta cũng có thể phát ra những nguồn năng lượng (tư tưởng, cảm giác) cùng tần số với các bậc tiên tổ. Qúa trình thu hay phát này gọi là qúa trình tương tác hay tương tức (cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không).

Điều này có thể giải thích được lý do, tại sao các nhà ngoại cảm (cảm nhận được nguồn năng lượng từ bên ngoài) có thể tiếp xúc được những tần số sóng trong không gian của những người đã khuất. Đồng thời, cũng giải thích luôn được lý do tại sao có khi họ cảm được, cũng như có khi họ không cảm được.

Lý do họ cảm được, khi Ngã Thức của họ thật sự tạo ra được tần số sóng cùng chung với người họ muốn tươg tác, và họ không làm được, khi họ bị những “áp lực” như danh tiếng hay hoàn cảnh “ép buộc” khiến họ phải dùng đến phỏng đoán hay tưởng tượng ra kết quả, khi họ không thật sự có được tần số sóng giao thoa với người họ cần tương tác.

Chính vì vậy, khi chúng ta vái, có nghĩa là, chúng ta đang khởi ý niệm hướng về các vị tiên tổ của chúng ta, hay nói rõ hơn, chúng ta đang tạo ra tần số rung động cùng với tần số rung động của tổ tiên.

Khi chúng ta có cùng với tần số với tiên tổ, chúng ta có thể giao tiếp với các Ngài, một cách dễ dàng.

Vậy thì, chúng ta giao tiếp (vái) những gì với tiên tổ? Như những bài viết khác, chúng tôi đã chia xẻ với bạn về những tinh hoa, và cách sống làm sao kéo dài An của tổ tiên của chúng ta.  Chúng ta “vái” các Ngài chỉ dẫn cho chúng ta con đường để đạt được an và kéo dài an.

Tại sao chúng ta lại vái tiên tổ của chúng ta soi đường dẫn lối cho chúng ta An? Vì định nghĩa của An là không xáo trộn.

Theo Đông y, khi cơ thể của chúng ta bị bịnh, có nghĩa là, cơ thể của chúng ta đã mất đi sự quân bình giữa âm với dương, hay giữa lục phủ và ngũ tạng. Như vậy, khi chúng ta có An, chúng ta có thể thiết lập lại thế quân bình âm dương. Nhờ sự thiết lập được quân bình âm dương trong tâm, cho nên, sẽ ảnh hưởng tới thân.

Vì vậy, những bịnh từ thân, có thể nương tựa nơi nguồn năng lượng An của tâm, để tự điều chỉnh, từ đó, giúp cơ thể của chúng có thể sống khỏe mạnh hơn.

Những phương pháp sống lâu, và sống khỏe, không bịnh tật của người xưa luôn đặt trọng tâm vào chữ An. Khi Tâm đã an thì không có bịnh tật

Ngày nay, các bác sĩ Tây Y cũng công nhận sự bất an, căng thẳng, trầm cảm,v.v, là một trong những nguyên nhân chính gây ra những chứng bịnh nan y.

Câu chuyện về chứng bịnh rối loạn nghi bệnh (hypochondria) mà chúng tôi nhớ, có đọc trên vnexpress của tác giả Vương Linh, nói về chứng bịnh rối loạn nghi bệnh hay cách “định bịnh giả” như sau:

“Từ ngày ông hàng xóm mất vì ung thư vòm họng, bà A luôn có cảm giác mình có rất nhiều đờm. Bà nghĩ bà bị bệnh nặng sắp chết, nên bà bắt con cháu đưa đi hết nhà thương này tới nhà thương khác, dù bác sĩ nơi nào cũng khẳng định bà khỏe mạnh.

Trong 6 tháng, bà A đã đi khám tới hơn chục nơi. Qua các kết quả, đều cho thấy, bà có sức khỏe bình thường, họng và phổi không có vấn đề gì.

Nhưng bà A vẫn không yên tâm và luôn cảm giác họng đầy đờm, suốt ngày khạc nhổ. Người nhà sau nhiều lần đưa bà đi khám, đã quá mệt mỏi và nghĩ, bà chỉ giả vờ bệnh để con cháu quan tâm. Trong khi đó, bà A ngày càng lo lắng tới mất ăn mất ngủ.

Cuối cùng, trong một lần đến khám tại bệnh viện khác, bà được bác sĩ khuyên nên đi khám chuyên khoa thần kinh, vì bệnh không nằm trong họng của bà, mà nằm ở nơi “đầu” của bà.

Con cháu thuyết phục bà mãi, và lấy cớ bác sĩ chỉ định vào khoa thần kinh chụp chiếu, mới phát hiện bệnh chính xác, thì bà mới chịu đi. Qua chuẩn đoán, các bác sĩ tại đây mới xác định bà mắc chứng rối loạn nghi bệnh (hypochondria), nên luôn ám ảnh mình mắc bệnh hiểm nghèo.

Một bệnh nhân tên B, đi khám bịnh vì đinh ninh có một chiếc xương cá rất to dính trong cổ họng.

Người nhà cho biết, mấy ngày trước, khi đang ăn tối, có món cá, anh B bỗng đứng dậy khạc nhổ, kêu đau vì bị hóc xương cá.

Người nhà đã làm đủ các mẹo để chữa hóc xương, nhưng anh vẫn không đỡ, kêu than, nên người nhà quyết định đưa anh đi bác sĩ nhờ khám dùm.

Khi tới bịnh viện, sau khi kiên nhẫn nghe anh kể về cách chữa bệnh và những mối lo của anh; để cho anh yên lòng, bác sĩ chỉ định anh đi soi họng. Sau khi soi họng xong, bác sĩ khẳng định, anh bị mắc xương cá, và hẹn anh, chiều quay lại để lấy xương cá ra.

Trong thời gian đó, bác sĩ đã nhờ một người đi tìm một chiếc xương cá thật, và khi anh tới, bác sĩ làm các thủ thuật như đang gắp xương cá ra, rồi nhanh tay đưa cho anh B xem chiếc xương cá mà bác sĩ đã dấu trong tay từ trước.

Khi nhìn thấy xương cá anh vô cùng mừng rỡ, và từ đó, khỏi hẳn cảm giác vướng vướng, đau đau ở họng.”

Qua hai câu chuyện trên, chúng ta thấy, không phải chỉ có Đông y mà ngay cả Tây y cũng đều công nhận, An chính là chất liệu cần thiết để có thể chữa trị các loại bịnh, nhất là trong câu chuyện thứ hai. Nếu vị bác sĩ không tinh ý và “đánh lừa” anh, bằng cách tạo ra An cho anh, thì bác sĩ không thể chữa trị cho anh B hết bịnh được.

Nói đến chữ “Bịnh”, thì phần đông chúng ta ngày nay, đã đánh đồng chữ  “bịnh” là đau, ốm, hay sức khỏe kém hơn bình thường.

Nhưng thật ra, chữ bịnh theo Thân Thể Thức, là biểu hiển tình trạng của một cơ quan hay bộ phận nào đó trong cơ thể, đã hoạt động qúa độ, hay cách chức năng của bộ phận đó bị ảnh hưởng từ môi trường, hoàn cảnh, hay do vi trùng, vi khuẩn tấn công, nên không còn hoạt động đúng theo quy trình.

Thông thường, trước khi chúng ta bị bịnh, cơ thể của chúng ta luôn có sự báo động “đỏ” cho chúng ta biết, là cơ quan, bộ phận, hay cơ thể đã có sự hoạt động qúa tải hay lệch quy trình. Nhưng Ngã Thức của chúng ta, vì qúa ham mê theo đuổi một điều gì đó, nên thường không để ý đến.

Khi Thân Thể Thức đã báo động cho Ngã Thức rồi, mà Ngã Thức vẫn quyết định không nghe theo, thì Thân Thể Thức sẽ có hai trường hợp để hoạt động: một, quyết định ngưng hoạt động, hai, chấp nhận và điều khiển các cơ quan theo ý muốn của Ngã Thức.

Hãy lấy thí dụ sau đây làm minh họa.

Chị A mới mua một căn nhà, và nhà chị có một bồn hoa. Ngày cuối tuần, chị nghỉ làm, nên quyết định sẽ đi mua hoa về trồng trong bồn hoa của chị.

Vì quen làm việc văn phòng và ít hoạt động tay chân, cho nên, khi chị xới đất lên để trồng hoa trong một khoảng thời gian dài, tay của chị đã bắt đầu cảm thấy hơi bị ê.

Thay vì lắng nghe theo cơ thể của chị, báo cho chị biết, chị đã làm việc quá sức mà thói quen cơ bắp của chị có thể chịu đựng, và chị nên dừng lại, để cho cơ bắp phục hồi.

Nhưng vì Ngã Thức của chị lại muốn đem bồn hoa đẹp chị muốn trồng để khoe với bạn bè ngày mai, nên chị không nghe theo lời cơ thể của chị, và vẫn tiếp tục đào xới đất.

Vì cơ bắp tay của chị đã mệt mỏi, nay lại tiếp tục phải làm them việc, cho nên, các cơ bắp, bắt đầu gia tăng báo động, thay vì, ê thì nay thành đau.

Chị A vì cảm giác muốn khoe với bạn mạnh hơn, cho nên, tuy tay bị đau, chị vẫn tiếp tục công việc đào xới đất trồng hoa của chị. Khi các cơ bắp không thể chịu được nữa, thì gởi báo động “đỏ” đến chị, qua triệu chứng nhức, khiến cho chị vì đau qúa, không thể làm việc được nữa, nên chị phải ngừng.

Sau đó, chị phải bóp dầu cả tuần, mới hết đau nhức, và trong thời gian đó, làm ảnh hưởng đến công việc văn phòng của chị khá nhiều.

Qua câu chuyện này, chúng ta thấy, cơ thể của chúng ta luôn có sự báo động những sự bất thường đang xẩy ra trong cơ thể của chúng ta, theo dạng, từ nhẹ tới nặng, chứ không phải, tự dưng cơ thể chúng ta đau hay nhức một cách đột biến.

Dĩ nhiên, ở đây, chúng ta phải loại trừ trường hợp khi thân thể bị va chạm mạnh, khiến các cơ quan bị thương tổn trầm trọng, thì cơ thể của chúng ta sẽ không báo động kịp cho Ngã Thức lựa chọn.

Như vậy, nếu Ngã Thức của chúng ta chịu lắng nghe những lời “báo cáo” của cơ thể, từ lúc nhẹ, đã lo chữa trị, thì chúng ta sẽ ít bị rơi vào những căn bịnh khó trị sau này.

Các bác sĩ Đông cũng như Tây y đều khuyến cáo chúng ta, nên đi khám bịnh định kỳ, để có thể phát hiện ra những triệu chứng bất thường của cơ thể, lúc mới khởi đầu, như vậy, sẽ dễ dàng chữa trị, hơn là để đến khi qúa nặng, đã làm tổn thương tới các cơ quan, thì sẽ khó trị, và chúng ta sẽ tốn kém về tài chánh nhiều hơn.

Nhưng phần đông với chúng ta, những lời khuyên này hình như vô cảm với chúng ta.

Câu chuyện thứ hai liên quan đến sự thuần phục của Thân Thể Thức trước Ngã Thức.

Anh A có một thân hình khá mập mạp, anh đi cua gái và thường bị các cô chê là anh có bụng bia, nên ít cô muốn quen với anh. Họ chọc ghẹo anh, nếu anh có một thân hình sáu múi, thì họ sẽ về “nâng khăn sửa túi” cho anh.

Mặc dù anh biết là họ chọc ghẹo anh, nhưng sự chọc ghẹo đó, chạm đến tự ái của anh, nên anh quyết định sẽ đến phòng tập thể hình, để tập thành cơ bụng 6 múi.

Dưới sự hướng dẫn của huấn luyện viên thể hình, anh bắt đầu bằng cách đẩy tạ. Ngày đầu tiên, cơ thể của anh rã rời, ê ẩm. Anh đã tính bỏ cuộc, nhưng nhớ lại lời chọc ghẹo của các cô gái, anh cố chịu đau và vẫn tiếp tục ngày thứ hai.

Tuy cơ bắp cũng có ê đau, nhưng anh vẫn cố chịu và kiên trì luyện tập. Trong vòng 2 tuần thì những ê đau của cơ bắp ban đầu không còn. Sau đó, anh tiếp tục thực tập với các dụng cụ khác, và trọng lượng đẩy tạ của anh cũng tăng theo từng ngày.

Chỉ trong vòng vài tháng, cái bụng bia của anh đã bắt đầu phẳng lại, và một thời gian sau, anh cũng tập được cơ bụng 6 múi như Ngã Thức của anh mong muốn.

Qua câu chuyện này, chúng ta thấy, Thân Thể Thức của anh cũng đã có những báo động đỏ cho anh nhưng vì Ngã Thức của anh vì tự ái nên đã kiên trì ra lệnh cho Thân thể Thức làm theo ý của Ngã Thức.

Thân thể thức đã cộng tác với Ngã Thức, và ra lệnh cho hệ thần kinh và các cơ bắp, các tế bào, ghi nhớ những lập trình mới, như: gia tăng sự đàn hồi của các cơ, luân chuyển máu đến các cơ nhanh hơn, tim và phổi cũng phối hợp chặt chẽ để lấy đủ dưỡng khí cho cơ thể, và tim cũng bơm mạnh hơn để thải các độc tố do các cơ bắp hoạt động mạnh thải ra ngoài qua tuyến mồ hôi và nước tiểu v.v.

Trường hợp thứ hai này, thường xẩy ra cho chúng ta, khi chúng ta không chịu nghe theo cơ thể, và cứ tiếp tục “lơ là” với những báo động của cơ thể.

Sau những báo động “đỏ” của cơ thể, mà Ngã Thức của chúng ta cứ “phớt lờ”, thì Thân Thể Thức sẽ coi như đó là một lập trình mới từ Ngã Thức muốn, và ra lệnh cho các cơ quan hoạt động theo lập trình mới này.

Lập trình của anh A là một lập trình mang tính cách khỏe mạnh, đó là những lập trình tốt, mà chúng ta có thể lựa chọn cho cơ thể của chúng ta.

Nhưng nếu lập trình mang tính cách làm hại đến các cơ quan như uống rượu, ăn nhiều chất béo phì,v,v, thì chúng ta nên cẩn thận trước khi đưa ra lập trình cho Thân Thể Thức điều khiển các cơ quan hoạt động, và biến thành thói quen.

Qua thí dụ này, chúng ta thấy, khi chúng ta nói, chúng ta bịnh, có nghĩa là, Ngã Thức của chúng ta đã không lắng nghe những sự báo động của cơ thể; và đã phớt lờ những báo động này. Chính vì sự “phớt lờ” này, chúng ta đã vô tình tạo ra một lập trình mới cho cơ thể của chúng ta.

Lập trình này, do Ngã Thức của chúng ta, vì không hiểu được sự vận hành của cơ thể, hay hiểu nhưng vì qu’a ham mê vào một điều gì đó, nên chúng ta đã đưa ra những lập trình đi ngược, hay sai, với sự vận hành của cơ thể.

Cho nên, Ngã Thức của chúng ta đã làm xáo trộn, và tạo ra sự bất an giữa các cơ quan, và các tế bào; từ đó, tạo ra những vùng năng lượng đối chọi nhau trong cơ thể, và trong Ngã Thức, chúng ta có cảm giác đau hay nhức.

