TAM CANG – NGŨ THƯỜNG (三纲五常)

album-art

00:00

TẢI MP3 – TRẦN THIỆN TÍCH

Bạn thân mến,

Người xưa thường nói: “Gái thời Tứ Đức Tam Tòng – Trai thời phải giữ Ngũ Thường Tam Cang. Trong bài Công, Dung, Ngôn, Hạnh, các diễn giả đã bàn về phần Tứ Đức – Tam Tòng. Cho nên, trong bài này, tôi sẽ chia xẻ với các bạn về  Tam Cang – Ngũ thường.

Vậy thì Tam Cang là gì và Ngũ Thường là gì?

Tam Cang theo định nghĩa của Hán tự:

  • Tam là ba (三).
  • Cang là giềng mối (纲).

Giềng chính là sợi dây ở mép lưới đánh cá, nhờ nó mà lưới chắc chắn hơn và các mối dây cũng được liên kết chặt chẽ hơn. Giềng mối chính là mối chính liên kết với các mối khác, hiểu theo nghĩa bóng là mối quan hệ chủ đạo, dựa vào nó mà điều chỉnh các mối quan hệ khác.

Như vậy, nếu hiểu đơn giản, Tam Cang là ba mối quan hệ chính trong xã hội, gồm:

Quân thần cang (君为臣纲): Quan hệ vua – tôi
Phụ tử cang (父为纲): Quan hệ cha – con
Phu phụ cang (夫为妻纲): Quan hệ vợ – chồng

Còn Ngũ Thường theo định nghĩa của Hán tự:

Ngũ (五) là năm. Thường (常) là thường có, thường xuất hiện trong cuộc sống của con người.

Như vậy, Ngũ Thường chính là năm điều thường xuất hiện trong cuộc sống của con người, nó hình thành nên đạo đức, mà mỗi người nên có, bao gồm:

Nhân ():Là người, học cách làm người. Để làm người tốt thì phải có cái tâm, cái tâm biết yêu thương muôn loài muôn người. Trước khi muốn thành tài thì phải thành người.

 Lễ (): Là lễ độ, lễ phép. Lễ răn dạy con người ta phải cư xử cho phải phép, tôn trọng và hòa nhã với mọi người.

Nghĩa (): Là chính nghĩa, tình nghĩa, sự công tâm. Chữ nghĩa trong ngũ thường dạy con người phải cư xử sao cho công bằng, theo lẽ phải, theo tình và lý.

Trí (): Là trí tuệ. Trí thể hiện sự sáng suốt, minh bạch. Người có trí là người giữ được sự sáng suốt, biết cách nhìn nhận, phân biệt đúng sai, phải trái, thiện ác.

Tín (): Là sự tin tưởng, tín nhiệm, niềm tin. Tín trong ngũ thường dạy con người ta làm người phải biết giữ chữ tín.

Như vậy:

Tam Cang là nói về ba mối quan hệ trọng yếu trong xã hội, gồm:
vua – tôi ( Quân – Thần), cha – con (Phụ – Tử), vợ – chồng (Phu – Phụ).

Ngũ thường là nói về năm đạo đức mà một người thường có, và nên có: Nhân – Nghĩa – Lễ – Trí – Tín.

Như vậy, muốn thực hiện được những điều này, chúng ta chỉ cần quay về nơi “TÂM” của chúng ta.

Nhắc đến “TÂM”, thì ai trong chúng ta cũng biết, mọi hành động của chúng ta đều xuất phát từ tâm ra. Cho nên:

* Tâm thiện thì suy nghĩ và hành động đúng với đạo lý và lẽ phải.

* Tâm bất thiện thì sẽ sinh tà ý và làm nhiều điều bất chánh.

Chữ “TÂM” thường được dùng để hướng suy nghĩ của chúng ta đến cái thiện, tu thân, dưỡng tính, sống tích cực và làm nhiều điều tốt lành.

  • Tâm bất chánh thì mang lại cho cuộc sống của chúng ta nhiều đau khổ.
  • Tâm gian dối thì cuộc sống sẽ bất an.
  • Tâm ghen ghét thì cuộc sống sẽ hận thù.
  • Tâm đố kỵ thì cuộc sống sẽ không an lạc.

Vậy thì bạn hãy:

  • Đặt Tâm của mình lên ngực để yêu thương.
  • Đặt Tâm lên tay để giúp đỡ người khác.
  • Đặt Tâm lên mắt để thấy được nỗi khổ của tha nhân.
  • Đặt Tâm lên chân để đem may mắn đến với người cùng khổ.
  • Đặt Tâm lên miệng để nói lời an ủi với người bất hạnh.
  • Đặt Tâm lên tai để nghe lời góp ý của người khác.
  • Đặt Tâm lên vai để chịu trách nhiệm với chính mình.

Tam Cang – Ngũ Thường, dù là một học thuyết lỗi lạc của đức Khổng Tử đã để lại cho thế gian, nhưng học thuyết đó, vẫn không vượt ra khỏi chữ “TÂM”.

Nào, mời bạn hãy bắt đầu cho sự “Tâm, Tẩm, Tầm, Tâm”.

Chủng Niệm

 

 

CẦU NGUYỆN 2

album-art

00:00

TẢI MP3 – TÂM TỪ
TẢI MP3 – VIÊN NGUYỆT

Bạn Thân Mến,

Nếu trong bài cầu nguyện lần trước, chúng tôi chia xẻ với bạn về ý nghĩa của hai chữ cầu nguyện, thì chủ đề hôm nay, chúng tôi muốn chia xẻ với bạn về cách cầu nguyện như thế nào mới có kết quả.

Câu chuyện bắt đầu khi chúng tôi sinh hoạt về tâm linh với một số bạn có duyên. Trong những thân hữu này, có một cặp vợ chồng đã quyết định đem xá lợi tặng cho chúng tôi, vì anh chị cảm nhận được sự bình an của chúng tôi, mỗi khi anh chị tới sinh hoạt chung.

Anh chị nói với chúng tôi rằng, anh chị tin tưởng, với tâm bình an của chúng tôi, nếu cộng thêm với xá lợi, chúng tôi sẽ giúp ích được cho mọi người có được sự bình an lâu dài.

Nói thật, về kinh nghiệm làm sao kéo dài An thì chúng tôi còn có chút kinh nghiệm. Nhưng về xá lợi là gì và ứng dụng ra sao thì chúng tôi mù tịt.

Cho nên, chúng tôi nhất định từ chối, và anh chị đã phải mang xá lợi đến nhiều lần, chúng tôi mới chấp nhận. Chúng tôi nhận xá lợi không phải vì sự mầu nhiệm của xá lợi như những gì chúng tôi có đọc hay nghe qua, mà chúng tôi nhận vì tấm lòng chân thành của anh chị.

Trong hơn 100 viên xá lợi chúng tôi nhận lúc đó, có đầy đủ mầu sắc long lanh rất đẹp. Sau khi thiết lập một bàn thờ trang nghiêm, chúng tôi mới đặt những viên xá lợi lên bàn thờ.

Cũng như bao người khác, vì đây là lần đầu tiên nhận Xá Lợi, cho nên, chúng tôi cũng chưa hiểu được hết ý nghĩa và giá trị về Xá Lợi.

Vì thế, chúng tôi đã quyết định đi tìm hiểu bằng chính sự trải nghiệm của mình, mà không theo bất cứ những nghi thức, định nghĩa, hay giải thích về Xá Lợi từ bất cứ nguồn nào khác.

Chúng tôi nghĩ rằng, chỉ có như vậy, sự trải nghiệm mới mang tính chất khách quan, mà không hề có bất cứ một định kiến nào có trước.

Bước khởi đầu trải nghiệm của chúng tôi, bắt đầu bằng Tâm Bình An, sự Quan Sát và Nhìn Sâu. Trong tiến trình quan sát và nhìn sâu, chúng tôi cảm nhận được định nghĩa của Xá Lợi là:

Tinh hoa của một qúa trình tu hành nghiêm mật của các bậc  tĩnh thức, hiền giả, thiện tri thức, giác ngộ, sau khi viên tịch, đã dồn hết tuệ giác của các ngài lại kết tinh thành những hạt.

Giá trị của những Hạt Tuệ Giác (Xá Lợi) này, như một ngọn hải đăng, luôn soi đường dẫn lối cho chúng tôi, những con thuyền đang chìm trong bóng đêm tăm tối, có thể định hướng để quay về bờ bến An Toàn; và cũng là tấm gương phản chiếu, giúp cho chúng tôi có thể nhìn thấu tâm thức của mình, để kiểm tra, chỉnh sửa lại những hướng đi cho trúng đích, tránh lệch đường.

Qua sự trải nghiệm và cảm nhận trên, chúng tôi lại tiến thêm một bước nữa, đó là: kiểm chứng xem điều đó có đúng không? Bằng cách phân đôi Xá Lợi nguồn thành hai phần:

 Phần Xá Lợi thứ nhất: chúng tôi phát khởi tâm hướng về Từ Bi.

Phần Xá Lợi thứ hai: chúng tôi phát khởi tâm hướng về Tuệ Giác.

Sau một khoảng thời gian ngắn, phần Xá Lợi thứ nhất phát ra mùi trầm hương (Hương Từ), và phần Xá Lợi thứ hai, khi chụp hình, chúng tôi phát hiện ra những vùng ánh sáng.

Đặc biệt là, phần Xá Lợi thứ nhất, lại không có bất cứ ánh sáng nào, và ngược lại, phần Xá Lợi thứ hai, cũng không có bất cứ một chút mùi hương trầm nào. Dù rằng, cả 2 phần Xá Lợi lúc mới nhận, đều không có hương thơm, cũng không có ánh sáng.

Khi phát hiện ra điều này, chúng tôi có chia xẻ lại với thân hữu tặng xá lợi cho chúng tôi. Anh chị cũng rất ngạc nhiên, bởi vì, Xá Lợi cùng nguồn từ nhà anh chị, cũng không có hương thơm và ánh sáng.

Như vậy, qua sự trải nghiệm và kiểm chứng trên, chúng tôi rút ra được một bài học vô cùng qúy giá đó là:

Xá lợi là một tấm gương phản chiếu nội tâm của người đối diện. Khi chúng ta có được chiếc “gương Thần” này, chúng ta có thể nhìn rõ được nội tâm của chúng ta một cách rất rõ ràng.

Nhờ đó, chúng ta có thể tiếp xúc được với Sự Thật. Ai trong chúng ta cũng biết rằng, khi chúng ta không có khả năng tiếp xúc với Sự Thật, thì chúng ta sẽ sinh ra ảo tưởng, phỏng đoán, và từ đó dẫn đến những nhận thức mê lầm. Và Ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm, chính những nhận thức mê lầm này là những nguyên nhân gây ra phiền não, khổ đau, bịnh tật của chúng ta trong đời sống hàng ngày.

Sau đó, chúng tôi lại tiếp tục làm thực nghiệm thứ ba, qua việc tặng Xá Lợi cho những bệnh nhân, trong đó bao gồm: người bịnh ung thư Phổi và di căn, thời ký cuối, khi bác sĩ đã khẳng định chị chỉ có thể sống thêm được sáu tháng, nên cho về nhà, nằm chờ chết; gia đình bị tự kỷ; và một số người bịnh khác, theo phương pháp Cầu Nguyện của chúng tôi và cầu nguyện bình thường.

Với người bị ung thư Phổi và gia đình tự kỷ, khi nhận được Xá Lợi, họ đặt 100% niềm tin vào Xá Lợi, và thực hành theo hướng dẫn Cầu Nguyện.

Trong vòng 24 giờ, Xá Lợi của người bị ung thư Phổi, sinh ra hơn 10 viên Xá Lợi khác. Trong qúa trình tự chữa, chị tích cực cầu nguyện và duy trì trạng thái An nhiều nhất có thể trong một ngày. Trong vòng 3 tháng, chị khỏi hẳn ung thư, ngay cả, các bác sĩ đã “tuyên án tử” cho chị, cũng chỉ biết thốt lên hai chữ “kỳ tích”, mà không thể giải thích được tại sao.

Còn gia đình tự kỷ, sau một khoảng thời gian thực tập thì gia đình sinh hoạt như người bình thường.

Trong khi, với những người bịnh khác, chỉ cầu nguyện không thực hành, và niền tin dao động, thì kết qủa có khác nhau không được như ý muốn.

Qua thực nghiệm này, chúng tôi rút ra được những bài học như sau:

Bài Học 1: Cầu mà không nguyện cầu không đắc

Bài Học 2: Nếu muốn Xá Lợi sanh, thì khi Cầu, chúng ta phải thêm vào lời Nguyện: sau khi thực hành thành công chữa được bịnh từ Thân hay Tâm, chúng ta phải nguyện đem kinh nghiệm và Xá Lợi mới sinh ra, hay Xá Lợi của chúng ta có, để chia xẻ và giúp đỡ những người có căn bịnh giống như chúng ta. Và chỉ thực hiện duy nhất với căn bịnh đó mà thôi, chứ không nên hướng dẫn, hay chia xẻ những căn bịnh khác, mà chúng ta không có kinh nghiệm, hay chưa thực hành.

Bài Học 3: Niềm tin đóng vai trò vô cùng quan trọng đến việc đạt được kết quả. Phần lớn chúng ta, thường không biết cách đo lường niềm tin của chúng ta như thế nào.

Qua thực nghiệm này, chúng tôi rút ra được cách đo niềm tin của chúng ta khá chính xác. Đó là: Dựa vào kết qủa của chúng ta có, để biết lòng tin của chúng ta là bao nhiêu.

Nếu chúng ta ra kết qủa là “không có gì hết”, thì trong niềm tin của chúng ta đã có 100% nghi ngờ về kết qủa chúng ta mong muốn. Cho nên, điều mà chúng ta nhận được là: Kết Qủa của Nghi Ngờ (không có gì đúng với ý chúng ta), chứ không phải là chúng ta Không Có Kết Quả.

Thí dụ: Chúng tôi đang đau bụng, và muốn hết đau bụng; và chúng tôi nghĩ, chúng tôi tin Xá Lợi giúp tôi hết đau bụng, nhưng Không Biết Có Hết Hay Không?

Nếu chúng ta để ý kỹ, khi bạn thêm chữ “NHƯNG” vào, thì chữ “NHƯNG” đã thay đổi toàn bộ cái muốn bạn đầu của chúng ta, bằng cái muốn thứ hai. Và cái muốn thứ hai trở thành cái muốn thật sự của chúng ta. Kết Qủa đúng như chúng ta muốn, chúng ta Không Hết Đau Bụng là chuyện tất nhiên.

Hoặc, Tôi tin là Xá Lợi có thể giúp tôi, để tôi THỬ. Bạn có biết không, Thử là một dạng của nghi ngờ, không hơn và không kém; và đây là thói quen mà chúng ta sử dụng hàng ngày.

Cho nên, khi bạn Cầu với ý niệm Thử, hay Nghi Ngờ, thì cái Kết Quả bạn nhận được chính là Kết Quả của sự Nghi Ngờ chứ không phải là Không Có Kết Qủa.

Đây là một nhận thức lệch lạc, mà hầu hết chúng ta đều vấp phải, khi cho rằng, cái Nhân ban đầu là muốn hết bịnh, mà chúng ta lại “vô tình” cộng thêm quá nhiều nghi ngờ, nên cái Nhân muốn hết bịnh, đã đổi thành cái Nhân “không biết có kết quả không”. Vì vậy, nên khi nhận được đúng cái Quả “không hết bịnh”, thì chúng ta lại thất vọng, và cho rằng, phương pháp đó sai, hay cho rằng, chúng ta đã tin, nhưng không ra kết quả như ta muốn.

