NÉT ĐẸP CỦA SỰ BẤT TOÀN

album-art

00:00

TẢI MP3 – DAVID NGÔ

Bạn thân mến,

Người xưa có một triết lý sống rất hay. Đó là triết lý về việc đề cao sự không hoàn mỹ, tìm thú vui và sự an nhiên trong tình trạng không hoàn hảo, hay là, khái niệm về sự bất đối xứng, sự đơn giản hoá, sự khiêm nhường, sự thân thiện, và sự am tường tính nguyên vẹn đơn sơ. Vì sao?

Vì đó chính là tính cách tự nhiên mà vạn vật vận hành. Đó là triết lý để đi tìm nét đẹp (Mỹ) trong sự không hoàn hảo (Bất toàn).

Thí dụ, việc họ không vứt bỏ một cái bát bị vỡ, mà họ gắn những mảnh vỡ lại, tạo thành một chiếc bát mới có những vết nứt, có một nét đẹp riêng mà những cái bát khác không thể có được.

Một sự tốt đẹp hoàn toàn, không một chút khiếm khuyết nào, dù là nhỏ nhất, theo định nghĩa chúng ta gọi là Hoàn Hảo.

Nhưng trên thực tế, trong thế giới của nhị nguyên đối đãi: có trước, có sau, có sáng có tối, có xấu, có đẹp, thì không hề có tồn tại của sự hoàn hảo.

Tất nhiên, có thể Bạn không nghĩ thế. Nếu được, bạn thử kể một vài sự hoàn hảo, mà bạn từng trải nghiệm, để chúng ta cùng khảo nghiệm xem.

Có một sự thật là, vạn vật, kể cả con người, dù có đang ở trạng thái tốt nhất, thì cũng đang “hư” dần, và “cũ” dần theo thời gian.

Vật dụng cũ đi, sự sắc nét, phai nhạt dần. Con người già đi, nhan sắc, thanh xuân cũng mất dần.

Đó là quy luật của tự nhiên: Sinh – Lão – Bệnh – Tử, Thành – Trụ – Hoại – Không.

Nếu bạn còn vướng chấp vào sự hoàn hảo, vào một sắc đẹp “trẻ mãi không già”, thì bạn sẽ không thể chịu được sự lão hóa bạn đang có, và tâm của bạn sẽ bị giày vò trong đau khổ. Bạn sợ hãi không muốn soi gương, bạn trốn tránh hay xa lánh mọi người vì sợ bị chê là xấu xí.

Tiền nhân đã dạy “nhân vô thập toàn, vật bất toàn mỹ”. Nhưng chúng ta không cam tâm chấp nhận, vẫn đi tìm sự Hoàn Mỹ cho mình.

Thế nên, chúng ta mới phát sinh ra một tâm lý cầu toàn, và cũng chính vì vậy, mà lòng của chúng ta chưa bao giờ được thảnh thơi, an lạc.

Tóm lại, chúng ta không nên xem sự hoàn hảo là chân lý. Nếu biết đủ, biết vừa thì bạn sẽ hạnh phúc và an lạc hơn, vì không bao giờ bạn sẽ phải phiền lòng về những gì xẩy ra, không đúng như ý muốn của bạn.

Mỗi người chúng ta, ai cũng không hoàn hảo, và vạn vật cũng vậy. Đẹp ở mức cao nhất, trên thực tế, có lẽ là một cái đẹp, mà chỉ thiếu chút nữa là đạt đến sự toàn bích, hoàn hảo sẽ không bao giờ hiện hữu. Mãi mãi không có tuyệt đối trong thế giới tương đối này.

Nếu bạn đã “thẩm thấu” được chân lý này, thì thân tâm của bạn sẽ có an lạc.

Như Trong bài kinh “Người Biết sống một mình” đức Phật đã dạy:

“Đừng tìm về quá khứ

Đừng tưởng tới tương lai

Quá khứ đã không còn

Tương lai thì chưa tới

Hãy quán chiếu sự sống

Trong giờ phút hiện tại

Giờ phút đẹp tuyệt vời”

Hay như Lão Tử nói: “Cố tri túc chi túc, hằng túc hĩ”, nghĩa là, người biết đủ thì sẽ vĩnh viễn không thấy thiếu thứ gì.

Chúng tôi thì đã và đang thực tập “biết đủ từng ngày”, còn bạn thì sao?

TỪ BI – TUỆ GIÁC

album-art

00:00

TẢI MP3 – MỸ LINH 
TẢI MP3 – TÂM TỪ 
TẢI MP3 – TÂM QUANG ĐẠO

Bạn Thân Mến,

Chủ đề hôm nay chúng tôi muốn chia xẻ với bạn, làm sao có thể sử dụng phòng ăn hay bếp của bạn, để thắp sáng Từ Bi và Tuệ Giác đang có sẵn trong bạn, được phát huy một cách rực rỡ nhất.

Từ, Bi và Tuệ, Giác là bốn chất liệu vô cùng quan trọng trong việc đem đến sự Bình An, Hạnh Phúc, Vui Tươi trong cuộc sống của con người.

Định nghĩa của Từ là đem niềm vui đến cho người khác; Bi là lấy ra, hay làm vơi đi, niềm đau nỗi khổ cho người khác. Tuệ là khả năng quan sát, phân tích, tổng hợp theo chiều sâu; và Giác là nhận ra, biết ra.

Bốn chữ Từ, Bi, Tuệ, Giác thường được sử dụng trong kinh điển của Phật Giáo. Nhưng thật ra, đó không phải là “bản quyền – copyright” của Phật giáo, mà đó là Bản Tính sẵn có nơi mỗi con người.

Nhưng vì chúng ta không hiểu được giá trị và định nghĩa đúng đắn của 4 từ trên; cho nên, chúng ta không biết cách ứng dụng làm sao để đem đến sự Bình An, Hạnh Phúc cho mình và cho người.

Chính vì vậy, bài viết này, chúng tôi muốn chia xẻ với bạn một góc nhìn mới. Một góc nhìn, mà bạn đã có sẵn, nhưng không biết làm sao để phát huy hết giá trị đích thực của Từ, Bi và Tuệ, Giác đang có trong bạn.

Hãy tưởng tượng, khi người thân của bạn bị cảm cúm, bạn vào bếp, và nấu cho người thân của bạn một chén cháo, ăn để giải cảm, có phải bạn đang thực hiện lòng từ bi không?

Chắc chắn rồi. Vì sao? Vì bạn đang tìm cách làm vơi bớt đi sự đau đớn mà người thân của bạn đang gánh chịu, và bạn cũng đang mong muốn chén cháo giảm cảm của bạn, sẽ giúp cho người thân của bạn sớm hồi phục, mạnh khỏe và vui tươi.

Lấy đi niềm đau ra khỏi người thân, đó là lòng Bi, và đem lại sự vui, mạnh khỏe, cho người thân, đó chính là lòng Từ.

Như vậy, bạn đâu cần phải đi làm biết bao việc thiện, bạn phải tu tập khổ nhọc, bạn phải ăn chay trường, mới có thể phát huy hay phát triển được lòng Từ Bi đâu.

Mà chỉ cần, khi bạn chú tâm, để ý vào làm một việc gì cho một ai đó, mà việc làm của bạn, có khả năng lấy ra, hay làm vơi đi sự khổ đau cho người khác thì lòng Bi trong bạn đang được thắp sáng. Và khi bạn, cũng để hết tâm ý, quan sát tỉ mỉ, để đem đến niềm vui và sự an lạc cho người khác, thì bạn đang thể hiện lòng Từ.

Như vậy, lòng Từ Bi không phải là một điều gì “xa tầm với”, ở tận cõi nào, mà nằm ngay trong chính bạn.

Chỉ cần bạn hiểu rõ được định nghĩa một cách đúng đắn, thì bạn không cần mong cầu, hay phải lặn lội đi khắp mọi nơi, để tìm cầu lòng Từ Bi, mà bạn có thể thực hiện ngay với những người thân, đang sống chung quanh bạn.

Bạn hãy thực tập thể hiện lòng Từ Bi mỗi ngày trong cuộc sống, và biến thành thói quen, thì đời sống của bạn sẽ luôn có hạnh phúc và bình An. Vì sao?

Vì Từ và Bi chính là hai trong bốn chất liệu quan trọng để tạo ra Bình An và Hạnh phúc. Không có lòng Từ Bi thì cuộc sống của bạn sẽ chìm trong đau khổ và vô vị.

Tương tự như Từ Bi, Tuệ và Giác cũng là hai chất liệu quan trọng khác. Nhưng Tuệ và Giác nếu đem so với Từ Bi, thì Tuệ và Giác quan trọng hơn, bởi vì, nếu không có Tuệ và Giác, thì lòng Từ Bi khó có thể thể hiện được sự tinh tế nhất.

Thí dụ: Khi người thân của bạn bị cảm, và bạn đi nấu cháo giải cảm cho người thân của bạn. Tại sao bạn lại làm vậy? Vì bạn muốn người thân của bạn sớm được khỏe mạnh.

Nhưng nếu trong suốt qúa trình bạn nấu cháo, mà bạn lại bận, suy tư, lo âu về những chuyện khác, hay bạn cảm thấy bực dọc, khó chịu, hay bạn cảm thấy phiền toái, thì những nguồn năng lượng tiêu cực đó sẽ được “thẩm thấu” vào chén cháo mà bạn đang nấu.

Và khi người thân của bạn ăn phải chén cháo với nguồn năng lượng tiêu cực đó, thay vì, họ sẽ sẽ hưởng được lòng Từ Bi của bạn, thì họ sẽ nhận được những “độc dược” từ những tư duy tiêu cực của bạn.

Chính vì vậy, sự có mặt của Tuệ (khả năng quan sát, phân tích, tổng hợp theo chiều sâu) và Giác (nhận ra, biết ra) sẽ giúp cho Lòng Từ Bi ban đầu của bạn, được duy trì và “gởi gấm” vào trong chén cháo một cách dồi dào và trọn vẹn.

Phương pháp nấu ăn có Tuệ Giác là phương pháp quan sát tâm ý của bạn trong qúa trình nấu ăn, để nhận ra những trạng thái tâm lý của bạn trong lúc đang nấu ăn là trạng thái gì.  

Nếu trạng thái tâm lý đang nấu ăn là lòng Thương, lòng Từ, Lòng Bi, Bình An, Vui Vẻ thì bạn hãy tiếp tục tập trung vào lòng yêu thương, hay lòng Từ Bi đó, bằng cách, gia tăng sự suy nghĩ đến những việc đẹp, tốt, đáng yêu mà người thân đã làm cho bạn, mà không để bất cứ ý niệm tiêu cực như: lo âu, phiền toại, buồn bực, sợ hãi v.v. nào chen vào.

Nếu chẳng may, bạn không có thể duy trì lòng thương, lòng Từ hay lòng Bi, mà trong lòng bạn bắt đầu “nổi sóng”, thì bạn nên dừng lại việc nấu ăn, hay bạn đã nấu xong, thì bạn cũng đừng cho người thân của bạn ăn.

Bởi vì, Bạn đã nhận ra (Giác) thức ăn bạn nấu với nguồn năng lượng tiêu cực sẽ trở thành “độc dược” đối với người thân của bạn.

Thay vì, người thân của bạn sẽ sớm hồi phục, khỏe mạnh và sống vui tươi, thì bịnh của họ sẽ trở nên nặng hơn khi tinh thần của họ đã thấm những độc tố: buồn phiền, lo âu, phiền toái từ bạn, và cuối cùng, họ sẽ đem những phiền não, khổ đau của họ, trao tặng lại bạn.

Như vậy, nhờ có Tuệ, giúp cho bạn có thể tập trung sâu hơn để nghĩ về những điều tốt đẹp, và duy trì sự tốt đẹp đó, trong suốt qúa trình nấu; và Giác, giúp cho bạn nhìn sâu hơn để hiểu được tại sao người thân của bạn, sau khi ăn những thức ăn của bạn nấu xong, lại trở nên dễ, cáu gắt, bực bội, bất mãn, khổ đau hay trở nên vui tươi, mạnh khỏe yêu đời.

Con người của chúng ta cần ăn để sống, nhưng nếu những thực phẩm mà chúng ta ăn, đều được “tẩm” bằng những chất liệu độc hại như: lo âu, phiền não, căng thẳng, phiền muộn, bực tức, thù hận, ganh ghét v.v. thì chẳng trách sao, cuộc đời của chúng ta luôn chìm trong khổ đau, và bịnh tật.