Như vậy, nếu chúng ta muốn sống khỏe mạnh thì chúng ta cần phải để ý đến những ý muốn trong Ngã Thức của chúng ta trước những báo động của cơ thể của chúng ta.

Chúng ta phải xem xét lại, những ý muốn của Ngã Thức của chúng ta có làm cho cơ thể chúng ta mạnh khỏe lên, hay làm cho suy yếu đi.

Nếu chúng ta làm được điều này, thì sự khỏe mạnh của cơ thể của chúng ta có là chuyện tất nhiên.

Ơ trong câu ca dao “có bịnh thì vái tứ phương”, chúng ta đã quan sát và nhìn sâu vào hai chữ “vái” và “bịnh”, vậy còn hai chữ tứ phương nghĩa là gì?

Hai chữ tứ phương ở đây, có nghĩa là, bên ông nội, bên bà nội, bên ông ngoại, và bên bà ngoại, gồm bốn gia tộc, tổ tiên của hai bên nội và hai bên ngoại.

Mỗi gia tộc của ông, bà, nội, ngoại, đều có những tinh hoa mà con cháu có thể quay về để nương tựa các bậc tổ tiên, dẫn lối soi đường.

Như vậy, câu ca dao có “bịnh thì vái tứ phương” qua cách ứng dụng của chúng tôi theo nghĩa thứ hai, có nghĩa là, khi Ngã Thức của chúng tôi có những sự bất an hay vì đam mê theo điều gì đó, nên không chịu lắng nghe theo cơ thể, khiến chúng tôi bị bịnh, thì chúng tôi phải quay về quan sát và nhìn sâu vào trong Ngã Thức để thiết lập được An.

Sau đó, gởi nguồn năng lượng An của chúng tôi đến tổ tiên hai bên nội, ngoại để được tương tác với các Ngài, và nương nhờ các Ngài chỉ dậy, cũng như hỗ trợ cho chúng tôi có cái An lâu dài.

Điều này, cũng giống như, khi ông bà chúng ta còn sống, nếu chúng ta cần những lời khuyên hay học hỏi kinh nghiệm từ ông bà thì chúng ta dùng lời nói để bầy tỏ vậy.

Khi các cụ đã khuất thì chúng ta cũng làm y như vậy, chỉ khác, thay vì dùng lời nói, thì chúng ta dùng ý niệm hay lời nói trong lúc khấn. Ý niệm hay lời nói, đều là những nguồn năng lượng, lời nói thì qua tần số của âm thanh và ý niệm vái cầu là tần số của tâm thức.

Sau khi chúng ta đã có thể thiết lập được sự tương tác với ông bà của chúng ta, và chúng ta có được sự hỗ trợ An từ các vị rồi, chúng ta mới dùng An đó, để quan sát và nhìn sâu xem Ngã Thức của chúng ta đã lập trình những điều gì, tạo nên sự xáo trộn trong cơ thể; nhờ đó, chúng ta sẽ điều chỉnh lại lập trình.

Trong qúa trình điều chỉnh này, chúng ta sẽ kết hợp với các bác sĩ hay các chuyên gia, bằng cách, cung cấp những thông tin chính xác về những lập trình, để các bác sĩ có đầy đủ những thông tin, và đưa ra những chuẩn đoán chính xác.

Thí dụ như câu chuyện về người thân của chúng tôi, mới xẩy ra, liên quan đến thuốc tiểu đường như sau:

Không biết vì lý do gì, mà người thân của chúng tôi trong mấy tháng qua, với chỉ số lượng đường trong máu đều ổn định, bỗng tăng một cách đột biến, nên chúng tôi đã quyết định, đưa người thân của chúng tôi vào nhà thương.

Qua những khám nghiệm, các bác sĩ không biết nguyên nhân vì sao, mà các bác sĩ chỉ phát hiện được có một bịnh duy nhất là bị nhiễm trùng đường tiểu.

Cho nên, các bác sĩ cho rằng, nguyên nhân gây ra đột biến đường là do bị nhiễm trùng đường tiểu. Chúng tôi không phải là bác sĩ, cũng không phải chuyên gia, nên không biết đánh giá đó có phải là nguyên nhân hay không?

Vấn đề mà chúng tôi quan tâm là, người thân của chúng tôi, sau khi được truyền những liều insulin, thì đã trở lại bình thường.

Sau 5 ngày nằm viện, bác sĩ về tiểu đường quyết định, người thân của chúng tôi phải chích insulin để khống chế lượng đường trong máu. Theo toa thuốc của bác sĩ thì người thân của chúng tôi phải chích một mũi buổi sáng và một mũi buổi chiều.

Qua ba ngày chích insulin, và qua những con số mà chúng tôi ghi lại, chúng tôi phát giác ra, khi chích hai mũi sáng chiều, thì sức khỏe của người thân chúng tôi suy sụp hẳn. Thay vì, có thể di chuyển như lúc trước, thì nay lại nằm bẹp, mê mệt.

Cho nên, chúng tôi đã liên lạc với bác sĩ tiểu đường, và đưa ra đề nghị, chỉ nên chích một mũi vào buổi trưa, vì chỉ vào buổi trưa là lúc đường lên cao nhất, còn những lúc khác, thì lại xuống thấp bất thường, không đủ tiêu chuẩn chích insulin.

Bác sĩ, sau khi coi qua cuốn sổ ghi chép cẩn thận với những con số thay đổi qua mấy ngày, và ông cũng coi những tấm hình chúng tôi chụp lại những con số trên máy đo, thì ông đồng ý, chuyển từ chích hai mũi sáng chiều, thành chích một mũi vào buổi trưa.

Sau đó, ba ngày, qua chăm sóc và ăn uống theo phương pháp “Thuốc từ Tâm”, thì chỉ số đường trở về bình thường, và không cần phải chích insulin nữa.

Câu chuyện chúng tôi kể cho bạn, không phải là để chê hay chỉ trích các bác sĩ Tây y, vì chúng tôi hiểu, khi chúng ta không có đủ những thông tin chính xác, mà chỉ dựa trên suy luận và phỏng đoán, thì kết quả không ra đúng như sự thật là chuyện bình thường.

Chúng tôi biết, các bác sĩ, sở dĩ, đưa ra những chuẩn đoán thiếu chính xác, không phải vì họ dở hay không có khả năng, mà bởi vì, họ không trực tiếp chăm sóc cho người thân của chúng tôi, nên họ thiếu những thông tin chính xác để đưa ra những sự chuẩn đoán chính xác.

Cho nên, là người chăm sóc trực tiếp cho người thân của chúng tôi, chúng tôi phải có bổn phận cung cấp đầy đủ các thông tin chính xác nhất cho các bác sĩ, để họ có đầy đủ dữ kiện khi đưa ra phương pháp chữa trị.

Quả nhiên, khi chúng tôi cung cấp đầy đủ các thông tin, các bác sĩ đã có sự điều chỉnh đúng lúc, đúng chỗ, và có thể khống chế được căn bịnh dễ dàng.

“Có bịnh thì vái tứ phương” không phải là chúng ta đi van xin cầu khẩn mọi nơi mọi chỗ. Vì đó, chỉ là chữa ngọn mà không phải chữa gốc.

Chữa tận gốc là chữa bằng cách trở về với chính chúng ta, thiết lập được An, rồi tương tác với các ông bà khuất mặt, để nương theo hướng dẫn, chỉ dậy, soi đường dẫn lối, hay nhờ ông bà của chúng ta tiếp lực hay hỗ trợ cho chúng ta có thể kéo dài được An.

Sau đó, chúng ta dùng nguồn năng lượng An để tìm ra những lập trình mà Ngã Thức đã “vô tình” tạo ra cho cơ thể để chỉnh sửa lại.

Rồi kết hợp với các bác sĩ (nếu có), bằng cách, cung cấp đầy đủ các thông tin chính xác về những suy nghĩ, tư tưởng, lo sợ, v.v. của chúng ta, để các bác sĩ có thể hiểu rõ và có thể chuẩn bịnh đúng hơn.

Khi đã đi khám bác sĩ, chúng ta nên đặt trọn niềm tin vào phương pháp chữa trị, tuân thủ và hợp tác.

Đặt niềm tin trọn vẹn vào bác sĩ, không phải là, bác sĩ nói sao chúng ta nghe vậy, hay cho thuốc thế nào thì chúng ta cứ uống theo như thế, mà trong qúa trình dùng thuốc, chúng ta phải tự theo dõi những diễn biến trong cơ thể, rồi liên tục cung cấp những thông tin đang xẩy ra trong cơ thể của chúng ta cho bác sĩ biết, để các bác sĩ có đầy đủ những thông tin chính xác nhất.

Chỉ khi chúng ta làm được như vậy, chúng ta mới chữa được tận gốc, chứ không phải như thói quen thông thường của chúng ta, khi có bịnh, chữa chỗ này không được thì đi cầu khẩn chỗ khác, mà lại không biết được, chính Ngã Thức của chúng ta mới là tác nhân chính.

Cho nên, khi chúng ta có bịnh, đó không phải là một điều gì đó xấu, hay hại, mà bịnh cũng có những điều tốt giúp cho chúng ta thực tập có An, có sự tương tác với tổ tiên, có cơ hội nhìn sâu vào Ngã Thức để chuyển hóa những lập trình mà Ngã Thức của chúng ta đã vô tình tạo ra.

Nhờ có “vái” mà chúng ta có thể kết hợp giữa hữu hạn của y học với vô hạn của những nguồn năng lượng yêu thương, hiểu biết, an lạc, và hạnh phúc của tổ tiên.

Như vậy, ý nghĩa của “có bịnh thì vái tứ phương” đâu phải chỉ dùng trên góc độ về vật chất, về y học trị liệu, mà còn có thể ứng dụng trên góc độ của tâm linh nữa.

Khi chúng ta biết kết hợp cả hai lĩnh vực vật chất và tinh thần hay tâm linh thì chúng ta sẽ có sức mạnh gấp đôi, thay vì, chỉ sử dụng có một lĩnh vực này hay lĩnh vực khác. Tệ hại hơn, khi chúng ta lại phí thời gian để đi tranh luận xem lĩnh vực này đúng hay sai, hay lĩnh vực này chánh hay tà.

Ai đúng, ai sai, không quan trọng, quan trọng của phương pháp chữa bịnh, dù là Đông hay Tây y, là chúng ta có đạt được kết quả hay không. Nếu có kết quả, đúng như ý chúng ta muốn, và kết quả đó đem đến cho chúng ta an lạc, hạnh phúc thì đó mới là ý nghĩa của “có bịnh thì vái tứ phương”.

Cho nên:

Có bịnh thì nên vái tứ phương

Trở về… tương tác với tổ đường

Cầu xin… học hỏi tâm An Lạc

Nhìn sâu… Ngã Thức… rõ tai ương

Dõi theo… kết hợp cùng y sĩ

Thông tin, dữ liệu… phải… rõ… tường

Niềm tin đặt trọn và tuân thủ

Bịnh đâu còn chỗ… để tựa nương

TỈNH HAY MÊ

album-art

00:00

TẢI MP3 – TRẦN THIỆN TÍCH
TẢI MP3 – DIỆU LIÊN
TẢI MP3 – VIÊN NGUYỆT

Bạn Thân Mến,

Nói đến hai chữ mê và tỉnh là một đề tài khó, vì thế nào mới gọi là mê? và thế nào lại gọi là tỉnh?

Một chàng trai đi trên đường, thấy một cô gái đẹp, liền mê mẫn theo sau, nhưng khi cô gái mở miệng trả lời, thì chàng trai mới hỡi ôi, vì rất là vô duyên. Chàng trai liền “tỉnh giấc” và dừng chân lại không theo nữa.

Mới vài phút trước thì anh chàng vì sắc đẹp quyến rũ của cô gái mê hoặc, vậy mà chỉ vài phút sau, khi nghe cô gái trả lời thì lại tỉnh táo dừng chân.

Trong cuộc đời của chúng ta, không ít lần, chúng ta cũng rơi vào như trường hợp của chàng trai này, chúng ta mê và tỉnh trong phút chốc. Sự đắp đổi giữa tỉnh và mê có đôi khi khiến chúng ta rơi vào trạng thái dở khóc dở cười.

Nhưng có những mê và tỉnh trong cuộc đời của chúng ta lại qúa dài, dài đến độ, chúng ta tưởng tượng ra có thể kéo từ kiếp trước đến kiếp sau, và chúng ta không biết bao giờ mới tỉnh.

Vậy thì mê là gì? và tỉnh là gì?

Mê có nghĩa là say, mờ mịt tâm trí, hết biết gì. Nếu chúng ta để ý, chúng ta thấy có chữ “hết biết” trong mê, có nghĩa là, chúng ta không có kinh nghiệm trải qua, nên thường dùng sự phỏng đóan hay tưởng tượng ra kết quả.

Còn Tỉnh nghĩa là hết hoảng sợ, sáng suốt, không u tối sai lầm như trước, hay kiểm điểm, suy xét, v.v.

Như vậy qua định nghĩa, chúng ta thấy mê và tỉnh, diễn tả hai trạng thái đối chọi nhau, hễ có cái này thì không có cái kia, mà có cái kia thì không có cái này.

Đây là một điều khá lý thú trong ứng dụng, vì nếu chúng ta biết lựa chọn đúng, chúng ta sẽ không cần phải lo tiêu diệt cái kia, mà cái kia cũng khó mà hiện hữu. Chúng ta đang biến nhị nguyên thành nhất nguyên.

Câu chuyện bắt đầu khi chúng tôi quyết định đi học Oriental Medicine (Y học Phương Đông) tại một trường đại học tại Nam California.

Xin nói rõ, trường Oriental Medicine là trường do người Đại Hàn làm chủ, và chỉ có những học sinh Á Châu theo học, trong đó, trường phân chia lớp học theo ngôn ngữ, và các giảng sư cũng là người cùng chủng tộc.

Ngay sau vài bài học đầu tiên thì nhóm sinh viên Việt, ngoại trừ ba người chúng tôi đã chống đối lại với vị giảng sư, vì cho rằng, vị giảng sư không có nhiều kinh nghiệm về học thuyết Âm Dương, trong khi, họ đã có kinh nghiệm nhiều năm học tại Việt Nam.

Theo học thuyết Âm Dương, thì Dương là ở trên và Âm là ở dưới.  Cho nên, khi học luận về cái đầu và cái chân của con người, đâu là Âm và đâu là Dương, lại trở thành một đề tài xung đột.

Theo nhóm sinh viên Việt, họ cho rằng, vị trí cái đầu ở trên nên thuộc về Dương, còn vị trí cái chân ở dưới là Âm; trong khi, vị giảng sư lại cho rằng, cái đầu là Âm, và cái chân là Dương.

Cả hai bên đều đưa ra những sách vở và những lý lẽ để biện minh cho những điều họ tin. Khổ nỗi, sách nào, nếu đứng trên góc độ đó thì đều đưa ra những lý luận trên góc độ đó, mà lại không đề cập đến những góc độ khác.

Cho nên, không bên nào có thể thuyết phục được bên nào, cuối cùng, để phản đối giảng sư, nhóm sinh viên Việt quyết định bãi học và biểu tình bắt ép nhà trường phải thay giáo sư khác. Lúc đó, trong lớp học chỉ còn lại ba chúng tôi.