Tóm lại, công thức để đo niềm tin của chúng ta như sau:

Phần trăm nghi ngờ của chúng ta càng nhiều, thì kết qủa như chúng ta mong được càng thấp.

Kết quả mà chúng ta được bao nhiêu, thì niềm tin chính xác của chúng ta là bấy nhiêu.

Bài Học Thứ 4: Định nghĩa của Trí là: khả năng quan sát, phân tích, tổng hợp, phỏng đoán và tưởng tượng dưới dạng Nông, và định nghĩa của Tuệ là: khả năng quan sát, phân tích, tổng hợp dưới dạng Sâu.

Thí dụ: Người vợ đang bận rửa chén nghe đứa con khóc, nói với người chồng:

Anh ơi, vào thay tã cho con đi, vì nó vừa mới tè xong, nếu để lâu con sẽ bị hâm.

Người chồng bỏ tờ báo xuống, trên đường đi vào phòng của con, trong đầu suy nghĩ: Quái! Sao bà xã mình biết thằng cu nó tè chứ, biết đâu nó không tè thì sao?

Khi đến bên con, người chồng mở tã ra. Đúng như người vợ nói, thằng cu tè thật. Sau khi thay tã cho con xong, thằng cu mỉm cười, rồi lại chìm vào giấc ngủ. Người chồng bước ra khỏi phòng, tiến về chỗ người vợ đang đứng rửa chén, hỏi:

Sao em biết là thằng cu nó tè?

Người vợ mỉm cười trả lời: Em không biết nữa, chắc là thiên tánh của người Mẹ.

Thật ra, người vợ đang sử dụng Tuệ Giác (nhờ sự Quan sát, Phân Tích, Tổng Hợp theo Chiều Sâu nên biết ra sự thật) mà không biết.

Nếu chúng ta dựa vào định nghĩa của Tuệ, thì người mẹ đó, qua tiếng khóc ọ ọe của đứa con đã biết ra được Sự Thật.

Bởi vì, trong qúa trình nuôi con, người mẹ đã sử dụng khả năng Quan Sát, Phân Tích, Tổng Hợp và Nhìn Sâu (Tuệ), để phân biệt những âm thanh của đứa con. Đó là ngôn ngữ của bé dùng để diễn đạt những trạng thái đang xẩy ra trên thân thể của bé, mà bé không thể dùng ngôn ngữ bình thường để diễn đạt được.

Chính nhờ sự Quan Sát và Nhìn Sâu, người mẹ biết được, nếu không thay tả kịp thời thì con mình sẽ bị hâm. Chính nhờ sự Phân Tích Tỉ Mỉ (Sâu), mà người mẹ biết âm thanh ọ ọe này là con đi tè, hay âm thanh ọ ọe kia là con đói bụng. Chính nhờ sự nhìn sâu, mà người mẹ biết được Sự Thật, mà không hề dùng đến bất cứ sự phỏng đoán nào về kết quả cả.

Ngược lại, người chồng sử dụng Trí Giác, thiếu sự Quan Sát, Nhìn Sâu, nên đã đưa ra sự phỏng đoán như “biết đâu nó không tè”. Trong khi, Sự Thật là đứa bé đã tè.

Rõ ràng, Tuệ Giác thì luôn có mặt với chúng ta, nhưng thông thường chúng ta không chọn lựa sử dụng.  Cũng như người mẹ kia, khi có con, vì có tình thương nên người mẹ đã chọn sử dụng Tuệ Giác một cách linh hoạt, mà không hề có ai dậy bảo người mẹ đó làm như thế nào mới đúng.

Nhưng cũng bất hạnh thay, khi đứa bé bắt đầu biết sử dụng ngôn ngữ, thì phần đông những bà mẹ, lại bỏ đi việc sử dụng Tuệ Giác và dần dần thay vào đó sử dụng Trí Giác.

Để cho dễ nhớ, chúng tôi có thể rút gọn những bài học lại như sau:

  1. Cầu mà không Nguyện, Cầu không Đắc.
  2. Xá Lợi chỉ Sanh khi chúng ta dùng Tuệ Giác của chúng ta để tương tác với Tuệ Giác của các bậc Tĩnh Thức. Chữ Sanh ở đây, là biểu hiện Tuệ Giác của chúng ta đang tiếp tục phát triển. Những viên Xá Lợi mới sanh, chỉ là ấn chứng cho sự phát triển tuệ giác của chúng ta, biểu hiện qua góc độ của vật chất.
  3. Chuyện gì sẽ xẩy ra, nếu như khi chúng ta đối diện trước Xá Lợi, và sử dụng Trí Giác của chúng ta.

Đơn giản, khi chúng ta dùng Trí Giác thì chúng ta sẽ không thể tương tác với Tuệ Giác của các bậc Tĩnh Thức, nên Xá Lợi sẽ không Sanh, hoặc nếu có sanh thì cũng là những hạt dị tướng.

Cũng có nghĩa là, chúng ta đang tiếp cận Xá Lợi với sự lệch hướng. Và “Gương Xá Lợi” sẽ giúp cho chúng ta nhận ra điều này, và chúng ta phải điều chỉnh lại.

  1. Kết qủa của chúng ta như thế nào, thì lòng tin của chúng ta như thế đấy. Muốn biết chúng ta tin bao nhiêu thì lấy kết qủa ra thế nào, làm thước đo.
  2. Khác nhau giữa định nghĩa của Trí và Tuệ, là Tuệ Thì phát triển theo chiều Sâu còn Trí Phát triển theo chiều Rộng hay Nông.

Qua thực nghiệm về xá lợi, khi chụp hình, có những vùng ánh sáng, tùy theo tâm niệm của người cầu, chúng tôi bắt đầu thực nghiệm qua việc chụp lại những hình theo những lời cầu nguyện để biết được lời cầu nguyện có thể đạt được hay không?

Trải qua rất nhiều lần thực nghiệm, và qua nhiều cách thức cầu nguyện khác nhau, chúng tôi rút ra được những bài học như sau:

Bài Học 1: Khi lời cầu nguyện của chúng ta đủ thành khẩn thì bất kể là nơi nào mà chúng ta cầu nguyện, cũng đều có ánh sáng. Chúng tôi đã thực nghiệm nơi những đền thờ của tôn giáo, cũng như bàn thờ của gia tiên; khi tâm chúng tôi đủ thành khẩn thì tất cả mọi bàn thờ đều có ánh sáng qua hình chụp lại.

Khi chúng tôi khởi tâm niệm thử, chỉ làm với hình thức, hay làm qua loa cho có lệ, mà không đủ lòng thành, thì cũng cùng một địa điểm, cùng một không gian, lại không có ánh sáng.

Ánh sáng ở đây, không có gì là huyền bí để dẫn đến sự mê tín, như tin là có thần thông hay quyền lực gì cả, mà ánh sáng ở đây, chỉ là những hiện tượng chứng minh lòng của chúng tôi có đủ thành khẩn hay không?

Thông thường, chúng ta hay nghĩ rằng, khi chúng ta cầu nguyện điều gì thì chúng ta sẽ rất thành khẩn. Nhưng có thật là chúng ta có thành khẩn hay không, thì chính chúng ta cũng không thể khẳng định được.

Nhưng qua hình chụp lại khi cầu nguyện thì chúng ta có thể biết được sự thành khẩn của chúng ta như thế nào. Việc này cũng giống như các bác sĩ chụp hình cộng hưởng từ (fMRI) vậy. Qua hình ảnh họ có thể biết được những tần số sóng trong não của bịnh nhân như thế nào, thì qua hình chụp lại những lời cầu nguyện, chúng ta cũng có thể biết được chúng ta có thành khẩn hay không.

Việc chúng ta chụp lại hình có ánh sáng hay không, cũng chẳng có gì là to tát hay huyền bí gì cả. Bởi vì, chúng ta chỉ dùng những hình ảnh này để biết được tâm thức của chúng ta khi cầu nguyện như thế nào.

Nếu chúng ta chưa đủ thành khẩn thì chúng ta nên chỉnh sửa lại cho đúng, để chúng ta có thể tiếp cận, hay nhận được sự hỗ trợ từ các bậc tiền nhân, đơn giản, chỉ thế thôi.

Vậy như thế nào mới là thành khẩn và thành khẩn là gì?

Theo định nghĩa, Thành có nghĩa là thật lòng, hết lòng, một lòng, và Khẩn là khấn vái, van xin.

Như vậy, hai chữ thành khẩn, có nghĩa là, khi chúng ta xin một điều gì đó với ai, thì chúng ta phải một lòng, hay thật lòng hướng đến người đó, mà không chỉ làm lấy lệ, hay hình thức.

Đứng trên góc độ của tâm lý, khi chúng ta thành khẩn, có nghĩa là, chúng ta đang tập trung tất cả những nguồn năng lượng vào một điểm.

Vì vậy, nguồn năng lượng đó sẽ rất mạnh. Chính nhờ nguồn năng lượng mạnh này mà chúng ta mới có thể tương tác được với những tần số sóng Tuệ Giác thanh cao của các bậc tiền nhân, hay những người khuất mày khuất mặt. Những người, đã có những kinh nghiệm sống, hay những trải nghiệm sống, có hạnh phúc, an lạc lâu dài hơn.

Nếu chúng ta không đủ lòng thành, chỉ làm lấy lệ, hay hình thức, thì chúng ta sẽ không đủ nguồn năng lượng để tiếp cận với những nguồn năng lượng thanh cao của các vị. Cho nên, những lời cầu nguyện của chúng ta không được chứng, hay không được sự hỗ trợ từ các Ngài, cũng là chuyện tất nhiên.

Bài Học 2: Lời cầu nguyện thì nên chân thành và đơn giản như đang tâm sự, nhất là khi cầu nguyện với tổ tiên của chúng ta.

Nếu bạn để ý kỹ, khi đứa con nhỏ của bạn muốn mua một món đồ chơi nào, thì đứa bé đâu có cần phải dùng những từ ngữ văn hoa bóng bẩy gì để tán tụng bạn là người tốt bụng, mà đứa con của bạn sẽ nói với bạn những lời nói hết sức đơn giản và trực tiếp như sau:

“Mẹ/ Bố ơi, con muốn mua món đồ chơi này, mẹ/bố mua cho con nhe mẹ/bố, con yêu mẹ/bố nhiều lắm”.

Chỉ cần dùng bấy nhiêu chữ, trực tiếp vào vấn đề, của đứa con, nếu như bố mẹ không có vấn đề về tài chánh, hay cách thức giáo dục, thì đa số, các bà mẹ hay ông bố sẽ siêu lòng và thỏa mãn cho đứa con.

Tổ tiên của chúng ta khi khuất núi cũng là những bậc cha mẹ, nên khi chúng ta cầu nguyện, hay khấn xin các Ngài điều gì, chúng ta nên dùng đúng ngôn ngữ, như vậy, chúng ta mới có thể tương tác được với các vị.

Trong ngôn ngữ Việt, có chữ “ơi” rất tuyệt. Hễ một chữ nào, nếu được đính kèm thêm chữ “ơi” đằng sau, thì lại diễn tả được sự thiết tha, trìu mến, sâu đậm.

Người chồng nếu chỉ gọi vợ của anh là “mình”, thì nghe nhạt nhẽo không tha thiết, không yêu thương sâu đậm, nhưng nếu cộng thêm chữ “ơi” vào, thành “mình ơi”, thì người vợ sẽ cảm nhận được sự ngọt ngào, yêu thương, tha thiết của người chồng ở trong đó.

Cho nên, khi cầu nguyện, trong lời cầu xin chúng ta cũng nên thêm chữ “ơi” vào sau người chúng ta muốn cầu. Chữ “ơi” ở phía sau giúp cho chúng ta bầy tỏ sự thiết tha, trìu mến, một lòng hướng về.

Thí dụ, ông nội ơi, hôm nay là ngày giỗ của ông nội, chúng cháu tề tụ về đây, làm mâm cỗ mời ông nội về ăn chung cùng chúng cháu…

Hay, tổ nghiệp ơi, xin tổ nghiệp soi đường dẫn lối cho con trên con đường nghệ thuật, con nguyện khi con có được thành công, con sẽ đem hết kinh nghiệm của con để chia xẻ, hướng dẫn cho những ai muốn tiến thân trên con đường nghệ thuật…

Dĩ nhiên sẽ có nhiều bạn sẽ không đồng ý với cách cầu nguyện này, vì những lời cầu như trên, có vẻ như “bình dân”, không văn vẻ, thiếu đi sự tôn trọng và không bầy tỏ được thành ý.

Chúng tôi cũng đồng ý với bạn là những lời nguyện trên rất bình thường và trực tiếp, không có một chút văn hoa tán tụng nào. Nhưng quan trọng nhất không phải là bình dân hay văn vẻ, mà là, có đúng ngôn ngữ của các vị muốn nghe hay không mà thôi.

Nếu chúng ta không dùng đúng loại ngôn ngữ mà người chúng ta đi cầu xin, muốn nghe, thì chúng ta sẽ “không có cửa” để các Ngài tiếp cận, hỗ trợ hay phù hộ cho chúng ta.

Cho nên, nếu ông bà của chúng ta, hay tổ của chúng ta, chỉ là những người ưa thích sử dụng ngôn ngữ “bình dân” trực tiếp, mà chúng ta lại cứ thích dùng những lời lẽ văn hoa, bóng bẩy, tán tụng các Ngài, chắc chắc, các Ngài cũng chẳng muốn “tiếp” chúng ta làm gì.

Đó có phải là một trong những nguyên nhân mà khi chúng ta cầu hoài, mà không thấy các Ngài chứng chăng? Chúng tôi vốn không biết.

Chúng tôi chỉ biết, cầu làm sao để có thể tiếp cận được với người chúng tôi muốn cầu, để các Ngài hỗ trợ cho chúng tôi và chúng tôi nguyện đem những kinh nghiệm này chia xẻ lại cho bạn.

Bạn có toàn quyền lựa chọn. Với chúng tôi, cách nào cũng tốt và đẹp cả, nhất là khi chúng ta cầu nguyện và đạt được kết quả. Bởi vì, kết quả mới chính là cứu cánh mà chúng ta muốn đạt đến, chứ không phải là phương tiện, chúng ta cầu cách nào?

Cầu Mà Không Nguyện… Cầu Không Đắc

Nguyện Hành Từng Khắc… Đắc Nhân Tâm

CÓ BỊNH THÌ VÁI TỨ PHƯƠNG

album-art

00:00

TẢI MP3 – VIÊN NGUYỆT

Bạn Thân Mến,

Qua ca dao, tục ngữ, ông cha của chúng ta đã dậy rằng: “Có Bịnh thì Vái Tứ Phương”, vậy, Vái là gì? và Vái như thế nào mới đạt được kết quả? Đó là chủ đề mà chúng tôi muốn chia xẻ với bạn khi chăm sóc cho người thân của chúng tôi.

Theo định nghĩa, Vái có nghĩa là, xá, chắp tay trước trán hay ngực và cúi đầu, cầu khẩn, van xin với người khuất mày khuất mặt, khác với Lậy là quỳ gối và mọp đầu xuống.

Phần đông chúng ta khi “Vái” thường sử dụng ý nghĩa của sự cầu khẩn, hơn là chú trọng đến nghĩa thứ hai, van xin người khuất mày khuất mặt.

Riêng chúng tôi, lại hay sử dụng chữ “vái” theo nghĩa thứ hai, là tạo ra cầu nối để tiếp nhận nguồn năng lượng mà cha ông chúng ta đã tích lũy.

Nếu bạn đã đọc qua bài chín thức, bạn sẽ thấy ngôn ngữ của Ngã Thức thuộc về năng lượng được biểu hiện qua các tần số sóng.