Hãy biến nhà bếp của bạn thành nơi để thắp sáng lòng Từ Bi và Tuệ Giác của bạn. Bạn hãy bắt đầu bằng việc thực tập thành những thói quen như:

  • Nhất định không nấu ăn khi lòng bạn đang lo âu phiền não, buồn bực hay có những suy nghĩ tiêu cực
  • Không nghe bất cứ loại nhạc, âm thanh nào để bạn có được sự tập trung cao nhất
  • Bạn chỉ nấu ăn khi bạn có được sự Bình An, Vui Vẻ, Yêu Thương, Hạnh Phúc
  • Khi nấu ăn, bạn luôn nghĩ đến những điều tốt lành, và gởi tình yêu thương của bạn qua thực phẩm, món ăn, thay vì dùng lời nói

Chỉ cần bạn duy trì liên tục thực tập trong vòng 30 ngày, bạn sẽ tập thành những thói quen tốt. Chính những thói quen tốt này, sẽ giúp bạn thắp sáng lòng Từ Bi và phát huy Tuệ Giác của bạn, để đem đến sự Bình An và Hạnh Phúc cho bạn, và cho tất cả những người thân yêu của bạn.

Tiện đây, chúng ta cũng nên quan sát và nhìn sâu vào Từ, Bi, Tuệ, Giác khi ứng dụng ngoài đời sẽ như thế nào.

Hãy lấy câu chuyện sau đây làm minh họa.

Trong một ngôi làng nhỏ trong rừng sâu, có khoảng vài trăm người đang sinh sống, và họ chỉ có duy nhất một người bác sĩ để chữa trị bịnh cho họ những khi trái nắng trở trời.

Một hôm, ông y Sĩ đi chữa bịnh về, và đi ngang qua một khu rừng, ông nhìn thấy một con hổ đang bị thương, nằm ngất, bên bìa rừng.

Vì là Y sĩ, ông thấy con hổ bị thương nên khởi lòng “Từ Bi” muốn cứu con hổ đó. Sau khi, xem xét vết thương và băng bó lại cái chân bị gẫy của con hổ, ông mới dùng thuốc giải mê để đánh thức con hổ dậy.

Khi con hổ thức dậy, nhìn thấy ông, vì con hổ đã đói mấy ngày, nên đã tấn công ông, và cắn xé thịt của ông để thỏa mãn cơn đói của nó.

Hành động của vị bác sĩ này có phải là “từ bi” không và có đúng không?

Chắc chắn, đây không phải là lòng từ bi, mà đó là lòng thương xót hay lân mẫn. Phần lớn chúng ta hay lầm lẫn khi cho rằng lòng từ bi là lòng thương xót.

Trong khi, định nghĩa của lòng Từ bi là đem niềm vui đến cho người (từ), và lấy ra, hay làm vơi đi niềm đau nỗi khổ cho người (bi), thì định nghĩa của lòng thương xót là động lòng thương và xót xa cho hoàn cảnh của người hay vật.

Rõ ràng, hai định nghĩa hoàn toàn khác nhau, nếu chúng ta không cẩn thận, mà diễn dịch lòng từ bi là lòng thương xót, hay lòng yêu thương, thì chúng ta sẽ có thể bị rơi vào giống như trường hợp của vị bác sĩ kia. Chúng ta sẽ trở thành “mồi ngon” cho người hay cho vật.

Vậy nếu như vị bác sĩ kia muốn ứng dụng lòng “từ bi” vào việc cứu con hổ kia có được không?

Được và không được. Được khi ông băng bó vết thương cho con hổ (bi), rồi đánh thức con hổ dậy, và làm mồi cho con hổ ăn (từ). Nhưng không được vì cả mấy trăm sinh mạng trong làng, đang chờ ông chăm sóc và cứu chữa khi bị bịnh, họ có thể chết nếu không có ông.

Cho nên, chỉ có lòng từ bi không là không đủ. Muốn thực hiện được lòng từ bi thì phải luôn có thêm Tuệ Giác gắn liền vào, nếu không, khi chúng ta thực hiện lòng từ bi mà không có Tuệ Giác, thì chúng ta, không những không giúp được người, mà chúng ta còn lại làm hại người và hại chính mình.

Vậy làm sao chúng ta có thể kết hợp giữa từ bi và tuệ giác cho câu chuyện của ông bác sĩ nêu trên.

Nếu ông bác sĩ muốn cứu con hổ với lòng từ bi và tuệ giác thì ít nhất ông cũng có vài cách để thực hiện:

Việc đầu tiên khi ông khởi lòng thương xót, muốn cứu con hổ, thì ông phải sử dụng tuệ giác để ý thức được rằng, nếu ông không cẩn thận, và làm cho con hổ bị mê lâu hơn, mà lỡ, khi ông đang chữa trị, băng bó vết thương cho con hổ, mà nó thức dậy, cắn giết ông, thì những người dân làng của ông sẽ gặp rất nhiều đau khổ vì bịnh tật, và cả làng của ông có thể bị tiêu diệt, nếu chẳng may bị đại dịch khi không có ông ở đó.

Ông phải ý thức được rằng, ông sống không phải chỉ cho riêng ông, mà ông sống vì những trách nhiệm mà người dân trong làng đang trông cậy vào ông.

Cho dù, ông có vì lòng “từ bi” mà làm mồi cho con hổ, thì sau khi con hổ đánh chén no bụng xong, nó cũng chẳng lấy làm hối hận, khi vừa ăn thịt “ân nhân” của nó; và ngày mai, khi nó đói bụng, thì nó vẫn đi tìm những con vật khác hay người nào đó, để thỏa mãn cơn đói của nó.

Đó chính là bản năng của động vật, và con hổ đang sống đúng bản năng của nó. Trong bản năng đó, sự sống còn của nó mới là yếu tố quan trọng nhất.

Cho nên, những cảm giác tốt như: yêu thương, hiểu biết, hay đạo đức như thiện ác, không hề có trong phần lớn các động vật. Vì vậy, khi áp dụng lòng từ bi hay thương xót với động vật thì phải nên rất cẩn thận, nhất là những loại động vật hoang dã, chưa được huấn luyện thuần tánh như gia súc trong nhà.

Chính vì vậy, khi đã quyết định thực hiện lòng “từ bi” thì ông phải sử dụng tuệ giác trước, để so sánh, phân tích lợi và hại. Sau đó, ông mới sắp xếp xem giải pháp nào là tốt nhất, rồi mới thể hiện lòng từ bi.

Sau đây là một vài trường hợp mà ông Y sĩ có thể ứng dụng:

Trường hợp một: ông dùng thuốc tiếp tục gây mê cho con hổ, sau đó, mới dùng dây trói hai chân con hổ lại, băng bó vết thương, rồi trở về làng, nhờ những người khác đóng cũi để nhốt con hổ lại, và mang nó về làng. Sau đó, nuôi con hổ trong cũi để nó không đi ăn thịt những con thú khác hay con người.

Như vậy, qua sự có mặt của Tuệ Giác thì ông vừa giữ được thân mạng của ông an toàn để ông có thể giúp cho dân làng khi có bịnh tật, và ông cũng cứu được con hổ, và cũng ngăn ngừa con hổ, sẽ không thể đi giết hại những động vật khác hay con người. Ông vừa sử dụng Tuệ giác và lòng “từ bi” cùng một lúc, vừa đem lợi đến cho con người và con hổ.

Dĩ nhiên, có nhiều bạn sẽ thắc mắc, nếu giải quyết như ông thì đó có phải là Tuệ Giác không? Vì, tuy ông có thể đạt được lợi cho người, cho con hổ và các động vật khác, nhưng ông sẽ lấy thịt đâu để nuôi con hổ mỗi ngày.

Có nghĩa là, ông cũng phải giết những con vật khác để nuôi con hổ, vậy thì lòng “từ bi” của ông ở đâu, khi giết những con vật khác để nuôi con hổ.

Câu hỏi của bạn rất hay, nhưng nếu bạn để ý kỹ, bạn thấy đấy, chúng ta đang sống trong thế giới của tương đối chứ không phải là tuyệt đối. Trong thế giới của tương đối, cách ứng xử hay hành xử của chúng ta bao giờ cũng có giới hạn. Trong khi, trong thế giới của tuyệt đối thì không hề có giới hạn.

Khi chúng ta đang sống trong thế giới của tương đối, chúng ta luôn có chủ thể và đối tượng, và đối tượng ở đây chính là con người, hay vật.

Còn thế giới của tuyệt đối là thế giới dành riêng cho cá thể đó mà thôi. Dĩ nhiên, cũng có chủ thể và đối tượng. Nhưng đối tượng ở đây là những ý niệm, tư tưởng, cảm xúc/giác của cá thể, chứ không phải là người hay vật.

Cho nên, trong cách ứng xử hay giải quyết vấn đề hoàn toàn khác nhau, chứ không phải, cách giải quyết của tuyệt đối cao hơn tương đối, hay ngược lại.

Vì vậy, trong cách giải quyết của tương đối thì bạn chỉ có thể chọn giải pháp nào có lợi nhiều nhất, có hại ít nhất, chứ không thể nào chỉ có lợi mà không có hại như tuyệt đối được.

Cho nên, khi vị Y sĩ hành xử như trường hợp một, đã là cách tốt nhất, có lợi trên nhiều mặt, và cái hại là phải giết những sinh vật nhỏ để nuôi con hổ, là chuyện không thể đặng đừng.

Đó chính là những sự thật đang xẩy ra trong thế giới tương đối mà chúng ta chứng kiến mỗi ngày, giữa các động vật khi sinh hoạt chung với nhau trên trái đất này.

Trường hợp hai: Ông có thể giết con hổ, vì ông ý thức được rằng, ngày nào còn có con hổ, chúa tể sơn lâm, thì ngày đó còn có biết bao nhiêu con vật yếu đuối khác phải làm bữa ăn cho con hổ, trong đó, có thể có cả ông và những người khác.

Nếu đứng trên góc độ tương đối thì hành động giết con hổ của ông đem đến những lợi ích cho những con vật yếu đuối, không đủ sức chống trả trước sức mạnh của con hổ, và ông cũng giúp cho những người, khi có việc đi qua khu rừng không còn nơm nớp lo sợ, làm mồi ngon cho chúa sơn lâm. Và cái hại duy nhất, đó là, ông phải diệt đi một sinh mạng của một động vật.

Như vậy, nếu đem trường hợp hai so với trường hợp một, thì trường hợp hai sẽ giải quyết được vấn đề là, ông không cần mỗi ngày phải giết một số con vật nhỏ, để cung cấp thực phẩm cho chúa sơn lâm, và ông vẫn bảo vệ được ông và con người. Ông cũng có thể bảo vệ cho nhiều động vật nhỏ, không phải chịu làm những bữa ăn cho con hổ.

Khi đặt trên so sánh và phân tích thì hành động trong trường hợp hai tốt hơn trường hợp một, vì ông chỉ giết một con hổ nhưng cứu được rất nhiều động vật khác kể cả con người.

Trường hợp ba: Ông đánh thuốc mê cho con hổ mê lâu hơn để ông có thể băng bó cái chân gẫy của con hổ. Sau khi, ông băng bó xong thì bỏ đi, mặc kệ con hổ, sau khi hết thuốc mê tỉnh dậy sẽ sinh hoạt ra sao?

Nếu đứng trên góc độ tương đối thì có phải ông đang “tiếp tay” cho con hổ, để nó mạnh khỏe, và tiếp tục sát hại những sinh vật yếu đuối hơn nó không?

Chắc chắn là vậy, vì khi con hổ còn sống, là nó sẽ sống theo bản năng của nó để sinh tồn. Ông Y sĩ có thể thấy thoải mái hơn, vì vừa thực hiện được lòng từ bi là cứu con khổ khi nó bị nạn, nhưng ông lại không có tuệ giác nhìn sâu để thấy được sự nguy hiểm của con hổ, đối với con người và vật yếu đuối như thế nào?

Tuy việc làm giúp băng bó vết thương cho con hổ mang đầy tích chất nhân văn, nhưng ông lại quên mất là, đối tượng của ông đang giúp là đối tượng nào? Nếu ông không sử dụng tuệ giác để nhìn sâu, phân tích và so sánh thì có đôi khi, ông không giết trăm họ, nhưng trăm họ cũng vì ông mà chết.