Mỗi khi chúng tôi vào lớp, thì nhóm sinh viên Việt biểu tình lườm nguýt, và tự động coi chúng tôi như “kẻ thù”, vì không theo nhóm của họ.

Với kinh nghiệm nghiên cứu về học thuyết Âm Dương, chúng tôi phân biệt được rất rõ ràng, khi nói đến Âm hay Dương thì Âm hay Dương phải đối với cái gì, chứ không thể chỉ nói đó là Âm hay Dương? Hay nói chính xác hơn, về định nghĩa thì nhóm sinh viên Việt Đúng, nhưng về ứng dụng và lý thuyết thì vị giảng sư lại đúng.

Ông đúng vì theo quan niệm của ông, khi trị bịnh, chúng ta không phải chỉ trị bịnh trên thân không mà thôi, mà còn phải lệ thuộc vào môi trường, hoàn cảnh và vùng miền.

Cho nên, khi luận về Âm Dương thì phải dựa trên “tam hợp thể hay tam tài” Thiên Địa Nhân. Vì trời ở trên cao nên trời là Dương, đất ở dưới thấp nên đất là Âm, và con người ở giữa trời đất, nên đầu đội trời thì đầu là Âm, nghĩa là đầu ở dưới Trời, và chân đạp đất thì chân là Dương, vì chân ở trên mặt đất.

Cách giải thích này, không những vừa đúng với định nghĩa Dương trên, Âm dưới, mà trên thực tế, trong ứng dụng, khi trị bịnh thì phải dựa theo môi trường, hoàn cảnh, vùng miền khác nhau mà chữa trị.

Cho nên, chúng tôi đồng ý với cách giải thích của vị giảng sư, vì cách của ông vừa thỏa mãn được định nghĩa và ứng dụng. Ngược lại, nhóm sinh viên Việt chỉ có thể đúng với lý thuyết, nhưng khi ứng dụng lại cần phải chỉnh.

Sau vài tuần, vị sợ “mất lòng” nhóm sinh viên Việt, nên hai người khác cũng không vào lớp mà đi biểu tình chung với các người khác.

Cho nên, cuối cùng trong tiết học, chỉ còn lại chúng tôi và vị giảng sư, chỉ một thầy một trò, nhưng cả hai chúng tôi lại rất hạnh phúc, vì chúng tôi có thể chia xẻ mọi đề tài mà chúng tôi muốn.

Tuy sau này, vì những nghiên cứu khác, chúng tôi không còn theo học với ông, nhưng giữa ông với chúng tôi có một mối giao tình đặc biệt. Không phải chỉ có tình thầy trò, mà mỗi khi chúng tôi gặp nhau, cả hai đều chia xẻ những góc độ nhìn khác nhau về cả Y học và khoa học.

Ngoài bằng tiến sĩ về Y học phương Đông, vị giảng sư cũng có bằng tiến sĩ về điện tử, và có 15 bằng sáng chế các loại máy và thuốc.

Vài trong những thuốc đặc trị của ông là viêm da và Trĩ. Ai đã từng bị đau về Trĩ thì mới biết được giá trị thuốc của ông. Dù cho cơn đau Trĩ có đau như thế nào, chỉ cần bôi thuốc của ông vào, chỉ trong vòng một phút là cơn đau dịu lại bình thường, và trong 3 ngày là dứt hẳn.

Tiếc thay, sau ngày ông mất, chúng tôi vì muốn đem những nghiên cứu của ông để giúp người, quảng bá rộng rãi, nhưng con gái của ông, lại quyết định, dừng sản xuất và đem tâm huyết nghiên cứu bao nhiêu năm của ông để lên bàn thờ để cúng.

Nếu là bạn thì việc không theo nhóm sinh viên Việt biểu tình chống lại vị giảng sư của chúng tôi có phải đó là mê, hay tỉnh?, hay như trường hợp của cô con gái của vị giảng sư kia, đem bao tâm huyết mà cha mình nghiên cứu để giúp người, đặt lên bàn thờ cúng mà không tạo ra sản phẩm là tỉnh, hay mê?

Rõ ràng, khi đứng trên nhị nguyên thì mê với người này, có thể tỉnh với người kia, hay tỉnh với người này thì lại mê với người kia.

Vậy làm sao chúng ta có thể biết được khi nào chúng ta đang mê hay chúng ta đang tỉnh?

Muốn biết chúng ta mê hay tỉnh thì chúng ta chỉ có thể dựa vào một điều duy nhất, đó là, tiếp xúc được với sự thật.

Vậy làm sao chúng ta biết đó đúng là sự thật?

Bạn đang đi trên đường và chứng kiến từ đầu hai chiếc xe đụng vào nhau. Khi chúng tôi đến bên bạn, và hỏi bạn, chuyện gì đã xẩy ra, và bạn trả lời như sau:

Đèn bên anh A đã đỏ, nhưng anh cố vượt qua, và đụng vào chị B đang chạy khi đèn xanh.

Nếu bạn dừng lại ở đây thì bạn đang nói sự thật, vì đó là những gì đã xẩy ra như nó đã là. Nhưng nếu bạn lại tiếp tục như sau:

Anh A là người có lỗi, vì lái xe quá ẩu, xứng đáng bị trừng phạt và bị bồi thường, v.v. thì bạn đang nói không đúng sự thật.

Vì sao? Vì bạn không biết được có phải vì anh lái ẩu hay không? Hay tại con anh đang gặp nguy hiểm cháy nhà, nên anh phải chạy gấp về cứu con anh.

Rõ ràng, bạn hoàn toàn không biết lý do tại sao anh A lại chạy vượt đèn đỏ, nhưng bạn lại dựa trên sự phỏng đoán, và tưởng tượng của bạn, hay bạn lại “suy bụng ta ra bụng người”, nên bạn đã đưa ra một kết luận “rất chắc nịch” rằng, anh A chạy ẩu nên đáng bị trừng phạt.

Như vậy, nếu một người nào đó từ xa đến, chưa biết chuyện gì xẩy ra gây ùn tắc giao thông hỏi bạn, mà bạn lại trả lời:

Đèn bên anh A đã đỏ nhưng anh cố vượt qua và đụng vào chị B đang chạy khi đèn xanh. Anh A là người có lỗi, vì lái xe quá ẩu, xứng đáng bị trừng phạt và bị bồi thường, v.v, và người đó tin vào những điều bạn nói, đó là sự thật, thì sự thật đó có đúng không?

Chắc chắn là không, vì sự thật, bạn chỉ chứng kiến hai chiếc xe đụng nhau, chứ bạn đâu có biết rõ sự thật tại sao anh A lại vượt đèn đỏ.

Người mới đến nghe lời bạn và tin đó là sự thật đã là tai hại rồi, nhưng nguy hiểm nhất là, chính bạn cũng tin vào những phỏng đoán và tưởng tượng của bạn, và cho đó là sự thật.

Như vậy, nếu bạn muốn biết đúng sự thật cho câu bạn đính kèm vào, thì bạn phải đến hỏi anh A, lý do tại sao anh lại vượt đèn đỏ. Khi biết được lý do từ chính anh A thì bạn mới có thể đính kèm lý do đó vào sau sự thật ban đầu bạn chứng kiến.

Nếu bạn không có điều kiện để biết được lý do tại sao thì bạn chỉ cần dừng lại đúng những gì bạn chứng kiến đang xẩy ra như là, mà không thêm và không bớt, bất cứ một chi tiết nào, dù chi tiết đó có lợi hay có hại cho bạn hay cho người khác.

Khi bạn làm được như vậy thì gọi là bạn đang tiếp xúc đúng với sự thật, nếu bạn thêm thắt vào điều gì mà bạn chưa biết, hay dùng sự phỏng đoán, hay tưởng tượng, rồi đưa ra kết quả thì bạn đang rời xa sự thật.

Cho dù, sau này, sự thật có xẩy ra giống như phỏng đoán hay tưởng tượng của bạn, thì bạn cũng đã không thực sự tiếp xúc đúng với sự thật lúc ban đầu.

Trong đạo Phật, khi chúng ta không nhìn đúng với sự thật thì gọi là vô minh, nghĩa là không sáng suốt, mê mờ.

Khi chúng ta bị mê mờ thì chúng ta sẽ gây ra những nhận thức sai lầm, không đúng với sự thật, và đó chính là nguyên nhân gây ra sự khổ đau cho mình và cho người.

Còn người có thể tiếp xúc được với sự thật như đang là thì gọi là người Tĩnh Thức hay người Thể Nghiệm, và nếu người này vẫn tiếp tục duy trì được sự tiếp xúc với sự thật, và đem ứng dụng trong giao tiếp với mọi người thì người đó gọi là người Tỉnh Thức hay người Dụng Nghiệm.

Như vậy, mê nếu diễn rộng ra, có nghĩa là, khi chúng ta tiếp xúc với điều gì, vật gì, hay người nào, chúng ta hay có thói quen thêm thắt vào sau sự thật với sự phỏng đoán hay tưởng tượng ra kết quả, hay dựa trên những niềm tin chưa được kiểm chứng hay trải nghiệm của chúng ta.

Cho nên, khi tiếp xúc không đúng với sự thật thì chúng ta hay rơi vào sự bẽ bàng. Khi rơi vào bẽ bàng thì Ngã Thức của chúng ta vì sợ “mất mặt”, nên sẽ ra lệnh cho Ý Thức đi tìm những lý do để ngụy biện cho sự bẽ bàng vì tin sai sự thật.

Chỉ cần, chúng ta làm được một lần, thì chúng ta sẽ làm lại lần thứ hai, khi chúng ta lại rơi vào thế bẽ bàng. Cuối cùng, khi chúng ta cứ lập đi lập lại hành động này, thì hành động đó biến thành thói quen.

Khi đã biến thành thói quen, thì lúc đó, chúng ta muốn thay đổi thói quen đó, cũng không hề dễ dàng chút nào.

Câu chuyện Tam Đại con Gà mà chúng tôi nghe từ thưở nhỏ đã nói lên cho sự bẽ bàng và biện luận ra sao của Ngã Thức khi tiếp xúc với sự thật.

Ngày xưa, có anh học trò học hành không ra gì nhưng đi đâu cũng lên mặt ta đây, văn hay chữ tốt. Có một nhà khá giả tưởng anh ta hay chữ thật, nên mới đón anh về để dậy cho con trẻ trong nhà.

Một hôm, khi dậy đến chữ “kê” là gà, anh thấy mặt chữ có qúa nhiều nét rắc rối, mà anh thì lại không biết là chữ gì, trong khi những đứa trẻ lại hỏi anh quá gấp, nên anh cuống quýt, nói liều: “Dủ dỉ là con dù dì”.

Anh cũng khôn, khi nhắc những đứa trẻ đọc nhỏ, vì nhỡ có sai thì cũng đỡ xấu hổ. Nhân trong nhà có bàn thờ ông thổ công, anh mới đến khấn thầm xin ba đài âm dương, để xem chữ ấy có phải thật là “dù dì” không.

Thổ công cho ba đài được cả ba.

Được vậy, anh lấy làm đắc ý, tư tin.

Hôm sau, anh bệ vệ ngồi trên giường và ra lệnh cho lũ trẻ đọc cho to. Những đứa trẻ vâng lời anh, gân cổ lên gào:
“Dủ dỉ là con dù dì… Dủ dỉ là con dù dì”.

Người cha đang làm vườn, nghe tiếng đọc to của lũ trẻ, ngạc nhiên chạy vào, giở sách ra xem, rồi hỏi anh:

Chết thật! Chữ “kê” là gà, sao anh lại dậy “dủ dỉ” là con “dù dì”?

Bấy giờ anh mới biết, và thầm trách ông thổ công: “Rõ thật, mình đã dốt, nhưng ông thổ công của nhà này càng dốt hơn mình”, nhưng nhanh trí, anh vội nói gỡ:

Tôi biết là chữ “kê”, mà “kê” nghĩa là “gà”, nhưng tôi đang dậy cho các cháu biết đến tận tam đại con gà kia.                                 

Người cha càng không hiểu, hỏi:

Tam đại con gà, nghĩa là làm sao?

Thế này nhé! Dủ dỉ là con dù dì, dù dì là mẹ con công, con công là ông con gà!

Như vậy, không phải là tam đại nhà con gà thì là gì nữa.

Mặc dù, đó chỉ là câu chuyện cổ tích vui, nhưng trong thực tế, chúng tôi cũng đã gặp biết bao nhiêu người như anh chàng này, và cũng chứng kiến họ sống trong sự đau khổ như thế nào khi sống xa sự thật.

Và câu chuyện vừa mới xẩy ra với người thân của chúng tôi thì ai đang mê, đang tỉnh.

Nếu bạn đã đọc qua bài Tâm Dược, bạn đã biết sơ qua về người thân của chúng tôi, khi bác sĩ về não bộ và thần kinh đã khẳng định, người thân của chúng tôi đang bị bịnh suy khờ người già và đang trong qúa trình thoái hóa.

Trong bài Tâm Dược, chúng tôi cũng chia xẻ với bạn về góc nhìn rất chủ quan của chúng tôi về bịnh suy khờ người già, nhưng sự kiện xẩy ra sáng nay, lại dậy cho chúng tôi những bài học mới.

Trên căn bản, khi chăm sóc cho người bịnh lớn tuổi suy khờ thì mặc tã gần như là điều kiện cần phải có. Ngoài hai cái tã bên trong thì bên ngoài cũng phải có cái quần.

Cả tháng nay, khi sáng thức dậy chúng tôi luôn thấy người thân của chúng tôi cởi quần ra, mà chỉ còn mặc tả. Vì thấy tã bị ướt, nên chúng tôi chỉ đưa người thân đi tắm cho sạch sẽ, và thay tả mới, nhưng không hề để ý đến việc tại sao người thân của chúng tôi lại cứ cởi quần ra và để một bên.

Sáng nay, sau khi tắm và thay tã xong, chúng tôi mới bắt đầu thắc mắc, và hỏi người thân của chúng tôi, tại sao lại cởi quần ra?

Người thân của chúng tôi mới đáp:

Vì chỉ mới ướt cái tã, mà cái quần còn khô, nên mới cởi cái quần ra.

Câu trả lời của người thân của chúng tôi, khiến cả nhà cười lăn ra, nhất là mấy đứa con của chúng tôi, vì chúng tin vào những gì bác sĩ đã khẳng định là, “càng lúc càng trở nên giống trẻ thơ, không còn ý thức”.

Nhưng sự thật thì lý lẽ của người thân suy khờ người già của chúng tôi hoàn toàn hợp lý, và ai trong chúng ta, khi có ý thức, cũng đều hành động như vậy. Nghĩa là, nếu chỉ ướt cái tã, mà chưa ướt cái quần, thì phải cởi cái quần ra, chứ sao lại để ướt cái quần. Trừ khi, lúc đó, chúng ta vì mặt mũi, vì sợ xấu hổ, nên mới không dám cởi mà thôi.

