TỨ DIỆU ĐẾ

album-art

00:00

TẢI MP3 – QUẢNG BẢO TÂM
TẢI MP3 – TRƯƠNG THU HUYỀN

Chiều nay, chàng thanh niên đến gặp ông chú, chàng không đi một mình. Đi với chàng là một cô gái khá xinh xắn. Gặp ông chú, chàng thanh niên lễ phép cúi chào, rồi nói:

Xin phép chú, chiều nay cháu xin được dẫn theo người bạn gái của cháu, đến xin gặp chú. Cháu xin được giới thiệu với chú, đây là Diệu Hiền.

Diệu Hiền mỉm cười, cúi đầu chào ông chú, rồi nói:

Cháu rất hân hạnh được gặp chú.

Thưa chú, cháu đã được nghe anh Nhật Minh nói rất nhiều về những chia xẻ của chú. Cháu rất ngưỡng mộ chú, và đã năn nỉ anh Nhật Minh nhiều lần, xin được đến gặp chú, nhưng mãi đến chiều nay, anh Nhật Minh mới đồng ý.

Cháu không biết, việc làm đường đột của hai cháu có làm chú phiền lòng hay không? Nếu có, cháu thành thật xin lỗi chú. 

Sở dĩ, cháu phải mạo muội đến xin gặp chú, vì cháu có một vấn đề, mà cháu đã thắc mắc bấy lâu nay, nhưng vẫn chưa giải đáp được. Không biết chú có vui lòng giúp cháu không?

Ông chú nhìn Diệu Hiền mỉm cười, nói:

Bạn thật khách sáo. Tôi chẳng có gì phiền lòng cả. Rất vui khi được gặp hai bạn. Nào, mời hai bạn cùng ngồi xuống, nghỉ chân đã.

Diệu Hiền và Nhật Minh nghe ông chú mời, cùng ngồi xuống thảm cỏ xanh êm ái, mặt đối diện với ông chú.

Ông chú lên tiếng. Thật ra, kinh nghiệm sống của tôi cũng có giới hạn. Thế nên, vấn đề mà bạn thắc mắc, chưa chắc tôi đã có kinh nghiệm để chia xẻ lại với bạn. Này bạn, nếu như thắc mắc của bạn vượt quá kinh nghiệm của tôi, tôi sẽ không thể chia xẻ gì với bạn cả. Mong bạn thứ lỗi cho.

Cháu biết chú khiêm tốn thôi, chứ vấn đề của cháu đối với chú chỉ là “chuyện nhỏ”.

Này bạn, tôi thích đôi chân của tôi đi trên mặt đất hơn trên mây, bạn nhé. Ông chú nói.

Diệu Hiền cười to. Cháu nói thật đấy chú. Cháu không thích tâng bốc, hay nâng “tầng” ai đâu. Sỡ dĩ, cháu nói vậy, là vì, anh Nhật Minh là người rất ít khi ngưỡng mộ một ai. Chỉ riêng với chú, anh Nhật Minh luôn miệng đề cập đến chú trong những khi chúng cháu chia xẻ. Cho nên, cháu mới dám nói, vấn đề thắc mắc của cháu chỉ là chuyện nhỏ đối với chú đó mà.

Vậy sao bạn Diệu Hiền không nhờ bạn Nhật Minh giúp bạn giải đáp thắc mắc của bạn?

Dạ, cháu cũng đã nhờ, nhưng anh Nhật Minh bảo, chú sẽ có nhiều kinh nghiệm hơn nên sẽ giúp cháu dễ hiểu hơn.

Vậy vấn đề Bạn Thắc mắc là gì?

Dạ, thưa chú, Tứ Diệu Đế.

Thưa chú, trong tất cả kinh điển của Phật Giáo thì cháu tâm đắc nhất với Tứ Diệu Đế. Bởi vì, Tứ Diệu Đế liên quan đến chuyên nghành của cháu là Tâm Lý học.