Câu chuyện của Mikhail Kalashnikov, người phát minh ra AK-47, cho quân đội Liên Xô là một câu chuyện như trường hợp ba.

Khi cuộc chiến tranh chống lại phát xít Đức bùng nổ, Liên Xô đã bị ám ảnh bởi việc thiết kế một khẩu súng trường tự động ưu việt. Thiết kế AK-47 của Kalashnikov là điều mà thế giới đang mong đợi.

Năm 1947, phát minh của Mikhail, đã đưa ông trở thành người ưu tú ở Liên Xô, và ông đã giành được nhiều giải thưởng. Mặc dù vậy, Kalashnikov vẫn cảm thấy tội lỗi vì sự tàn phá mà phát minh của ông đem đến cho nhân loại. Vũ khí AK-47 của ông sáng chế ra, chính là nguyên nhân gây ra cái chết cho hàng triệu người trên toàn thế giới.  

Súng AK-47 đã giết nhiều người hơn bất kỳ loại súng nào khác. Nó đã trở thành loại vũ khí, mà những người theo đạo thánh chiến lựa chọn. Tất cả đều đạt được sự vô pháp, giết người hàng loạt, buôn người, và các hoạt động tội phạm khác, đều nhờ vào phát minh của Kalashnikov.

Sau đó, ông bị dằn vặt vì tội lỗi, và đã viết bức thư đau buồn, gởi cho người đứng đầu Nhà thờ Chính thống Nga như sau:

“Nỗi đau trong tâm hồn tôi không thể chịu đựng được. Tôi tiếp tục tự hỏi mình câu hỏi nan giải tương tự: Nếu khẩu súng Ak-47 của tôi cướp đi sinh mạng của mọi người, điều đó có nghĩa là tôi phải chịu trách nhiệm về cái chết của họ.

Tôi càng sống lâu, câu hỏi này càng thấm sâu vào não của tôi và tôi càng tự hỏi, tại sao Chúa lại cho phép con người, có những ham muốn xấu xa như ghen tỵ, tham lam, và hung hãn”.

Cho nên, khi ứng dụng trong thế giới tương đối, lòng từ bi không dễ dàng sử dụng, nếu như bạn không có mặt của tuệ giác theo sau.

Nếu bạn không cẩn thận tìm hiểu định nghĩa hai chữ từ bi cho rõ ràng, hay bạn lại diễn dịch định nghĩa từ bi theo một nghĩa khác, và thêm vào đó, bạn lại không sử dụng Tuệ Giác mà là Trí giác, thì cơ hội bạn giống như Mikhail rất là cao.

Vậy, nếu đứng trên góc độ của tuyệt đối thì lòng từ bi và tuệ giác sẽ ứng xử ra sao. Dĩ nhiên, chúng tôi có thể chia xẻ với bạn, nhưng cũng chẳng có ích gì, vì đó là sự trải nghiệm của chúng tôi, mà không phải là sự trải nghiệm của chính bạn. Nếu bạn muốn biết chính xác câu trả lời thì bạn cần phải tự trải nghiệm.

Đừng tin bất cứ một ai, mà hãy tin vào chính kết qủa mà bạn trải nghiệm một cách nghiêm túc bao gồm: kiểm nghiệm, thực nghiệm và chứng nghiệm.

Từ Bi và Tuệ Giác 

Vốn không thể tách rời

Nếu không…sẽ rối bời 

Tạo ra muôn đau khổ

NHẤT CHI MAI – “MỘT CÀNH MAI” HAY “MỘT CÀNH MƠ”?

album-art

00:00

TẢI MP3 – VIÊN NGUYỆT – DIỄN NGÂM: HƯƠNG CHIỀU

Bạn thân mến,

Nói đến Thiền của Việt Nam thì những ai nghiên cứu về Thiền, đều không thể nào không biết đến bài thiền kệ nổi tiếng của thiền sư Mãn Giác,  Nhất Chi Mai.

Xuân khứ bách hoa lạc

Xuân đáo bách hoa khai

Sự trục nhãn tiền quá

Lão tòng đầu thượng lai

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.

(Tạm dịch)

Xuân đi trăm hoa rụng,
Xuân đến, trăm hoa cười.
Trước mắt việc đi mãi,
Tóc bạc già đến rồi.
Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết;
Đêm qua, sân trước 
một nhành mai.

Trong chữ Hán 梅 (mai) là cây mơ. Cây mơ ở Trung Quốc có nhiều, là một loại cây ăn trái có hoa màu trắng, có khi hơi ửng hồng hoặc đỏ.

Riêng tại Việt Nam, mơ có nhiều ở các tỉnh phía Bắc, đặc biệt là ở vùng rừng núi ở động Hương Tích.

Nhà thơ Nguyễn Bính đã từng viết: “Thấp thoáng rừng mơ – cô hái mơ”

“Thỏ thẻ rừng mai chim cúng trái;

Lững lờ khe Yến cá nghe kinh…”.

Mơ mọc thành rừng. Rừng mai  đây chính là rừng mơ chớ không phải là rừng mai vàng như nhiều người lầm tưởng.

Vì điều kiện thổ nhưỡng, hoàng mai tức là cây mai vàng nở hoa vào dịp tết âm lịch,  chỉ có từ Quảng Trị trở vào.

Lãnh thổ Việt Nam vào thế kỷ XI chỉ mới đến chân đèo Ngang, cho nên, vào thời điểm này, nước Việt Nam chưa có hoàng mai, mà chỉ có hoa mơ, và hoa mơ trong thơ xưa, vẫn gọi là hoa mai.

Vậy mai trong lời thơ của Thiền sư Mãn Giác chính là cây mơ. “Đình tiền tạc dạ nhất chi mai”, tạm dịch là, “Ngoài sân đêm trước một cành mơ”.

Xuân đi trăm hoa rụng,
Xuân đến, trăm hoa cười.
Trước mắt việc đi mãi,
Tóc bạc già đến rồi.

Trăm hoa với mình, mình với trăm hoa, nào có khác gì nhau giữa dòng sinh diệt, vẫn tương duyên, tương tức trong nhịp điệu vô thường của vạn pháp diệt sinh.

Nhưng giữa dòng sinh diệt vô thường ấy, lại biểu hiện một sự nhiệm mầu: 

Đừng bảo Xuân tàn hoa rụng hết,

Đêm qua sân trước một nhành mai.

 “Không cần nói mà ngộ”.  Ngộ được gì? Ngộ được sự thật về tính vô thường của vạn pháp.

Thiền kệ thật giản dị, không triết lý dài dòng, không văn chương hoa mỹ, không suy luận mênh mang, không lang bang ngộ nhận, mà tiếp nhận sự thật một cách trực tiếp. Chấp nhận định luật của tự nhiên, vô ngôn mà phá chấp.

Có một vị Thiền sư đã tu nhiều năm, nhưng chẳng thấu đạt được chân lý. Một đêm nọ, vị Thiền sư gánh nước về tu viện; vừa đi vừa ngắm ánh trăng rọi xuống mặt nước trong thùng. Bỗng nhiên, đòn gánh gãy đôi, giây thùng đứt và thùng nước rơi xuống. Nước đổ ào ra, bóng trăng tan biến – không còn nước, không còn trăng.

 Vị Thiền sư hoắc nhiên đốn ngộ:

“Bằng cách này hay cách khác, tôi đã cố giữ đôi thùng nước, Mong rằng chiếc đòn gánh dòn yếu kia sẽ không gãy.
Bất chợt, giây đứt thùng văng, Không còn nước trong thùng, không còn trăng trong nước;
Tay tôi rỗng không, chẳng có vật gì,
Tâm tôi rỗng không, chẳng có vật gì”.

Tâm vẫn tự trụ tâm, cảnh vẫn tự trụ cảnh. Nếu Tâm không bị lay động bởi cảnh, thì cảnh vẫn là cảnh, nào há động được Tâm.

Vậy thì còn cần tìm đến ĐỊNH để làm gì? Trong khi, bản thể của Tâm đã là Định, không hề bị chuyển lay. 

Thiền kệ thì như thế, còn bạn “cảm” ra sao?

TAM CANG – NGŨ THƯỜNG (三纲五常)

album-art

00:00

TẢI MP3 – TRẦN THIỆN TÍCH

Bạn thân mến,

Người xưa thường nói: “Gái thời Tứ Đức Tam Tòng – Trai thời phải giữ Ngũ Thường Tam Cang. Trong bài Công, Dung, Ngôn, Hạnh, các diễn giả đã bàn về phần Tứ Đức – Tam Tòng. Cho nên, trong bài này, tôi sẽ chia xẻ với các bạn về  Tam Cang – Ngũ thường.

Vậy thì Tam Cang là gì và Ngũ Thường là gì?

Tam Cang theo định nghĩa của Hán tự:

  • Tam là ba (三).
  • Cang là giềng mối (纲).

Giềng chính là sợi dây ở mép lưới đánh cá, nhờ nó mà lưới chắc chắn hơn và các mối dây cũng được liên kết chặt chẽ hơn. Giềng mối chính là mối chính liên kết với các mối khác, hiểu theo nghĩa bóng là mối quan hệ chủ đạo, dựa vào nó mà điều chỉnh các mối quan hệ khác.

Như vậy, nếu hiểu đơn giản, Tam Cang là ba mối quan hệ chính trong xã hội, gồm:

Quân thần cang (君为臣纲): Quan hệ vua – tôi
Phụ tử cang (父为纲): Quan hệ cha – con
Phu phụ cang (夫为妻纲): Quan hệ vợ – chồng

Còn Ngũ Thường theo định nghĩa của Hán tự:

Ngũ (五) là năm. Thường (常) là thường có, thường xuất hiện trong cuộc sống của con người.

Như vậy, Ngũ Thường chính là năm điều thường xuất hiện trong cuộc sống của con người, nó hình thành nên đạo đức, mà mỗi người nên có, bao gồm:

Nhân ():Là người, học cách làm người. Để làm người tốt thì phải có cái tâm, cái tâm biết yêu thương muôn loài muôn người. Trước khi muốn thành tài thì phải thành người.

 Lễ (): Là lễ độ, lễ phép. Lễ răn dạy con người ta phải cư xử cho phải phép, tôn trọng và hòa nhã với mọi người.

Nghĩa (): Là chính nghĩa, tình nghĩa, sự công tâm. Chữ nghĩa trong ngũ thường dạy con người phải cư xử sao cho công bằng, theo lẽ phải, theo tình và lý.

Trí (): Là trí tuệ. Trí thể hiện sự sáng suốt, minh bạch. Người có trí là người giữ được sự sáng suốt, biết cách nhìn nhận, phân biệt đúng sai, phải trái, thiện ác.

Tín (): Là sự tin tưởng, tín nhiệm, niềm tin. Tín trong ngũ thường dạy con người ta làm người phải biết giữ chữ tín.

Như vậy:

Tam Cang là nói về ba mối quan hệ trọng yếu trong xã hội, gồm:
vua – tôi ( Quân – Thần), cha – con (Phụ – Tử), vợ – chồng (Phu – Phụ).

Ngũ thường là nói về năm đạo đức mà một người thường có, và nên có: Nhân – Nghĩa – Lễ – Trí – Tín.

Như vậy, muốn thực hiện được những điều này, chúng ta chỉ cần quay về nơi “TÂM” của chúng ta.

Nhắc đến “TÂM”, thì ai trong chúng ta cũng biết, mọi hành động của chúng ta đều xuất phát từ tâm ra. Cho nên:

* Tâm thiện thì suy nghĩ và hành động đúng với đạo lý và lẽ phải.

* Tâm bất thiện thì sẽ sinh tà ý và làm nhiều điều bất chánh.

Chữ “TÂM” thường được dùng để hướng suy nghĩ của chúng ta đến cái thiện, tu thân, dưỡng tính, sống tích cực và làm nhiều điều tốt lành.

  • Tâm bất chánh thì mang lại cho cuộc sống của chúng ta nhiều đau khổ.
  • Tâm gian dối thì cuộc sống sẽ bất an.
  • Tâm ghen ghét thì cuộc sống sẽ hận thù.
  • Tâm đố kỵ thì cuộc sống sẽ không an lạc.

Vậy thì bạn hãy:

  • Đặt Tâm của mình lên ngực để yêu thương.
  • Đặt Tâm lên tay để giúp đỡ người khác.
  • Đặt Tâm lên mắt để thấy được nỗi khổ của tha nhân.
  • Đặt Tâm lên chân để đem may mắn đến với người cùng khổ.
  • Đặt Tâm lên miệng để nói lời an ủi với người bất hạnh.
  • Đặt Tâm lên tai để nghe lời góp ý của người khác.
  • Đặt Tâm lên vai để chịu trách nhiệm với chính mình.