Qua hành động của người thân của chúng tôi, chúng tôi học được những bài học rất đáng suy ngẫm như sau:

Nếu chúng tôi dùng Trí để nhìn về hành động của người thân của chúng tôi, mà không thắc mắc hỏi và tìm nguyên do, thì qua việc làm đó, chúng tôi sẽ cảm thấy xấu hổ, không những cho người thân của chúng tôi, mà cả chúng tôi nữa.

Từ sự xấu hổ này, chúng tôi sẽ liên tưởng đến những điều khẳng định của bác sĩ và phỏng đoán tình trạng bịnh của người thân của chúng tôi càng lúc càng tệ hại hơn xưa, đến độ, không còn biết xấu hổ, chỉ mặc tã, không mặc quần.

Nhưng trên thực tế, rõ ràng, người thân của chúng tôi đang dần có lại ý thức, khi đã biết dùng những chức năng so sánh, phân tích của ý thức để đưa ra một hành động rất hợp lý.

Nếu với những người bịnh bình thường khác thì hành động cởi quần ra có thể mang nhiều ý nghĩa khác. Nhưng với người bị bịnh suy khờ người già, người đang mất dần đi ý thức, lại có thể sử dụng ý thức một cách linh hoạt thì đó không phải là việc bình thường.

Rõ ràng, khi chúng tôi sử dụng Trí cộng thêm sự tưởng tượng thì chúng tôi đã không nhìn đúng với sự thật, từ đó, tạo ra những cảm giác, xấu hổ, mất mặt, bực tức,v.v, trong khi, người thân của chúng tôi khi trải nghiệm, đối diện với sự thật và hành động trên sự thật, thì hành động đó, chỉ chú trọng đến vấn đề, tã đang bị ướt và quần đang khô, để giải quyết. Chứ không hề có mặt của Ngã Thức tham gia vào để có những cảm xúc/giác khác.

Vậy thì, người thân của chúng tôi đang mê hay đang tỉnh? Mê vì không biết xấu hổ khi chỉ nằm mặc tả mà không mặc quần, hay Tỉnh vì đã biết dùng ý thức để phân tích so sánh và cởi cái quần khô ra khi cái tã bị ướt.

Và chúng ta là những người đi chăm sóc cho người bịnh, chúng ta có nên đi tìm hiểu nguyên do cho rõ ràng trước khi đưa ra nhận định, hay chúng ta dùng sự phỏng đoán và niềm tin chưa kiểm chứng để đưa ra nhận định.

Cho nên, tỉnh tỉnh, mê mê, lấy gì để đo, đâu mê, đâu tỉnh. Nếu không dựa trên sự tiếp xúc với sự thật thì cái mà chúng ta tin là tỉnh đó, biết đâu lại là mê chăng?, và cái mà chúng ta cho là mê đó, khi tiếp xúc với sự thật, thì mê kia lại là tỉnh chăng?

Tỉnh mê mê tỉnh, mê là tỉnh

Mê tỉnh tỉnh mê, tỉnh là mê

Mê trong sự thật, mê là tỉnh

Tỉnh trong phỏng đoán, tỉnh là mê

LỢI DỤNG

album-art

00:00

TẢI MP3 – VIÊN NGUYỆT
TẢI MP3 – HỒNG TRẦN

Bạn Thân Mến,

Hai chữ “lợi dụng” thì không ai trong chúng ta xa lại gì, vì gần như chúng ta sử dụng mỗi ngày. Nhưng hai chữ lợi dụng, với sự diễn dịch định nghĩa của chúng ta, thì hai chữ này lại mang một ý nghĩa thiên về phần xấu, có nghĩa là, có ai đó đã sử dụng chúng ta như một công cụ để làm lợi cho họ.

Nếu bạn sinh hoạt với chúng tôi, bạn sẽ quen với cách giao tiếp của chúng tôi, là bao giờ cũng phải nói rõ định nghĩa mà chúng tôi sử dụng.

Chúng tôi đã luôn nhấn mạnh, ai trong chúng ta cũng đều có quyền diễn đạt định nghĩa theo ý mình. Nhưng diễn nghĩa làm sao để đem đến kết quả, đem đến an lạc và hạnh phúc lâu dài cho chúng ta thì đó mới là lựa chọn tốt nhất.

Còn nếu như sự diễn dịch của chúng ta mà đem đến những khổ đau, phiền muộn, tạo ra quá nhiều hậu quả mà chúng ta phải gánh chịu, thì chúng ta nên chỉnh sửa lại sự diễn dịch của mình.

Chúng tôi cũng không cho rằng, cách thức của chúng tôi là tiêu chuẩn vàng, là đúng nhất, là hay nhất, hay cao nhất, mà đó chỉ là những trải nghiệm, những ứng dụng, mà chúng tôi đang học và hành trong cuộc sống hàng ngày để kéo dài sự an lạc và hạnh phúc trong cuộc đời của chúng tôi.

Chúng tôi cũng khẳng định, chúng tôi không phải là văn, thi sĩ, đạo học gia, triết gia, hay triết luận gì. Chúng tôi là những người vô cùng bình thường như tất cả mọi người, cũng có những lúc buồn vui bất chợt.

Nhưng vì, chúng tôi từng là nạn nhân do chính những nhận thức sai lầm của chúng tôi đã làm cho chúng tôi đau khổ, phiền muộn. Cho nên, trong những lúc đối diện với khổ đau, thay vì, như những thói quen trước đây là trốn chạy và đè nén, thì chúng tôi đã quyết định dừng lại, và trực tiếp đương đầu và đi giải quyết những vấn đề.

Trong qúa trình đương đầu với các vấn đề, chúng tôi liên tục học hỏi và sửa sai. Chúng tôi chấp nhận chúng tôi sai, và tiếp tục chỉnh sửa mỗi ngày.

Cho đến hiện tại, chúng tôi vẫn tiếp tục thực hành, rồi học tập, rồi lại thực hành, chưa hề gián đoạn, bởi vì, qua qúa trình thực hành chúng tôi biết, muốn kéo dài An trong đời sống hàng ngày cho đến cuối đời, thì không phải chỉ hiểu và biết một lần là đủ, vì sự thật, chúng tôi đang sống với vô thường, nghĩa là luôn luôn có sự thay đổi.

Chính vì vậy, ngày nào, chúng tôi cũng có chuyện để chia xẻ với bạn, không phải vì, chúng tôi muốn khoa trương kiến thức, mà chúng tôi chỉ muốn nhắn nhủ với bạn rằng, ngày nào, chúng ta cũng có những vấn đề phải giải quyết, và cách thức giải quyết vấn đề như thế nào để có thể có được an lạc, hạnh phúc kéo dài hơn.

Chúng tôi rất ngưỡng mộ những ai có khả năng chỉ cần thực hành một lần, và có an lạc, hạnh phúc cả đời. Chúng tôi mong được theo chân các vị đó để được học hỏi.

Có lẽ, chúng tôi phận mỏng, nên chưa đủ cơ duyên để được gặp các Ngài. Thay vì ngồi chờ đợi các Ngài, chúng tôi sẽ tận lực đi giải quyết những vấn đề mà mỗi ngày chúng tôi đối diện, giải quyết một cách rốt ráo để kéo dài an lạc cho chúng tôi.

Còn bao giờ chúng tôi có đủ cơ duyên được gặp các Ngài thì chúng tôi thật sự không biết, và các Ngài là ai thì chúng tôi cũng chưa biết.

Nói theo đạo Phật thì tất cả những điều đó đều tùy thuộc vào duyên.

Cho nên, chúng tôi xin khẳng định lại một lần nữa, đây chỉ là những sự trải nghiệm của cá nhân chúng tôi, chứ không phải đi xét nét, ai đúng, ai sai. Ai trong chúng ta cũng đều có niềm tin, và chúng tôi tôn trọng niềm tin của mọi người.

Chúng tôi cũng không kêu gọi hay thuyết phục bạn nên tin vào cách ứng dụng của chúng tôi. Với chúng tôi, những gì chúng tôi chia xẻ với bạn, đó chỉ là những thông tin về một góc độ nhìn khác với bạn.

Có thể qua ứng dụng, đối với chúng tôi, đó là sự thật, nhưng với bạn có thể là không. Nhưng chúng tôi biết, có một dấu ấn vô cùng quan trọng mà chúng ta có thể sử dụng để biết được đâu là sự thật, đó là dấu ấn của AN.

Khi mà dấu ấn của AN không bị nhạt nhòe, tan biến trong một khoảng thời gian ngắn, và AN có thể kéo dài, không tạo ra hậu quả mà là kết quả, thì đó, chính là dấu ấn của sự thật.

Trở lại chủ đề về hai chữ Lợi Dụng, Lợi có nghĩa là điều có ích với mình, dồi dào, có nhiều; Dụng có nghĩa là dùng, xài. Như vậy, Lợi Dụng có nghĩa là làm lợi cho mình mà có hại cho người khác.

Nhưng nếu bạn đã quen với những bài viết của chúng tôi, bạn sẽ thấy cách chúng tôi diễn dịch định nghĩa sẽ “rất lạ” khi chúng tôi dùng qua ứng dụng.

Nếu bạn để ý, bạn sẽ thấy khi chúng tôi đặt tựa đề có hai chữ, thì thường chúng tôi lại có những diễn nghĩa “không giống ai”, cho nên, hai chữ Lợi và Dụng với chúng tôi qua ứng dụng, đó là, “Mình Làm Gì Có Lợi Để Cho Người Khác Dùng”.

Chắc chắn, sẽ có rất nhiều bạn sẽ không đồng ý với chúng tôi, vì cho rằng, như vậy là mình qúa thiệt thòi. Chúng tôi rất đồng ý với bạn, vì lúc xưa, chúng tôi cũng nghĩ giống như bạn, chúng tôi cũng tìm đủ mọi cách để “bảo vệ” chúng tôi để không cho ai có cơ hội lợi dụng.

Khi giao tiếp với ai, chúng tôi lúc nào cũng nghi ngờ đối tượng, và luôn lo âu không biết là người kia có lợi dụng chúng tôi hay không?

Chúng tôi nghĩ, khi chúng tôi nghi ngờ người kia ở trong lòng thì làm sao họ biết. Nhưng sau này, chúng tôi biết, là dù người kia họ không biết, nhưng họ có thể “cảm” được nguồn năng lượng nghi ngờ này của chúng tôi.

Lúc đó, chúng tôi không thể nào giải thích được, tại sao có nhiều thương vụ, đáng lý ra sẽ thành công, nhưng cuối cùng lại thất bại.

Chúng tôi phiền muộn vì bao công sức, bao nhiêu trí lực, đã đổ dồn vào thương vụ đều đem đi đổ sông đổ biển.

Cuối cùng, chúng tôi quyết định đem những thất bại đó lên quan sát và nhìn sâu hơn, lúc đó, chúng tôi mới phát giác ra một điều vô cùng đơn giản, đó là, không phải vì kế hoạch của chúng tôi có vấn đề, mà vấn đề nằm ở chỗ, chúng tôi đã khởi ý niệm nghi ngờ, sợ bị người khác lợi dụng, nên kết quả ra, chính là sự nghi ngờ thương vụ sẽ không thành công, hay người kia chỉ lợi dụng chúng tôi, chứ không phải là kết quả của thương vụ thành công như chúng tôi muốn.

Khi phát hiện được điều này, chúng tôi thay đổi cách nhìn và ứng xử của chúng tôi, và chúng tôi đã đạt được những thành công như mục đích của chúng tôi đặt ra.

Hãy lấy câu chuyện sau đây để minh họa:

Chị L với chúng tôi là người làm cùng nghành. Vì cơ sở của chị không có đủ những điều kiện để đấu thầu với những hãng lớn, nên bao giờ có đấu thầu thì chị cũng đến xin hợp tác với chúng tôi.

Sau khi có đầy đủ những kế hoạch của chúng tôi, cũng như cung cấp đầy đủ những yêu cầu đấu thầu, thì chị lại dùng tên của hãng chị để đấu thầu.

Phần lớn những đấu thầu của chị đều thành công. Nếu là bạn, bạn có nghĩ là chúng tôi đang bị lợi dụng không? Chắc chắn, phần đông các bạn đều cho chúng tôi đã bị chị lợi dụng, hay có nhiều bạn còn cho rằng, cách ứng xử của chúng tôi là “ngu ngốc”, khi đem những kế hoạch, và ngay cả cơ sở của chúng tôi, cho chị dung, cho mục đích của chị.

Nếu như ngày xưa, với những quan điểm sợ người khác lợi dụng và nghi ngờ người khác, thì chúng tôi hoàn toàn đồng ý với bạn, nhưng sau khi chúng tôi quan sát và nhìn sâu, thay vì nghi ngờ chị, chúng tôi lại đặt trọng tâm vào làm sao cho thương vụ đấu thầu được thành công mà không cần biết ai đi thực hiện.

Chính vì vậy, khi chị đấu thầu thành công, đối với chúng tôi thì mục đích đã đạt được, và chúng tôi rất an vui, thay vì, ngày xưa chúng tôi đau khổ vì thất bại, vì đấu thầu không thành công.

Thay vì, chúng tôi tự ty mặc cảm, vì chúng tôi không có đủ khả năng, hay kế hoạch không hoàn hảo, thì nay chúng tôi có thêm tự tin vào khả năng của chính mình. Chính sự tự tin này, đã giúp cho chúng tôi đã thành công rất lớn trong những thương vụ về sau.

Nếu chúng tôi không có Lợi cho chị L dùng, thì có lẽ giờ này chúng tôi vẫn còn sống trong những nghi ngờ bị người khác lợi dụng, và có lẽ, chúng tôi đã chìm sâu vào trong cảm giác tự ty mặc cảm và khó đạt được những thương vụ đấu thầu thành công.

Nhưng có một điều mà bạn chưa biết đến, là ngoài những Lợi mà chúng tôi đạt được như: sống có an lạc hơn thay vì phiền muộn vì nghi ngờ bị người khác lợi dụng, có kinh nghiệm hơn trong cách ứng xử, có tự tin hơn, và quan trọng là, chúng tôi nắm quyền chủ động để nhường lại cho chị L đi thực hiện những kế hoạch mà chúng tôi đã phát thảo ra, v.v, thì có một cái Lợi “ngoài lề” khác, mà chúng tôi cũng đạt được, đó là, tuy chị L trúng thầu, nhưng với khả năng của hãng chị thì chị chỉ có thể đáp ứng được cho giai đoạn đầu, nhưng về lâu về dài, hãng của chị không thể ứng phó được.

Cho nên, cuối cùng, chị cũng giao lại những mối hàng cho công ty của chúng tôi, và chị lại tiếp tục sử dụng những cái lợi mà công ty của chúng tôi đưa cho chị, để tiếp tục những cuộc đấu thầu mới khác.

Chị càng sử dụng cái lợi mà chúng tôi đưa cho chị bao nhiêu, thì chúng tôi lại có nhiều đơn đặt hàng lâu dài sau này, bấy nhiêu.

Nói theo dân gian, thì chị là người ăn ốc và chúng tôi là người đi đổ vỏ. Và ai trong chúng ta nghe qua, cũng đều cảm thấy chúng tôi bị chị L lợi dụng rõ ràng nếu nhìn trên góc độ ngắn hạn, nhưng trên thực tế, trên góc độ dài hạn thì mục đích của công ty chúng tôi luôn đạt được những thương vụ đấu thầu mà ít khi thất bại.