Nếu đem so với ngày xưa, thì tần số sóng là một điều gì đó, không thể thấy được, mà người xưa, chỉ có thể cảm được. Nhưng với sự tiến bộ và khoa học ngày nay, người ta có thể đo được các tần số sóng, người ta có thể chụp hình được những tần số sóng.

Nói về tần số sóng với con người hôm nay thì không thể nói “cảm” không là đủ, mà có thể còn chứng minh được qua hình ảnh hay những biểu đồ.

Ngày xưa, người nào có khả năng nghe được âm thanh, lời nói ở ngàn dặm thì người đó được gọi là thiên lý nhĩ, người nào có thể nhìn xa, thấy được mọi cảnh tượng ở ngàn dặm thì người đó được gọi là thiên lý nhãn (thiên có nghĩa là một ngàn và lý là dặm).

Ai mà có khả năng nhìn xa ngàn dặm, hay nghe xa ngàn dặm, thì không phải “dạng vừa”, mà được phong thần, và khả năng nhìn xa nghe xa này được gọi là thần thông.

Trong những truyện về phong thần, cả thiên đình chỉ có hai vị thần được phong tặng danh hiệu: Thiên Lý Nhĩ và Thiên Lý Nhãn, mà ngay cả Ngọc Hoàng Đại Đế, người nắm quyền tối cao trên thiên đình, cũng không có được khả năng này. Nếu Ngọc Hoàng muốn biết chuyện gì xẩy ra từ ngàn dặm thì Ngọc Hoàng cũng phải nhờ, hay sai hai vị thần này làm cho.

Nhưng ngày nay, phần lớn chúng ta, ai cũng có thiên lý nhãn và thiên lý nhĩ cả. Chỉ cần, chún ta cầm trên tay một chiếc điện thoại thông minh, là chúng ta, không những chỉ biết được chuyện từ ngàn dặm, mà chúng ta còn có thể biết đến chuyện, lên đến cả chục ngàn dặm, cũng là chuyện bình thường.

Nếu đem so với thiên đình ngày xưa, chỉ có hai vị thần có khả năng nghe xa và nhìn xa, thì ngày nay, chúng ta có cả mấy tỷ vị thần, còn cao siêu hơn hai vị thần xưa, vì chúng ta có khả năng nghe và nhìn xa hơn hai vị ít nhất cũng gấp 10 lần.

Vậy, khi bạn cần chiếc điện thoại trên tay, bạn đang là hai vị thần, thiên lý nhãn và thiên lý nhĩ, bạn có thấy bạn có thần thông không?, và bạn có thấy thần thông có cao siêu không?

Chắc chắn là chả có gì mà cao siêu cả, mà đôi khi bạn còn cảm thấy phiền, khi có những việc, bạn đang cần riêng tư, mà lại đang dùng đến thiên lý nhãn (video call).

Cho nên, không phải cứ có thần thông là tốt đâu, mà có thần thông thì cũng có những cái bất tiện lắm đấy.

Vì vậy, nếu có ai đó, khoe với bạn họ có thần thông này hay nọ, thì bạn cũng đừng có ngạc nhiên hay tán phục. Vì bạn cũng có thần thông đấy, không những chỉ là một vị thần, mà bạn còn là cả hai, nghe xa, nhìn rộng cả nghìn dặm, với chiếc điện thoại đang cầm trên tay.

Nói đến điện thoại, thì không ai chúng ta lại không biết đến sóng, vì không có sóng là chúng ta sẽ mất đi “thần thông” ngay.

Như vậy, chức năng của điện thoại chỉ là một công cụ có khả năng thu và tiếp nhận được sóng, và qua song đó, mới thể hiện được thiên lý nhĩ (nói chuyện qua điện thoại) hay thiên lý nhãn (nói chuyên qua ghi hình).

Cơ thể của chúng ta cũng như chiếc điện thoại, là công cụ để tiếp nhận sóng và phát sóng. Hệ thống thần kinh và não bộ, cũng như các tế bào của chúng ta, vừa là trạm tiếp nhận tần số sóng, và cũng là trạm phát sóng từ trong cơ thể ra bên ngoài.

Có thể nói, cơ thể chúng ta giống như một đài phát thanh, nơi có thể vừa nhận sóng và phát sóng.

Khi bạn mở radio trong khi lái xe, thí dụ, đài FM100 quen thuộc, nếu bạn qua vùng phủ sóng, tuy bạn vẫn dùng đài FM100, nhưng bạn lại nhận được những sóng mới, những tiếng nói mới, những chương trình mới.

Không ai trong chúng ta xa lạ điều này, và hai chữ “phủ sóng” với chúng ta, cũng không cần phải giải thích nhiều, vì ai cũng biết.

Y học ngày nay, với những máy móc tối tân như EEG (ElectroEncephaloGraphy) hay chức năng chụp cộng hưởng từ  (fMRI – functional Magnetic Resonance Imaging), các bác sĩ và nhà khoa học thần kinh có thể đo lường những thay đổi trong não của chúng ta, mà không cần mổ não của chúng ta ra, như lúc xưa.

Trong tác phẩm bán chạy nhất, “Power vs Force” (Năng lượng tâm linh), bác sĩ David R.Hawkins đã chứng minh được mối liên hệ mật thiết giữa bệnh tật của con người và những suy giảm năng lượng trong cơ thể, đến từ những tư tưởng tiêu cực.

Để chứng minh điều này, bác sĩ David đã dùng phương pháp thực nghiệm khoa học để đo tất cả các tư tưởng, suy nghĩ, cảm nhận của một người; rồi từ đó, ông ghi nhận được tần số rung động về ý thức hệ của người đó.

Qua nghiên cứu của ông, những người thiếu thương yêu, hay có tư tưởng tiêu cực, oán giận, chỉ trích, hận thù người khác, hoặc sống ích kỷ, đều có tần số rung động thấp.

Theo bác sĩ David, khi những người đó trách móc, hận thù người khác, họ sẽ làm tiêu hao rất nhiều năng lượng của họ; đồng thời, họ cũng tạo ra rất nhiều áp lực trên cơ thể, khiến tần số rung động của họ bị giảm. Vì vậy, họ có nguy cơ bị mắc rất nhiều loại bệnh.

Sau hơn 20 năm dài thực nghiệm lâm sàng với hàng triệu tư liệu được ghi lại. Sau khi, thông qua các phân tích, thống kê tỉ mỉ, bác sĩ David đã phát hiện ra rằng:

Các tầng ý thức khác nhau của con người đều tương ứng với các chỉ số năng lượng nào đó. Từ đó, ông thống kê ra được những mức tần số năng lượng chủ yếu như sau:

Khai Ngộ, Chính Giác: 700 ~ 1000

Điềm Tĩnh, Thanh Thản: 600

Vui Vẻ, Thanh Tĩnh: 540

Tình Yêu Và Sự Tôn Kính: 500

Lý Tính, Thấu Hiểu: 400

Khoan Dung, Độ Lượng: 350

Hy Vọng, Lạc Quan: 310

Tin Cậy: 250

Can Đảm, Khẳng Định: 200

Tự Cao, Khinh Thường: 175

Ghét, Thù Hận: 150

Dục Vọng, Khao Khát: 125

Sợ Hãi, Lo Âu: 100

Điều này, có nghĩa là, khi bạn khởi sinh một ý niệm thì bạn bắt đầu tạo ra tần số sóng, và bạn có thể phát tần số sóng của bạn ra không gian. Nếu ai đó, có trạm thu nhận được tần số sóng của bạn, thì họ có thể “bắt” được tư tưởng của bạn là chuyện rất bình thường.

Người xưa có câu: Trên đầu ba thước có thần linh, dĩ nhiên, họ không có máy móc để đo hay chụp được những tần số sóng, nhưng họ vẫn có thể “cảm” được tần số sóng.

Định nghĩa của cảm là một nguồn năng lượng, mà có năng lượng là có tần số sóng, và tần số sóng của cảm có thể tương tác với các năng lượng hay tần số sóng ở ngoài cơ thể của chúng ta khi có chung một tần số rung động.

Giống như người chơi đàn guitar, khi họ đánh một dây đàn, tạo ra một tần số song, thì những dây đàn nào, lên cùng một tần số đều rung lên.

Như vậy, qua quan sát những hiện tượng về vật chất cũng như về tinh thần, chúng ta thấy, con người của chúng ta là trạm thu và phát ra những nguồn năng lượng với những tần số sóng qua tư tưởng, cảm giác, các cơ quan và tế bào.

Vì có thu, cho nên, chúng ta có thể tiếp xúc được với những nguồn năng lượng (tư tưởng, cảm giác,v.v) của các bậc tiền nhân, đồng thời, chúng ta cũng có thể phát ra những nguồn năng lượng (tư tưởng, cảm giác) cùng tần số với các bậc tiên tổ. Qúa trình thu hay phát này gọi là qúa trình tương tác hay tương tức (cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không).

Điều này có thể giải thích được lý do, tại sao các nhà ngoại cảm (cảm nhận được nguồn năng lượng từ bên ngoài) có thể tiếp xúc được những tần số sóng trong không gian của những người đã khuất. Đồng thời, cũng giải thích luôn được lý do tại sao có khi họ cảm được, cũng như có khi họ không cảm được.

Lý do họ cảm được, khi Ngã Thức của họ thật sự tạo ra được tần số sóng cùng chung với người họ muốn tươg tác, và họ không làm được, khi họ bị những “áp lực” như danh tiếng hay hoàn cảnh “ép buộc” khiến họ phải dùng đến phỏng đoán hay tưởng tượng ra kết quả, khi họ không thật sự có được tần số sóng giao thoa với người họ cần tương tác.

Chính vì vậy, khi chúng ta vái, có nghĩa là, chúng ta đang khởi ý niệm hướng về các vị tiên tổ của chúng ta, hay nói rõ hơn, chúng ta đang tạo ra tần số rung động cùng với tần số rung động của tổ tiên.

Khi chúng ta có cùng với tần số với tiên tổ, chúng ta có thể giao tiếp với các Ngài, một cách dễ dàng.

Vậy thì, chúng ta giao tiếp (vái) những gì với tiên tổ? Như những bài viết khác, chúng tôi đã chia xẻ với bạn về những tinh hoa, và cách sống làm sao kéo dài An của tổ tiên của chúng ta.  Chúng ta “vái” các Ngài chỉ dẫn cho chúng ta con đường để đạt được an và kéo dài an.

Tại sao chúng ta lại vái tiên tổ của chúng ta soi đường dẫn lối cho chúng ta An? Vì định nghĩa của An là không xáo trộn.

Theo Đông y, khi cơ thể của chúng ta bị bịnh, có nghĩa là, cơ thể của chúng ta đã mất đi sự quân bình giữa âm với dương, hay giữa lục phủ và ngũ tạng. Như vậy, khi chúng ta có An, chúng ta có thể thiết lập lại thế quân bình âm dương. Nhờ sự thiết lập được quân bình âm dương trong tâm, cho nên, sẽ ảnh hưởng tới thân.

Vì vậy, những bịnh từ thân, có thể nương tựa nơi nguồn năng lượng An của tâm, để tự điều chỉnh, từ đó, giúp cơ thể của chúng có thể sống khỏe mạnh hơn.

Những phương pháp sống lâu, và sống khỏe, không bịnh tật của người xưa luôn đặt trọng tâm vào chữ An. Khi Tâm đã an thì không có bịnh tật

Ngày nay, các bác sĩ Tây Y cũng công nhận sự bất an, căng thẳng, trầm cảm,v.v, là một trong những nguyên nhân chính gây ra những chứng bịnh nan y.

Câu chuyện về chứng bịnh rối loạn nghi bệnh (hypochondria) mà chúng tôi nhớ, có đọc trên vnexpress của tác giả Vương Linh, nói về chứng bịnh rối loạn nghi bệnh hay cách “định bịnh giả” như sau:

“Từ ngày ông hàng xóm mất vì ung thư vòm họng, bà A luôn có cảm giác mình có rất nhiều đờm. Bà nghĩ bà bị bệnh nặng sắp chết, nên bà bắt con cháu đưa đi hết nhà thương này tới nhà thương khác, dù bác sĩ nơi nào cũng khẳng định bà khỏe mạnh.

Trong 6 tháng, bà A đã đi khám tới hơn chục nơi. Qua các kết quả, đều cho thấy, bà có sức khỏe bình thường, họng và phổi không có vấn đề gì.

Nhưng bà A vẫn không yên tâm và luôn cảm giác họng đầy đờm, suốt ngày khạc nhổ. Người nhà sau nhiều lần đưa bà đi khám, đã quá mệt mỏi và nghĩ, bà chỉ giả vờ bệnh để con cháu quan tâm. Trong khi đó, bà A ngày càng lo lắng tới mất ăn mất ngủ.

Cuối cùng, trong một lần đến khám tại bệnh viện khác, bà được bác sĩ khuyên nên đi khám chuyên khoa thần kinh, vì bệnh không nằm trong họng của bà, mà nằm ở nơi “đầu” của bà.

Con cháu thuyết phục bà mãi, và lấy cớ bác sĩ chỉ định vào khoa thần kinh chụp chiếu, mới phát hiện bệnh chính xác, thì bà mới chịu đi. Qua chuẩn đoán, các bác sĩ tại đây mới xác định bà mắc chứng rối loạn nghi bệnh (hypochondria), nên luôn ám ảnh mình mắc bệnh hiểm nghèo.

Một bệnh nhân tên B, đi khám bịnh vì đinh ninh có một chiếc xương cá rất to dính trong cổ họng.

Người nhà cho biết, mấy ngày trước, khi đang ăn tối, có món cá, anh B bỗng đứng dậy khạc nhổ, kêu đau vì bị hóc xương cá.

Người nhà đã làm đủ các mẹo để chữa hóc xương, nhưng anh vẫn không đỡ, kêu than, nên người nhà quyết định đưa anh đi bác sĩ nhờ khám dùm.

Khi tới bịnh viện, sau khi kiên nhẫn nghe anh kể về cách chữa bệnh và những mối lo của anh; để cho anh yên lòng, bác sĩ chỉ định anh đi soi họng. Sau khi soi họng xong, bác sĩ khẳng định, anh bị mắc xương cá, và hẹn anh, chiều quay lại để lấy xương cá ra.

Trong thời gian đó, bác sĩ đã nhờ một người đi tìm một chiếc xương cá thật, và khi anh tới, bác sĩ làm các thủ thuật như đang gắp xương cá ra, rồi nhanh tay đưa cho anh B xem chiếc xương cá mà bác sĩ đã dấu trong tay từ trước.

Khi nhìn thấy xương cá anh vô cùng mừng rỡ, và từ đó, khỏi hẳn cảm giác vướng vướng, đau đau ở họng.”

Qua hai câu chuyện trên, chúng ta thấy, không phải chỉ có Đông y mà ngay cả Tây y cũng đều công nhận, An chính là chất liệu cần thiết để có thể chữa trị các loại bịnh, nhất là trong câu chuyện thứ hai. Nếu vị bác sĩ không tinh ý và “đánh lừa” anh, bằng cách tạo ra An cho anh, thì bác sĩ không thể chữa trị cho anh B hết bịnh được.

Nói đến chữ “Bịnh”, thì phần đông chúng ta ngày nay, đã đánh đồng chữ  “bịnh” là đau, ốm, hay sức khỏe kém hơn bình thường.

Nhưng thật ra, chữ bịnh theo Thân Thể Thức, là biểu hiển tình trạng của một cơ quan hay bộ phận nào đó trong cơ thể, đã hoạt động qúa độ, hay cách chức năng của bộ phận đó bị ảnh hưởng từ môi trường, hoàn cảnh, hay do vi trùng, vi khuẩn tấn công, nên không còn hoạt động đúng theo quy trình.