Tam Cang – Ngũ Thường, dù là một học thuyết lỗi lạc của đức Khổng Tử đã để lại cho thế gian, nhưng học thuyết đó, vẫn không vượt ra khỏi chữ “TÂM”.

Nào, mời bạn hãy bắt đầu cho sự “Tâm, Tẩm, Tầm, Tâm”.

Chủng Niệm

 

 

CẦU NGUYỆN 2

album-art

00:00

TẢI MP3 – TÂM TỪ
TẢI MP3 – VIÊN NGUYỆT

Bạn Thân Mến,

Nếu trong bài cầu nguyện lần trước, chúng tôi chia xẻ với bạn về ý nghĩa của hai chữ cầu nguyện, thì chủ đề hôm nay, chúng tôi muốn chia xẻ với bạn về cách cầu nguyện như thế nào mới có kết quả.

Câu chuyện bắt đầu khi chúng tôi sinh hoạt về tâm linh với một số bạn có duyên. Trong những thân hữu này, có một cặp vợ chồng đã quyết định đem xá lợi tặng cho chúng tôi, vì anh chị cảm nhận được sự bình an của chúng tôi, mỗi khi anh chị tới sinh hoạt chung.

Anh chị nói với chúng tôi rằng, anh chị tin tưởng, với tâm bình an của chúng tôi, nếu cộng thêm với xá lợi, chúng tôi sẽ giúp ích được cho mọi người có được sự bình an lâu dài.

Nói thật, về kinh nghiệm làm sao kéo dài An thì chúng tôi còn có chút kinh nghiệm. Nhưng về xá lợi là gì và ứng dụng ra sao thì chúng tôi mù tịt.

Cho nên, chúng tôi nhất định từ chối, và anh chị đã phải mang xá lợi đến nhiều lần, chúng tôi mới chấp nhận. Chúng tôi nhận xá lợi không phải vì sự mầu nhiệm của xá lợi như những gì chúng tôi có đọc hay nghe qua, mà chúng tôi nhận vì tấm lòng chân thành của anh chị.

Trong hơn 100 viên xá lợi chúng tôi nhận lúc đó, có đầy đủ mầu sắc long lanh rất đẹp. Sau khi thiết lập một bàn thờ trang nghiêm, chúng tôi mới đặt những viên xá lợi lên bàn thờ.

Cũng như bao người khác, vì đây là lần đầu tiên nhận Xá Lợi, cho nên, chúng tôi cũng chưa hiểu được hết ý nghĩa và giá trị về Xá Lợi.

Vì thế, chúng tôi đã quyết định đi tìm hiểu bằng chính sự trải nghiệm của mình, mà không theo bất cứ những nghi thức, định nghĩa, hay giải thích về Xá Lợi từ bất cứ nguồn nào khác.

Chúng tôi nghĩ rằng, chỉ có như vậy, sự trải nghiệm mới mang tính chất khách quan, mà không hề có bất cứ một định kiến nào có trước.

Bước khởi đầu trải nghiệm của chúng tôi, bắt đầu bằng Tâm Bình An, sự Quan Sát và Nhìn Sâu. Trong tiến trình quan sát và nhìn sâu, chúng tôi cảm nhận được định nghĩa của Xá Lợi là:

Tinh hoa của một qúa trình tu hành nghiêm mật của các bậc  tĩnh thức, hiền giả, thiện tri thức, giác ngộ, sau khi viên tịch, đã dồn hết tuệ giác của các ngài lại kết tinh thành những hạt.

Giá trị của những Hạt Tuệ Giác (Xá Lợi) này, như một ngọn hải đăng, luôn soi đường dẫn lối cho chúng tôi, những con thuyền đang chìm trong bóng đêm tăm tối, có thể định hướng để quay về bờ bến An Toàn; và cũng là tấm gương phản chiếu, giúp cho chúng tôi có thể nhìn thấu tâm thức của mình, để kiểm tra, chỉnh sửa lại những hướng đi cho trúng đích, tránh lệch đường.

Qua sự trải nghiệm và cảm nhận trên, chúng tôi lại tiến thêm một bước nữa, đó là: kiểm chứng xem điều đó có đúng không? Bằng cách phân đôi Xá Lợi nguồn thành hai phần:

 Phần Xá Lợi thứ nhất: chúng tôi phát khởi tâm hướng về Từ Bi.

Phần Xá Lợi thứ hai: chúng tôi phát khởi tâm hướng về Tuệ Giác.

Sau một khoảng thời gian ngắn, phần Xá Lợi thứ nhất phát ra mùi trầm hương (Hương Từ), và phần Xá Lợi thứ hai, khi chụp hình, chúng tôi phát hiện ra những vùng ánh sáng.

Đặc biệt là, phần Xá Lợi thứ nhất, lại không có bất cứ ánh sáng nào, và ngược lại, phần Xá Lợi thứ hai, cũng không có bất cứ một chút mùi hương trầm nào. Dù rằng, cả 2 phần Xá Lợi lúc mới nhận, đều không có hương thơm, cũng không có ánh sáng.

Khi phát hiện ra điều này, chúng tôi có chia xẻ lại với thân hữu tặng xá lợi cho chúng tôi. Anh chị cũng rất ngạc nhiên, bởi vì, Xá Lợi cùng nguồn từ nhà anh chị, cũng không có hương thơm và ánh sáng.

Như vậy, qua sự trải nghiệm và kiểm chứng trên, chúng tôi rút ra được một bài học vô cùng qúy giá đó là:

Xá lợi là một tấm gương phản chiếu nội tâm của người đối diện. Khi chúng ta có được chiếc “gương Thần” này, chúng ta có thể nhìn rõ được nội tâm của chúng ta một cách rất rõ ràng.

Nhờ đó, chúng ta có thể tiếp xúc được với Sự Thật. Ai trong chúng ta cũng biết rằng, khi chúng ta không có khả năng tiếp xúc với Sự Thật, thì chúng ta sẽ sinh ra ảo tưởng, phỏng đoán, và từ đó dẫn đến những nhận thức mê lầm. Và Ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm, chính những nhận thức mê lầm này là những nguyên nhân gây ra phiền não, khổ đau, bịnh tật của chúng ta trong đời sống hàng ngày.

Sau đó, chúng tôi lại tiếp tục làm thực nghiệm thứ ba, qua việc tặng Xá Lợi cho những bệnh nhân, trong đó bao gồm: người bịnh ung thư Phổi và di căn, thời ký cuối, khi bác sĩ đã khẳng định chị chỉ có thể sống thêm được sáu tháng, nên cho về nhà, nằm chờ chết; gia đình bị tự kỷ; và một số người bịnh khác, theo phương pháp Cầu Nguyện của chúng tôi và cầu nguyện bình thường.

Với người bị ung thư Phổi và gia đình tự kỷ, khi nhận được Xá Lợi, họ đặt 100% niềm tin vào Xá Lợi, và thực hành theo hướng dẫn Cầu Nguyện.

Trong vòng 24 giờ, Xá Lợi của người bị ung thư Phổi, sinh ra hơn 10 viên Xá Lợi khác. Trong qúa trình tự chữa, chị tích cực cầu nguyện và duy trì trạng thái An nhiều nhất có thể trong một ngày. Trong vòng 3 tháng, chị khỏi hẳn ung thư, ngay cả, các bác sĩ đã “tuyên án tử” cho chị, cũng chỉ biết thốt lên hai chữ “kỳ tích”, mà không thể giải thích được tại sao.

Còn gia đình tự kỷ, sau một khoảng thời gian thực tập thì gia đình sinh hoạt như người bình thường.

Trong khi, với những người bịnh khác, chỉ cầu nguyện không thực hành, và niền tin dao động, thì kết qủa có khác nhau không được như ý muốn.

Qua thực nghiệm này, chúng tôi rút ra được những bài học như sau:

Bài Học 1: Cầu mà không nguyện cầu không đắc

Bài Học 2: Nếu muốn Xá Lợi sanh, thì khi Cầu, chúng ta phải thêm vào lời Nguyện: sau khi thực hành thành công chữa được bịnh từ Thân hay Tâm, chúng ta phải nguyện đem kinh nghiệm và Xá Lợi mới sinh ra, hay Xá Lợi của chúng ta có, để chia xẻ và giúp đỡ những người có căn bịnh giống như chúng ta. Và chỉ thực hiện duy nhất với căn bịnh đó mà thôi, chứ không nên hướng dẫn, hay chia xẻ những căn bịnh khác, mà chúng ta không có kinh nghiệm, hay chưa thực hành.

Bài Học 3: Niềm tin đóng vai trò vô cùng quan trọng đến việc đạt được kết quả. Phần lớn chúng ta, thường không biết cách đo lường niềm tin của chúng ta như thế nào.

Qua thực nghiệm này, chúng tôi rút ra được cách đo niềm tin của chúng ta khá chính xác. Đó là: Dựa vào kết qủa của chúng ta có, để biết lòng tin của chúng ta là bao nhiêu.

Nếu chúng ta ra kết qủa là “không có gì hết”, thì trong niềm tin của chúng ta đã có 100% nghi ngờ về kết qủa chúng ta mong muốn. Cho nên, điều mà chúng ta nhận được là: Kết Qủa của Nghi Ngờ (không có gì đúng với ý chúng ta), chứ không phải là chúng ta Không Có Kết Quả.

Thí dụ: Chúng tôi đang đau bụng, và muốn hết đau bụng; và chúng tôi nghĩ, chúng tôi tin Xá Lợi giúp tôi hết đau bụng, nhưng Không Biết Có Hết Hay Không?

Nếu chúng ta để ý kỹ, khi bạn thêm chữ “NHƯNG” vào, thì chữ “NHƯNG” đã thay đổi toàn bộ cái muốn bạn đầu của chúng ta, bằng cái muốn thứ hai. Và cái muốn thứ hai trở thành cái muốn thật sự của chúng ta. Kết Qủa đúng như chúng ta muốn, chúng ta Không Hết Đau Bụng là chuyện tất nhiên.

Hoặc, Tôi tin là Xá Lợi có thể giúp tôi, để tôi THỬ. Bạn có biết không, Thử là một dạng của nghi ngờ, không hơn và không kém; và đây là thói quen mà chúng ta sử dụng hàng ngày.

Cho nên, khi bạn Cầu với ý niệm Thử, hay Nghi Ngờ, thì cái Kết Quả bạn nhận được chính là Kết Quả của sự Nghi Ngờ chứ không phải là Không Có Kết Qủa.

Đây là một nhận thức lệch lạc, mà hầu hết chúng ta đều vấp phải, khi cho rằng, cái Nhân ban đầu là muốn hết bịnh, mà chúng ta lại “vô tình” cộng thêm quá nhiều nghi ngờ, nên cái Nhân muốn hết bịnh, đã đổi thành cái Nhân “không biết có kết quả không”. Vì vậy, nên khi nhận được đúng cái Quả “không hết bịnh”, thì chúng ta lại thất vọng, và cho rằng, phương pháp đó sai, hay cho rằng, chúng ta đã tin, nhưng không ra kết quả như ta muốn.

Tóm lại, công thức để đo niềm tin của chúng ta như sau:

Phần trăm nghi ngờ của chúng ta càng nhiều, thì kết qủa như chúng ta mong được càng thấp.

Kết quả mà chúng ta được bao nhiêu, thì niềm tin chính xác của chúng ta là bấy nhiêu.

Bài Học Thứ 4: Định nghĩa của Trí là: khả năng quan sát, phân tích, tổng hợp, phỏng đoán và tưởng tượng dưới dạng Nông, và định nghĩa của Tuệ là: khả năng quan sát, phân tích, tổng hợp dưới dạng Sâu.

Thí dụ: Người vợ đang bận rửa chén nghe đứa con khóc, nói với người chồng:

Anh ơi, vào thay tã cho con đi, vì nó vừa mới tè xong, nếu để lâu con sẽ bị hâm.

Người chồng bỏ tờ báo xuống, trên đường đi vào phòng của con, trong đầu suy nghĩ: Quái! Sao bà xã mình biết thằng cu nó tè chứ, biết đâu nó không tè thì sao?