Nếu đem so với kết quả ngày xưa là nghi ngờ bị người khác lợi dụng và đề phòng, thường đem đến cho chúng tôi những thất bại, những phiền lo, thì khi ứng dụng nhân sinh quan mới của chúng tôi, “Hãy Làm Lợi Cho Người Khác Dụng”, lại đem lại cho chúng tôi những kết quả như: sống có an lạc hơn, có chủ động hơn, có tự tin hơn, và mục đích đặt ra phần trăm thất bại ít hơn.

Chưa nói đến cách ứng xử của chúng tôi với chị L cũng tốt đẹp hơn, thay vì, là đối thủ của nhau, thì chị đi trước ăn trước, chúng tôi đi sau ăn sau. Quan trọng không phải là trước hay sau, mà quan trọng là có ăn hay không? Nếu không thì cả hai cùng chết.

Câu chuyện thứ hai, chúng tôi muốn chia xẻ với bạn về những năm đầu tiên khi chúng tôi đặt chân đến nước Mỹ. Vì chúng tôi là những người Việt đến giai đoạn hai, nên lúc đó, khó khăn hơn các giai đoạn khác.

Trong giai đoạn này, những công ty có đông người Việt làm công nhân nhất, đó là, những công ty về điện tử, gắn và hàn những resistor, capacitor, v.v. vào các bảng mạch điện.

Sở dĩ, nghành này được đa số người Việt chọn, vì thứ nhất: cần đến khéo tay, thứ hai: nhàn hơn, và thứ ba: có thể kiếm nhiều tiền hơn nhờ làm thêm giờ.

Chúng tôi còn nhớ, lúc đó, chúng tôi xin vào làm tại một khâu chuyên về tráng những lớp sơn mầu xanh lên trên các bảng mạch điện.

Khi tráng lớp sơn thì lớp sơn phải đều, không có chỗ dầy chỗ mỏng. Vì nếu có chỗ dầy hay mỏng, thì khi chạy qua máy làm khô sơn sẽ không thể làm cho những chỗ sơn dầy, khô được, nên khi đi tẩy rửa thì sẽ tạo ra tróc sơn, và làm cho mạch điện bị chạm.

Ngày đầu tiên chúng tôi đi làm thì được giao đứng máy tráng sơn trên bảng mạch điện. Chiếc máy đó là chiếc máy mới tinh, mới vừa đặt từ bên Đức về, và các kỹ sư bên Đức đang thử nghiệm trước khi cho vận hành liên tục trong 24 giờ.

Không biết vì bị vấn đề gì, mà cứ khi chạy qua màng sơn thì sơn lại không đều, chỗ thì qúa dầy, chỗ thì lại không có. Ba người kỹ sư cứ như lên cơn điên, chạy đôn chạy đáo, hết chỗ này đến chỗ kia, họp hành liên tục.

Trong lúc đứng quan sát kỹ, chúng tôi thấy, khi bảng mạch điện được chạy qua màng sơn từ trên chảy xuống, thì bên dưới phải có một máng để chứa sơn dư, rồi sơn dư lại được bơm lên trên đầu máy để tạo thành lớp màng sơn tuôn xuống.

Lúc đó, chúng tôi thấy máng sơn lại hơi lệch về một bên, nên mới lấy một miếng giấy gấp lại, nhét vào, tạo ra thế quân bình. Sau đó, chúng tôi chạy thử, quả nhiên, sơn phủ đều lên trên các bảng mạch điện. Chúng tôi thử liên tục trong 60 lần, đều ra kết quả giống nhau. Sau đó, chúng tôi lại rút tờ giấy lót ra, thì kết quả là bị chỗ dầy, chỗ mỏng.

Dĩ nhiên, lúc đó, chúng tôi đâu phải là kỹ sư để đưa ra quyết định, cho nên, chúng tôi đem hai lô 60 miếng lên gặp kỹ sư để hỏi ý kiến. Họ cho biết, 60 miếng mà chúng tôi lót giấy, đó là tiên chuẩn mà họ muốn, và họ hỏi chúng tôi đã làm gì để ra kết quả này.

Lúc đó, chúng tôi không dám nói thật, vì chúng tôi nghĩ, một bộ máy trị giá cả hơn triệu đô, với bao nhiêu đầu óc suy nghĩ để làm ra, không lẽ lại không bằng một sự quan sát và nhìn sâu của chúng tôi sao, nên chúng tôi cứ giả ngu, nói rằng, không biết.

Trong ba người kỹ sư, thì người kỹ sư trưởng là tinh ý nhất. Ông biết là chúng tôi đã biết làm cách nào để ra kết qủa đến 60 miếng giống nhau chứ không thể do tình cờ, hay không biết được.

Cho nên, ông bắt đầu “theo dõi” chúng tôi sẽ làm gì. Cứ hễ có ông thì chúng tôi rút tờ giấy lót ra, và kết quả là hư, phải đi rửa lại bảng mạch điện, nhưng nếu ông chỉ cần đi đâu khoảng 5 -10 phút trở lại, thì kết quả lại ra y như ông muốn.

Cuối cùng, ông quyết định mời chúng tôi đi uống cà phê, ông chân thành tâm sự ông đã xa nhà và rất nhớ vợ con, nếu ông không thể hoàn tất nhiệm vụ cho sự vận hành của máy đúng cách, không những ông phải ở lâu hơn để giải quyết mà ông còn có thể bị mất việc không chừng.

Nghe câu chuyện của ông, lúc đó, chạm vào trái tim của chúng tôi, vì cùng chung nỗi nhớ thương người thân nơi quê nhà, cho nên, chúng tôi mới dẫn ông đến chỗ máy, và bắt đầu nhét miếng giấy vào máng đựng sơn, và chạy thử cho ông xem.

Thay vì, chúng tôi chỉ thực nghiệm có 60 miếng, nhưng ông lại thực nghiệm gấp ba lần – 180 miếng, kết quả đều ra giống nhau. Ông vui mừng ôm chúng tôi thật chặt, và nói cám ơn rối rít.

Sau đó, ông lấy thước đo độ dầy và độ phẳng của máng đựng sơn, thì máng bị mỏng hơn 2/10 inch, nên đã tạo ra vấn đề bên dầy, bên mỏng.

Ông lập tức ra lệnh cho hai kỹ sư khác liên lạc với hãng chính, và đặt lại máng sơn mới. Trong khi chờ đợi máng đựng sơn mới, thì phương pháp “lót giấy” của chúng tôi vẫn được sử dụng vì đơn đặt hàng đang chất đống. Vài tuần sau, máng đựng sơn mới được gởi đến, sau khi lắp vào thì đạt đúng tiêu chuẩn.

Ngày ông về nước, ông có mời chúng tôi đi ăn để cám ơn, lúc đó, ông hỏi chúng tôi, làm sao chúng tôi có thể nghĩ ra cách chêm giấy vào dưới máng đựng sơn?

Chúng tôi trả lời ông, chính vì chúng tôi thích quan sát và nhìn sâu, nhờ vậy, chúng tôi mới phát giác ra độ chênh giữa máng đựng sơn, và đó có thể là vấn đề.

Cho nên, chúng tôi mới thực nghiệm từng độ dầy của miếng giấy khác nhau; lần đầu tiên, chúng tôi nhắm chừng thì thấy độ phủ của sơn trên các bảng mạch điện có thay đổi. Chúng tôi lại tiếp tục thực nghiệm cho đến khi đạt đến kết quả cuối cùng.

Ông nghe xong, cám ơn chúng tôi rất nhiều lần, vì nhờ sự phát hiện này, mà công ty của ông đã sửa chữa lại phần máng, giúp cho công ty tiết kiệm được rất nhiều tiền, và quan trọng nhất là uy tín của công ty của ông không bị suy giảm.

Lúc chia tay, ông có tặng cho chúng tôi một món tiền khá lớn, bằng cả nửa năm lương của chúng tôi, nhưng chúng tôi không nhận.

Trở lại khâu sản xuất của chúng tôi, trong đó, bao gồm nhiều gia đoạn:

Giai đoạn một là phải rửa sạch cái bảng mạch điện;

Giai đoạn hai, máy chạy qua khâu của chúng tôi là tráng sơn,

Rồi qua giai đoạn ba là hấp; sau khi hấp cho sơn đủ khô thì đến giai đoạn bốn là làm phim để rửa sạch những chỗ hàn mạch điện;

Sau khi qua khâu phim thì máy sẽ làm cứng sơn những chỗ không che; sau đó, qua đến giai đoạn năm là phần kiểm tra xem những phim che có chính xác không, nếu những chỗ nối mạch điện bị sai, hay còn sơn đọng lại, thì coi như bảng mạch điện đó bị hư phải đem đi rửa, và làm lại từ đầu.

Những bảng mạch điện nào đủ chuẩn, thì lại đưa qua giai đoạn sáu là dùng một máy rửa khác để làm sạch;

Sau đó, qua giai đoan bẩy và tám là đưa qua phần in chữ và đem hấp lần cuối, thành sản phẩm hoàn tất.

Ngày chúng tôi vào làm, trên chúng tôi có tổ trưởng và người giám sát cho tất cả các khâu. Thay vì, chỉ biết khâu của chúng tôi, thì chúng tôi trong những lúc nghỉ giải lao, lại xuống học cách rửa bảng mạch điện. Người làm việc trong khâu rửa bảng mạch điện rất thích, vì những khi anh lười biếng thì chúng tôi có thể vào phụ việc.

Vì khâu của chúng tôi là khâu thứ hai, nên luôn lệ thuộc vào khâu thứ nhất của anh, cho nên, thay vì ở trong thế bị động, chúng tôi chủ động đi học, để khi cần, chúng tôi vẫn có thể sử dụng.

Sau đó, chúng tôi tuần tự đi học tất cả các khâu. Trong khi, mọi người đi nghỉ giải lao thì chúng tôi lại làm việc. Mọi người vui vẻ giao việc cho chúng tôi, và đi giải lao thoải mái.

Chắc bạn lại nghĩ, họ đang lợi dụng chúng tôi có phải không? Sự thật thì không phải vậy, vì chúng tôi đang làm lợi cho họ sử dụng, và Lợi của chúng tôi sẽ đến như thế nào?

Hơn một tháng sau, vì đơn đặt hàng qúa nhiều, nên công ty quyết định thay đổi lịch trình làm việc, thay vì, làm 8 tiếng mỗi ngày thì lại tăng lên làm 12 tiếng, làm việc trong 4 ngày, và nghỉ 3 ngày.

Người tổ trưởng của chúng tôi vì gia đình có vấn đề, anh không thể theo được lịch trình mới nên xin đổi qua vị trí khác. Chức vị tổ trưởng bị khuyết, nên người giám sát quyết định chọn chúng tôi làm tổ trưởng.

Quyết định của ông khiến nhiều người không phục, vì chúng tôi là người qúa mới, chỉ mới làm hơn hai tháng nếu đem so với kinh nghiệm của nhiều người đã có kinh nghiệm trên 10 năm.

Khi làm tổ trưởng, qua quan sát và nhìn sâu chúng tôi đã biết được những vấn đề mà ca ba của chúng tôi đang đối mặt, cho nên, chúng tôi đã quyết định dùng phương pháp thay phiên và hợp tác. Chúng tôi thay đổi người làm các khâu cho nhau, và ai cũng phải biết tất cả các khâu.

Ngày trước, ai làm khâu nào thì biết khâu đó, nên không hiểu được những khó khăn của khâu khác phải đương đầu là gì, giống như kiểu: sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi vậy.

Nhưng từ khi chúng tôi thay đổi khâu, nên ai cũng hiểu được khó khăn của khâu khác. Vì vậy, khi họ ở khâu nào thì họ sẽ điều chỉnh máy làm sao cho có ít vấn đề nhất cho các khâu sau.

Không những vậy, chúng tôi còn thay thế luôn cả vị trí tổ trưởng luân phiên hàng tuần, để mỗi người hiểu được sự khó khăn thế nào khi vào vai trò lãnh đạo.

Sau hai tháng, ca ba của chúng tôi đã trở thành ca có sản phẩm ít bị hư nhất, sản xuất nhiều sản phẩm nhất, và quan trọng nhất, khi làm xong chỉ tiêu qui định cho một ngày thì chúng tôi cùng nghỉ ngơi, ngồi nói chuyện hàn huyên, hay đi ngủ chờ đến giờ về.

Lúc chúng tôi mới vào làm, ca hai là ca “chiến” nhất, lúc nào, cũng sản xuất ra nhiều sản phẩm hơn các ca khác. Nhưng kể từ khi chúng tôi áp dụng thay phiên và hợp tác, thì ca chúng ta sản xuất nhiều sản phẩm hơn ca hai, mà còn ít bị sai hơn. Vì ngay từ đầu, chúng tôi ai cũng ý thức được, nếu sai là sai cả tổ, nên cùng giúp đỡ, hợp tác với nhau, và cùng đưa ra những kết quả tốt nhất.

Sau này, những bảng mạch điện có giá trị cả trăm ngàn đô đều phải qua tay tổ ba của chúng tôi thực hiện. Có những lô bảng mạch điện lên đến cả triệu đô, lúc đó, những nhân vật cao cấp đều có mặt, vì sợ bị hư.

Nhưng với thói quen đoàn kết và có ý thức, chúng tôi vẫn làm theo cách của chúng tôi một cách tự nhiên, không hề bối rối, hay sợ hãi, khi có mặt của các xếp cao, mà gây ra sai trái. Và quả nhiên với tinh thần đó sản phẩm của chúng tôi  làm ra, luôn đạt tiêu chuẩn cao, và luôn giao hàng trước ngày quy định.

Sau 8 tháng làm việc, chúng tôi quyết định trở lại đi học, nên xin nghỉ việc. Ngày chúng tôi nghỉ, ai cũng buồn, và họ tổ chức một bữa tiệc chia tay chưa bao giờ có trong khâu của chúng tôi, trước đây.

Sau này, khi có dịp gặp lại những người làm trong ca ba của chúng tôi ngày xưa, thì ai cũng đã lên chức làm giám sát hay cao hơn. Họ cám ơn chúng tôi đã chia xẻ và tập cho họ biết làm sao để giải quyết vấn đề, và làm sao làm một người lãnh đạo có trách nhiệm.

Qua hai câu chuyện trên, bạn thấy đấy, đâu phải lợi dụng chỉ mang ý nghĩa xấu là biến mình thành công cụ cho người khác có lợi để dụng, mà thật ra, chúng ta cũng có Lợi.

Cái Lợi mà chúng ta có được, nhiều khi còn hơn là cái lợi mà chúng ta cho người khác sử dụng. Chỉ vì, chúng ta không biết chủ động trong việc làm lợi cho người khác sử dụng mà thôi.

Nếu đã bàn đến Lợi rồi, chúng ta cũng nên bàn thêm về chữ Dụng như thế nào?

Nói đến chữ Dụng thì ai trong chúng ta cũng biết dùng cả, nhưng dùng làm sao cho có ích lợi, mang lại hiệu quả cho mình và cho người, thì lại là cả một nghệ thuật mà chúng ta cần phải học hỏi liên tục.

Có một câu chuyện thế này:

Khi có những đợt hàng mới, đòi hỏi những loại máy đặc biệt mới có thể ra được những sản phẩm đạt tiêu chuẩn và sản xuất đại trà. Thế nên, chúng tôi đã quyết định mua máy đó, thay vì đi mướn.