Tuy là bác sĩ về tâm lý đã nhiều năm, nhưng cháu vẫn cảm thấy, nghành Tâm Lý học của phương Tây có rất nhiều vấn đề, nhất là trong phương pháp giải quyết các vấn đề liên quan đến tâm lý.

Một trong những vấn đề quan trọng nhất, đó là: các bác sĩ tâm lý, sau một thời gian giúp bịnh nhân chữa trị tâm lý thì chính họ lại trở thành bịnh nhân tâm lý do những bịnh nhân của họ tạo ra, và luôn cần sự hỗ trợ, chữa trị, từ một bác sĩ tâm lý khác.

Đây đúng là chuyện khôi hài. Ai nghĩ sao, cháu không biết, nhưng với cháu, đó là điều không thể chấp nhận được.

Cháu biết, trong đạo Phật có Phương Pháp Tứ Diệu Đế, và cháu cũng biết, phương pháp Tứ Diệu Đế rất tuyệt vời. Nhưng vì kinh nghiệm và kiến thức của cháu còn nông cạn. Cho nên, khi ứng dụng phương pháp Tứ Diệu Đế vào chữa trị cho bịnh nhân, cháu cũng chưa đạt được hiệu quả như cháu mong muốn.

Vì vậy, cháu mới xin anh Nhật Minh giúp cháu đến gặp chú, mong chú có thể giúp cháu.

Đúng như bạn nói, Tứ Diệu Đế quả thật là một phương pháp tuyệt vời trong việc giúp cá thể giải quyết tất cả mọi vấn đề một cách rốt ráo để đạt được trạng thái An Lâu Dài. Nhưng muốn hiểu và áp dụng đúng cách của Tứ Diệu Đế, thì cho đến nay, cũng ít ai chia xẻ một cách đúng đắn về phương pháp này. Vậy theo như kinh nghiệm và hiểu biết của bạn, Tứ Diệu Đế là gì?

Thưa chú, theo kinh nghiệm của cháu, Tứ Diệu Đế là Bốn Sự Thật vi diệu, bao gồm: Khổ Đế, Tập Đế, Diệt Đế và Đạo Đế.

Theo Định Nghĩa:

  • Khổ Đế là thực trạng đau khổ của con người hay bản chất của khổ đau
  • Tập Đế là nguồn gốc hay nguyên nhân dẫn đến thực trạng của đau khổ
  • Diệt đế là sự chấm dứt hay kết thúc của khổ đau
  • Đạo đế là con đường, hay phương pháp thực hành dẫn đến chấm dứt sự khổ đau

Đúng trên góc độ sắp xếp theo thứ tự thì:

  • Khổ Đế là Đế thứ Nhất
  • Tập Đế là Đế thứ Hai
  • Diệt Đế là Đế thứ Ba
  • Đạo Đế là Đế thứ Tư

Đây là thắc mắc đầu tiên của cháu về cách thức sắp xếp thứ tự của Tứ Diệu Đế; theo cháu, có vẻ như, cách sắp xếp này không ổn, chú ạ.

Thí dụ như, nếu không tìm ra được con đường hay phương pháp giải quyết khổ đau (Đạo Đế) thì làm sao chúng ta có thể chấm dứt, hay kết thúc được sự khổ đau (Diệt Đế).

Nhưng ở đây, lại là sự sắp xếp thứ tự trong kinh điển đã có mấy ngàn năm. Nếu thật sự không ổn thì phải có nhiều người lên tiếng, hay chỉnh sửa lại. Sự thật, cho đến nay, cháu vẫn chưa thấy có ai.

Chính vì vậy, cháu rất hoang mang, nên khi cháu ứng dụng phương pháp Tứ Diệu Đế vào chữa bịnh thì cháu luôn bị bế tắc ở đâu đó. Không biết, có phải sự sắp xếp đó có một “ẩn ý” gì sâu xa mà cháu chưa hiểu được không, mong chú có thể giải thích dùm cháu.

Dĩ nhiên, tôi có thể chia xẻ với bạn về những “ẩn ý” này, nhưng bạn có thể cho tôi hỏi, nếu như cho bạn sắp xếp lại thì bạn sẽ sắp xếp thứ tự như thế nào?