Khi đến bên con, người chồng mở tã ra. Đúng như người vợ nói, thằng cu tè thật. Sau khi thay tã cho con xong, thằng cu mỉm cười, rồi lại chìm vào giấc ngủ. Người chồng bước ra khỏi phòng, tiến về chỗ người vợ đang đứng rửa chén, hỏi:

Sao em biết là thằng cu nó tè?

Người vợ mỉm cười trả lời: Em không biết nữa, chắc là thiên tánh của người Mẹ.

Thật ra, người vợ đang sử dụng Tuệ Giác (nhờ sự Quan sát, Phân Tích, Tổng Hợp theo Chiều Sâu nên biết ra sự thật) mà không biết.

Nếu chúng ta dựa vào định nghĩa của Tuệ, thì người mẹ đó, qua tiếng khóc ọ ọe của đứa con đã biết ra được Sự Thật.

Bởi vì, trong qúa trình nuôi con, người mẹ đã sử dụng khả năng Quan Sát, Phân Tích, Tổng Hợp và Nhìn Sâu (Tuệ), để phân biệt những âm thanh của đứa con. Đó là ngôn ngữ của bé dùng để diễn đạt những trạng thái đang xẩy ra trên thân thể của bé, mà bé không thể dùng ngôn ngữ bình thường để diễn đạt được.

Chính nhờ sự Quan Sát và Nhìn Sâu, người mẹ biết được, nếu không thay tả kịp thời thì con mình sẽ bị hâm. Chính nhờ sự Phân Tích Tỉ Mỉ (Sâu), mà người mẹ biết âm thanh ọ ọe này là con đi tè, hay âm thanh ọ ọe kia là con đói bụng. Chính nhờ sự nhìn sâu, mà người mẹ biết được Sự Thật, mà không hề dùng đến bất cứ sự phỏng đoán nào về kết quả cả.

Ngược lại, người chồng sử dụng Trí Giác, thiếu sự Quan Sát, Nhìn Sâu, nên đã đưa ra sự phỏng đoán như “biết đâu nó không tè”. Trong khi, Sự Thật là đứa bé đã tè.

Rõ ràng, Tuệ Giác thì luôn có mặt với chúng ta, nhưng thông thường chúng ta không chọn lựa sử dụng.  Cũng như người mẹ kia, khi có con, vì có tình thương nên người mẹ đã chọn sử dụng Tuệ Giác một cách linh hoạt, mà không hề có ai dậy bảo người mẹ đó làm như thế nào mới đúng.

Nhưng cũng bất hạnh thay, khi đứa bé bắt đầu biết sử dụng ngôn ngữ, thì phần đông những bà mẹ, lại bỏ đi việc sử dụng Tuệ Giác và dần dần thay vào đó sử dụng Trí Giác.

Để cho dễ nhớ, chúng tôi có thể rút gọn những bài học lại như sau:

  1. Cầu mà không Nguyện, Cầu không Đắc.
  2. Xá Lợi chỉ Sanh khi chúng ta dùng Tuệ Giác của chúng ta để tương tác với Tuệ Giác của các bậc Tĩnh Thức. Chữ Sanh ở đây, là biểu hiện Tuệ Giác của chúng ta đang tiếp tục phát triển. Những viên Xá Lợi mới sanh, chỉ là ấn chứng cho sự phát triển tuệ giác của chúng ta, biểu hiện qua góc độ của vật chất.
  3. Chuyện gì sẽ xẩy ra, nếu như khi chúng ta đối diện trước Xá Lợi, và sử dụng Trí Giác của chúng ta.

Đơn giản, khi chúng ta dùng Trí Giác thì chúng ta sẽ không thể tương tác với Tuệ Giác của các bậc Tĩnh Thức, nên Xá Lợi sẽ không Sanh, hoặc nếu có sanh thì cũng là những hạt dị tướng.

Cũng có nghĩa là, chúng ta đang tiếp cận Xá Lợi với sự lệch hướng. Và “Gương Xá Lợi” sẽ giúp cho chúng ta nhận ra điều này, và chúng ta phải điều chỉnh lại.

  1. Kết qủa của chúng ta như thế nào, thì lòng tin của chúng ta như thế đấy. Muốn biết chúng ta tin bao nhiêu thì lấy kết qủa ra thế nào, làm thước đo.
  2. Khác nhau giữa định nghĩa của Trí và Tuệ, là Tuệ Thì phát triển theo chiều Sâu còn Trí Phát triển theo chiều Rộng hay Nông.

Qua thực nghiệm về xá lợi, khi chụp hình, có những vùng ánh sáng, tùy theo tâm niệm của người cầu, chúng tôi bắt đầu thực nghiệm qua việc chụp lại những hình theo những lời cầu nguyện để biết được lời cầu nguyện có thể đạt được hay không?

Trải qua rất nhiều lần thực nghiệm, và qua nhiều cách thức cầu nguyện khác nhau, chúng tôi rút ra được những bài học như sau:

Bài Học 1: Khi lời cầu nguyện của chúng ta đủ thành khẩn thì bất kể là nơi nào mà chúng ta cầu nguyện, cũng đều có ánh sáng. Chúng tôi đã thực nghiệm nơi những đền thờ của tôn giáo, cũng như bàn thờ của gia tiên; khi tâm chúng tôi đủ thành khẩn thì tất cả mọi bàn thờ đều có ánh sáng qua hình chụp lại.

Khi chúng tôi khởi tâm niệm thử, chỉ làm với hình thức, hay làm qua loa cho có lệ, mà không đủ lòng thành, thì cũng cùng một địa điểm, cùng một không gian, lại không có ánh sáng.

Ánh sáng ở đây, không có gì là huyền bí để dẫn đến sự mê tín, như tin là có thần thông hay quyền lực gì cả, mà ánh sáng ở đây, chỉ là những hiện tượng chứng minh lòng của chúng tôi có đủ thành khẩn hay không?

Thông thường, chúng ta hay nghĩ rằng, khi chúng ta cầu nguyện điều gì thì chúng ta sẽ rất thành khẩn. Nhưng có thật là chúng ta có thành khẩn hay không, thì chính chúng ta cũng không thể khẳng định được.

Nhưng qua hình chụp lại khi cầu nguyện thì chúng ta có thể biết được sự thành khẩn của chúng ta như thế nào. Việc này cũng giống như các bác sĩ chụp hình cộng hưởng từ (fMRI) vậy. Qua hình ảnh họ có thể biết được những tần số sóng trong não của bịnh nhân như thế nào, thì qua hình chụp lại những lời cầu nguyện, chúng ta cũng có thể biết được chúng ta có thành khẩn hay không.

Việc chúng ta chụp lại hình có ánh sáng hay không, cũng chẳng có gì là to tát hay huyền bí gì cả. Bởi vì, chúng ta chỉ dùng những hình ảnh này để biết được tâm thức của chúng ta khi cầu nguyện như thế nào.

Nếu chúng ta chưa đủ thành khẩn thì chúng ta nên chỉnh sửa lại cho đúng, để chúng ta có thể tiếp cận, hay nhận được sự hỗ trợ từ các bậc tiền nhân, đơn giản, chỉ thế thôi.

Vậy như thế nào mới là thành khẩn và thành khẩn là gì?

Theo định nghĩa, Thành có nghĩa là thật lòng, hết lòng, một lòng, và Khẩn là khấn vái, van xin.

Như vậy, hai chữ thành khẩn, có nghĩa là, khi chúng ta xin một điều gì đó với ai, thì chúng ta phải một lòng, hay thật lòng hướng đến người đó, mà không chỉ làm lấy lệ, hay hình thức.

Đứng trên góc độ của tâm lý, khi chúng ta thành khẩn, có nghĩa là, chúng ta đang tập trung tất cả những nguồn năng lượng vào một điểm.

Vì vậy, nguồn năng lượng đó sẽ rất mạnh. Chính nhờ nguồn năng lượng mạnh này mà chúng ta mới có thể tương tác được với những tần số sóng Tuệ Giác thanh cao của các bậc tiền nhân, hay những người khuất mày khuất mặt. Những người, đã có những kinh nghiệm sống, hay những trải nghiệm sống, có hạnh phúc, an lạc lâu dài hơn.

Nếu chúng ta không đủ lòng thành, chỉ làm lấy lệ, hay hình thức, thì chúng ta sẽ không đủ nguồn năng lượng để tiếp cận với những nguồn năng lượng thanh cao của các vị. Cho nên, những lời cầu nguyện của chúng ta không được chứng, hay không được sự hỗ trợ từ các Ngài, cũng là chuyện tất nhiên.

Bài Học 2: Lời cầu nguyện thì nên chân thành và đơn giản như đang tâm sự, nhất là khi cầu nguyện với tổ tiên của chúng ta.

Nếu bạn để ý kỹ, khi đứa con nhỏ của bạn muốn mua một món đồ chơi nào, thì đứa bé đâu có cần phải dùng những từ ngữ văn hoa bóng bẩy gì để tán tụng bạn là người tốt bụng, mà đứa con của bạn sẽ nói với bạn những lời nói hết sức đơn giản và trực tiếp như sau:

“Mẹ/ Bố ơi, con muốn mua món đồ chơi này, mẹ/bố mua cho con nhe mẹ/bố, con yêu mẹ/bố nhiều lắm”.

Chỉ cần dùng bấy nhiêu chữ, trực tiếp vào vấn đề, của đứa con, nếu như bố mẹ không có vấn đề về tài chánh, hay cách thức giáo dục, thì đa số, các bà mẹ hay ông bố sẽ siêu lòng và thỏa mãn cho đứa con.

Tổ tiên của chúng ta khi khuất núi cũng là những bậc cha mẹ, nên khi chúng ta cầu nguyện, hay khấn xin các Ngài điều gì, chúng ta nên dùng đúng ngôn ngữ, như vậy, chúng ta mới có thể tương tác được với các vị.

Trong ngôn ngữ Việt, có chữ “ơi” rất tuyệt. Hễ một chữ nào, nếu được đính kèm thêm chữ “ơi” đằng sau, thì lại diễn tả được sự thiết tha, trìu mến, sâu đậm.

Người chồng nếu chỉ gọi vợ của anh là “mình”, thì nghe nhạt nhẽo không tha thiết, không yêu thương sâu đậm, nhưng nếu cộng thêm chữ “ơi” vào, thành “mình ơi”, thì người vợ sẽ cảm nhận được sự ngọt ngào, yêu thương, tha thiết của người chồng ở trong đó.

Cho nên, khi cầu nguyện, trong lời cầu xin chúng ta cũng nên thêm chữ “ơi” vào sau người chúng ta muốn cầu. Chữ “ơi” ở phía sau giúp cho chúng ta bầy tỏ sự thiết tha, trìu mến, một lòng hướng về.

Thí dụ, ông nội ơi, hôm nay là ngày giỗ của ông nội, chúng cháu tề tụ về đây, làm mâm cỗ mời ông nội về ăn chung cùng chúng cháu…

Hay, tổ nghiệp ơi, xin tổ nghiệp soi đường dẫn lối cho con trên con đường nghệ thuật, con nguyện khi con có được thành công, con sẽ đem hết kinh nghiệm của con để chia xẻ, hướng dẫn cho những ai muốn tiến thân trên con đường nghệ thuật…

Dĩ nhiên sẽ có nhiều bạn sẽ không đồng ý với cách cầu nguyện này, vì những lời cầu như trên, có vẻ như “bình dân”, không văn vẻ, thiếu đi sự tôn trọng và không bầy tỏ được thành ý.

Chúng tôi cũng đồng ý với bạn là những lời nguyện trên rất bình thường và trực tiếp, không có một chút văn hoa tán tụng nào. Nhưng quan trọng nhất không phải là bình dân hay văn vẻ, mà là, có đúng ngôn ngữ của các vị muốn nghe hay không mà thôi.

Nếu chúng ta không dùng đúng loại ngôn ngữ mà người chúng ta đi cầu xin, muốn nghe, thì chúng ta sẽ “không có cửa” để các Ngài tiếp cận, hỗ trợ hay phù hộ cho chúng ta.

Cho nên, nếu ông bà của chúng ta, hay tổ của chúng ta, chỉ là những người ưa thích sử dụng ngôn ngữ “bình dân” trực tiếp, mà chúng ta lại cứ thích dùng những lời lẽ văn hoa, bóng bẩy, tán tụng các Ngài, chắc chắc, các Ngài cũng chẳng muốn “tiếp” chúng ta làm gì.

Đó có phải là một trong những nguyên nhân mà khi chúng ta cầu hoài, mà không thấy các Ngài chứng chăng? Chúng tôi vốn không biết.