Sau một khoảng thời gian hợp tác với công ty đó, chúng tôi có những đấu thầu mới, tốt hơn, nên không cần phải sử dụng đến máy đặc biệt này.

Thông thường khi những máy móc không còn sử dụng thì chúng tôi thường xếp vào một góc riêng và trùm những máy lại để không bị bụi bặm.

Có một ngày, có một người thợ, vì hoàn cảnh gia đình, người chồng bị thất nghiệp đã lâu nên kinh tế gia đình vô cùng eo hẹp.

Công ty cũ lúc trước chị làm, lại có những sản phẩm, cần đến máy đặc biệt này. Chị muốn lãnh hàng về nhà cho chồng của chị tập làm để có thêm chút tài chánh, nhưng chị lại không đủ khả năng để mua hay mướn máy.

Chị đến ngỏ lời với chúng tôi xin mua để trả góp. Nghe hoàn cảnh gia đình chị, chúng tôi quyết định đem cái máy đặc biệt tặng cho chị. Chị nhận máy mà nước mắt chan hòa.

Chắc không ít bạn đồng ý với cách giải quyết của chúng tôi, có phải không? Tại sao chúng tôi lại không cho chị mướn, hay cho chị mua trả góp, ít nhất là chúng tôi cũng lấy lại được một phần tiền mua máy?

Có lẽ, quan niệm của chúng tôi hơi “khác người”. Với chúng tôi, khi một cái máy mà không còn được sử dụng hay hữu dụng thì chiếc máy đó trở thành “vô dụng” theo định nghĩa của chúng tôi.

Thay vì, để những chiếc máy “vô dụng” trùm lại thì tại sao chúng tôi không biến nó thành hữu dụng, có thể giúp ích cho mọi người.

Dĩ nhiên, chúng tôi có thể cho chị mướn hay cho chị mua trả góp thì cũng đã là giúp cho chị và cũng biến những thứ “vô dụng” thành hữu dụng rồi. Như vậy, cũng là gọi biết thương người rồi. Nhưng với chúng tôi, tình thương, tình yêu hay tình người, mà còn có điều kiện với nhau thì tình yêu thương hay tình người đó vẫn có thể gây ra khổ đau cho nhau.

Cho nên, khi đã hiến tặng điều gì cho ai chúng tôi luôn hiến tặng một cách vô điều kiện. Chúng tôi không phải chỉ nói suông, mà chúng tôi phải luôn thực tập khi có cơ hội, để biến thành một thói quen.

Đó mới là mục đích trong cuộc đời của chúng tôi. Nếu đứng trên thực tế, bạn đúng vì khi cho chị mua trả góp, hay cho chị mướn, thì chúng tôi có được thêm vài trăm một tháng từ chị.

Nhưng khi chúng tôi đặt câu hỏi với chính chúng tôi:

Một vài trăm một tháng của chị có làm cho chúng tôi giầu có thành tỷ phú không? Câu trả lời là không.

Nếu có thêm vài ba trăm một tháng của chị, có làm cho chúng tôi đẹp ra không? Câu trả lời cũng không.

Vậy nếu chúng tôi đem tặng máy cho chị thì chúng tôi có giầu có không? Câu trả lời là có, vì khi tặng máy cho chị, chúng tôi đang làm giầu có cái an và cái vui của chúng tôi.

Nếu chúng tôi đem máy tặng cho chị chúng tôi có đẹp hơn không? Có, vì chúng tôi đang tiếp tục thực hiện những điều mà tổ tiên của chúng ta đã từng dậy dỗ: Thương người như thể thương thân. Chúng tôi đang tiếp nhận gia tài của tiên tổ để lại, và đang trao truyền hạt giống đẹp này cho các thế hệ tương lai.

Nếu cần phải đem so sánh, cân đo đong đếm thì rõ ràng khi tặng cái máy, đối với chúng tôi là “vô dụng”, thì với gia đình của chị lại thành “hữu dụng”.

Chị không cần phải chắt chiu từng tháng để trả góp cho chúng tôi, như vậy, ít nhất trong bữa cơm của nhà chị, những thành viên trong gia đình sẽ có thêm những chất dinh dưỡng khác.

Chị không còn sợ hãi vì chúng tôi sẽ có thể lấy lại máy bất cứ lúc nào, vì chị còn thiếu lại tiền của chúng tôi. Như vậy, chị sẽ có tâm an hơn, và khi làm ra sản phẩm sẽ ít bị hư hơn, tài chính gia đình của chị có thể nhờ đó mà cải thiện.

Dĩ nhiên, chị có lợi của chị và chúng tôi cũng có lợi của chúng tôi. Đôi bên đều có lợi thì sao chúng tôi lại không làm.

Ngược lại, nếu chúng tôi cho chị mua theo dạng trả góp, biết đâu khi sử dụng, chị làm hư máy và đem trả lại cho chúng tôi, không những chúng tôi bực mình vì phải nhận lại cái máy hư. Nếu bỏ tiền ra sửa thì cũng về chất đống, mà nếu không sửa thì đúng là cái máy trở thành “vô dụng” hoàn toàn. Có thể nói dù trong trường hợp nào cũng khiến chúng tôi rơi vào đau khổ.

Đặt những câu hỏi, quan sát và nhìn sâu, chúng tôi thấy, việc đem tặng cái máy cho chị là việc làm tốt nhất trong các giải pháp để đem đến an vui cho chúng tôi và cho chị.

Câu chuyện thứ hai là câu chuyện khi chúng tôi cho một người bạn mượn chiếc xe để lái khi người bạn của chúng tôi qua California để tham quan thắng cảnh.

Trong lúc đang lái xe, người bạn của chúng tôi đã bị xẩy ra tai nạn, do cô bé mới tập lái, vì chưa quen nên đã đụng từ phía sau.

Vì chiếc xe của chúng tôi cũng là loại đặt tiền, cho nên, người bạn của chúng tôi vô cùng bất an, và đã gọi điện thoại cho chúng tôi để báo tình hình xẩy ra.

Khi nghe người bạn chúng tôi báo qua điện thoại, chúng tôi đã quyết định không làm khó cô bé vừa tập lái, bởi vì, chúng tôi biết, nếu vấn đề đụng xe được bảo hiểm bồi thường thì sau này cô bé sẽ gặp vô vàn khó khăn khi mua bảo hiểm, và nếu có mua được thì giá cũng cao ngất ngưỡng, trong khi, cô bé lại sắp sửa vào trường đại học cần rất nhiều chi phí liên quan đến tài chánh.

Khi người bạn đem xe về nhà chúng tôi, thay vì, đi xem chiếc xe của chúng tôi có ra sao không, thì chúng tôi lại quan tâm đến sức khỏe của người bạn của chúng tôi nhiều hơn. Chúng tôi hỏi người bạn có cần đi bác sĩ không? Có những bất thường nào trong cơ thể không? Có cần đi bịnh viện không?

Khi mà người bạn cho chúng tôi biết, anh vẫn an toàn thì chúng tôi mới thở phào, an tâm. Với chúng tôi, quan niệm về vật chất cũng rất thoáng: một đời ta bằng ba đời nó. Cho nên, khi chiếc xe bị lõm vào một chút, như má lún đồng tiền, thì đó cũng là nét đẹp cho chiếc xe của chúng tôi. Vì thế thay vì đi sửa lại thì chúng tôi quyết định để nguyên vết lõm nhỏ đó.

Qua hai câu chuyện trên, chúng tôi muốn chia xẻ với bạn về cách dùng, và ai trong chúng ta cũng biết. Nhưng mỗi người đều có cách dùng khác nhau, và chúng ta đều có quyền để lựa chọn, chúng ta dùng như thế nào.

Quan trọng không phải là cách dùng này, hay hơn cách dùng khác, mà trọng tâm chúng ta cần hướng đến, đó là cách dùng của chúng ta có đem đến lợi ích cho người và cho mình, và có đem đến cho chúng ta bình an hay hạnh phúc hay không?

Tóm lại, qua hai chữ Lợi Dụng, chúng tôi không chia xẻ với bạn về góc nhìn mà chúng ta đã qúa quen thuộc và sử dụng trong cuộc sống cũng như trong cách ứng xử của chúng ta, mà chúng tôi chia xẻ với một góc nhìn mới, góc nhìn lợi dụng theo tích cực.

Có nghĩa là, bất cứ một việc gì trên thế gian này, cũng có hai mặt, dù mặt này có xấu bao nhiêu thì mặt kia cũng sẽ tốt bấy nhiêu.

Một bài thơ để nhắc nhở chúng tôi khi ứng dụng hai chữ lợi dụng như sau:

Hạnh phúc và khổ đau

Như đồng tiền hai mặt

Cũng như trước và sau

Liền nhau trong tích tắc

Biết dụng không vướng mắc

Biết dụng là Di Lặc

Hay đơn giản hơn và dễ nhớ hơn,

“Chúng ta sẽ trở nên “Vô Dụng” khi chúng ta không có thể làm Lợi cho người khác dùng.

Ở đời, đâu ai muốn trở thành người “Vô Dụng”, có phải không?

CHỮ ĐỒNG Ý, VẤN ĐỀ VÀ NHƯNG

album-art

00:00

TẢI MP3 – VIÊN NGUYỆT

Bạn Thân Mến,

Nếu chủ đề lần trước chúng tôi chia xẻ với bạn về những chữ “đang”, “mặc dù”, “Nhưng” và “Và” để ứng dụng trong việc chuyển đổi từ cảm xúc xấu thành tốt, thì chủ đề lần này chúng tôi sẽ chia xẻ với bạn về 5 chữ “Đồng Ý, Vấn Đề và Nhưng” trong việc ứng xử trong giao tiếp để tránh gây ra sự bất hòa, mà vẫn đạt được mục đích mà chúng ta muốn người kia chấp nhận thông tin của chúng ta, mà không có sự phản đối.

Dĩ nhiên, bạn có thể dùng phương pháp này để giải quyết những cảm xúc/giác của bạn. Việc bạn ứng dụng như thế nào thì tùy theo bạn muốn sử dụng Tuệ Giác của bạn ra sao, chúng tôi không có ý kiến, vì ai trong chúng ta cũng có quyền lựa chọn, và khi lựa chọn điều gì thì chúng ta cũng nên chịu trách nhiệm với những gì chúng ta đã lựa chọn.

Nếu bạn thấy phương pháp của chúng tôi không đúng với bạn, và bạn có những cách hay hơn, chúng tôi cũng mong bạn hãy chia xẻ cho chúng tôi được học hỏi.

Đời người thì qúa ngắn ngủi, mà kiến thức thì vô cùng. Không ai trong chúng ta có thể tự cho mình là biết tất cả. Chúng ta chỉ có thể giúp được nhau, bằng cách, mỗi người học một ít, rồi thực hành cho có kết quả, rồi đem kết quả đó, chia xẻ lại với người khác.

Như vậy, chúng ta giúp nhau khỏi phải học từ đầu. Vừa đỡ tốn thời gian, mà lại có thể tiếp xúc được với đúng sự thật. Nếu chúng ta chỉ học mà không có hành thì những cái học đó trở thành vô ích, vì chúng ta chẳng đóng góp được gì cho mọi người.

Giá trị cuộc sống của con người được đánh giá trên sự đóng góp vào tư tưởng chung của nhân loại. Và trong tất cả tư tưởng vĩ đại của nhân loại hôm nay, đều nhấn mạnh đến những chữ như: An Vui, Hạnh Phúc. Đó chính là mong cầu khao khát nhất của đời người, ngay từ lúc họ mới sinh ra cho đến ngày nhắm mắt.

Cho nên, những chia xẻ của chúng tôi với bạn không phải là để “phô trương kiến thức” mà là những sự trải nghiệm của chúng tôi giúp cho bạn có những góc nhìn mới.

Khẳng định là, những gì chúng tôi trải nghiệm, chỉ đúng với chúng tôi, chứ không đúng với bạn. Những điều này chỉ đúng với bạn, khi bạn trải nghiệm qua và đó là kết quả của chính bạn.

Còn nếu bạn chưa trải qua, mà bạn cho là không đúng, và không thích hợp với bạn, đó cũng là quyền tự do của bạn. Trên thực tế, từ lý thuyết đến thực hành, thì không phải chỉ cách nhau có một dặm, mà đến cả ngàn dặm. Vì sao?

Vì trên lý thuyết, không bao giờ có diễn tả đến những tác động của môi trường, hoàn cảnh, góc độ nhìn, định nghĩa của mỗi người khác nhau,v.v. Cho nên, khi học xong lý thuyết, mà đem qua thực hành, là cả một vấn đề, vì những điều kiện mà lý thuyết không có, lại là những điều kiện quyết định cho lý thuyết kia, là ảo hay thực.

Vì vậy, chúng tôi sẽ không đề cập đến lý thuyết nhiều trong những sự chia xẻ của chúng tôi, vì chúng tôi cảm thấy không cần thiết. Nếu bạn chỉ thích về lý thuyết, chắc chắn những gì chúng tôi chia xẻ với bạn qua ứng dụng sẽ không như ý bạn muốn.

Trở về chủ đề 5 chữ “Vấn đề, Đồng Ý và Nhưng”, làm sao chúng ta có thể sử dụng 5 chữ này một cách diệu dụng, hay có thể nói là thuyết phục người khác một cách khôn khéo nhất.

Đúng ra, phương pháp này, chúng tôi áp dụng trong nghành tiếp thị, nhưng càng sử dụng, chúng tôi thấy, có thể áp dụng trong tất cả mọi môi trường, hoàn cảnh và con người.

Công thức trong cách dùng này, bắt đầu bằng hai chữ “Đồng Ý”, sau đó, đến chữ “Vấn Đề”, và cuối cùng là chữ “Nhưng”.

Thí dụ: Tôi đồng ý với anh vấn đề mà anh vừa đề cập đến, rất hay về lý thuyết, nhưng trên thực tế, chúng ta nên ứng dụng trong đời sống hàng ngày sẽ hay hơn.

Trong câu thí dụ này, chúng ta dùng hai từ đồng ý trước, tại sao?

Đơn giản, vì ai trong chúng ta, khi đã tin vào điều gì thì chúng ta sẽ “trung thành” với niềm tin đó. Cho nên, khi nói ra một điều gì, chúng ta luôn tin rằng, người kia sẽ tin giống chúng ta. Vì vậy, khi chúng ta nói ra mà bị phản đối, hay không chấp nhận, thì Ngã Thức của chúng ta sẽ lập tức phản ứng bằng những nguồn năng lượng tiêu cực như: bực tức, nóng giận, v.v.

Chính vì vậy, việc đầu tiên chúng ta phải làm là, đồng ý với góc độ nhìn của họ trước khi chúng ta đưa ra góc độ nhìn của chúng ta. Khi chúng ta nói đồng ý với họ, có nghĩa là, chúng ta đã biết cách “né tránh” khơi dậy những nguồn năng lượng tiêu cực trong họ.

Chúng ta đã biết, khi mà nguồn năng lượng tiêu cực đã chiếm cứ Ngã Thức thì nguồn năng lượng đó sẽ khống chế Ý Thức, và ra lệnh cho Ý Thức dùng sự phân tích để “phản pháo” lại chúng ta.