Cháu sẽ sắp xếp theo thứ tự: Khổ Đế, Tập Đế, Đạo Đế và cuối cùng là Diệt Đế.

Tại sao bạn lại sắp xếp thứ tự như thế? Ông chú hỏi.

Theo Cháu, nếu xếp theo lối cũ có 2 điều không đúng với trình tự và lý luận:

  • Nếu đã có sự chấm dứt khổ đau rồi thì tìm ra phương pháp giải quyết để làm gì. Thế nên, chúng ta không cần đến Đạo Đế nữa, mà chỉ cần Tam Đế là đủ. Như vậy sẽ hợp lý hơn.
  • Còn nếu như, muốn chấm dứt khổ đau thì phải có phương pháp trước, rồi khi áp dụng các phương pháp để giải quyết các vấn đề xong, mới đem đến kết quả là chấm dứt khổ đau. Cho nên, Đạo Đế phải xếp thứ Ba trước Diệt Đế, như vậy, mới hợp lý và tránh gây ra hiểu lầm.

Rất hợp lý, và tôi cũng đồng ý với cách sắp xếp của bạn. Bây giờ, chúng ta hãy cùng quan sát cách sắp xếp theo lối cũ, xem các tiền nhân của chúng ta có ẩn ý gì?

Trước hết, chúng ta hãy quan sát trong kinh Chuyển Pháp Luân (Tương Ưng & Tạp A Hàm) đã giảng giải về Tứ Diệu Đế ra sao?

1) Khổ Đế (Dukkha): Khổ đau là một thực trạng mà con người cảm nhận từ lúc mới lọt lòng mẹ cho đến khi nhắm mắt xuôi tay, không ai phủ nhận điều này. Con người của chúng ta luôn có xu hướng muốn vượt thoát khổ đau, và tìm kiếm an lạc, hạnh phúc. Nhưng vì họ không hiểu rõ được bản chất của khổ đau, nên họ đã không tìm ra được lối thoát thực sự; đôi khi ngược lại, họ càng tìm kiếm hạnh phúc, an lạc nhiều bao nhiêu thì họ lại càng tạo ra thêm khổ đau, phiền não, nhiều bấy nhiêu.

Theo Khổ Đế, Khổ có thể chia ra làm 3 phương diện như sau:

  1. a) Về Phương Diện Sinh Lý: Khổ là một cảm giác khó chịu, bức bối, đau đớn, v.v có được từ Thân.

Thí dụ như: da bị trầy xướt vì té ngã, hay một hạt cát bay vào trong mắt; tạo ra cảm giác khó chịu và đau đớn trên thân thể, thì những sự đau đớn, hay khó chịu này gọi là sự đau đớn, hay khó chịu, về thể xác. Đúng như câu Lão Tử đã nói: Có thân mới có khổ (Ngô hữu đại hoạn do ngô hữu thân).

  1. b) Về Phương Diện Tâm Lý: Khổ nẩy sinh do không được toại ý, không vừa lòng. Hay những mất mát, thua thiệt trong cuộc đời. Hay người mình thương muốn gần mà không được; người mình ghét mà cứ gặp gỡ hoài; Những ước mơ không được toại ý, lòng luôn khát khao mong đợi, bức bách v.v, tạo nên sự bi quan, chán chường, phiền muộn, lo âu. Đây là những nỗi khổ thuộc về tâm lý.
  2. c) Khổ Là Sự Chấp Thủ Năm Uẩn: Cái khổ thứ ba, bao gồm hai cái khổ trên, gọi là: “Chấp thủ năm uẩn là khổ”.