Chúng tôi chỉ biết, cầu làm sao để có thể tiếp cận được với người chúng tôi muốn cầu, để các Ngài hỗ trợ cho chúng tôi và chúng tôi nguyện đem những kinh nghiệm này chia xẻ lại cho bạn.

Bạn có toàn quyền lựa chọn. Với chúng tôi, cách nào cũng tốt và đẹp cả, nhất là khi chúng ta cầu nguyện và đạt được kết quả. Bởi vì, kết quả mới chính là cứu cánh mà chúng ta muốn đạt đến, chứ không phải là phương tiện, chúng ta cầu cách nào?

Cầu Mà Không Nguyện… Cầu Không Đắc

Nguyện Hành Từng Khắc… Đắc Nhân Tâm

CÓ BỊNH THÌ VÁI TỨ PHƯƠNG

album-art

00:00

TẢI MP3 – VIÊN NGUYỆT

Bạn Thân Mến,

Qua ca dao, tục ngữ, ông cha của chúng ta đã dậy rằng: “Có Bịnh thì Vái Tứ Phương”, vậy, Vái là gì? và Vái như thế nào mới đạt được kết quả? Đó là chủ đề mà chúng tôi muốn chia xẻ với bạn khi chăm sóc cho người thân của chúng tôi.

Theo định nghĩa, Vái có nghĩa là, xá, chắp tay trước trán hay ngực và cúi đầu, cầu khẩn, van xin với người khuất mày khuất mặt, khác với Lậy là quỳ gối và mọp đầu xuống.

Phần đông chúng ta khi “Vái” thường sử dụng ý nghĩa của sự cầu khẩn, hơn là chú trọng đến nghĩa thứ hai, van xin người khuất mày khuất mặt.

Riêng chúng tôi, lại hay sử dụng chữ “vái” theo nghĩa thứ hai, là tạo ra cầu nối để tiếp nhận nguồn năng lượng mà cha ông chúng ta đã tích lũy.

Nếu bạn đã đọc qua bài chín thức, bạn sẽ thấy ngôn ngữ của Ngã Thức thuộc về năng lượng được biểu hiện qua các tần số sóng.

Nếu đem so với ngày xưa, thì tần số sóng là một điều gì đó, không thể thấy được, mà người xưa, chỉ có thể cảm được. Nhưng với sự tiến bộ và khoa học ngày nay, người ta có thể đo được các tần số sóng, người ta có thể chụp hình được những tần số sóng.

Nói về tần số sóng với con người hôm nay thì không thể nói “cảm” không là đủ, mà có thể còn chứng minh được qua hình ảnh hay những biểu đồ.

Ngày xưa, người nào có khả năng nghe được âm thanh, lời nói ở ngàn dặm thì người đó được gọi là thiên lý nhĩ, người nào có thể nhìn xa, thấy được mọi cảnh tượng ở ngàn dặm thì người đó được gọi là thiên lý nhãn (thiên có nghĩa là một ngàn và lý là dặm).

Ai mà có khả năng nhìn xa ngàn dặm, hay nghe xa ngàn dặm, thì không phải “dạng vừa”, mà được phong thần, và khả năng nhìn xa nghe xa này được gọi là thần thông.

Trong những truyện về phong thần, cả thiên đình chỉ có hai vị thần được phong tặng danh hiệu: Thiên Lý Nhĩ và Thiên Lý Nhãn, mà ngay cả Ngọc Hoàng Đại Đế, người nắm quyền tối cao trên thiên đình, cũng không có được khả năng này. Nếu Ngọc Hoàng muốn biết chuyện gì xẩy ra từ ngàn dặm thì Ngọc Hoàng cũng phải nhờ, hay sai hai vị thần này làm cho.

Nhưng ngày nay, phần lớn chúng ta, ai cũng có thiên lý nhãn và thiên lý nhĩ cả. Chỉ cần, chún ta cầm trên tay một chiếc điện thoại thông minh, là chúng ta, không những chỉ biết được chuyện từ ngàn dặm, mà chúng ta còn có thể biết đến chuyện, lên đến cả chục ngàn dặm, cũng là chuyện bình thường.

Nếu đem so với thiên đình ngày xưa, chỉ có hai vị thần có khả năng nghe xa và nhìn xa, thì ngày nay, chúng ta có cả mấy tỷ vị thần, còn cao siêu hơn hai vị thần xưa, vì chúng ta có khả năng nghe và nhìn xa hơn hai vị ít nhất cũng gấp 10 lần.

Vậy, khi bạn cần chiếc điện thoại trên tay, bạn đang là hai vị thần, thiên lý nhãn và thiên lý nhĩ, bạn có thấy bạn có thần thông không?, và bạn có thấy thần thông có cao siêu không?

Chắc chắn là chả có gì mà cao siêu cả, mà đôi khi bạn còn cảm thấy phiền, khi có những việc, bạn đang cần riêng tư, mà lại đang dùng đến thiên lý nhãn (video call).

Cho nên, không phải cứ có thần thông là tốt đâu, mà có thần thông thì cũng có những cái bất tiện lắm đấy.

Vì vậy, nếu có ai đó, khoe với bạn họ có thần thông này hay nọ, thì bạn cũng đừng có ngạc nhiên hay tán phục. Vì bạn cũng có thần thông đấy, không những chỉ là một vị thần, mà bạn còn là cả hai, nghe xa, nhìn rộng cả nghìn dặm, với chiếc điện thoại đang cầm trên tay.

Nói đến điện thoại, thì không ai chúng ta lại không biết đến sóng, vì không có sóng là chúng ta sẽ mất đi “thần thông” ngay.

Như vậy, chức năng của điện thoại chỉ là một công cụ có khả năng thu và tiếp nhận được sóng, và qua song đó, mới thể hiện được thiên lý nhĩ (nói chuyện qua điện thoại) hay thiên lý nhãn (nói chuyên qua ghi hình).

Cơ thể của chúng ta cũng như chiếc điện thoại, là công cụ để tiếp nhận sóng và phát sóng. Hệ thống thần kinh và não bộ, cũng như các tế bào của chúng ta, vừa là trạm tiếp nhận tần số sóng, và cũng là trạm phát sóng từ trong cơ thể ra bên ngoài.

Có thể nói, cơ thể chúng ta giống như một đài phát thanh, nơi có thể vừa nhận sóng và phát sóng.

Khi bạn mở radio trong khi lái xe, thí dụ, đài FM100 quen thuộc, nếu bạn qua vùng phủ sóng, tuy bạn vẫn dùng đài FM100, nhưng bạn lại nhận được những sóng mới, những tiếng nói mới, những chương trình mới.

Không ai trong chúng ta xa lạ điều này, và hai chữ “phủ sóng” với chúng ta, cũng không cần phải giải thích nhiều, vì ai cũng biết.

Y học ngày nay, với những máy móc tối tân như EEG (ElectroEncephaloGraphy) hay chức năng chụp cộng hưởng từ  (fMRI – functional Magnetic Resonance Imaging), các bác sĩ và nhà khoa học thần kinh có thể đo lường những thay đổi trong não của chúng ta, mà không cần mổ não của chúng ta ra, như lúc xưa.

Trong tác phẩm bán chạy nhất, “Power vs Force” (Năng lượng tâm linh), bác sĩ David R.Hawkins đã chứng minh được mối liên hệ mật thiết giữa bệnh tật của con người và những suy giảm năng lượng trong cơ thể, đến từ những tư tưởng tiêu cực.

Để chứng minh điều này, bác sĩ David đã dùng phương pháp thực nghiệm khoa học để đo tất cả các tư tưởng, suy nghĩ, cảm nhận của một người; rồi từ đó, ông ghi nhận được tần số rung động về ý thức hệ của người đó.

Qua nghiên cứu của ông, những người thiếu thương yêu, hay có tư tưởng tiêu cực, oán giận, chỉ trích, hận thù người khác, hoặc sống ích kỷ, đều có tần số rung động thấp.

Theo bác sĩ David, khi những người đó trách móc, hận thù người khác, họ sẽ làm tiêu hao rất nhiều năng lượng của họ; đồng thời, họ cũng tạo ra rất nhiều áp lực trên cơ thể, khiến tần số rung động của họ bị giảm. Vì vậy, họ có nguy cơ bị mắc rất nhiều loại bệnh.

Sau hơn 20 năm dài thực nghiệm lâm sàng với hàng triệu tư liệu được ghi lại. Sau khi, thông qua các phân tích, thống kê tỉ mỉ, bác sĩ David đã phát hiện ra rằng:

Các tầng ý thức khác nhau của con người đều tương ứng với các chỉ số năng lượng nào đó. Từ đó, ông thống kê ra được những mức tần số năng lượng chủ yếu như sau:

Khai Ngộ, Chính Giác: 700 ~ 1000

Điềm Tĩnh, Thanh Thản: 600

Vui Vẻ, Thanh Tĩnh: 540

Tình Yêu Và Sự Tôn Kính: 500

Lý Tính, Thấu Hiểu: 400

Khoan Dung, Độ Lượng: 350

Hy Vọng, Lạc Quan: 310

Tin Cậy: 250

Can Đảm, Khẳng Định: 200

Tự Cao, Khinh Thường: 175

Ghét, Thù Hận: 150

Dục Vọng, Khao Khát: 125

Sợ Hãi, Lo Âu: 100

Điều này, có nghĩa là, khi bạn khởi sinh một ý niệm thì bạn bắt đầu tạo ra tần số sóng, và bạn có thể phát tần số sóng của bạn ra không gian. Nếu ai đó, có trạm thu nhận được tần số sóng của bạn, thì họ có thể “bắt” được tư tưởng của bạn là chuyện rất bình thường.

Người xưa có câu: Trên đầu ba thước có thần linh, dĩ nhiên, họ không có máy móc để đo hay chụp được những tần số sóng, nhưng họ vẫn có thể “cảm” được tần số sóng.

Định nghĩa của cảm là một nguồn năng lượng, mà có năng lượng là có tần số sóng, và tần số sóng của cảm có thể tương tác với các năng lượng hay tần số sóng ở ngoài cơ thể của chúng ta khi có chung một tần số rung động.

Giống như người chơi đàn guitar, khi họ đánh một dây đàn, tạo ra một tần số song, thì những dây đàn nào, lên cùng một tần số đều rung lên.

Như vậy, qua quan sát những hiện tượng về vật chất cũng như về tinh thần, chúng ta thấy, con người của chúng ta là trạm thu và phát ra những nguồn năng lượng với những tần số sóng qua tư tưởng, cảm giác, các cơ quan và tế bào.

Vì có thu, cho nên, chúng ta có thể tiếp xúc được với những nguồn năng lượng (tư tưởng, cảm giác,v.v) của các bậc tiền nhân, đồng thời, chúng ta cũng có thể phát ra những nguồn năng lượng (tư tưởng, cảm giác) cùng tần số với các bậc tiên tổ. Qúa trình thu hay phát này gọi là qúa trình tương tác hay tương tức (cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không).

Điều này có thể giải thích được lý do, tại sao các nhà ngoại cảm (cảm nhận được nguồn năng lượng từ bên ngoài) có thể tiếp xúc được những tần số sóng trong không gian của những người đã khuất. Đồng thời, cũng giải thích luôn được lý do tại sao có khi họ cảm được, cũng như có khi họ không cảm được.

Lý do họ cảm được, khi Ngã Thức của họ thật sự tạo ra được tần số sóng cùng chung với người họ muốn tươg tác, và họ không làm được, khi họ bị những “áp lực” như danh tiếng hay hoàn cảnh “ép buộc” khiến họ phải dùng đến phỏng đoán hay tưởng tượng ra kết quả, khi họ không thật sự có được tần số sóng giao thoa với người họ cần tương tác.

Chính vì vậy, khi chúng ta vái, có nghĩa là, chúng ta đang khởi ý niệm hướng về các vị tiên tổ của chúng ta, hay nói rõ hơn, chúng ta đang tạo ra tần số rung động cùng với tần số rung động của tổ tiên.

Khi chúng ta có cùng với tần số với tiên tổ, chúng ta có thể giao tiếp với các Ngài, một cách dễ dàng.

Vậy thì, chúng ta giao tiếp (vái) những gì với tiên tổ? Như những bài viết khác, chúng tôi đã chia xẻ với bạn về những tinh hoa, và cách sống làm sao kéo dài An của tổ tiên của chúng ta.  Chúng ta “vái” các Ngài chỉ dẫn cho chúng ta con đường để đạt được an và kéo dài an.