Thông thường, trước khi chúng ta bị bịnh, cơ thể của chúng ta luôn có sự báo động “đỏ” cho chúng ta biết, là cơ quan, bộ phận, hay cơ thể đã có sự hoạt động qúa tải hay lệch quy trình. Nhưng Ngã Thức của chúng ta, vì qúa ham mê theo đuổi một điều gì đó, nên thường không để ý đến.

Khi Thân Thể Thức đã báo động cho Ngã Thức rồi, mà Ngã Thức vẫn quyết định không nghe theo, thì Thân Thể Thức sẽ có hai trường hợp để hoạt động: một, quyết định ngưng hoạt động, hai, chấp nhận và điều khiển các cơ quan theo ý muốn của Ngã Thức.

Hãy lấy thí dụ sau đây làm minh họa.

Chị A mới mua một căn nhà, và nhà chị có một bồn hoa. Ngày cuối tuần, chị nghỉ làm, nên quyết định sẽ đi mua hoa về trồng trong bồn hoa của chị.

Vì quen làm việc văn phòng và ít hoạt động tay chân, cho nên, khi chị xới đất lên để trồng hoa trong một khoảng thời gian dài, tay của chị đã bắt đầu cảm thấy hơi bị ê.

Thay vì lắng nghe theo cơ thể của chị, báo cho chị biết, chị đã làm việc quá sức mà thói quen cơ bắp của chị có thể chịu đựng, và chị nên dừng lại, để cho cơ bắp phục hồi.

Nhưng vì Ngã Thức của chị lại muốn đem bồn hoa đẹp chị muốn trồng để khoe với bạn bè ngày mai, nên chị không nghe theo lời cơ thể của chị, và vẫn tiếp tục đào xới đất.

Vì cơ bắp tay của chị đã mệt mỏi, nay lại tiếp tục phải làm them việc, cho nên, các cơ bắp, bắt đầu gia tăng báo động, thay vì, ê thì nay thành đau.

Chị A vì cảm giác muốn khoe với bạn mạnh hơn, cho nên, tuy tay bị đau, chị vẫn tiếp tục công việc đào xới đất trồng hoa của chị. Khi các cơ bắp không thể chịu được nữa, thì gởi báo động “đỏ” đến chị, qua triệu chứng nhức, khiến cho chị vì đau qúa, không thể làm việc được nữa, nên chị phải ngừng.

Sau đó, chị phải bóp dầu cả tuần, mới hết đau nhức, và trong thời gian đó, làm ảnh hưởng đến công việc văn phòng của chị khá nhiều.

Qua câu chuyện này, chúng ta thấy, cơ thể của chúng ta luôn có sự báo động những sự bất thường đang xẩy ra trong cơ thể của chúng ta, theo dạng, từ nhẹ tới nặng, chứ không phải, tự dưng cơ thể chúng ta đau hay nhức một cách đột biến.

Dĩ nhiên, ở đây, chúng ta phải loại trừ trường hợp khi thân thể bị va chạm mạnh, khiến các cơ quan bị thương tổn trầm trọng, thì cơ thể của chúng ta sẽ không báo động kịp cho Ngã Thức lựa chọn.

Như vậy, nếu Ngã Thức của chúng ta chịu lắng nghe những lời “báo cáo” của cơ thể, từ lúc nhẹ, đã lo chữa trị, thì chúng ta sẽ ít bị rơi vào những căn bịnh khó trị sau này.

Các bác sĩ Đông cũng như Tây y đều khuyến cáo chúng ta, nên đi khám bịnh định kỳ, để có thể phát hiện ra những triệu chứng bất thường của cơ thể, lúc mới khởi đầu, như vậy, sẽ dễ dàng chữa trị, hơn là để đến khi qúa nặng, đã làm tổn thương tới các cơ quan, thì sẽ khó trị, và chúng ta sẽ tốn kém về tài chánh nhiều hơn.

Nhưng phần đông với chúng ta, những lời khuyên này hình như vô cảm với chúng ta.

Câu chuyện thứ hai liên quan đến sự thuần phục của Thân Thể Thức trước Ngã Thức.

Anh A có một thân hình khá mập mạp, anh đi cua gái và thường bị các cô chê là anh có bụng bia, nên ít cô muốn quen với anh. Họ chọc ghẹo anh, nếu anh có một thân hình sáu múi, thì họ sẽ về “nâng khăn sửa túi” cho anh.

Mặc dù anh biết là họ chọc ghẹo anh, nhưng sự chọc ghẹo đó, chạm đến tự ái của anh, nên anh quyết định sẽ đến phòng tập thể hình, để tập thành cơ bụng 6 múi.

Dưới sự hướng dẫn của huấn luyện viên thể hình, anh bắt đầu bằng cách đẩy tạ. Ngày đầu tiên, cơ thể của anh rã rời, ê ẩm. Anh đã tính bỏ cuộc, nhưng nhớ lại lời chọc ghẹo của các cô gái, anh cố chịu đau và vẫn tiếp tục ngày thứ hai.

Tuy cơ bắp cũng có ê đau, nhưng anh vẫn cố chịu và kiên trì luyện tập. Trong vòng 2 tuần thì những ê đau của cơ bắp ban đầu không còn. Sau đó, anh tiếp tục thực tập với các dụng cụ khác, và trọng lượng đẩy tạ của anh cũng tăng theo từng ngày.

Chỉ trong vòng vài tháng, cái bụng bia của anh đã bắt đầu phẳng lại, và một thời gian sau, anh cũng tập được cơ bụng 6 múi như Ngã Thức của anh mong muốn.

Qua câu chuyện này, chúng ta thấy, Thân Thể Thức của anh cũng đã có những báo động đỏ cho anh nhưng vì Ngã Thức của anh vì tự ái nên đã kiên trì ra lệnh cho Thân thể Thức làm theo ý của Ngã Thức.

Thân thể thức đã cộng tác với Ngã Thức, và ra lệnh cho hệ thần kinh và các cơ bắp, các tế bào, ghi nhớ những lập trình mới, như: gia tăng sự đàn hồi của các cơ, luân chuyển máu đến các cơ nhanh hơn, tim và phổi cũng phối hợp chặt chẽ để lấy đủ dưỡng khí cho cơ thể, và tim cũng bơm mạnh hơn để thải các độc tố do các cơ bắp hoạt động mạnh thải ra ngoài qua tuyến mồ hôi và nước tiểu v.v.

Trường hợp thứ hai này, thường xẩy ra cho chúng ta, khi chúng ta không chịu nghe theo cơ thể, và cứ tiếp tục “lơ là” với những báo động của cơ thể.

Sau những báo động “đỏ” của cơ thể, mà Ngã Thức của chúng ta cứ “phớt lờ”, thì Thân Thể Thức sẽ coi như đó là một lập trình mới từ Ngã Thức muốn, và ra lệnh cho các cơ quan hoạt động theo lập trình mới này.

Lập trình của anh A là một lập trình mang tính cách khỏe mạnh, đó là những lập trình tốt, mà chúng ta có thể lựa chọn cho cơ thể của chúng ta.

Nhưng nếu lập trình mang tính cách làm hại đến các cơ quan như uống rượu, ăn nhiều chất béo phì,v,v, thì chúng ta nên cẩn thận trước khi đưa ra lập trình cho Thân Thể Thức điều khiển các cơ quan hoạt động, và biến thành thói quen.

Qua thí dụ này, chúng ta thấy, khi chúng ta nói, chúng ta bịnh, có nghĩa là, Ngã Thức của chúng ta đã không lắng nghe những sự báo động của cơ thể; và đã phớt lờ những báo động này. Chính vì sự “phớt lờ” này, chúng ta đã vô tình tạo ra một lập trình mới cho cơ thể của chúng ta.

Lập trình này, do Ngã Thức của chúng ta, vì không hiểu được sự vận hành của cơ thể, hay hiểu nhưng vì qu’a ham mê vào một điều gì đó, nên chúng ta đã đưa ra những lập trình đi ngược, hay sai, với sự vận hành của cơ thể.

Cho nên, Ngã Thức của chúng ta đã làm xáo trộn, và tạo ra sự bất an giữa các cơ quan, và các tế bào; từ đó, tạo ra những vùng năng lượng đối chọi nhau trong cơ thể, và trong Ngã Thức, chúng ta có cảm giác đau hay nhức.

Như vậy, nếu chúng ta muốn sống khỏe mạnh thì chúng ta cần phải để ý đến những ý muốn trong Ngã Thức của chúng ta trước những báo động của cơ thể của chúng ta.

Chúng ta phải xem xét lại, những ý muốn của Ngã Thức của chúng ta có làm cho cơ thể chúng ta mạnh khỏe lên, hay làm cho suy yếu đi.

Nếu chúng ta làm được điều này, thì sự khỏe mạnh của cơ thể của chúng ta có là chuyện tất nhiên.

Ơ trong câu ca dao “có bịnh thì vái tứ phương”, chúng ta đã quan sát và nhìn sâu vào hai chữ “vái” và “bịnh”, vậy còn hai chữ tứ phương nghĩa là gì?

Hai chữ tứ phương ở đây, có nghĩa là, bên ông nội, bên bà nội, bên ông ngoại, và bên bà ngoại, gồm bốn gia tộc, tổ tiên của hai bên nội và hai bên ngoại.

Mỗi gia tộc của ông, bà, nội, ngoại, đều có những tinh hoa mà con cháu có thể quay về để nương tựa các bậc tổ tiên, dẫn lối soi đường.

Như vậy, câu ca dao có “bịnh thì vái tứ phương” qua cách ứng dụng của chúng tôi theo nghĩa thứ hai, có nghĩa là, khi Ngã Thức của chúng tôi có những sự bất an hay vì đam mê theo điều gì đó, nên không chịu lắng nghe theo cơ thể, khiến chúng tôi bị bịnh, thì chúng tôi phải quay về quan sát và nhìn sâu vào trong Ngã Thức để thiết lập được An.

Sau đó, gởi nguồn năng lượng An của chúng tôi đến tổ tiên hai bên nội, ngoại để được tương tác với các Ngài, và nương nhờ các Ngài chỉ dậy, cũng như hỗ trợ cho chúng tôi có cái An lâu dài.

Điều này, cũng giống như, khi ông bà chúng ta còn sống, nếu chúng ta cần những lời khuyên hay học hỏi kinh nghiệm từ ông bà thì chúng ta dùng lời nói để bầy tỏ vậy.

Khi các cụ đã khuất thì chúng ta cũng làm y như vậy, chỉ khác, thay vì dùng lời nói, thì chúng ta dùng ý niệm hay lời nói trong lúc khấn. Ý niệm hay lời nói, đều là những nguồn năng lượng, lời nói thì qua tần số của âm thanh và ý niệm vái cầu là tần số của tâm thức.

Sau khi chúng ta đã có thể thiết lập được sự tương tác với ông bà của chúng ta, và chúng ta có được sự hỗ trợ An từ các vị rồi, chúng ta mới dùng An đó, để quan sát và nhìn sâu xem Ngã Thức của chúng ta đã lập trình những điều gì, tạo nên sự xáo trộn trong cơ thể; nhờ đó, chúng ta sẽ điều chỉnh lại lập trình.

Trong qúa trình điều chỉnh này, chúng ta sẽ kết hợp với các bác sĩ hay các chuyên gia, bằng cách, cung cấp những thông tin chính xác về những lập trình, để các bác sĩ có đầy đủ những thông tin, và đưa ra những chuẩn đoán chính xác.

Thí dụ như câu chuyện về người thân của chúng tôi, mới xẩy ra, liên quan đến thuốc tiểu đường như sau:

Không biết vì lý do gì, mà người thân của chúng tôi trong mấy tháng qua, với chỉ số lượng đường trong máu đều ổn định, bỗng tăng một cách đột biến, nên chúng tôi đã quyết định, đưa người thân của chúng tôi vào nhà thương.

Qua những khám nghiệm, các bác sĩ không biết nguyên nhân vì sao, mà các bác sĩ chỉ phát hiện được có một bịnh duy nhất là bị nhiễm trùng đường tiểu.

Cho nên, các bác sĩ cho rằng, nguyên nhân gây ra đột biến đường là do bị nhiễm trùng đường tiểu. Chúng tôi không phải là bác sĩ, cũng không phải chuyên gia, nên không biết đánh giá đó có phải là nguyên nhân hay không?

Vấn đề mà chúng tôi quan tâm là, người thân của chúng tôi, sau khi được truyền những liều insulin, thì đã trở lại bình thường.

Sau 5 ngày nằm viện, bác sĩ về tiểu đường quyết định, người thân của chúng tôi phải chích insulin để khống chế lượng đường trong máu. Theo toa thuốc của bác sĩ thì người thân của chúng tôi phải chích một mũi buổi sáng và một mũi buổi chiều.

Qua ba ngày chích insulin, và qua những con số mà chúng tôi ghi lại, chúng tôi phát giác ra, khi chích hai mũi sáng chiều, thì sức khỏe của người thân chúng tôi suy sụp hẳn. Thay vì, có thể di chuyển như lúc trước, thì nay lại nằm bẹp, mê mệt.

Cho nên, chúng tôi đã liên lạc với bác sĩ tiểu đường, và đưa ra đề nghị, chỉ nên chích một mũi vào buổi trưa, vì chỉ vào buổi trưa là lúc đường lên cao nhất, còn những lúc khác, thì lại xuống thấp bất thường, không đủ tiêu chuẩn chích insulin.

Bác sĩ, sau khi coi qua cuốn sổ ghi chép cẩn thận với những con số thay đổi qua mấy ngày, và ông cũng coi những tấm hình chúng tôi chụp lại những con số trên máy đo, thì ông đồng ý, chuyển từ chích hai mũi sáng chiều, thành chích một mũi vào buổi trưa.

Sau đó, ba ngày, qua chăm sóc và ăn uống theo phương pháp “Thuốc từ Tâm”, thì chỉ số đường trở về bình thường, và không cần phải chích insulin nữa.

Câu chuyện chúng tôi kể cho bạn, không phải là để chê hay chỉ trích các bác sĩ Tây y, vì chúng tôi hiểu, khi chúng ta không có đủ những thông tin chính xác, mà chỉ dựa trên suy luận và phỏng đoán, thì kết quả không ra đúng như sự thật là chuyện bình thường.

Chúng tôi biết, các bác sĩ, sở dĩ, đưa ra những chuẩn đoán thiếu chính xác, không phải vì họ dở hay không có khả năng, mà bởi vì, họ không trực tiếp chăm sóc cho người thân của chúng tôi, nên họ thiếu những thông tin chính xác để đưa ra những sự chuẩn đoán chính xác.

Cho nên, là người chăm sóc trực tiếp cho người thân của chúng tôi, chúng tôi phải có bổn phận cung cấp đầy đủ các thông tin chính xác nhất cho các bác sĩ, để họ có đầy đủ dữ kiện khi đưa ra phương pháp chữa trị.

Quả nhiên, khi chúng tôi cung cấp đầy đủ các thông tin, các bác sĩ đã có sự điều chỉnh đúng lúc, đúng chỗ, và có thể khống chế được căn bịnh dễ dàng.

“Có bịnh thì vái tứ phương” không phải là chúng ta đi van xin cầu khẩn mọi nơi mọi chỗ. Vì đó, chỉ là chữa ngọn mà không phải chữa gốc.

Chữa tận gốc là chữa bằng cách trở về với chính chúng ta, thiết lập được An, rồi tương tác với các ông bà khuất mặt, để nương theo hướng dẫn, chỉ dậy, soi đường dẫn lối, hay nhờ ông bà của chúng ta tiếp lực hay hỗ trợ cho chúng ta có thể kéo dài được An.