Theo ý kinh, năm uẩn là năm yếu tố nương tựa vào nhau để tạo ra con người, bao gồm: thân thể vật lý, và cấu trúc tâm lý như: hình tướng, cảm giác, niệm tưởng, hành và thức (sắc, thọ, tưởng, hành, thức). Khi chúng ta bám víu vào 5 yếu tố trên, và có nhận thức sai lầm rằng: 5 uẩn đó là tôi, là của tôi, là tự ngã của tôi thì sự khổ đau sẽ có mặt. Ý niệm về “thân thể của tôi”, “tình cảm của tôi”, “tư tưởng của tôi”, “tâm tư của tôi”, “nhận thức của tôi”, v.v, hình thành một cái tôi ham muốn, vị kỷ; từ đó, mọi khổ đau phát sinh. Mọi khổ đau, lo âu, sợ hãi, thất vọng, điên cuồng, đều gắn liền với ý niệm về “cái tôi” ấy.

Tóm lại, cái khổ về mặt hiện tượng là cảm giác khổ về thân, sự bức bối của hoàn cảnh, sự không toại nguyện của tâm lý. Về mặt bản chất, khổ đau là do sự chấp thủ, ngã hóa từ năm uẩn mà ra.

2) Tập Đế (Samudaya): Tập là tích tập, tụ tập các phiền não lại tạo thành năng lực đưa đến khổ đau; đây là nguyên nhân, là nguồn gốc của các khổ. Khi nhận thức được bản chất của khổ một cách rõ ràng, chúng ta mới có thể đi vào con đường, đoạn diệt khổ đau (Đạo đế).

Cuộc đời là khổ hay không? Chọn lựa câu trả lời nào, tùy thuộc vào trạng thái tâm lý, cảm thọ, và nhận thức của mỗi người. Nguyên nhân của khổ có nguồn gốc sâu xa từ trong tâm tưởng, hay sự lựa chọn của con người.

Theo Phật giáo, các nguyên nhân chính của đau khổ, không phải phát sinh chính từ vật chất, hay hoàn cảnh xã hội, mà gốc rễ chính là từ tâm thức của mỗi cá thể.

Chẳng hạn như, một trong nguyên nhân của khổ thường được các kinh đề cập đến là sự tham ái; vì có sự tham ái mà sinh ra chấp thủ, bám víu vào các đối tượng của tham ái. Rồi từ sự chấp thủ này, sinh ra sự khao khát, mong muốn. Và khi sự khao khát, mong muốn, không được thỏa mãn, hay toại nguyện thì sẽ nẩy sinh ra sự khổ đau.

Và nếu chúng ta cứ tiếp tục nhìn sâu hơn thì chúng ta thấy, chấp thủ cũng chưa phải là nguyên nhân hay gốc rễ chính của sự tham ái, mà sự tham ái này lại bắt đầu bằng vô minh.

Vô Minh tức là không sáng suốt, si mê, không thấy rõ bản chất của sự vật hiện tượng đều nương vào nhau mà sinh khởi, đều vô thường và chuyển biến, không có cái chủ thể, cái bền vững độc lập ở trong chúng.

Chính vì, chúng ta không nhận thức được rõ ràng, nên chúng ta sinh ra tâm tham muốn, ôm giữ lấy các đối tượng lạc thú. Từ đó, mới lầm tưởng rằng, “cái tôi” là quan trọng nhất, là cái có thật cần phải bám víu, củng cố, và cần phải thỏa mãn nhu cầu của nó, bằng bất cứ giá nào. Chính vì vậy, mà tạo những nỗi thống khổ của cuộc đời.

Tóm lại, cuộc đời của chúng ta khổ hay không đều bắt nguồn từ những nhận thức của chúng ta như thế nào.

Nếu nhận thức của chúng ta bị cuốn hút vào sự tham lam do vô minh thì tâm thức của chúng ta sẽ sinh ra chấp thủ. Khi tâm thức của chúng ta bắt đầu chấp thủ thì chúng ta bắt đầu sản sinh ra khổ đau.

Nếu như nhận thức của chúng ta không khởi đầu bằng sự chấp ngã, dục vọng, vị kỷ hay phiền não; và không bị những yếu tố này khuấy động, chi phối, hay ngự trị trong tâm thức của chúng ta thì cuộc đời của chúng ta sẽ sống có an lạc, hạnh phúc.