Tại sao chúng ta lại vái tiên tổ của chúng ta soi đường dẫn lối cho chúng ta An? Vì định nghĩa của An là không xáo trộn.

Theo Đông y, khi cơ thể của chúng ta bị bịnh, có nghĩa là, cơ thể của chúng ta đã mất đi sự quân bình giữa âm với dương, hay giữa lục phủ và ngũ tạng. Như vậy, khi chúng ta có An, chúng ta có thể thiết lập lại thế quân bình âm dương. Nhờ sự thiết lập được quân bình âm dương trong tâm, cho nên, sẽ ảnh hưởng tới thân.

Vì vậy, những bịnh từ thân, có thể nương tựa nơi nguồn năng lượng An của tâm, để tự điều chỉnh, từ đó, giúp cơ thể của chúng có thể sống khỏe mạnh hơn.

Những phương pháp sống lâu, và sống khỏe, không bịnh tật của người xưa luôn đặt trọng tâm vào chữ An. Khi Tâm đã an thì không có bịnh tật

Ngày nay, các bác sĩ Tây Y cũng công nhận sự bất an, căng thẳng, trầm cảm,v.v, là một trong những nguyên nhân chính gây ra những chứng bịnh nan y.

Câu chuyện về chứng bịnh rối loạn nghi bệnh (hypochondria) mà chúng tôi nhớ, có đọc trên vnexpress của tác giả Vương Linh, nói về chứng bịnh rối loạn nghi bệnh hay cách “định bịnh giả” như sau:

“Từ ngày ông hàng xóm mất vì ung thư vòm họng, bà A luôn có cảm giác mình có rất nhiều đờm. Bà nghĩ bà bị bệnh nặng sắp chết, nên bà bắt con cháu đưa đi hết nhà thương này tới nhà thương khác, dù bác sĩ nơi nào cũng khẳng định bà khỏe mạnh.

Trong 6 tháng, bà A đã đi khám tới hơn chục nơi. Qua các kết quả, đều cho thấy, bà có sức khỏe bình thường, họng và phổi không có vấn đề gì.

Nhưng bà A vẫn không yên tâm và luôn cảm giác họng đầy đờm, suốt ngày khạc nhổ. Người nhà sau nhiều lần đưa bà đi khám, đã quá mệt mỏi và nghĩ, bà chỉ giả vờ bệnh để con cháu quan tâm. Trong khi đó, bà A ngày càng lo lắng tới mất ăn mất ngủ.

Cuối cùng, trong một lần đến khám tại bệnh viện khác, bà được bác sĩ khuyên nên đi khám chuyên khoa thần kinh, vì bệnh không nằm trong họng của bà, mà nằm ở nơi “đầu” của bà.

Con cháu thuyết phục bà mãi, và lấy cớ bác sĩ chỉ định vào khoa thần kinh chụp chiếu, mới phát hiện bệnh chính xác, thì bà mới chịu đi. Qua chuẩn đoán, các bác sĩ tại đây mới xác định bà mắc chứng rối loạn nghi bệnh (hypochondria), nên luôn ám ảnh mình mắc bệnh hiểm nghèo.

Một bệnh nhân tên B, đi khám bịnh vì đinh ninh có một chiếc xương cá rất to dính trong cổ họng.

Người nhà cho biết, mấy ngày trước, khi đang ăn tối, có món cá, anh B bỗng đứng dậy khạc nhổ, kêu đau vì bị hóc xương cá.

Người nhà đã làm đủ các mẹo để chữa hóc xương, nhưng anh vẫn không đỡ, kêu than, nên người nhà quyết định đưa anh đi bác sĩ nhờ khám dùm.

Khi tới bịnh viện, sau khi kiên nhẫn nghe anh kể về cách chữa bệnh và những mối lo của anh; để cho anh yên lòng, bác sĩ chỉ định anh đi soi họng. Sau khi soi họng xong, bác sĩ khẳng định, anh bị mắc xương cá, và hẹn anh, chiều quay lại để lấy xương cá ra.

Trong thời gian đó, bác sĩ đã nhờ một người đi tìm một chiếc xương cá thật, và khi anh tới, bác sĩ làm các thủ thuật như đang gắp xương cá ra, rồi nhanh tay đưa cho anh B xem chiếc xương cá mà bác sĩ đã dấu trong tay từ trước.

Khi nhìn thấy xương cá anh vô cùng mừng rỡ, và từ đó, khỏi hẳn cảm giác vướng vướng, đau đau ở họng.”

Qua hai câu chuyện trên, chúng ta thấy, không phải chỉ có Đông y mà ngay cả Tây y cũng đều công nhận, An chính là chất liệu cần thiết để có thể chữa trị các loại bịnh, nhất là trong câu chuyện thứ hai. Nếu vị bác sĩ không tinh ý và “đánh lừa” anh, bằng cách tạo ra An cho anh, thì bác sĩ không thể chữa trị cho anh B hết bịnh được.

Nói đến chữ “Bịnh”, thì phần đông chúng ta ngày nay, đã đánh đồng chữ  “bịnh” là đau, ốm, hay sức khỏe kém hơn bình thường.

Nhưng thật ra, chữ bịnh theo Thân Thể Thức, là biểu hiển tình trạng của một cơ quan hay bộ phận nào đó trong cơ thể, đã hoạt động qúa độ, hay cách chức năng của bộ phận đó bị ảnh hưởng từ môi trường, hoàn cảnh, hay do vi trùng, vi khuẩn tấn công, nên không còn hoạt động đúng theo quy trình.

Thông thường, trước khi chúng ta bị bịnh, cơ thể của chúng ta luôn có sự báo động “đỏ” cho chúng ta biết, là cơ quan, bộ phận, hay cơ thể đã có sự hoạt động qúa tải hay lệch quy trình. Nhưng Ngã Thức của chúng ta, vì qúa ham mê theo đuổi một điều gì đó, nên thường không để ý đến.

Khi Thân Thể Thức đã báo động cho Ngã Thức rồi, mà Ngã Thức vẫn quyết định không nghe theo, thì Thân Thể Thức sẽ có hai trường hợp để hoạt động: một, quyết định ngưng hoạt động, hai, chấp nhận và điều khiển các cơ quan theo ý muốn của Ngã Thức.

Hãy lấy thí dụ sau đây làm minh họa.

Chị A mới mua một căn nhà, và nhà chị có một bồn hoa. Ngày cuối tuần, chị nghỉ làm, nên quyết định sẽ đi mua hoa về trồng trong bồn hoa của chị.

Vì quen làm việc văn phòng và ít hoạt động tay chân, cho nên, khi chị xới đất lên để trồng hoa trong một khoảng thời gian dài, tay của chị đã bắt đầu cảm thấy hơi bị ê.

Thay vì lắng nghe theo cơ thể của chị, báo cho chị biết, chị đã làm việc quá sức mà thói quen cơ bắp của chị có thể chịu đựng, và chị nên dừng lại, để cho cơ bắp phục hồi.

Nhưng vì Ngã Thức của chị lại muốn đem bồn hoa đẹp chị muốn trồng để khoe với bạn bè ngày mai, nên chị không nghe theo lời cơ thể của chị, và vẫn tiếp tục đào xới đất.

Vì cơ bắp tay của chị đã mệt mỏi, nay lại tiếp tục phải làm them việc, cho nên, các cơ bắp, bắt đầu gia tăng báo động, thay vì, ê thì nay thành đau.

Chị A vì cảm giác muốn khoe với bạn mạnh hơn, cho nên, tuy tay bị đau, chị vẫn tiếp tục công việc đào xới đất trồng hoa của chị. Khi các cơ bắp không thể chịu được nữa, thì gởi báo động “đỏ” đến chị, qua triệu chứng nhức, khiến cho chị vì đau qúa, không thể làm việc được nữa, nên chị phải ngừng.

Sau đó, chị phải bóp dầu cả tuần, mới hết đau nhức, và trong thời gian đó, làm ảnh hưởng đến công việc văn phòng của chị khá nhiều.

Qua câu chuyện này, chúng ta thấy, cơ thể của chúng ta luôn có sự báo động những sự bất thường đang xẩy ra trong cơ thể của chúng ta, theo dạng, từ nhẹ tới nặng, chứ không phải, tự dưng cơ thể chúng ta đau hay nhức một cách đột biến.

Dĩ nhiên, ở đây, chúng ta phải loại trừ trường hợp khi thân thể bị va chạm mạnh, khiến các cơ quan bị thương tổn trầm trọng, thì cơ thể của chúng ta sẽ không báo động kịp cho Ngã Thức lựa chọn.

Như vậy, nếu Ngã Thức của chúng ta chịu lắng nghe những lời “báo cáo” của cơ thể, từ lúc nhẹ, đã lo chữa trị, thì chúng ta sẽ ít bị rơi vào những căn bịnh khó trị sau này.

Các bác sĩ Đông cũng như Tây y đều khuyến cáo chúng ta, nên đi khám bịnh định kỳ, để có thể phát hiện ra những triệu chứng bất thường của cơ thể, lúc mới khởi đầu, như vậy, sẽ dễ dàng chữa trị, hơn là để đến khi qúa nặng, đã làm tổn thương tới các cơ quan, thì sẽ khó trị, và chúng ta sẽ tốn kém về tài chánh nhiều hơn.

Nhưng phần đông với chúng ta, những lời khuyên này hình như vô cảm với chúng ta.

Câu chuyện thứ hai liên quan đến sự thuần phục của Thân Thể Thức trước Ngã Thức.

Anh A có một thân hình khá mập mạp, anh đi cua gái và thường bị các cô chê là anh có bụng bia, nên ít cô muốn quen với anh. Họ chọc ghẹo anh, nếu anh có một thân hình sáu múi, thì họ sẽ về “nâng khăn sửa túi” cho anh.

Mặc dù anh biết là họ chọc ghẹo anh, nhưng sự chọc ghẹo đó, chạm đến tự ái của anh, nên anh quyết định sẽ đến phòng tập thể hình, để tập thành cơ bụng 6 múi.

Dưới sự hướng dẫn của huấn luyện viên thể hình, anh bắt đầu bằng cách đẩy tạ. Ngày đầu tiên, cơ thể của anh rã rời, ê ẩm. Anh đã tính bỏ cuộc, nhưng nhớ lại lời chọc ghẹo của các cô gái, anh cố chịu đau và vẫn tiếp tục ngày thứ hai.

Tuy cơ bắp cũng có ê đau, nhưng anh vẫn cố chịu và kiên trì luyện tập. Trong vòng 2 tuần thì những ê đau của cơ bắp ban đầu không còn. Sau đó, anh tiếp tục thực tập với các dụng cụ khác, và trọng lượng đẩy tạ của anh cũng tăng theo từng ngày.

Chỉ trong vòng vài tháng, cái bụng bia của anh đã bắt đầu phẳng lại, và một thời gian sau, anh cũng tập được cơ bụng 6 múi như Ngã Thức của anh mong muốn.

Qua câu chuyện này, chúng ta thấy, Thân Thể Thức của anh cũng đã có những báo động đỏ cho anh nhưng vì Ngã Thức của anh vì tự ái nên đã kiên trì ra lệnh cho Thân thể Thức làm theo ý của Ngã Thức.

Thân thể thức đã cộng tác với Ngã Thức, và ra lệnh cho hệ thần kinh và các cơ bắp, các tế bào, ghi nhớ những lập trình mới, như: gia tăng sự đàn hồi của các cơ, luân chuyển máu đến các cơ nhanh hơn, tim và phổi cũng phối hợp chặt chẽ để lấy đủ dưỡng khí cho cơ thể, và tim cũng bơm mạnh hơn để thải các độc tố do các cơ bắp hoạt động mạnh thải ra ngoài qua tuyến mồ hôi và nước tiểu v.v.

Trường hợp thứ hai này, thường xẩy ra cho chúng ta, khi chúng ta không chịu nghe theo cơ thể, và cứ tiếp tục “lơ là” với những báo động của cơ thể.

Sau những báo động “đỏ” của cơ thể, mà Ngã Thức của chúng ta cứ “phớt lờ”, thì Thân Thể Thức sẽ coi như đó là một lập trình mới từ Ngã Thức muốn, và ra lệnh cho các cơ quan hoạt động theo lập trình mới này.

Lập trình của anh A là một lập trình mang tính cách khỏe mạnh, đó là những lập trình tốt, mà chúng ta có thể lựa chọn cho cơ thể của chúng ta.