Sau đó, chúng ta dùng nguồn năng lượng An để tìm ra những lập trình mà Ngã Thức đã “vô tình” tạo ra cho cơ thể để chỉnh sửa lại.

Rồi kết hợp với các bác sĩ (nếu có), bằng cách, cung cấp đầy đủ các thông tin chính xác về những suy nghĩ, tư tưởng, lo sợ, v.v. của chúng ta, để các bác sĩ có thể hiểu rõ và có thể chuẩn bịnh đúng hơn.

Khi đã đi khám bác sĩ, chúng ta nên đặt trọn niềm tin vào phương pháp chữa trị, tuân thủ và hợp tác.

Đặt niềm tin trọn vẹn vào bác sĩ, không phải là, bác sĩ nói sao chúng ta nghe vậy, hay cho thuốc thế nào thì chúng ta cứ uống theo như thế, mà trong qúa trình dùng thuốc, chúng ta phải tự theo dõi những diễn biến trong cơ thể, rồi liên tục cung cấp những thông tin đang xẩy ra trong cơ thể của chúng ta cho bác sĩ biết, để các bác sĩ có đầy đủ những thông tin chính xác nhất.

Chỉ khi chúng ta làm được như vậy, chúng ta mới chữa được tận gốc, chứ không phải như thói quen thông thường của chúng ta, khi có bịnh, chữa chỗ này không được thì đi cầu khẩn chỗ khác, mà lại không biết được, chính Ngã Thức của chúng ta mới là tác nhân chính.

Cho nên, khi chúng ta có bịnh, đó không phải là một điều gì đó xấu, hay hại, mà bịnh cũng có những điều tốt giúp cho chúng ta thực tập có An, có sự tương tác với tổ tiên, có cơ hội nhìn sâu vào Ngã Thức để chuyển hóa những lập trình mà Ngã Thức của chúng ta đã vô tình tạo ra.

Nhờ có “vái” mà chúng ta có thể kết hợp giữa hữu hạn của y học với vô hạn của những nguồn năng lượng yêu thương, hiểu biết, an lạc, và hạnh phúc của tổ tiên.

Như vậy, ý nghĩa của “có bịnh thì vái tứ phương” đâu phải chỉ dùng trên góc độ về vật chất, về y học trị liệu, mà còn có thể ứng dụng trên góc độ của tâm linh nữa.

Khi chúng ta biết kết hợp cả hai lĩnh vực vật chất và tinh thần hay tâm linh thì chúng ta sẽ có sức mạnh gấp đôi, thay vì, chỉ sử dụng có một lĩnh vực này hay lĩnh vực khác. Tệ hại hơn, khi chúng ta lại phí thời gian để đi tranh luận xem lĩnh vực này đúng hay sai, hay lĩnh vực này chánh hay tà.

Ai đúng, ai sai, không quan trọng, quan trọng của phương pháp chữa bịnh, dù là Đông hay Tây y, là chúng ta có đạt được kết quả hay không. Nếu có kết quả, đúng như ý chúng ta muốn, và kết quả đó đem đến cho chúng ta an lạc, hạnh phúc thì đó mới là ý nghĩa của “có bịnh thì vái tứ phương”.

Cho nên:

Có bịnh thì nên vái tứ phương

Trở về… tương tác với tổ đường

Cầu xin… học hỏi tâm An Lạc

Nhìn sâu… Ngã Thức… rõ tai ương

Dõi theo… kết hợp cùng y sĩ

Thông tin, dữ liệu… phải… rõ… tường

Niềm tin đặt trọn và tuân thủ

Bịnh đâu còn chỗ… để tựa nương

TỈNH HAY MÊ

album-art

00:00

TẢI MP3 – TRẦN THIỆN TÍCH
TẢI MP3 – DIỆU LIÊN
TẢI MP3 – VIÊN NGUYỆT

Bạn Thân Mến,

Nói đến hai chữ mê và tỉnh là một đề tài khó, vì thế nào mới gọi là mê? và thế nào lại gọi là tỉnh?

Một chàng trai đi trên đường, thấy một cô gái đẹp, liền mê mẫn theo sau, nhưng khi cô gái mở miệng trả lời, thì chàng trai mới hỡi ôi, vì rất là vô duyên. Chàng trai liền “tỉnh giấc” và dừng chân lại không theo nữa.

Mới vài phút trước thì anh chàng vì sắc đẹp quyến rũ của cô gái mê hoặc, vậy mà chỉ vài phút sau, khi nghe cô gái trả lời thì lại tỉnh táo dừng chân.

Trong cuộc đời của chúng ta, không ít lần, chúng ta cũng rơi vào như trường hợp của chàng trai này, chúng ta mê và tỉnh trong phút chốc. Sự đắp đổi giữa tỉnh và mê có đôi khi khiến chúng ta rơi vào trạng thái dở khóc dở cười.

Nhưng có những mê và tỉnh trong cuộc đời của chúng ta lại qúa dài, dài đến độ, chúng ta tưởng tượng ra có thể kéo từ kiếp trước đến kiếp sau, và chúng ta không biết bao giờ mới tỉnh.

Vậy thì mê là gì? và tỉnh là gì?

Mê có nghĩa là say, mờ mịt tâm trí, hết biết gì. Nếu chúng ta để ý, chúng ta thấy có chữ “hết biết” trong mê, có nghĩa là, chúng ta không có kinh nghiệm trải qua, nên thường dùng sự phỏng đóan hay tưởng tượng ra kết quả.

Còn Tỉnh nghĩa là hết hoảng sợ, sáng suốt, không u tối sai lầm như trước, hay kiểm điểm, suy xét, v.v.

Như vậy qua định nghĩa, chúng ta thấy mê và tỉnh, diễn tả hai trạng thái đối chọi nhau, hễ có cái này thì không có cái kia, mà có cái kia thì không có cái này.

Đây là một điều khá lý thú trong ứng dụng, vì nếu chúng ta biết lựa chọn đúng, chúng ta sẽ không cần phải lo tiêu diệt cái kia, mà cái kia cũng khó mà hiện hữu. Chúng ta đang biến nhị nguyên thành nhất nguyên.

Câu chuyện bắt đầu khi chúng tôi quyết định đi học Oriental Medicine (Y học Phương Đông) tại một trường đại học tại Nam California.

Xin nói rõ, trường Oriental Medicine là trường do người Đại Hàn làm chủ, và chỉ có những học sinh Á Châu theo học, trong đó, trường phân chia lớp học theo ngôn ngữ, và các giảng sư cũng là người cùng chủng tộc.

Ngay sau vài bài học đầu tiên thì nhóm sinh viên Việt, ngoại trừ ba người chúng tôi đã chống đối lại với vị giảng sư, vì cho rằng, vị giảng sư không có nhiều kinh nghiệm về học thuyết Âm Dương, trong khi, họ đã có kinh nghiệm nhiều năm học tại Việt Nam.

Theo học thuyết Âm Dương, thì Dương là ở trên và Âm là ở dưới.  Cho nên, khi học luận về cái đầu và cái chân của con người, đâu là Âm và đâu là Dương, lại trở thành một đề tài xung đột.

Theo nhóm sinh viên Việt, họ cho rằng, vị trí cái đầu ở trên nên thuộc về Dương, còn vị trí cái chân ở dưới là Âm; trong khi, vị giảng sư lại cho rằng, cái đầu là Âm, và cái chân là Dương.

Cả hai bên đều đưa ra những sách vở và những lý lẽ để biện minh cho những điều họ tin. Khổ nỗi, sách nào, nếu đứng trên góc độ đó thì đều đưa ra những lý luận trên góc độ đó, mà lại không đề cập đến những góc độ khác.

Cho nên, không bên nào có thể thuyết phục được bên nào, cuối cùng, để phản đối giảng sư, nhóm sinh viên Việt quyết định bãi học và biểu tình bắt ép nhà trường phải thay giáo sư khác. Lúc đó, trong lớp học chỉ còn lại ba chúng tôi.

Mỗi khi chúng tôi vào lớp, thì nhóm sinh viên Việt biểu tình lườm nguýt, và tự động coi chúng tôi như “kẻ thù”, vì không theo nhóm của họ.

Với kinh nghiệm nghiên cứu về học thuyết Âm Dương, chúng tôi phân biệt được rất rõ ràng, khi nói đến Âm hay Dương thì Âm hay Dương phải đối với cái gì, chứ không thể chỉ nói đó là Âm hay Dương? Hay nói chính xác hơn, về định nghĩa thì nhóm sinh viên Việt Đúng, nhưng về ứng dụng và lý thuyết thì vị giảng sư lại đúng.

Ông đúng vì theo quan niệm của ông, khi trị bịnh, chúng ta không phải chỉ trị bịnh trên thân không mà thôi, mà còn phải lệ thuộc vào môi trường, hoàn cảnh và vùng miền.

Cho nên, khi luận về Âm Dương thì phải dựa trên “tam hợp thể hay tam tài” Thiên Địa Nhân. Vì trời ở trên cao nên trời là Dương, đất ở dưới thấp nên đất là Âm, và con người ở giữa trời đất, nên đầu đội trời thì đầu là Âm, nghĩa là đầu ở dưới Trời, và chân đạp đất thì chân là Dương, vì chân ở trên mặt đất.

Cách giải thích này, không những vừa đúng với định nghĩa Dương trên, Âm dưới, mà trên thực tế, trong ứng dụng, khi trị bịnh thì phải dựa theo môi trường, hoàn cảnh, vùng miền khác nhau mà chữa trị.

Cho nên, chúng tôi đồng ý với cách giải thích của vị giảng sư, vì cách của ông vừa thỏa mãn được định nghĩa và ứng dụng. Ngược lại, nhóm sinh viên Việt chỉ có thể đúng với lý thuyết, nhưng khi ứng dụng lại cần phải chỉnh.

Sau vài tuần, vị sợ “mất lòng” nhóm sinh viên Việt, nên hai người khác cũng không vào lớp mà đi biểu tình chung với các người khác.

Cho nên, cuối cùng trong tiết học, chỉ còn lại chúng tôi và vị giảng sư, chỉ một thầy một trò, nhưng cả hai chúng tôi lại rất hạnh phúc, vì chúng tôi có thể chia xẻ mọi đề tài mà chúng tôi muốn.

Tuy sau này, vì những nghiên cứu khác, chúng tôi không còn theo học với ông, nhưng giữa ông với chúng tôi có một mối giao tình đặc biệt. Không phải chỉ có tình thầy trò, mà mỗi khi chúng tôi gặp nhau, cả hai đều chia xẻ những góc độ nhìn khác nhau về cả Y học và khoa học.

Ngoài bằng tiến sĩ về Y học phương Đông, vị giảng sư cũng có bằng tiến sĩ về điện tử, và có 15 bằng sáng chế các loại máy và thuốc.

Vài trong những thuốc đặc trị của ông là viêm da và Trĩ. Ai đã từng bị đau về Trĩ thì mới biết được giá trị thuốc của ông. Dù cho cơn đau Trĩ có đau như thế nào, chỉ cần bôi thuốc của ông vào, chỉ trong vòng một phút là cơn đau dịu lại bình thường, và trong 3 ngày là dứt hẳn.

Tiếc thay, sau ngày ông mất, chúng tôi vì muốn đem những nghiên cứu của ông để giúp người, quảng bá rộng rãi, nhưng con gái của ông, lại quyết định, dừng sản xuất và đem tâm huyết nghiên cứu bao nhiêu năm của ông để lên bàn thờ để cúng.

Nếu là bạn thì việc không theo nhóm sinh viên Việt biểu tình chống lại vị giảng sư của chúng tôi có phải đó là mê, hay tỉnh?, hay như trường hợp của cô con gái của vị giảng sư kia, đem bao tâm huyết mà cha mình nghiên cứu để giúp người, đặt lên bàn thờ cúng mà không tạo ra sản phẩm là tỉnh, hay mê?

Rõ ràng, khi đứng trên nhị nguyên thì mê với người này, có thể tỉnh với người kia, hay tỉnh với người này thì lại mê với người kia.

Vậy làm sao chúng ta có thể biết được khi nào chúng ta đang mê hay chúng ta đang tỉnh?

Muốn biết chúng ta mê hay tỉnh thì chúng ta chỉ có thể dựa vào một điều duy nhất, đó là, tiếp xúc được với sự thật.

Vậy làm sao chúng ta biết đó đúng là sự thật?

Bạn đang đi trên đường và chứng kiến từ đầu hai chiếc xe đụng vào nhau. Khi chúng tôi đến bên bạn, và hỏi bạn, chuyện gì đã xẩy ra, và bạn trả lời như sau:

Đèn bên anh A đã đỏ, nhưng anh cố vượt qua, và đụng vào chị B đang chạy khi đèn xanh.

Nếu bạn dừng lại ở đây thì bạn đang nói sự thật, vì đó là những gì đã xẩy ra như nó đã là. Nhưng nếu bạn lại tiếp tục như sau:

Anh A là người có lỗi, vì lái xe quá ẩu, xứng đáng bị trừng phạt và bị bồi thường, v.v. thì bạn đang nói không đúng sự thật.

Vì sao? Vì bạn không biết được có phải vì anh lái ẩu hay không? Hay tại con anh đang gặp nguy hiểm cháy nhà, nên anh phải chạy gấp về cứu con anh.

Rõ ràng, bạn hoàn toàn không biết lý do tại sao anh A lại chạy vượt đèn đỏ, nhưng bạn lại dựa trên sự phỏng đoán, và tưởng tượng của bạn, hay bạn lại “suy bụng ta ra bụng người”, nên bạn đã đưa ra một kết luận “rất chắc nịch” rằng, anh A chạy ẩu nên đáng bị trừng phạt.

Như vậy, nếu một người nào đó từ xa đến, chưa biết chuyện gì xẩy ra gây ùn tắc giao thông hỏi bạn, mà bạn lại trả lời:

Đèn bên anh A đã đỏ nhưng anh cố vượt qua và đụng vào chị B đang chạy khi đèn xanh. Anh A là người có lỗi, vì lái xe quá ẩu, xứng đáng bị trừng phạt và bị bồi thường, v.v, và người đó tin vào những điều bạn nói, đó là sự thật, thì sự thật đó có đúng không?

Chắc chắn là không, vì sự thật, bạn chỉ chứng kiến hai chiếc xe đụng nhau, chứ bạn đâu có biết rõ sự thật tại sao anh A lại vượt đèn đỏ.

Người mới đến nghe lời bạn và tin đó là sự thật đã là tai hại rồi, nhưng nguy hiểm nhất là, chính bạn cũng tin vào những phỏng đoán và tưởng tượng của bạn, và cho đó là sự thật.

Như vậy, nếu bạn muốn biết đúng sự thật cho câu bạn đính kèm vào, thì bạn phải đến hỏi anh A, lý do tại sao anh lại vượt đèn đỏ. Khi biết được lý do từ chính anh A thì bạn mới có thể đính kèm lý do đó vào sau sự thật ban đầu bạn chứng kiến.

Nếu bạn không có điều kiện để biết được lý do tại sao thì bạn chỉ cần dừng lại đúng những gì bạn chứng kiến đang xẩy ra như là, mà không thêm và không bớt, bất cứ một chi tiết nào, dù chi tiết đó có lợi hay có hại cho bạn hay cho người khác.

Khi bạn làm được như vậy thì gọi là bạn đang tiếp xúc đúng với sự thật, nếu bạn thêm thắt vào điều gì mà bạn chưa biết, hay dùng sự phỏng đoán, hay tưởng tượng, rồi đưa ra kết quả thì bạn đang rời xa sự thật.