Có đôi khi, trong Ý Thức, khi phân tích, so sánh thấy được những phản ứng của những nguồn năng lượng tiêu cực đang chiếm cứ Ngã Thức là sai. Nhưng Ý Thức vẫn không thể không làm theo những gì mà nguồn năng lượng tiêu cực đó đang điều khiển.

Những trường hợp này, chúng ta gọi là ngụy biện, hay cãi chày cãi cối, nghĩa là, dù Ý Thức qua phân tích, biết chúng ta làm sai, nhưng chúng ta cũng không chấp nhận là chúng ta sai.

Vì vậy, hai chữ “Đồng Ý” được dùng ngay đầu câu là việc cần thiết và vô cùng quan trọng, vì hai chữ này, được dùng như cách “điểm huyệt” Ngã Thức của đối phương, trước khi chúng ta đưa ra những ý kiến hay quan điểm của chúng ta.

Có một điểm lợi nữa là, khi chúng ta đã đồng ý với người ta trước, thì phần lớn, khi chúng ta đưa ra ý kiến của chúng ta, người kia vì “đáp lễ”, nên dễ thường “đồng ý” ngược lại.

Dĩ nhiên, đây chỉ là tương đối, có khi được, khi không, cho nên, phần này, chúng ta gọi là “extra” có nghĩa là thêm vào, hay phụ vào, chứ không phải là phần chính. Cũng có nghĩa là, không có cũng không thành vấn đề.

Tiếp đến là hai chữ “Vấn Đề”. Hai chữ ở đây mang tính cách bao gồm tất cả những chủ đề.

Thí dụ, nếu đề tài họ đang nói về tình yêu thì chúng ta thay chữ “vấn đề” bằng “tình yêu”: Tôi đồng ý với quan điểm về “tình yêu” của anh gần như hoàn toàn, nhưng nếu chúng ta nhìn trên góc độ này, và hành xử trên góc độ này thì tình yêu sẽ đẹp hơn.

Sau chữ “Vấn Đề”, chúng ta mới bắt đầu dùng chữ “Nhưng” để đưa ra những góc nhìn, nhân sinh quan, hay những cảm nhận của chúng ta.

Áp dụng phương pháp này, sẽ giúp cho chúng ta luôn nắm được thế chủ động trong bất cứ một cuộc nói chuyện nào, mà vẫn không khiến “cho ai đó” mất mặt.

Chúng ta không những học cách tôn trọng đối tượng, mà chúng ta còn học được cách làm chủ cảm xúc của chúng ta. Chúng ta sẽ không bị “dắt mũi” trong thế bị động và “nổi xung thiên” khi đối tượng của chúng ta đang trong thế chủ động.

Dĩ nhiên, bạn có thể ứng dụng tùy theo môi trường và hoàn cảnh, cũng như Tuệ Giác của bạn nhanh nhậy như thế nào. Sau đây là vài câu mẫu để bạn tham khảo:

Tôi đồng ý với anh về những đề nghị “hợp tác” mà anh vừa đề ra, có nhiều điểm chúng ta có thể phát triển, nhưng nếu chúng ta thêm vào những điều khoản sau đây thì không những đôi bên chúng ta đều có lợi, mà sự hợp tác của chúng ta, còn có thể phát triển lâu dài. Tôi nghĩ anh sẽ “đồng ý” với tôi như tôi đã “đồng ý” với anh.

Trong câu này, chúng ta có thể dùng hai chữ “đồng ý” nhiều lần, để “nhắc nhở” người kia nên “đáp lễ” lại cho chúng ta.

Tôi đồng ý với chị về vấn đề kinh doanh tiệm phở thì chúng ta nên có sự tự tin về khả năng nấu nướng, chiều khách, và tìm được những nhân công có lòng với cửa tiệm, nhưng nếu chúng ta có thêm những kiến thức và kinh nghiệm về điều hành, quản lý, nhân sự, tiếp thị, kế toán. hỗ trợ thì cửa tiệm kinh doanh của chị sẽ được phát triển lâu dài và bền vững.

Tôi đồng ý với ông là sản phẩm của chúng tôi so với các cửa hàng khác có mắc hơn, nhưng vấn đề ở đây không phải là giá cả, mà vấn đề ở đây là ông sẽ có những lợi ích gì khi sử dụng sản phẩm của chúng tôi, nếu đem so với các cửa hàng khác.

Trong khi, ông chỉ tiết kiệm được một số tiền nhỏ vì họ bớt thời gian bảo hành xuống 6 tháng, còn của chúng tôi lại đến 2 năm.

Hãy tưởng tượng, lỡ khi ông sử dụng qua sáu tháng vì sản phẩm bị hư thì ông phải tốn tiền sửa, hay mua cái mới. Đó cũng là chuyện nhỏ.

Chuyện lớn là, ông sẽ rất bực bội và khó chịu; mà ai trong chúng ta, cũng muốn sống an vui, nếu đem so giá cả chênh lệch với sự an tâm, khi mua sản phẩm của chúng tôi, với bảo hành 2 năm, thì sự an tâm của ông mới là cái giá mà công ty chúng tôi muốn hướng đến.

Những câu kế tiếp, chúng tôi xin dành lại cho bạn, và nếu khi bạn áp dụng có kết quả, xin hãy chia xẻ lại với chúng tôi để chúng tôi có thể học hỏi.

HAI CHỮ NHƯNG ,VÀ

album-art

00:00

TẢI MP3 – VIÊN NGUYỆT

Bạn Thân Mến,

Làm sao để chuyển những cảm xúc xấu thành tốt là một câu hỏi làm “điên đầu” biết bao nhiêu diễn giả. Không biết bao nhiêu cách thức đã được tìm ra, nhưng mỗi cách thức hình như vẫn “thiêu thiếu” một điều gì đó, mà vẫn chưa hoàn chỉnh được.

Chủ đề hôm nay, chúng tôi muốn chia xẻ với bạn một cách thức mà chúng tôi đã ứng dụng trên bản thân. Có thể nó sẽ chỉ thích hợp với chúng tôi, mà không thích hợp với bạn; nhưng biết đâu, qua cách thức của chúng tôi, bạn sẽ có vài khái niệm, và tìm ra “thuốc giải độc” cho những cảm xúc xấu đang khống chế Ngã Thức của bạn.

Nếu bạn chưa đọc qua bài “chín thức” thì bạn sẽ hơi khó hiểu về sự vận hành của các thức. Vì trong bài Chín Thức, chúng tôi đã phân chia các chức năng của các thức cũng như sự tương tác giữa các thức khá rõ ràng.

Cho nên, nếu bạn muốn hiểu được những sự ứng dụng này, bạn nên tìm đọc hay nghe về bài chín thức trước đã. Bài này, chúng tôi viết để chia xẻ cho những bạn nào đã nghe hay đọc bài chín thức rồi.

Trong chín thức, chúng ta đã nói về chức năng của Tiềm Thức, ngoài là thức khởi đầu cho sự sống của con người thì Tiềm Thức còn có những chức năng như sau:

  • Kho chứa tất cả các thông tin, dữ liệu từ 5 giác quan, Ý Thức, Thân Thể Thức, và Ngã Thức
  • Duy trì bộ nhớ lâu dài, và nối kết các thông tin dữ liệu, có khả năng sáng tạo
  • Đòi hỏi những thông tin, dữ liệu, hoặc vấn đề chưa được giải quyết triệt để, để tạo sự hoàn chỉnh
  • Cung cấp thông tin liên tục cho Ngã Thức
  • Ngôn ngữ Chính: Hình Ảnh
  • Chính vì, không có các chức năng như phân tích, tính toán, tổng hợp, v.v của Ý thức, nên Tiềm Thức không có thể phủ định, không có thiện ác, không có đúng sai, cũng như không có qúa khứ và tương lai. Thời gian hoạt động mạnh nhất của Tiềm thức là khi Ngã Thức và Ý Thức không hoạt động.
  • Không có cảm xúc/giác

Trong phần ứng dụng này, chúng ta sẽ sử dụng các chức năng của Tiềm Thức như: sự liên kết và không có thể phủ định, để chuyển hóa những “hạt giống xấu” tạo ra những “cảm giác xấu” nơi Ngã Thức.

Sau đây là phương pháp mà chúng ta có thể áp dụng:

Dùng chữ “Nhưng” và “Và” để thay đổi cảm giác.

Thí dụ, bạn đang tức giận con của bạn vì không nghe lời bạn, bạn có thể dùng chữ “Nhưng” một mình để thay đổi, hay bạn có thể dùng thêm chữ “và” để ghép thêm vào những nguồn năng lượng khác. Phương pháp này chúng tôi đặt tên là “Di Hoa Tiếp Mộc” nghĩa là dời hoa ghép cây.

Muốn thực tập phương pháp này, việc đầu tiên bạn cần làm là “mời” cơn giận của bạn lên, nghĩa là bạn xác định bạn đang có cơn giận với con của bạn.

Khi cơn giận của bạn đã có mặt, bạn mới bắt đầu nói với bạn như sau:

Mặc dù tôi biết là tôi đang giận con tôi vì nó không nghe lời tôi, nhưng tôi là người có tình yêu thương vô điều kiện, có hiểu biết, cho nên, bất cứ khi nào tôi nổi giận thì nguồn năng lượng này sẽ khích hoạt nguồn năng lượng yêu thương vô điều kiện và nguồn năng lượng hiểu biết, giúp tôi sống có hạnh phúc an lạc hơn.”

Trong thí dụ này, chúng ta có những chữ cần chú ý, đó là 5 chữ “Đang” “Mặc Dù” “Nhưng” và “Và”.

Chữ “Đang” luôn phải được sử dụng trong câu, vì chữ “đang” xác định sự việc đang xẩy ra trong hiện tại mà không phải là qúa khứ hay tương lai.

Trong Tiềm Thức, vốn không có quá khứ hay tương lai, mà chỉ có trong hiện tại, cho nên, nếu chúng ta không có từ “đang” thì Tiềm Thức của chúng ta sẽ rơi vào thế “lưỡng lự”.

Vậy, tại sao chúng ta lại phải sử dụng thêm hai chữ “Mặc Dù”?

Phần lớn, các diễn giả khi đưa ra các phương pháp chuyển hóa tiêu cực thành tích cực, đều mắc phải một lỗi lớn, đó là, khi chúng ta đang có cảm xúc tiêu cực, mà đem những suy nghĩ tích cực, hay ám thị tích cực, để thay đổi cảm xúc tiêu cực là không thể. Vì sao?

Vì khi Ngã Thức của chúng ta bị cảm xúc tiêu cực khống chế thì lúc đó Ý Thức của chúng ta cũng bị điều khiển bởi nguồn năng lượng tiêu cực này.

Cho nên, những suy nghĩ lúc đó từ Ý Thức cũng chỉ hướng tới tiêu cực, mà không thể là tích cực được.

Thông thường, khi dùng những tư tưởng tích cực hay ám thị những điều tích cực, sẽ khó được thực hiện, vì nguồn năng lượng tích cực mới này còn qúa yếu nếu đem so với những nguồn năng lượng tiêu cực, luôn có sẵn trong Ngã Thức của chúng ta.

Vì thế, nguồn năng lượng mới này, khó mà có thể tồn tại. Nguy hiểm hơn, nếu chúng ta cứ ám thị và suy nghĩ tích cực (khi không có cảm giác xấu khống chế), trong một thời gian, mà không có kết quả, thì những nguồn năng lượng tích cực này lại biến thành nguồn năng lượng xấu là: thất vọng, chán nản, v.v.

Đó cũng là lý do, có rất nhiều phương pháp, mới nghe thì hay, nhưng khi ứng dụng thì như con dao hai lưỡi. Nếu chúng ta không cẩn thận, chúng ta cũng bị “đứt tay” như chơi.

Cho nên, hai chữ “mặc dù” phải được sử dụng ở đây, để xác định là cơn giận đó đang có mặt, và đang chiếm hữu Ngã Thức. Nếu chúng ta dùng tư tưởng tích cực lúc này là điều không thể. Vì Ngã Thức của chúng ta không chấp nhận là chúng ta đang giận, mà lại nghĩ là mình đang vui được.

Thế nên, dùng hai chữ “mặc dù” ở đầu câu, là để “thỏa mãn” và được sự đồng ý của cơn giận trong Ngã Thức, cho phép được tiếp cận cơn giận.

Ngoài công dụng “thỏa mãn” và được sự chấp nhận của cơn giận trong Ngã Thức, thì hai chữ “mặc dù” lại có một ý nghĩa khác rất hay, đó là, không chấp nhận cơn giận, dù cơn giận đó đang có mặt. Hai chữ mặc dù này, có thể gọi là “quân du kích” của tư tưởng tích cực, đang được “gài vào” cảm giác giận, để mở cửa cho những tư tưởng tích cực được sử dụng sau chữ “Nhưng” có thể “chiếm được địa bàn” và “khống chế thời cuộc”.

Tiếp theo, chính là “đoàn quân chủ lực” của tích cực được chuẩn bị thay thế cho cảm giác giận qua “pháo đài” của chữ “Nhưng”.

Phần đông, các phương pháp chuyển hóa tiêu cực thành tích cực, đều cho chữ “Nhưng” là chữ tối kỵ, không nên dùng, nhất là trong khoa tiếp thị. Vì khi sử dụng chữ “Nhưng” sẽ biến vế đầu, đang tốt thành ra xấu.

Thí dụ: bạn là người tốt luôn yêu thương, có hiểu biết, và giúp đỡ mọi người, nhưng bạn hay cằn nhằn, nóng tính.

Hay: sản phẩm của chúng tôi rất ưu việt có thể làm cho nhà bạn đẹp sang hơn, có giá trị hơn nhưng khá đắt tiền.

Nếu bạn quan sát hai thí dụ này, bạn sẽ cảm thấy, sau khi có chữ “nhưng” đi kèm theo trong câu, chắc chắc, cảm giác của bạn sẽ không ở những câu đầu, mà lại ở những câu sau chữ “nhưng”, có phải không?

Và các phương pháp đã hoàn toàn đúng trong việc đặt chữ “nhưng” vào trong những câu này.

Điều mà chúng tôi cảm thấy lạ nhất, đó là, nếu có thể chuyển từ tốt thành xấu như hai thí dụ trên, thì tại sao chúng ta lại không hoán đổi vị trí từ xấu thành tốt chứ.

Cho nên, khi ứng dụng phương pháp hoán chuyển này, chúng tôi thấy hiệu quả khá nhanh, vì chúng tôi không cần phải đi tạo ra nguồn năng lượng mới để “áp chế” nguồn năng lượng cũ; mà chúng tôi sử dụng chính nguồn năng lượng cũ, bằng cách “ghép” vào thân của những nguồn năng lượng cũ với những nguồn năng lượng mới.

Như vậy, mỗi khi nguồn năng lượng hay gốc của giận nổi lên thì chúng tôi lại có những hoa trái là sự yêu thương, hiểu biết, hạnh phúc, và an lạc.

Sau đó, chúng tôi tạo thành thói quen trong tiềm thức bằng cách, mỗi lần chúng tôi giận, chúng tôi lại lập lại những điều trên, cho đến khi trở thành thói quen.