Nhưng nếu lập trình mang tính cách làm hại đến các cơ quan như uống rượu, ăn nhiều chất béo phì,v,v, thì chúng ta nên cẩn thận trước khi đưa ra lập trình cho Thân Thể Thức điều khiển các cơ quan hoạt động, và biến thành thói quen.

Qua thí dụ này, chúng ta thấy, khi chúng ta nói, chúng ta bịnh, có nghĩa là, Ngã Thức của chúng ta đã không lắng nghe những sự báo động của cơ thể; và đã phớt lờ những báo động này. Chính vì sự “phớt lờ” này, chúng ta đã vô tình tạo ra một lập trình mới cho cơ thể của chúng ta.

Lập trình này, do Ngã Thức của chúng ta, vì không hiểu được sự vận hành của cơ thể, hay hiểu nhưng vì qu’a ham mê vào một điều gì đó, nên chúng ta đã đưa ra những lập trình đi ngược, hay sai, với sự vận hành của cơ thể.

Cho nên, Ngã Thức của chúng ta đã làm xáo trộn, và tạo ra sự bất an giữa các cơ quan, và các tế bào; từ đó, tạo ra những vùng năng lượng đối chọi nhau trong cơ thể, và trong Ngã Thức, chúng ta có cảm giác đau hay nhức.

Như vậy, nếu chúng ta muốn sống khỏe mạnh thì chúng ta cần phải để ý đến những ý muốn trong Ngã Thức của chúng ta trước những báo động của cơ thể của chúng ta.

Chúng ta phải xem xét lại, những ý muốn của Ngã Thức của chúng ta có làm cho cơ thể chúng ta mạnh khỏe lên, hay làm cho suy yếu đi.

Nếu chúng ta làm được điều này, thì sự khỏe mạnh của cơ thể của chúng ta có là chuyện tất nhiên.

Ơ trong câu ca dao “có bịnh thì vái tứ phương”, chúng ta đã quan sát và nhìn sâu vào hai chữ “vái” và “bịnh”, vậy còn hai chữ tứ phương nghĩa là gì?

Hai chữ tứ phương ở đây, có nghĩa là, bên ông nội, bên bà nội, bên ông ngoại, và bên bà ngoại, gồm bốn gia tộc, tổ tiên của hai bên nội và hai bên ngoại.

Mỗi gia tộc của ông, bà, nội, ngoại, đều có những tinh hoa mà con cháu có thể quay về để nương tựa các bậc tổ tiên, dẫn lối soi đường.

Như vậy, câu ca dao có “bịnh thì vái tứ phương” qua cách ứng dụng của chúng tôi theo nghĩa thứ hai, có nghĩa là, khi Ngã Thức của chúng tôi có những sự bất an hay vì đam mê theo điều gì đó, nên không chịu lắng nghe theo cơ thể, khiến chúng tôi bị bịnh, thì chúng tôi phải quay về quan sát và nhìn sâu vào trong Ngã Thức để thiết lập được An.

Sau đó, gởi nguồn năng lượng An của chúng tôi đến tổ tiên hai bên nội, ngoại để được tương tác với các Ngài, và nương nhờ các Ngài chỉ dậy, cũng như hỗ trợ cho chúng tôi có cái An lâu dài.

Điều này, cũng giống như, khi ông bà chúng ta còn sống, nếu chúng ta cần những lời khuyên hay học hỏi kinh nghiệm từ ông bà thì chúng ta dùng lời nói để bầy tỏ vậy.

Khi các cụ đã khuất thì chúng ta cũng làm y như vậy, chỉ khác, thay vì dùng lời nói, thì chúng ta dùng ý niệm hay lời nói trong lúc khấn. Ý niệm hay lời nói, đều là những nguồn năng lượng, lời nói thì qua tần số của âm thanh và ý niệm vái cầu là tần số của tâm thức.

Sau khi chúng ta đã có thể thiết lập được sự tương tác với ông bà của chúng ta, và chúng ta có được sự hỗ trợ An từ các vị rồi, chúng ta mới dùng An đó, để quan sát và nhìn sâu xem Ngã Thức của chúng ta đã lập trình những điều gì, tạo nên sự xáo trộn trong cơ thể; nhờ đó, chúng ta sẽ điều chỉnh lại lập trình.

Trong qúa trình điều chỉnh này, chúng ta sẽ kết hợp với các bác sĩ hay các chuyên gia, bằng cách, cung cấp những thông tin chính xác về những lập trình, để các bác sĩ có đầy đủ những thông tin, và đưa ra những chuẩn đoán chính xác.

Thí dụ như câu chuyện về người thân của chúng tôi, mới xẩy ra, liên quan đến thuốc tiểu đường như sau:

Không biết vì lý do gì, mà người thân của chúng tôi trong mấy tháng qua, với chỉ số lượng đường trong máu đều ổn định, bỗng tăng một cách đột biến, nên chúng tôi đã quyết định, đưa người thân của chúng tôi vào nhà thương.

Qua những khám nghiệm, các bác sĩ không biết nguyên nhân vì sao, mà các bác sĩ chỉ phát hiện được có một bịnh duy nhất là bị nhiễm trùng đường tiểu.

Cho nên, các bác sĩ cho rằng, nguyên nhân gây ra đột biến đường là do bị nhiễm trùng đường tiểu. Chúng tôi không phải là bác sĩ, cũng không phải chuyên gia, nên không biết đánh giá đó có phải là nguyên nhân hay không?

Vấn đề mà chúng tôi quan tâm là, người thân của chúng tôi, sau khi được truyền những liều insulin, thì đã trở lại bình thường.

Sau 5 ngày nằm viện, bác sĩ về tiểu đường quyết định, người thân của chúng tôi phải chích insulin để khống chế lượng đường trong máu. Theo toa thuốc của bác sĩ thì người thân của chúng tôi phải chích một mũi buổi sáng và một mũi buổi chiều.

Qua ba ngày chích insulin, và qua những con số mà chúng tôi ghi lại, chúng tôi phát giác ra, khi chích hai mũi sáng chiều, thì sức khỏe của người thân chúng tôi suy sụp hẳn. Thay vì, có thể di chuyển như lúc trước, thì nay lại nằm bẹp, mê mệt.

Cho nên, chúng tôi đã liên lạc với bác sĩ tiểu đường, và đưa ra đề nghị, chỉ nên chích một mũi vào buổi trưa, vì chỉ vào buổi trưa là lúc đường lên cao nhất, còn những lúc khác, thì lại xuống thấp bất thường, không đủ tiêu chuẩn chích insulin.

Bác sĩ, sau khi coi qua cuốn sổ ghi chép cẩn thận với những con số thay đổi qua mấy ngày, và ông cũng coi những tấm hình chúng tôi chụp lại những con số trên máy đo, thì ông đồng ý, chuyển từ chích hai mũi sáng chiều, thành chích một mũi vào buổi trưa.

Sau đó, ba ngày, qua chăm sóc và ăn uống theo phương pháp “Thuốc từ Tâm”, thì chỉ số đường trở về bình thường, và không cần phải chích insulin nữa.

Câu chuyện chúng tôi kể cho bạn, không phải là để chê hay chỉ trích các bác sĩ Tây y, vì chúng tôi hiểu, khi chúng ta không có đủ những thông tin chính xác, mà chỉ dựa trên suy luận và phỏng đoán, thì kết quả không ra đúng như sự thật là chuyện bình thường.

Chúng tôi biết, các bác sĩ, sở dĩ, đưa ra những chuẩn đoán thiếu chính xác, không phải vì họ dở hay không có khả năng, mà bởi vì, họ không trực tiếp chăm sóc cho người thân của chúng tôi, nên họ thiếu những thông tin chính xác để đưa ra những sự chuẩn đoán chính xác.

Cho nên, là người chăm sóc trực tiếp cho người thân của chúng tôi, chúng tôi phải có bổn phận cung cấp đầy đủ các thông tin chính xác nhất cho các bác sĩ, để họ có đầy đủ dữ kiện khi đưa ra phương pháp chữa trị.

Quả nhiên, khi chúng tôi cung cấp đầy đủ các thông tin, các bác sĩ đã có sự điều chỉnh đúng lúc, đúng chỗ, và có thể khống chế được căn bịnh dễ dàng.

“Có bịnh thì vái tứ phương” không phải là chúng ta đi van xin cầu khẩn mọi nơi mọi chỗ. Vì đó, chỉ là chữa ngọn mà không phải chữa gốc.

Chữa tận gốc là chữa bằng cách trở về với chính chúng ta, thiết lập được An, rồi tương tác với các ông bà khuất mặt, để nương theo hướng dẫn, chỉ dậy, soi đường dẫn lối, hay nhờ ông bà của chúng ta tiếp lực hay hỗ trợ cho chúng ta có thể kéo dài được An.

Sau đó, chúng ta dùng nguồn năng lượng An để tìm ra những lập trình mà Ngã Thức đã “vô tình” tạo ra cho cơ thể để chỉnh sửa lại.

Rồi kết hợp với các bác sĩ (nếu có), bằng cách, cung cấp đầy đủ các thông tin chính xác về những suy nghĩ, tư tưởng, lo sợ, v.v. của chúng ta, để các bác sĩ có thể hiểu rõ và có thể chuẩn bịnh đúng hơn.

Khi đã đi khám bác sĩ, chúng ta nên đặt trọn niềm tin vào phương pháp chữa trị, tuân thủ và hợp tác.

Đặt niềm tin trọn vẹn vào bác sĩ, không phải là, bác sĩ nói sao chúng ta nghe vậy, hay cho thuốc thế nào thì chúng ta cứ uống theo như thế, mà trong qúa trình dùng thuốc, chúng ta phải tự theo dõi những diễn biến trong cơ thể, rồi liên tục cung cấp những thông tin đang xẩy ra trong cơ thể của chúng ta cho bác sĩ biết, để các bác sĩ có đầy đủ những thông tin chính xác nhất.

Chỉ khi chúng ta làm được như vậy, chúng ta mới chữa được tận gốc, chứ không phải như thói quen thông thường của chúng ta, khi có bịnh, chữa chỗ này không được thì đi cầu khẩn chỗ khác, mà lại không biết được, chính Ngã Thức của chúng ta mới là tác nhân chính.

Cho nên, khi chúng ta có bịnh, đó không phải là một điều gì đó xấu, hay hại, mà bịnh cũng có những điều tốt giúp cho chúng ta thực tập có An, có sự tương tác với tổ tiên, có cơ hội nhìn sâu vào Ngã Thức để chuyển hóa những lập trình mà Ngã Thức của chúng ta đã vô tình tạo ra.

Nhờ có “vái” mà chúng ta có thể kết hợp giữa hữu hạn của y học với vô hạn của những nguồn năng lượng yêu thương, hiểu biết, an lạc, và hạnh phúc của tổ tiên.

Như vậy, ý nghĩa của “có bịnh thì vái tứ phương” đâu phải chỉ dùng trên góc độ về vật chất, về y học trị liệu, mà còn có thể ứng dụng trên góc độ của tâm linh nữa.

Khi chúng ta biết kết hợp cả hai lĩnh vực vật chất và tinh thần hay tâm linh thì chúng ta sẽ có sức mạnh gấp đôi, thay vì, chỉ sử dụng có một lĩnh vực này hay lĩnh vực khác. Tệ hại hơn, khi chúng ta lại phí thời gian để đi tranh luận xem lĩnh vực này đúng hay sai, hay lĩnh vực này chánh hay tà.

Ai đúng, ai sai, không quan trọng, quan trọng của phương pháp chữa bịnh, dù là Đông hay Tây y, là chúng ta có đạt được kết quả hay không. Nếu có kết quả, đúng như ý chúng ta muốn, và kết quả đó đem đến cho chúng ta an lạc, hạnh phúc thì đó mới là ý nghĩa của “có bịnh thì vái tứ phương”.

Cho nên:

Có bịnh thì nên vái tứ phương

Trở về… tương tác với tổ đường

Cầu xin… học hỏi tâm An Lạc

Nhìn sâu… Ngã Thức… rõ tai ương

Dõi theo… kết hợp cùng y sĩ

Thông tin, dữ liệu… phải… rõ… tường

Niềm tin đặt trọn và tuân thủ

Bịnh đâu còn chỗ… để tựa nương

We use cookies in order to give you the best possible experience on our website. By continuing to use this site, you agree to our use of cookies.
Accept