Cho dù, sau này, sự thật có xẩy ra giống như phỏng đoán hay tưởng tượng của bạn, thì bạn cũng đã không thực sự tiếp xúc đúng với sự thật lúc ban đầu.

Trong đạo Phật, khi chúng ta không nhìn đúng với sự thật thì gọi là vô minh, nghĩa là không sáng suốt, mê mờ.

Khi chúng ta bị mê mờ thì chúng ta sẽ gây ra những nhận thức sai lầm, không đúng với sự thật, và đó chính là nguyên nhân gây ra sự khổ đau cho mình và cho người.

Còn người có thể tiếp xúc được với sự thật như đang là thì gọi là người Tĩnh Thức hay người Thể Nghiệm, và nếu người này vẫn tiếp tục duy trì được sự tiếp xúc với sự thật, và đem ứng dụng trong giao tiếp với mọi người thì người đó gọi là người Tỉnh Thức hay người Dụng Nghiệm.

Như vậy, mê nếu diễn rộng ra, có nghĩa là, khi chúng ta tiếp xúc với điều gì, vật gì, hay người nào, chúng ta hay có thói quen thêm thắt vào sau sự thật với sự phỏng đoán hay tưởng tượng ra kết quả, hay dựa trên những niềm tin chưa được kiểm chứng hay trải nghiệm của chúng ta.

Cho nên, khi tiếp xúc không đúng với sự thật thì chúng ta hay rơi vào sự bẽ bàng. Khi rơi vào bẽ bàng thì Ngã Thức của chúng ta vì sợ “mất mặt”, nên sẽ ra lệnh cho Ý Thức đi tìm những lý do để ngụy biện cho sự bẽ bàng vì tin sai sự thật.

Chỉ cần, chúng ta làm được một lần, thì chúng ta sẽ làm lại lần thứ hai, khi chúng ta lại rơi vào thế bẽ bàng. Cuối cùng, khi chúng ta cứ lập đi lập lại hành động này, thì hành động đó biến thành thói quen.

Khi đã biến thành thói quen, thì lúc đó, chúng ta muốn thay đổi thói quen đó, cũng không hề dễ dàng chút nào.

Câu chuyện Tam Đại con Gà mà chúng tôi nghe từ thưở nhỏ đã nói lên cho sự bẽ bàng và biện luận ra sao của Ngã Thức khi tiếp xúc với sự thật.

Ngày xưa, có anh học trò học hành không ra gì nhưng đi đâu cũng lên mặt ta đây, văn hay chữ tốt. Có một nhà khá giả tưởng anh ta hay chữ thật, nên mới đón anh về để dậy cho con trẻ trong nhà.

Một hôm, khi dậy đến chữ “kê” là gà, anh thấy mặt chữ có qúa nhiều nét rắc rối, mà anh thì lại không biết là chữ gì, trong khi những đứa trẻ lại hỏi anh quá gấp, nên anh cuống quýt, nói liều: “Dủ dỉ là con dù dì”.

Anh cũng khôn, khi nhắc những đứa trẻ đọc nhỏ, vì nhỡ có sai thì cũng đỡ xấu hổ. Nhân trong nhà có bàn thờ ông thổ công, anh mới đến khấn thầm xin ba đài âm dương, để xem chữ ấy có phải thật là “dù dì” không.

Thổ công cho ba đài được cả ba.

Được vậy, anh lấy làm đắc ý, tư tin.

Hôm sau, anh bệ vệ ngồi trên giường và ra lệnh cho lũ trẻ đọc cho to. Những đứa trẻ vâng lời anh, gân cổ lên gào:
“Dủ dỉ là con dù dì… Dủ dỉ là con dù dì”.

Người cha đang làm vườn, nghe tiếng đọc to của lũ trẻ, ngạc nhiên chạy vào, giở sách ra xem, rồi hỏi anh:

Chết thật! Chữ “kê” là gà, sao anh lại dậy “dủ dỉ” là con “dù dì”?

Bấy giờ anh mới biết, và thầm trách ông thổ công: “Rõ thật, mình đã dốt, nhưng ông thổ công của nhà này càng dốt hơn mình”, nhưng nhanh trí, anh vội nói gỡ:

Tôi biết là chữ “kê”, mà “kê” nghĩa là “gà”, nhưng tôi đang dậy cho các cháu biết đến tận tam đại con gà kia.                                 

Người cha càng không hiểu, hỏi:

Tam đại con gà, nghĩa là làm sao?

Thế này nhé! Dủ dỉ là con dù dì, dù dì là mẹ con công, con công là ông con gà!

Như vậy, không phải là tam đại nhà con gà thì là gì nữa.

Mặc dù, đó chỉ là câu chuyện cổ tích vui, nhưng trong thực tế, chúng tôi cũng đã gặp biết bao nhiêu người như anh chàng này, và cũng chứng kiến họ sống trong sự đau khổ như thế nào khi sống xa sự thật.

Và câu chuyện vừa mới xẩy ra với người thân của chúng tôi thì ai đang mê, đang tỉnh.

Nếu bạn đã đọc qua bài Tâm Dược, bạn đã biết sơ qua về người thân của chúng tôi, khi bác sĩ về não bộ và thần kinh đã khẳng định, người thân của chúng tôi đang bị bịnh suy khờ người già và đang trong qúa trình thoái hóa.

Trong bài Tâm Dược, chúng tôi cũng chia xẻ với bạn về góc nhìn rất chủ quan của chúng tôi về bịnh suy khờ người già, nhưng sự kiện xẩy ra sáng nay, lại dậy cho chúng tôi những bài học mới.

Trên căn bản, khi chăm sóc cho người bịnh lớn tuổi suy khờ thì mặc tã gần như là điều kiện cần phải có. Ngoài hai cái tã bên trong thì bên ngoài cũng phải có cái quần.

Cả tháng nay, khi sáng thức dậy chúng tôi luôn thấy người thân của chúng tôi cởi quần ra, mà chỉ còn mặc tả. Vì thấy tã bị ướt, nên chúng tôi chỉ đưa người thân đi tắm cho sạch sẽ, và thay tả mới, nhưng không hề để ý đến việc tại sao người thân của chúng tôi lại cứ cởi quần ra và để một bên.

Sáng nay, sau khi tắm và thay tã xong, chúng tôi mới bắt đầu thắc mắc, và hỏi người thân của chúng tôi, tại sao lại cởi quần ra?

Người thân của chúng tôi mới đáp:

Vì chỉ mới ướt cái tã, mà cái quần còn khô, nên mới cởi cái quần ra.

Câu trả lời của người thân của chúng tôi, khiến cả nhà cười lăn ra, nhất là mấy đứa con của chúng tôi, vì chúng tin vào những gì bác sĩ đã khẳng định là, “càng lúc càng trở nên giống trẻ thơ, không còn ý thức”.

Nhưng sự thật thì lý lẽ của người thân suy khờ người già của chúng tôi hoàn toàn hợp lý, và ai trong chúng ta, khi có ý thức, cũng đều hành động như vậy. Nghĩa là, nếu chỉ ướt cái tã, mà chưa ướt cái quần, thì phải cởi cái quần ra, chứ sao lại để ướt cái quần. Trừ khi, lúc đó, chúng ta vì mặt mũi, vì sợ xấu hổ, nên mới không dám cởi mà thôi.

Qua hành động của người thân của chúng tôi, chúng tôi học được những bài học rất đáng suy ngẫm như sau:

Nếu chúng tôi dùng Trí để nhìn về hành động của người thân của chúng tôi, mà không thắc mắc hỏi và tìm nguyên do, thì qua việc làm đó, chúng tôi sẽ cảm thấy xấu hổ, không những cho người thân của chúng tôi, mà cả chúng tôi nữa.

Từ sự xấu hổ này, chúng tôi sẽ liên tưởng đến những điều khẳng định của bác sĩ và phỏng đoán tình trạng bịnh của người thân của chúng tôi càng lúc càng tệ hại hơn xưa, đến độ, không còn biết xấu hổ, chỉ mặc tã, không mặc quần.

Nhưng trên thực tế, rõ ràng, người thân của chúng tôi đang dần có lại ý thức, khi đã biết dùng những chức năng so sánh, phân tích của ý thức để đưa ra một hành động rất hợp lý.

Nếu với những người bịnh bình thường khác thì hành động cởi quần ra có thể mang nhiều ý nghĩa khác. Nhưng với người bị bịnh suy khờ người già, người đang mất dần đi ý thức, lại có thể sử dụng ý thức một cách linh hoạt thì đó không phải là việc bình thường.

Rõ ràng, khi chúng tôi sử dụng Trí cộng thêm sự tưởng tượng thì chúng tôi đã không nhìn đúng với sự thật, từ đó, tạo ra những cảm giác, xấu hổ, mất mặt, bực tức,v.v, trong khi, người thân của chúng tôi khi trải nghiệm, đối diện với sự thật và hành động trên sự thật, thì hành động đó, chỉ chú trọng đến vấn đề, tã đang bị ướt và quần đang khô, để giải quyết. Chứ không hề có mặt của Ngã Thức tham gia vào để có những cảm xúc/giác khác.

Vậy thì, người thân của chúng tôi đang mê hay đang tỉnh? Mê vì không biết xấu hổ khi chỉ nằm mặc tả mà không mặc quần, hay Tỉnh vì đã biết dùng ý thức để phân tích so sánh và cởi cái quần khô ra khi cái tã bị ướt.

Và chúng ta là những người đi chăm sóc cho người bịnh, chúng ta có nên đi tìm hiểu nguyên do cho rõ ràng trước khi đưa ra nhận định, hay chúng ta dùng sự phỏng đoán và niềm tin chưa kiểm chứng để đưa ra nhận định.

Cho nên, tỉnh tỉnh, mê mê, lấy gì để đo, đâu mê, đâu tỉnh. Nếu không dựa trên sự tiếp xúc với sự thật thì cái mà chúng ta tin là tỉnh đó, biết đâu lại là mê chăng?, và cái mà chúng ta cho là mê đó, khi tiếp xúc với sự thật, thì mê kia lại là tỉnh chăng?

Tỉnh mê mê tỉnh, mê là tỉnh

Mê tỉnh tỉnh mê, tỉnh là mê

Mê trong sự thật, mê là tỉnh

Tỉnh trong phỏng đoán, tỉnh là mê

LỢI DỤNG

album-art

00:00

TẢI MP3 – VIÊN NGUYỆT
TẢI MP3 – HỒNG TRẦN

Bạn Thân Mến,

Hai chữ “lợi dụng” thì không ai trong chúng ta xa lại gì, vì gần như chúng ta sử dụng mỗi ngày. Nhưng hai chữ lợi dụng, với sự diễn dịch định nghĩa của chúng ta, thì hai chữ này lại mang một ý nghĩa thiên về phần xấu, có nghĩa là, có ai đó đã sử dụng chúng ta như một công cụ để làm lợi cho họ.

Nếu bạn sinh hoạt với chúng tôi, bạn sẽ quen với cách giao tiếp của chúng tôi, là bao giờ cũng phải nói rõ định nghĩa mà chúng tôi sử dụng.

Chúng tôi đã luôn nhấn mạnh, ai trong chúng ta cũng đều có quyền diễn đạt định nghĩa theo ý mình. Nhưng diễn nghĩa làm sao để đem đến kết quả, đem đến an lạc và hạnh phúc lâu dài cho chúng ta thì đó mới là lựa chọn tốt nhất.

Còn nếu như sự diễn dịch của chúng ta mà đem đến những khổ đau, phiền muộn, tạo ra quá nhiều hậu quả mà chúng ta phải gánh chịu, thì chúng ta nên chỉnh sửa lại sự diễn dịch của mình.

Chúng tôi cũng không cho rằng, cách thức của chúng tôi là tiêu chuẩn vàng, là đúng nhất, là hay nhất, hay cao nhất, mà đó chỉ là những trải nghiệm, những ứng dụng, mà chúng tôi đang học và hành trong cuộc sống hàng ngày để kéo dài sự an lạc và hạnh phúc trong cuộc đời của chúng tôi.

Chúng tôi cũng khẳng định, chúng tôi không phải là văn, thi sĩ, đạo học gia, triết gia, hay triết luận gì. Chúng tôi là những người vô cùng bình thường như tất cả mọi người, cũng có những lúc buồn vui bất chợt.

Nhưng vì, chúng tôi từng là nạn nhân do chính những nhận thức sai lầm của chúng tôi đã làm cho chúng tôi đau khổ, phiền muộn. Cho nên, trong những lúc đối diện với khổ đau, thay vì, như những thói quen trước đây là trốn chạy và đè nén, thì chúng tôi đã quyết định dừng lại, và trực tiếp đương đầu và đi giải quyết những vấn đề.

Trong qúa trình đương đầu với các vấn đề, chúng tôi liên tục học hỏi và sửa sai. Chúng tôi chấp nhận chúng tôi sai, và tiếp tục chỉnh sửa mỗi ngày.

Cho đến hiện tại, chúng tôi vẫn tiếp tục thực hành, rồi học tập, rồi lại thực hành, chưa hề gián đoạn, bởi vì, qua qúa trình thực hành chúng tôi biết, muốn kéo dài An trong đời sống hàng ngày cho đến cuối đời, thì không phải chỉ hiểu và biết một lần là đủ, vì sự thật, chúng tôi đang sống với vô thường, nghĩa là luôn luôn có sự thay đổi.

Chính vì vậy, ngày nào, chúng tôi cũng có chuyện để chia xẻ với bạn, không phải vì, chúng tôi muốn khoa trương kiến thức, mà chúng tôi chỉ muốn nhắn nhủ với bạn rằng, ngày nào, chúng ta cũng có những vấn đề phải giải quyết, và cách thức giải quyết vấn đề như thế nào để có thể có được an lạc, hạnh phúc kéo dài hơn.

Chúng tôi rất ngưỡng mộ những ai có khả năng chỉ cần thực hành một lần, và có an lạc, hạnh phúc cả đời. Chúng tôi mong được theo chân các vị đó để được học hỏi.

Có lẽ, chúng tôi phận mỏng, nên chưa đủ cơ duyên để được gặp các Ngài. Thay vì ngồi chờ đợi các Ngài, chúng tôi sẽ tận lực đi giải quyết những vấn đề mà mỗi ngày chúng tôi đối diện, giải quyết một cách rốt ráo để kéo dài an lạc cho chúng tôi.

Còn bao giờ chúng tôi có đủ cơ duyên được gặp các Ngài thì chúng tôi thật sự không biết, và các Ngài là ai thì chúng tôi cũng chưa biết.

Nói theo đạo Phật thì tất cả những điều đó đều tùy thuộc vào duyên.

Cho nên, chúng tôi xin khẳng định lại một lần nữa, đây chỉ là những sự trải nghiệm của cá nhân chúng tôi, chứ không phải đi xét nét, ai đúng, ai sai. Ai trong chúng ta cũng đều có niềm tin, và chúng tôi tôn trọng niềm tin của mọi người.

Chúng tôi cũng không kêu gọi hay thuyết phục bạn nên tin vào cách ứng dụng của chúng tôi. Với chúng tôi, những gì chúng tôi chia xẻ với bạn, đó chỉ là những thông tin về một góc độ nhìn khác với bạn.

Có thể qua ứng dụng, đối với chúng tôi, đó là sự thật, nhưng với bạn có thể là không. Nhưng chúng tôi biết, có một dấu ấn vô cùng quan trọng mà chúng ta có thể sử dụng để biết được đâu là sự thật, đó là dấu ấn của AN.

Khi mà dấu ấn của AN không bị nhạt nhòe, tan biến trong một khoảng thời gian ngắn, và AN có thể kéo dài, không tạo ra hậu quả mà là kết quả, thì đó, chính là dấu ấn của sự thật.