Khi đã trở thành thói quen rồi, thì lúc đó, dù có giận đi chăng nữa, cơn giận cũng không thể nở ra hoa trái của giận được, và dần dần tự động chuyển hóa thành nguồn năng lượng của yêu thương, có hiểu biết hay hạnh phúc, an lạc.

Khi trong ngã thức đã có mặt mạnh mẽ của yêu thương và hiểu biết, an lạc và hạnh phúc thì chúng ta lại sử dụng Ý Thức để mời các cảm xúc khác lên để chuyển hóa, vẫn dùng chung một phương pháp.

Dĩ nhiên, trong 4 chữ chúng ta dùng, gồm: ”Mặc Dù”, “Nhưng”, và “Và” thì ba chữ “mặc dù” và “nhưng” đóng vai trò chuyển hóa, còn chữ “và” để chúng ta “tiếp lực” cho những vế sau chữ “nhưng” được vững mạnh hơn và chắc chắn hơn.

Như chúng tôi đã chia xẻ với bạn ở phần trên, đây là phương pháp chúng tôi ứng dụng. Thí dụ mà chúng tôi dung, chỉ là câu mẫu cho bạn tham khảo. Với Tuệ giác của bạn, bạn sẽ biết dùng câu nào thích hợp nhất cho bạn.

Sau đây là vài mẫu câu bạn có thể áp dụng cho những lĩnh vực khác:

“Mặc dù tôi biết là tôi đang giận ông chủ của tôi, nhưng tôi là người có tinh thần trách nhiệm cao, bất cứ việc khó khăn nào trong công ty khi giao cho tôi, tôi đều hoàn thành xuất sắc trước thời hạn, những cách giải quyết vấn đề của tôi luôn độc đáo, đem đến rất nhiều lợi nhuận cho công ty, ông chủ luôn biết ơn, thăng thưởng tôi vào những chức vụ quan trọng trong công ty”.

“Mặc dù tôi biết là tôi đang giận người bạn của tôi, nhưng tôi là người có tính dĩ hòa vi quý, tôi luôn quan tâm đến mục đích sống của tôi là AN, Cứ mỗi lần tôi giận thì sẽ khích hoạt mục đích An của tôi, tôi sẽ sử dụng sự quan sát nhìn sâu để tìm ra sự thật”.

“Mặc dù tôi biết là tôi đang buồn vì tài chánh của tôi bị túng thiếu, nhưng tôi là người có sự quan sát nhìn sâu vào sự việc, nên tôi có thể dùng sự quan sát này để giải quyết những vấn đề cho các công ty, tôi trở thành một người cố vấn tài năng, là người quan trọng mà các công ty luôn chào đón với mức lương hậu hĩ, tôi giải quyết vấn đề tài chánh của tôi một cách dễ dàng”.

Phương pháp thì tôi đã chia xẻ với bạn, còn bạn có thực tập hay không thì do chính bạn lựa chọn.

CÔNG DUNG NGÔN HẠNH

album-art

00:00

TẢI MP3 – QUẢNG BẢO TÂM
TẢI MP3 – HƯƠNG CHIỀU – VIÊN NGUYỆT

Bạn Thân Mến,

Ngày nay, khi nói đến bốn chữ Công, Dung, Ngôn, Hạnh thì không ít người trong chúng ta cho rằng nó cổ lỗ sĩ, nó không hợp thời, và nó thuộc về chế độ phong kiến, “đàn áp” người phụ nữ phải tuân theo, trong khi, nam giới thì lại không cần.

Cho nên, những người phụ nữ ngày nay với tư tưởng tự do bình đẳng, xem đó như là một điều tệ hại, cổ hũ, cần phải xóa bỏ.

Thật ra bốn chữ Công, Dung, Ngôn, Hạnh có phải là “tệ hại” đến như thế không, và có cần phải “tiêu diệt” không thì chúng ta hãy bắt đầu dùng sự quan sát và nhìn sâu vào để hiểu.

Đứng trên góc độ định nghĩa:

Công có nghĩa là chung, cùng chung, ngay thẳng, không có riêng tư, rõ ràng; hay khi diễn rộng ra được hiểu là: nữ công gia chánh, tề gia nội trợ, may vá thêu thùa, nuôi dạy con cái khỏe mạnh, chăm ngoan (ngày xưa), hay công việc, việc làm (ngày nay).

Dung nghĩa là dáng dấp, hình tướng, hay là vẻ đẹp thùy mị, kín đáo, duyên dáng.

Ngôn nghĩa là lời nói, hay là lời nói nhã nhặn, nhỏ nhẹ, dễ nghe; nói đúng lúc, đúng chỗ, đúng phép tắc.

Hạnh nghĩa là nết na, hay lòng nhân hậu, thủy chung son sắt, giầu tình yêu thương.

Chúng tôi còn nhớ cách đây hơn 30 năm, khi tham dự một khóa học về huấn luyện nhân viên. Lúc đó, vị tiến sĩ về tâm lý đã “khoe” về những khám phá của ông, trong cách chính phục khách hàng để tăng lợi nhuận cho công ty.

Trong suốt bốn tiếng đồng hồ, ông thao thao bất tuyệt giảng về bốn chữ “công, dung, ngôn, hạnh”.

Lúc mới đầu nghe, chúng tôi nghĩ “khám phá” của ông chắc có gì vĩ đại lắm, nhưng khi ông đi vào chi tiết của một người bán hàng, muốn chinh phục được người khách một cách thành công, thì phải có bốn yếu tố sau đây:

Về công việc: phải luôn ý thức được việc của mình cần phải làm là gì, phải hiểu rất rõ ràng những mặt hàng mà người tiêu dùng sẽ mua, và luôn trau dồi kiến thức chuyên môn để có thể thuyết phục khách hàng.

Về Dung mạo: phải luôn cười tươi tắn, không cáu gắt, mặt lạnh như tiền.

Về lời nói: phải dịu dàng, nhỏ nhẹ, không to tiếng cãi vã với khách hàng.

Về phong cách: luôn kiên nhẫn, nhẫn nại.

Quả thật, sau khóa huấn luyện, công ty đó thu được lợi nhuận cuối năm gần gấp đôi, nếu so với các năm trước.

Trải qua hơn ba mươi năm, bốn “đặc tính” này, hầu như đã trở thành bốn đặt tính “bắt buộc” cho những ai trong nghành phục vụ, phải có, nếu muốn thành công.

Trong khi, vị tiến sĩ năm xưa, giờ đã khuất núi; không biết khi giã từ cuộc đời, ông vẫn tin rằng, ông chính là người đã khám phá ra bốn “đặc tính” này hay không.

Nhưng chúng tôi biết, bốn điều này thì đã có cả nghìn năm, mà ngày xưa, các chị và em gái của chúng tôi đều phải học và thực hành. Còn chúng tôi là con trai, nên được miễn.

Lúc đó, chúng tôi cảm thấy hạnh phúc lắm, vì không phải thực tập như: khi rót một ly nước mời khách, cũng không để cho có bọt nổi lên,v.v. Nhưng sau này, khi ra đời, và bị đời “quật” cho tơi tả, thì chúng tôi mới biết được giá trị của bốn chữ “công, dung, ngôn, hạnh” là gì. Và tại sao ông cha chúng ta lại phải dậy rất kỹ cho người con gái.

Dù xưa hay nay, khi nói đến người phụ nữ thì luôn luôn gợi đến hình ảnh của một điều gì đó, dịu dàng, mềm mại.

Trong thuyết Âm Dương, người phụ nữ thuộc về Âm, mang tính nuôi nấng, sinh trưởng, nhu hòa, mềm mỏng như nước, an tĩnh mà khoan thai, không nóng nẩy, không dong dài.

Cho nên ngày xưa, ông cha chúng ta đã gọi những người vợ của mình là “nội tướng”, nghĩa là “ông tướng ở bên trong”.

Nói về tướng hay binh pháp, thì tướng tiên phương đánh trận không quan trọng bằng tướng giữ thành (nội tướng). Vì sao?

Vì dù có đánh thắng được bao nhiêu thành, mà không có tướng giữ được thành, thì có đánh được bao nhiêu thành cũng như không. Không những vừa tốn công, vùa tốn sức, mà chẳng được gì.

Cho nên, trong binh pháp những ông quan Văn (nội tướng) thường quan trọng hơn ông quan võ (tiên phương), vì ông quan văn biết cách giáo dục người dân, thiết lập luật pháp, và ổn định lòng dân để có thể đủ sức giữ thành.

Hai chữ “nội tướng” được ông cha chúng ta đặt lên vai người phụ nữ, không phải là gánh nặng hay “áp bức” người phụ nữ, như chúng ta ngày nay đã hiểu lầm, mà đó là biểu tượng của sự tôn kính, kính phục, mà những đàn ông thuộc tướng tiên phương không thể làm được.

Chính vì trọng trách quá lớn này, nên khi còn nhỏ, những người con gái đã phải được trui rèn tứ đức: “công, dung, ngôn, hạnh” để biến thành một thói quen.

Chỉ khi đã biến thành thói quen, thì người con gái, sau khi có chồng và có con, mới có thể đóng trọn vai “nội tướng” một cách “thảnh thơi” và xuất sắc.

Không ai trong chúng ta xa lạ với câu chuyện về Mạnh Mẫu, một người mẹ, qua thói quen “công, dung, ngôn. hạnh” đã đào tạo ra nhà hiền triết lỗi lạc của Trung Quốc.

Mạnh Tử mồ côi cha, và chịu sự giáo dục nghiêm túc của mẹ là Chương Thị, sau này, được gọi là Mạnh Mẫu. Bà nổi tiếng với câu chuyện: 3 lần chuyển nhà để cho con trai mình được sống, học tập trong ngôi trường và môi trường giáo dục tốt nhất.

Chuyện kể rằng, mẹ con Mạnh Tử sống gần bãi tha ma. Hàng ngày, Mạnh Tử vẫn thường ra đấy nô đùa, ông thường diễn lại những cảnh nhìn thấy ở bãi tha ma.

Mạnh Mẫu nhận thấy, đây không phải là chỗ ở tốt cho con trai mình, bà liền chuyển nhà sang một khu phố mua bán sầm uất, nhưng tình hình không khả quan cho lắm.

Ông lại học cách cân, đo, đong, đếm của những kẻ mua bán, hay khoe khoang đồ của mình. Lần này, Mạnh Mẫu chuyển nhà đến gần một ngôi trường; Mạnh Tử sống gần đây, nên học những khuôn mẫu lễ giáo, học hành chăm chỉ; lúc bấy giờ, Mạnh Mẫu mới thở phào: “Đây mới là chỗ ở của con ta”.

Có một lần, nhà hàng xóm mổ lợn, Mạnh Tử thấy vậy hỏi bà: mổ lợn để làm gì?, bà lỡ miệng nói đùa: “Để cho con ăn”. Sau đó, bà đi mua thịt lợn về cho con ăn, vì bà nghĩ, nếu mình nói dối con, chẳng khác nào dạy con nói dối.

Một câu chuyện nổi tiếng khác về Mạnh Mẫu dạy con, đó là, khi bà đang dệt vải, thấy con trốn học đi về. Bà kêu Mạnh Tử đến gần, rồi cầm dao chặt đứt tấm vải và mắng:

“Con đi học mà bỏ học, chẳng khác nào mẹ dệt vải mà chặt đứt nó vậy”.

Thấm thía lời mẹ dậy, ông chăm học, dần trở thành học sinh giỏi nhất lớp, và trở thành bậc đại hiền triết sau này.

Trong văn thơ của Việt Nam, nhà thơ Tú Xương đã ca ngợi người vợ của mình qua bài thơ “Thương Vợ” như sau:

Quanh năm buôn bán ở mom sông

Nuôi đủ năm con với một chồng

Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông

Một duyên hai nợ âu đành phận

Năm nắng mười mưa dám quản công

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

Có chồng hờ hững cũng như không

Qua miêu tả của ông, chúng ta có thể thấy ngay được nét đẹp tuyệt vời của bà Tú, một người phụ nữ đảm đang, chu toàn, công, dung, ngôn, hạnh của mình.

Trong 8 câu thơ của ông, chúng ta thấy nhà thơ Tú Xương không những biết ơn vợ, mà ông còn cảm thấy tủi thẹn, khi không thể đem đến no ấm cho người “nội tướng” của mình.

Cuộc đời của bà Tú là cuộc đời tảo tần, chỉ vì chồng, vì con. Bà chưa hề trách móc gì ông; dù văn tài của ông xuất chúng, nhưng vì tính khí ngang tàng của ông đã khiến ông thi trượt bao lần.

Bà Tú chưa một lần oán trách ông; bà vẫn dành dụm, chắt chiu từng đồng để ông có lộ phí đi thi. Nhưng cuối cùng, ông vẫn quay về nhà, và bà vẫn tiếp tục tảo tần buôn bán, nuôi chồng, nuôi con.

Vì sao chúng ta có thể biết bà không trách mắng hay buồn phiền gì ông?

Qua hai câu cuối, chính ông cũng đã “bực” dùm cho bà, tại sao có một người chồng “vô dụng” như ông, mà vẫn cư xử qúa đẹp với ông. Đến nỗi, chính ông cũng cảm thấy được sự bất công của ông dành cho vợ.

Nhưng chắc chắn bà Tú đã không nghĩ như ông, vì bà Tú đã có thói quen của công, dung, ngôn, hạnh, nên bà đã không cảm thấy đó là bất công, mà với bà, đó là trách nhiệm của một “nội tướng” nên làm.

Nếu Bà Tú như ngày nay, cứ cằn nhằn, trách móc, oán hờn, dằn vặt, thì chắc chắn ông Tú Xương sẽ cảm thấy dễ chịu hơn, và ông cũng sẽ không “bực mình” dùm bà, khi thốt lên hai câu cuối:

Cha mẹ thói đời ăn ở bạc

Có chồng hờ hững cũng như không

Như vậy, chúng ta thấy, công, dung, ngôn, hạnh là bốn đức tính vô cùng cần thiết trong cách ứng xử giữa người với người.

Dù cho xưa hay nay thì cũng đều có giá trị để nâng cao phẩm chất của con người. Không những chỉ có người phụ nữ phải học, mà hễ ai là con người, cũng phải học và hành “công, dung, ngôn, hạnh”.

Chúng ta không những chỉ thực hành trong gia đình, xã hội, chính trị, mà ngay cả trong kinh tế, cũng đều đem đến những sự thành công.

Điều mà các phụ nữ ngày nay muốn loại bỏ, đó không phải là Tứ Đức “công, dung, ngôn, hạnh” mà phải là Tam Tòng: “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”, nghĩa là, ở nhà phải theo cha, đi lấy chồng phải theo chồng, chồng chết phải theo con.

Tam Tòng này, đúng là chỉ thích hợp với người xưa chứ không thích hợp với ngày nay, và cần phải loại bỏ.

Có lẽ, vì Tam Tòng luôn được đặt chung với Tứ Đức, nên các phụ nữ ngày nay đã hiểu lầm chăng? Và họ đã loại bỏ luôn cả “Tứ Đức – Công, Dung, Ngôn, Hạnh”. Trong khi, bốn đức này làm cho nhân phẩm của con người được đẹp hơn, mà hễ là con người, dù ở thời xưa hay nay cũng đều cần phải có.

We use cookies in order to give you the best possible experience on our website. By continuing to use this site, you agree to our use of cookies.
Accept