3) Diệt Đế (Nirodha): Diệt là chấm dứt, là dập tắt. Diệt Đế là sự chấm dứt hay dập tắt phiền não, nguyên nhân đưa đến đau khổ, và sự chấm dứt khổ đau; cũng có nghĩa là hạnh phúc, an lạc. Diệt Đế đồng nghĩa với Niết Bàn (Nirvana).

Đạo Phật xác nhận rằng: cuộc đời này, có đầy dẫy những đau khổ, đó là sự thật. Nhưng đạo Phật cũng xác định rằng: có một sự thật khác nữa, đó là An Lạc. Theo đạo Phật, ai trong chúng ta, cũng có thể đạt được sự thật về An Lạc.Vậy theo đạo Phật, An Lạc là gì?

Trong giáo lý của đạo Phật, An Lạc được phân chia thành hai phần: An Lạc Tương Đối và An Lạc Tuyệt Đối.

  1. An Lạc Tương Đối: An Lạc Tương Đối là sự An Vui có được, khi chúng ta đã làm lắng dịu lòng tham ái, chấp thủ, những nỗi lo âu, sợ hãi, bất an, đã giảm hẳn; và thân tâm trở nên thanh thản, đầu óc tỉnh táo; giúp chúng ta nhìn mọi vấn đề trở nên đơn giản, và rộng rãi hơn.
  2. An Lạc Tuyệt Đối: An Lạc Tuyệt đối cũng là sự An Vui, dựa trên sự ứng dụng tuệ quán, hướng tâm đến đoạn trừ toàn bộ phiền não vi tế, thâm sâu, để đạt đến sự tuyệt đối, và tối thượng là Niết Bàn. Diệt Đế chính là Niết Bàn. Niết Bàn là sự Thanh Tịnh, hay là sự An Lạc Tuyệt Đối.

4) Đạo đế (Magga): Đạo là con đường, là phương pháp thực hiện để đạt được an lạc, hạnh phúc trong đời sống hàng ngày, hay An Lạc Tuyệt Đối-Niết Bàn.

Như vậy, nếu chúng ta dựa trên sự diễn giải của kinh Chuyển Pháp Luân, chúng ta có thể hiểu, Tứ Diệu Đế trong kinh điển của Phật giáo, được trình bầy dưới dạng của người Thể Nghiệm, bao gồm Tam Đế: Khổ Đế, Tập Đế và Diệt Đế, ứng dụng trong sự thực tập để đạt được trạng thái An Lạc của một cá thể; và Đạo Đế, được trình bầy dưới dạng Dụng Nghiệm, làm sao ứng dụng sự An Lạc của cá thể đó trong đời sống hằng ngày.

Hay nói khác hơn, ở đây, Tứ Diệu Đế bao gồm luôn cả hai phạm trù: Thể Nghiệm và Dụng Nghiệm vào chung một phương pháp.

Đó chính là phần “ẩn ý” của tiền nhân mà bạn thắc mắc.

Rất đồng ý với bạn, khi nói về ứng dụng thì Tứ Diệu Đế theo lối cũ đã thiếu một phần, đó là, trước Diệt Đế phải thêm phần Đạo Đế. Nếu không có Đạo Đế thì không thể có Diệt Đế được.

Hơn nữa, Đạo Đế của người Thể Nghiệm thì khác với Đạo Đế của người Dụng Nghiệm. Cho nên, không thể dùng Đạo Đế của Dụng Nghiệm để thay thế cho Thể Nghiệm được. Và nếu khiên cưỡng, bắt buộc phải thay thế thì Đạo Đế vẫn phải xếp trên Diệt Đế, chứ không thể xếp theo lối cũ.

Cám ơn chú, bây giờ thì cháu đã hiểu được Tứ Diệu Đế một cách rõ ràng hơn. Nhưng cháu vẫn còn chút thắc mắc, phần Đạo Đế đứng trước Diệt Đế sẽ ứng dụng như thế nào?