Trở lại chủ đề về hai chữ Lợi Dụng, Lợi có nghĩa là điều có ích với mình, dồi dào, có nhiều; Dụng có nghĩa là dùng, xài. Như vậy, Lợi Dụng có nghĩa là làm lợi cho mình mà có hại cho người khác.

Nhưng nếu bạn đã quen với những bài viết của chúng tôi, bạn sẽ thấy cách chúng tôi diễn dịch định nghĩa sẽ “rất lạ” khi chúng tôi dùng qua ứng dụng.

Nếu bạn để ý, bạn sẽ thấy khi chúng tôi đặt tựa đề có hai chữ, thì thường chúng tôi lại có những diễn nghĩa “không giống ai”, cho nên, hai chữ Lợi và Dụng với chúng tôi qua ứng dụng, đó là, “Mình Làm Gì Có Lợi Để Cho Người Khác Dùng”.

Chắc chắn, sẽ có rất nhiều bạn sẽ không đồng ý với chúng tôi, vì cho rằng, như vậy là mình qúa thiệt thòi. Chúng tôi rất đồng ý với bạn, vì lúc xưa, chúng tôi cũng nghĩ giống như bạn, chúng tôi cũng tìm đủ mọi cách để “bảo vệ” chúng tôi để không cho ai có cơ hội lợi dụng.

Khi giao tiếp với ai, chúng tôi lúc nào cũng nghi ngờ đối tượng, và luôn lo âu không biết là người kia có lợi dụng chúng tôi hay không?

Chúng tôi nghĩ, khi chúng tôi nghi ngờ người kia ở trong lòng thì làm sao họ biết. Nhưng sau này, chúng tôi biết, là dù người kia họ không biết, nhưng họ có thể “cảm” được nguồn năng lượng nghi ngờ này của chúng tôi.

Lúc đó, chúng tôi không thể nào giải thích được, tại sao có nhiều thương vụ, đáng lý ra sẽ thành công, nhưng cuối cùng lại thất bại.

Chúng tôi phiền muộn vì bao công sức, bao nhiêu trí lực, đã đổ dồn vào thương vụ đều đem đi đổ sông đổ biển.

Cuối cùng, chúng tôi quyết định đem những thất bại đó lên quan sát và nhìn sâu hơn, lúc đó, chúng tôi mới phát giác ra một điều vô cùng đơn giản, đó là, không phải vì kế hoạch của chúng tôi có vấn đề, mà vấn đề nằm ở chỗ, chúng tôi đã khởi ý niệm nghi ngờ, sợ bị người khác lợi dụng, nên kết quả ra, chính là sự nghi ngờ thương vụ sẽ không thành công, hay người kia chỉ lợi dụng chúng tôi, chứ không phải là kết quả của thương vụ thành công như chúng tôi muốn.

Khi phát hiện được điều này, chúng tôi thay đổi cách nhìn và ứng xử của chúng tôi, và chúng tôi đã đạt được những thành công như mục đích của chúng tôi đặt ra.

Hãy lấy câu chuyện sau đây để minh họa:

Chị L với chúng tôi là người làm cùng nghành. Vì cơ sở của chị không có đủ những điều kiện để đấu thầu với những hãng lớn, nên bao giờ có đấu thầu thì chị cũng đến xin hợp tác với chúng tôi.

Sau khi có đầy đủ những kế hoạch của chúng tôi, cũng như cung cấp đầy đủ những yêu cầu đấu thầu, thì chị lại dùng tên của hãng chị để đấu thầu.

Phần lớn những đấu thầu của chị đều thành công. Nếu là bạn, bạn có nghĩ là chúng tôi đang bị lợi dụng không? Chắc chắn, phần đông các bạn đều cho chúng tôi đã bị chị lợi dụng, hay có nhiều bạn còn cho rằng, cách ứng xử của chúng tôi là “ngu ngốc”, khi đem những kế hoạch, và ngay cả cơ sở của chúng tôi, cho chị dung, cho mục đích của chị.

Nếu như ngày xưa, với những quan điểm sợ người khác lợi dụng và nghi ngờ người khác, thì chúng tôi hoàn toàn đồng ý với bạn, nhưng sau khi chúng tôi quan sát và nhìn sâu, thay vì nghi ngờ chị, chúng tôi lại đặt trọng tâm vào làm sao cho thương vụ đấu thầu được thành công mà không cần biết ai đi thực hiện.

Chính vì vậy, khi chị đấu thầu thành công, đối với chúng tôi thì mục đích đã đạt được, và chúng tôi rất an vui, thay vì, ngày xưa chúng tôi đau khổ vì thất bại, vì đấu thầu không thành công.

Thay vì, chúng tôi tự ty mặc cảm, vì chúng tôi không có đủ khả năng, hay kế hoạch không hoàn hảo, thì nay chúng tôi có thêm tự tin vào khả năng của chính mình. Chính sự tự tin này, đã giúp cho chúng tôi đã thành công rất lớn trong những thương vụ về sau.

Nếu chúng tôi không có Lợi cho chị L dùng, thì có lẽ giờ này chúng tôi vẫn còn sống trong những nghi ngờ bị người khác lợi dụng, và có lẽ, chúng tôi đã chìm sâu vào trong cảm giác tự ty mặc cảm và khó đạt được những thương vụ đấu thầu thành công.

Nhưng có một điều mà bạn chưa biết đến, là ngoài những Lợi mà chúng tôi đạt được như: sống có an lạc hơn thay vì phiền muộn vì nghi ngờ bị người khác lợi dụng, có kinh nghiệm hơn trong cách ứng xử, có tự tin hơn, và quan trọng là, chúng tôi nắm quyền chủ động để nhường lại cho chị L đi thực hiện những kế hoạch mà chúng tôi đã phát thảo ra, v.v, thì có một cái Lợi “ngoài lề” khác, mà chúng tôi cũng đạt được, đó là, tuy chị L trúng thầu, nhưng với khả năng của hãng chị thì chị chỉ có thể đáp ứng được cho giai đoạn đầu, nhưng về lâu về dài, hãng của chị không thể ứng phó được.

Cho nên, cuối cùng, chị cũng giao lại những mối hàng cho công ty của chúng tôi, và chị lại tiếp tục sử dụng những cái lợi mà công ty của chúng tôi đưa cho chị, để tiếp tục những cuộc đấu thầu mới khác.

Chị càng sử dụng cái lợi mà chúng tôi đưa cho chị bao nhiêu, thì chúng tôi lại có nhiều đơn đặt hàng lâu dài sau này, bấy nhiêu.

Nói theo dân gian, thì chị là người ăn ốc và chúng tôi là người đi đổ vỏ. Và ai trong chúng ta nghe qua, cũng đều cảm thấy chúng tôi bị chị L lợi dụng rõ ràng nếu nhìn trên góc độ ngắn hạn, nhưng trên thực tế, trên góc độ dài hạn thì mục đích của công ty chúng tôi luôn đạt được những thương vụ đấu thầu mà ít khi thất bại.

Nếu đem so với kết quả ngày xưa là nghi ngờ bị người khác lợi dụng và đề phòng, thường đem đến cho chúng tôi những thất bại, những phiền lo, thì khi ứng dụng nhân sinh quan mới của chúng tôi, “Hãy Làm Lợi Cho Người Khác Dụng”, lại đem lại cho chúng tôi những kết quả như: sống có an lạc hơn, có chủ động hơn, có tự tin hơn, và mục đích đặt ra phần trăm thất bại ít hơn.

Chưa nói đến cách ứng xử của chúng tôi với chị L cũng tốt đẹp hơn, thay vì, là đối thủ của nhau, thì chị đi trước ăn trước, chúng tôi đi sau ăn sau. Quan trọng không phải là trước hay sau, mà quan trọng là có ăn hay không? Nếu không thì cả hai cùng chết.

Câu chuyện thứ hai, chúng tôi muốn chia xẻ với bạn về những năm đầu tiên khi chúng tôi đặt chân đến nước Mỹ. Vì chúng tôi là những người Việt đến giai đoạn hai, nên lúc đó, khó khăn hơn các giai đoạn khác.

Trong giai đoạn này, những công ty có đông người Việt làm công nhân nhất, đó là, những công ty về điện tử, gắn và hàn những resistor, capacitor, v.v. vào các bảng mạch điện.

Sở dĩ, nghành này được đa số người Việt chọn, vì thứ nhất: cần đến khéo tay, thứ hai: nhàn hơn, và thứ ba: có thể kiếm nhiều tiền hơn nhờ làm thêm giờ.

Chúng tôi còn nhớ, lúc đó, chúng tôi xin vào làm tại một khâu chuyên về tráng những lớp sơn mầu xanh lên trên các bảng mạch điện.

Khi tráng lớp sơn thì lớp sơn phải đều, không có chỗ dầy chỗ mỏng. Vì nếu có chỗ dầy hay mỏng, thì khi chạy qua máy làm khô sơn sẽ không thể làm cho những chỗ sơn dầy, khô được, nên khi đi tẩy rửa thì sẽ tạo ra tróc sơn, và làm cho mạch điện bị chạm.

Ngày đầu tiên chúng tôi đi làm thì được giao đứng máy tráng sơn trên bảng mạch điện. Chiếc máy đó là chiếc máy mới tinh, mới vừa đặt từ bên Đức về, và các kỹ sư bên Đức đang thử nghiệm trước khi cho vận hành liên tục trong 24 giờ.

Không biết vì bị vấn đề gì, mà cứ khi chạy qua màng sơn thì sơn lại không đều, chỗ thì qúa dầy, chỗ thì lại không có. Ba người kỹ sư cứ như lên cơn điên, chạy đôn chạy đáo, hết chỗ này đến chỗ kia, họp hành liên tục.

Trong lúc đứng quan sát kỹ, chúng tôi thấy, khi bảng mạch điện được chạy qua màng sơn từ trên chảy xuống, thì bên dưới phải có một máng để chứa sơn dư, rồi sơn dư lại được bơm lên trên đầu máy để tạo thành lớp màng sơn tuôn xuống.

Lúc đó, chúng tôi thấy máng sơn lại hơi lệch về một bên, nên mới lấy một miếng giấy gấp lại, nhét vào, tạo ra thế quân bình. Sau đó, chúng tôi chạy thử, quả nhiên, sơn phủ đều lên trên các bảng mạch điện. Chúng tôi thử liên tục trong 60 lần, đều ra kết quả giống nhau. Sau đó, chúng tôi lại rút tờ giấy lót ra, thì kết quả là bị chỗ dầy, chỗ mỏng.

Dĩ nhiên, lúc đó, chúng tôi đâu phải là kỹ sư để đưa ra quyết định, cho nên, chúng tôi đem hai lô 60 miếng lên gặp kỹ sư để hỏi ý kiến. Họ cho biết, 60 miếng mà chúng tôi lót giấy, đó là tiên chuẩn mà họ muốn, và họ hỏi chúng tôi đã làm gì để ra kết quả này.

Lúc đó, chúng tôi không dám nói thật, vì chúng tôi nghĩ, một bộ máy trị giá cả hơn triệu đô, với bao nhiêu đầu óc suy nghĩ để làm ra, không lẽ lại không bằng một sự quan sát và nhìn sâu của chúng tôi sao, nên chúng tôi cứ giả ngu, nói rằng, không biết.

Trong ba người kỹ sư, thì người kỹ sư trưởng là tinh ý nhất. Ông biết là chúng tôi đã biết làm cách nào để ra kết qủa đến 60 miếng giống nhau chứ không thể do tình cờ, hay không biết được.

Cho nên, ông bắt đầu “theo dõi” chúng tôi sẽ làm gì. Cứ hễ có ông thì chúng tôi rút tờ giấy lót ra, và kết quả là hư, phải đi rửa lại bảng mạch điện, nhưng nếu ông chỉ cần đi đâu khoảng 5 -10 phút trở lại, thì kết quả lại ra y như ông muốn.

Cuối cùng, ông quyết định mời chúng tôi đi uống cà phê, ông chân thành tâm sự ông đã xa nhà và rất nhớ vợ con, nếu ông không thể hoàn tất nhiệm vụ cho sự vận hành của máy đúng cách, không những ông phải ở lâu hơn để giải quyết mà ông còn có thể bị mất việc không chừng.

Nghe câu chuyện của ông, lúc đó, chạm vào trái tim của chúng tôi, vì cùng chung nỗi nhớ thương người thân nơi quê nhà, cho nên, chúng tôi mới dẫn ông đến chỗ máy, và bắt đầu nhét miếng giấy vào máng đựng sơn, và chạy thử cho ông xem.

Thay vì, chúng tôi chỉ thực nghiệm có 60 miếng, nhưng ông lại thực nghiệm gấp ba lần – 180 miếng, kết quả đều ra giống nhau. Ông vui mừng ôm chúng tôi thật chặt, và nói cám ơn rối rít.

Sau đó, ông lấy thước đo độ dầy và độ phẳng của máng đựng sơn, thì máng bị mỏng hơn 2/10 inch, nên đã tạo ra vấn đề bên dầy, bên mỏng.

Ông lập tức ra lệnh cho hai kỹ sư khác liên lạc với hãng chính, và đặt lại máng sơn mới. Trong khi chờ đợi máng đựng sơn mới, thì phương pháp “lót giấy” của chúng tôi vẫn được sử dụng vì đơn đặt hàng đang chất đống. Vài tuần sau, máng đựng sơn mới được gởi đến, sau khi lắp vào thì đạt đúng tiêu chuẩn.

Ngày ông về nước, ông có mời chúng tôi đi ăn để cám ơn, lúc đó, ông hỏi chúng tôi, làm sao chúng tôi có thể nghĩ ra cách chêm giấy vào dưới máng đựng sơn?

Chúng tôi trả lời ông, chính vì chúng tôi thích quan sát và nhìn sâu, nhờ vậy, chúng tôi mới phát giác ra độ chênh giữa máng đựng sơn, và đó có thể là vấn đề.

Cho nên, chúng tôi mới thực nghiệm từng độ dầy của miếng giấy khác nhau; lần đầu tiên, chúng tôi nhắm chừng thì thấy độ phủ của sơn trên các bảng mạch điện có thay đổi. Chúng tôi lại tiếp tục thực nghiệm cho đến khi đạt đến kết quả cuối cùng.

Ông nghe xong, cám ơn chúng tôi rất nhiều lần, vì nhờ sự phát hiện này, mà công ty của ông đã sửa chữa lại phần máng, giúp cho công ty tiết kiệm được rất nhiều tiền, và quan trọng nhất là uy tín của công ty của ông không bị suy giảm.

Lúc chia tay, ông có tặng cho chúng tôi một món tiền khá lớn, bằng cả nửa năm lương của chúng tôi, nhưng chúng tôi không nhận.

Trở lại khâu sản xuất của chúng tôi, trong đó, bao gồm nhiều gia đoạn:

Giai đoạn một là phải rửa sạch cái bảng mạch điện;

Giai đoạn hai, máy chạy qua khâu của chúng tôi là tráng sơn,

Rồi qua giai đoạn ba là hấp; sau khi hấp cho sơn đủ khô thì đến giai đoạn bốn là làm phim để rửa sạch những chỗ hàn mạch điện;

Sau khi qua khâu phim thì máy sẽ làm cứng sơn những chỗ không che; sau đó, qua đến giai đoạn năm là phần kiểm tra xem những phim che có chính xác không, nếu những chỗ nối mạch điện bị sai, hay còn sơn đọng lại, thì coi như bảng mạch điện đó bị hư phải đem đi rửa, và làm lại từ đầu.

Những bảng mạch điện nào đủ chuẩn, thì lại đưa qua giai đoạn sáu là dùng một máy rửa khác để làm sạch;

Sau đó, qua giai đoan bẩy và tám là đưa qua phần in chữ và đem hấp lần cuối, thành sản phẩm hoàn tất.