Đạo Đế là phương pháp giải quyết vấn đề, nếu đem so với phương pháp của phương Tây, cũng không khác mấy. Chẳng hạn, đối với phương pháp giải quyết vấn đề của phương Tây, họ chú trọng vào câu hỏi “Làm Sao – How”, hơn là chú trọng vào câu hỏi “Tại Sao – Why” như phương pháp của Tứ Diệu Đế.

Hay nói một cách rõ ràng hơn, theo phương pháp của phương Tây, họ thiếu phần Tập Đế (câu hỏi tại sao). Chính vì không hỏi Tại Sao, nên phương pháp giải quyết vấn đề của phương Tây chỉ giải quyết được phần ngọn mà không giải quyết được phần gốc. Cho dù, họ có thể giải quyết được vấn đề thì họ cũng chỉ đạt được trạng thái An tạm thời ngắn hạn, và khi phần ngọn đó lại phát sinh, nẩy nở thì lại tạo ra sự bất an kế tiếp. 

Còn Tứ Diệu Đế theo lối cũ, có phần Tập Đế, tức là sử dụng câu hỏi tại sao, rất nhiều lần, cho đến khi tìm ra gốc rễ. Cho nên, khi kết hợp với Đạo Đế là phương pháp giải quyết thì sẽ đạt được trạng thái An kéo dài.

Rõ ràng, khi gốc rễ gây ra vấn đề đã bị đứt đoạn thì phần ngọn không thể nẩy nở phát sinh. Tiếc thay, phương pháp trong Tứ Diệu Đế lại thiếu phần Đạo Đế (câu hỏi làm sao). Vì vậy, khiến cho nhiều người, khi ứng dụng, dễ rơi vào bế tắc, không biết nên dùng cách nào cho có hiệu quả.

Ồ, thì ra là thế. Cháu bây giờ mới hiểu rõ được nguyên nhân tại sao, nhiều bịnh nhân của cháu, sau khi được cố vấn những cách giải quyết vấn đề, thì họ chỉ được một thời gian ngắn có được An Vui. Nhưng sau đó, những vấn đề đó lại tiếp tục phát sinh.

Có nhiều người, có một vấn đề, khi trong quá trình trị liệu thì dứt hẳn, nhưng khi trở lại môi trường sống của họ thì họ lại có vấn đề như ban đầu.

Thưa chú, vậy chú có thể chia xẻ với cháu, làm sao ứng dụng Tứ Diệu Đế vào cách trị liệu trong tâm lý không?

Được chứ. Nếu chuyên nghành của bạn về Tâm Lý thì chúng ta sẽ không sử dụng ngôn ngữ của Tứ Diệu Đế, mà chúng ta có thể chuyển hẳn qua những ngôn ngữ của khoa Tâm Lý như:

Bốn Bước Để Giải Quyết một vấn đề, như sau:

Bước 1: Xác Định Mình Có Vấn Đề

Bước 2: Nguyên Nhân Tạo Ra Vấn Đề

Bước 3: Phương Pháp Giải Quyết Vấn Đề

Bước 4: Thời Gian Giải Quyết Vấn Đề

Dĩ nhiên, hai chữ “vấn đề” dùng ở đây, bao gồm tất cả những nguồn cảm xúc/giác như: phiền muộn, tức giận, ganh ghét, thù hận, đau khổ, hạnh phúc, vui vẻ v.v.

Hay quá! Chú có thể giảng giải chi tiết từng bước một cho cháu không?

Được chứ, Này người bạn trẻ, phần đông chúng ta vẫn có một thói quen là “coi thường” vấn đề. Khi có một vấn đề, đa phần chúng ta thường chọn cách “coi như không có vấn đề”, hoặc “vấn đề đó nhỏ, không cần phải giải quyết”, v.v.

Dù cho chúng ta chọn cách nào thì đó cũng chỉ là những lý lẽ “ngụy biện” của “bản ngã” để trốn tránh, không muốn đương đầu với vấn đề.

Trong Tâm Lý học của phương Tây, hay Duy Thức học của phương Đông thì Tâm Thức của một cá thể được chia ra làm ba Thức, gồm: Ý Thức, Ngã Thức, và Tàng/Tiềm Thức hay Căn Bản Thức (Duy Thức học).