Ngày chúng tôi vào làm, trên chúng tôi có tổ trưởng và người giám sát cho tất cả các khâu. Thay vì, chỉ biết khâu của chúng tôi, thì chúng tôi trong những lúc nghỉ giải lao, lại xuống học cách rửa bảng mạch điện. Người làm việc trong khâu rửa bảng mạch điện rất thích, vì những khi anh lười biếng thì chúng tôi có thể vào phụ việc.

Vì khâu của chúng tôi là khâu thứ hai, nên luôn lệ thuộc vào khâu thứ nhất của anh, cho nên, thay vì ở trong thế bị động, chúng tôi chủ động đi học, để khi cần, chúng tôi vẫn có thể sử dụng.

Sau đó, chúng tôi tuần tự đi học tất cả các khâu. Trong khi, mọi người đi nghỉ giải lao thì chúng tôi lại làm việc. Mọi người vui vẻ giao việc cho chúng tôi, và đi giải lao thoải mái.

Chắc bạn lại nghĩ, họ đang lợi dụng chúng tôi có phải không? Sự thật thì không phải vậy, vì chúng tôi đang làm lợi cho họ sử dụng, và Lợi của chúng tôi sẽ đến như thế nào?

Hơn một tháng sau, vì đơn đặt hàng qúa nhiều, nên công ty quyết định thay đổi lịch trình làm việc, thay vì, làm 8 tiếng mỗi ngày thì lại tăng lên làm 12 tiếng, làm việc trong 4 ngày, và nghỉ 3 ngày.

Người tổ trưởng của chúng tôi vì gia đình có vấn đề, anh không thể theo được lịch trình mới nên xin đổi qua vị trí khác. Chức vị tổ trưởng bị khuyết, nên người giám sát quyết định chọn chúng tôi làm tổ trưởng.

Quyết định của ông khiến nhiều người không phục, vì chúng tôi là người qúa mới, chỉ mới làm hơn hai tháng nếu đem so với kinh nghiệm của nhiều người đã có kinh nghiệm trên 10 năm.

Khi làm tổ trưởng, qua quan sát và nhìn sâu chúng tôi đã biết được những vấn đề mà ca ba của chúng tôi đang đối mặt, cho nên, chúng tôi đã quyết định dùng phương pháp thay phiên và hợp tác. Chúng tôi thay đổi người làm các khâu cho nhau, và ai cũng phải biết tất cả các khâu.

Ngày trước, ai làm khâu nào thì biết khâu đó, nên không hiểu được những khó khăn của khâu khác phải đương đầu là gì, giống như kiểu: sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi vậy.

Nhưng từ khi chúng tôi thay đổi khâu, nên ai cũng hiểu được khó khăn của khâu khác. Vì vậy, khi họ ở khâu nào thì họ sẽ điều chỉnh máy làm sao cho có ít vấn đề nhất cho các khâu sau.

Không những vậy, chúng tôi còn thay thế luôn cả vị trí tổ trưởng luân phiên hàng tuần, để mỗi người hiểu được sự khó khăn thế nào khi vào vai trò lãnh đạo.

Sau hai tháng, ca ba của chúng tôi đã trở thành ca có sản phẩm ít bị hư nhất, sản xuất nhiều sản phẩm nhất, và quan trọng nhất, khi làm xong chỉ tiêu qui định cho một ngày thì chúng tôi cùng nghỉ ngơi, ngồi nói chuyện hàn huyên, hay đi ngủ chờ đến giờ về.

Lúc chúng tôi mới vào làm, ca hai là ca “chiến” nhất, lúc nào, cũng sản xuất ra nhiều sản phẩm hơn các ca khác. Nhưng kể từ khi chúng tôi áp dụng thay phiên và hợp tác, thì ca chúng ta sản xuất nhiều sản phẩm hơn ca hai, mà còn ít bị sai hơn. Vì ngay từ đầu, chúng tôi ai cũng ý thức được, nếu sai là sai cả tổ, nên cùng giúp đỡ, hợp tác với nhau, và cùng đưa ra những kết quả tốt nhất.

Sau này, những bảng mạch điện có giá trị cả trăm ngàn đô đều phải qua tay tổ ba của chúng tôi thực hiện. Có những lô bảng mạch điện lên đến cả triệu đô, lúc đó, những nhân vật cao cấp đều có mặt, vì sợ bị hư.

Nhưng với thói quen đoàn kết và có ý thức, chúng tôi vẫn làm theo cách của chúng tôi một cách tự nhiên, không hề bối rối, hay sợ hãi, khi có mặt của các xếp cao, mà gây ra sai trái. Và quả nhiên với tinh thần đó sản phẩm của chúng tôi  làm ra, luôn đạt tiêu chuẩn cao, và luôn giao hàng trước ngày quy định.

Sau 8 tháng làm việc, chúng tôi quyết định trở lại đi học, nên xin nghỉ việc. Ngày chúng tôi nghỉ, ai cũng buồn, và họ tổ chức một bữa tiệc chia tay chưa bao giờ có trong khâu của chúng tôi, trước đây.

Sau này, khi có dịp gặp lại những người làm trong ca ba của chúng tôi ngày xưa, thì ai cũng đã lên chức làm giám sát hay cao hơn. Họ cám ơn chúng tôi đã chia xẻ và tập cho họ biết làm sao để giải quyết vấn đề, và làm sao làm một người lãnh đạo có trách nhiệm.

Qua hai câu chuyện trên, bạn thấy đấy, đâu phải lợi dụng chỉ mang ý nghĩa xấu là biến mình thành công cụ cho người khác có lợi để dụng, mà thật ra, chúng ta cũng có Lợi.

Cái Lợi mà chúng ta có được, nhiều khi còn hơn là cái lợi mà chúng ta cho người khác sử dụng. Chỉ vì, chúng ta không biết chủ động trong việc làm lợi cho người khác sử dụng mà thôi.

Nếu đã bàn đến Lợi rồi, chúng ta cũng nên bàn thêm về chữ Dụng như thế nào?

Nói đến chữ Dụng thì ai trong chúng ta cũng biết dùng cả, nhưng dùng làm sao cho có ích lợi, mang lại hiệu quả cho mình và cho người, thì lại là cả một nghệ thuật mà chúng ta cần phải học hỏi liên tục.

Có một câu chuyện thế này:

Khi có những đợt hàng mới, đòi hỏi những loại máy đặc biệt mới có thể ra được những sản phẩm đạt tiêu chuẩn và sản xuất đại trà. Thế nên, chúng tôi đã quyết định mua máy đó, thay vì đi mướn.

Sau một khoảng thời gian hợp tác với công ty đó, chúng tôi có những đấu thầu mới, tốt hơn, nên không cần phải sử dụng đến máy đặc biệt này.

Thông thường khi những máy móc không còn sử dụng thì chúng tôi thường xếp vào một góc riêng và trùm những máy lại để không bị bụi bặm.

Có một ngày, có một người thợ, vì hoàn cảnh gia đình, người chồng bị thất nghiệp đã lâu nên kinh tế gia đình vô cùng eo hẹp.

Công ty cũ lúc trước chị làm, lại có những sản phẩm, cần đến máy đặc biệt này. Chị muốn lãnh hàng về nhà cho chồng của chị tập làm để có thêm chút tài chánh, nhưng chị lại không đủ khả năng để mua hay mướn máy.

Chị đến ngỏ lời với chúng tôi xin mua để trả góp. Nghe hoàn cảnh gia đình chị, chúng tôi quyết định đem cái máy đặc biệt tặng cho chị. Chị nhận máy mà nước mắt chan hòa.

Chắc không ít bạn đồng ý với cách giải quyết của chúng tôi, có phải không? Tại sao chúng tôi lại không cho chị mướn, hay cho chị mua trả góp, ít nhất là chúng tôi cũng lấy lại được một phần tiền mua máy?

Có lẽ, quan niệm của chúng tôi hơi “khác người”. Với chúng tôi, khi một cái máy mà không còn được sử dụng hay hữu dụng thì chiếc máy đó trở thành “vô dụng” theo định nghĩa của chúng tôi.

Thay vì, để những chiếc máy “vô dụng” trùm lại thì tại sao chúng tôi không biến nó thành hữu dụng, có thể giúp ích cho mọi người.

Dĩ nhiên, chúng tôi có thể cho chị mướn hay cho chị mua trả góp thì cũng đã là giúp cho chị và cũng biến những thứ “vô dụng” thành hữu dụng rồi. Như vậy, cũng là gọi biết thương người rồi. Nhưng với chúng tôi, tình thương, tình yêu hay tình người, mà còn có điều kiện với nhau thì tình yêu thương hay tình người đó vẫn có thể gây ra khổ đau cho nhau.

Cho nên, khi đã hiến tặng điều gì cho ai chúng tôi luôn hiến tặng một cách vô điều kiện. Chúng tôi không phải chỉ nói suông, mà chúng tôi phải luôn thực tập khi có cơ hội, để biến thành một thói quen.

Đó mới là mục đích trong cuộc đời của chúng tôi. Nếu đứng trên thực tế, bạn đúng vì khi cho chị mua trả góp, hay cho chị mướn, thì chúng tôi có được thêm vài trăm một tháng từ chị.

Nhưng khi chúng tôi đặt câu hỏi với chính chúng tôi:

Một vài trăm một tháng của chị có làm cho chúng tôi giầu có thành tỷ phú không? Câu trả lời là không.

Nếu có thêm vài ba trăm một tháng của chị, có làm cho chúng tôi đẹp ra không? Câu trả lời cũng không.

Vậy nếu chúng tôi đem tặng máy cho chị thì chúng tôi có giầu có không? Câu trả lời là có, vì khi tặng máy cho chị, chúng tôi đang làm giầu có cái an và cái vui của chúng tôi.

Nếu chúng tôi đem máy tặng cho chị chúng tôi có đẹp hơn không? Có, vì chúng tôi đang tiếp tục thực hiện những điều mà tổ tiên của chúng ta đã từng dậy dỗ: Thương người như thể thương thân. Chúng tôi đang tiếp nhận gia tài của tiên tổ để lại, và đang trao truyền hạt giống đẹp này cho các thế hệ tương lai.

Nếu cần phải đem so sánh, cân đo đong đếm thì rõ ràng khi tặng cái máy, đối với chúng tôi là “vô dụng”, thì với gia đình của chị lại thành “hữu dụng”.

Chị không cần phải chắt chiu từng tháng để trả góp cho chúng tôi, như vậy, ít nhất trong bữa cơm của nhà chị, những thành viên trong gia đình sẽ có thêm những chất dinh dưỡng khác.

Chị không còn sợ hãi vì chúng tôi sẽ có thể lấy lại máy bất cứ lúc nào, vì chị còn thiếu lại tiền của chúng tôi. Như vậy, chị sẽ có tâm an hơn, và khi làm ra sản phẩm sẽ ít bị hư hơn, tài chính gia đình của chị có thể nhờ đó mà cải thiện.

Dĩ nhiên, chị có lợi của chị và chúng tôi cũng có lợi của chúng tôi. Đôi bên đều có lợi thì sao chúng tôi lại không làm.

Ngược lại, nếu chúng tôi cho chị mua theo dạng trả góp, biết đâu khi sử dụng, chị làm hư máy và đem trả lại cho chúng tôi, không những chúng tôi bực mình vì phải nhận lại cái máy hư. Nếu bỏ tiền ra sửa thì cũng về chất đống, mà nếu không sửa thì đúng là cái máy trở thành “vô dụng” hoàn toàn. Có thể nói dù trong trường hợp nào cũng khiến chúng tôi rơi vào đau khổ.

Đặt những câu hỏi, quan sát và nhìn sâu, chúng tôi thấy, việc đem tặng cái máy cho chị là việc làm tốt nhất trong các giải pháp để đem đến an vui cho chúng tôi và cho chị.

Câu chuyện thứ hai là câu chuyện khi chúng tôi cho một người bạn mượn chiếc xe để lái khi người bạn của chúng tôi qua California để tham quan thắng cảnh.

Trong lúc đang lái xe, người bạn của chúng tôi đã bị xẩy ra tai nạn, do cô bé mới tập lái, vì chưa quen nên đã đụng từ phía sau.

Vì chiếc xe của chúng tôi cũng là loại đặt tiền, cho nên, người bạn của chúng tôi vô cùng bất an, và đã gọi điện thoại cho chúng tôi để báo tình hình xẩy ra.

Khi nghe người bạn chúng tôi báo qua điện thoại, chúng tôi đã quyết định không làm khó cô bé vừa tập lái, bởi vì, chúng tôi biết, nếu vấn đề đụng xe được bảo hiểm bồi thường thì sau này cô bé sẽ gặp vô vàn khó khăn khi mua bảo hiểm, và nếu có mua được thì giá cũng cao ngất ngưỡng, trong khi, cô bé lại sắp sửa vào trường đại học cần rất nhiều chi phí liên quan đến tài chánh.

Khi người bạn đem xe về nhà chúng tôi, thay vì, đi xem chiếc xe của chúng tôi có ra sao không, thì chúng tôi lại quan tâm đến sức khỏe của người bạn của chúng tôi nhiều hơn. Chúng tôi hỏi người bạn có cần đi bác sĩ không? Có những bất thường nào trong cơ thể không? Có cần đi bịnh viện không?

Khi mà người bạn cho chúng tôi biết, anh vẫn an toàn thì chúng tôi mới thở phào, an tâm. Với chúng tôi, quan niệm về vật chất cũng rất thoáng: một đời ta bằng ba đời nó. Cho nên, khi chiếc xe bị lõm vào một chút, như má lún đồng tiền, thì đó cũng là nét đẹp cho chiếc xe của chúng tôi. Vì thế thay vì đi sửa lại thì chúng tôi quyết định để nguyên vết lõm nhỏ đó.

Qua hai câu chuyện trên, chúng tôi muốn chia xẻ với bạn về cách dùng, và ai trong chúng ta cũng biết. Nhưng mỗi người đều có cách dùng khác nhau, và chúng ta đều có quyền để lựa chọn, chúng ta dùng như thế nào.

Quan trọng không phải là cách dùng này, hay hơn cách dùng khác, mà trọng tâm chúng ta cần hướng đến, đó là cách dùng của chúng ta có đem đến lợi ích cho người và cho mình, và có đem đến cho chúng ta bình an hay hạnh phúc hay không?

Tóm lại, qua hai chữ Lợi Dụng, chúng tôi không chia xẻ với bạn về góc nhìn mà chúng ta đã qúa quen thuộc và sử dụng trong cuộc sống cũng như trong cách ứng xử của chúng ta, mà chúng tôi chia xẻ với một góc nhìn mới, góc nhìn lợi dụng theo tích cực.

Có nghĩa là, bất cứ một việc gì trên thế gian này, cũng có hai mặt, dù mặt này có xấu bao nhiêu thì mặt kia cũng sẽ tốt bấy nhiêu.

Một bài thơ để nhắc nhở chúng tôi khi ứng dụng hai chữ lợi dụng như sau:

Hạnh phúc và khổ đau

Như đồng tiền hai mặt

Cũng như trước và sau

Liền nhau trong tích tắc

Biết dụng không vướng mắc

Biết dụng là Di Lặc

Hay đơn giản hơn và dễ nhớ hơn,

“Chúng ta sẽ trở nên “Vô Dụng” khi chúng ta không có thể làm Lợi cho người khác dùng.

Ở đời, đâu ai muốn trở thành người “Vô Dụng”, có phải không?

We use cookies in order to give you the best possible experience on our website. By continuing to use this site, you agree to our use of cookies.
Accept