Trong Duy Thức học, ngoài 3 Thức trên, còn có thêm 5 Thức khác, bao gồm: Nhãn Thức, Nhĩ Thức, Tỷ Thức, Thiệt Thức, và Thân Thức, gộp chung gọi là Tám Tâm Vương hay Tám Thức.

Ở đây, chúng ta dùng phương pháp của phương Tây, nên chỉ bàn về cách dùng ba Thức mà thôi.

Về công dụng, thì chức năng của ba Thức được phân chia như sau:

Chức năng của Ý Thức:

  • Phân tích, nhận diện, tính toán, tổng hợp, so sánh, phỏng đoán, tưởng tượng
  • Ngôn ngữ chính: lời nói, chữ
  • Trí nhớ: tạm thời
  • Về sự vận hành hay hoạt động của Ý thức, thì Ý thức có thể nhận thông tin, và dữ liệu từ ba chiều. Chiều thứ nhất: đến từ năm giác quan: Mắt Mũi, Tai, Lưỡi và Thân. Chiều thứ hai: từ tư tưởng và cảm giác bên trong Bản Ngã, và chiều thứ ba: từ Tiềm Thức.

Sau khi nhận được những thông tin, dữ liệu, hay vấn đề từ ba chiều thì Ý Thức sẽ tùy theo những đòi hỏi của những thông tin, rồi tiến hành những quá trình như phân tích, tổng hợp, tính toán, nhận dạng, v.v. qua việc sử dụng hầu hết các dữ liệu từ kho dữ liệu của Tiềm Thức.

Nếu trong qúa trình đang tìm ra phương pháp đang tiếp diễn thì Ý Thức sẽ sử dụng bộ nhớ ngắn hạn của Ý Thức để ghi nhớ. Khi đã giải quyết xong các thông tin, hay vấn đề thì Ý Thức sẽ đem toàn bộ thông tin hay vấn đề đó gởi vào bộ nhớ lâu dài của Tiềm Thức.

Chức năng của Tiềm/Tàng Thức:

Tàng thức, hay Tiềm Thức, hay Căn Bản Thức là Thức ở ẩn sâu bên trong, với chức năng quan trọng nhất là: Khởi đầu và kết hợp với Thân Thể Thức để duy trì mạng sống của cá thể.

Gần như, 95% trong ngày, con người của chúng ta sử dụng Tiềm Thức, và chỉ có 5% là sử dụng Ý Thức. Thế nên, Ý Thức chỉ hoạt động trong giai đoạn ngắn trong ngày, như khi cần phải phân tích hay tính toán một dữ liệu, hay thông tin gì đó, mà Ngã Thức, Thân Thể Thức, hay Tiềm Thức đòi hỏi. Nếu không có sự đòi hỏi của các Thức, thì Ý Thức luôn vắng mặt, đặc biệt nhất khi chúng ta ngủ. Ngược lại, Tiềm Thức thì hoạt động liên tục trong 24 giờ, không ngừng nghỉ. Khi Tiềm Thức và Thân Thể Thức của một cá thể ngừng nghỉ, thì cũng là lúc cá thể đó chia tay cuộc đời.

Ngoài chức năng quan trọng nêu trên, Tàng Thức/Tiềm Thức còn có rất nhiều chức năng khác như:

  • Kho chứa tất cả các thông tin, dữ liệu từ 5 giác quan, Ý Thức, Ngã Thức và Thân Thể Thức
  • Duy trì bộ nhớ lâu dài và nối kết các thông tin dữ liệu, có khả năng sáng tạo
  • Đòi hỏi những thông tin, dữ liệu, hoặc vấn đề chưa được giải quyết triệt để, để tạo sự hoàn chỉnh
  • Cung cấp thông tin liên tục cho Ngã Thức.
  • Ngôn ngữ Chính: Hình Ảnh.
  • Chính vì không có các chức năng như phân tích, tính toán, tổng hợp, v.v của Ý thức, nên Tiềm Thức không có thể phủ định, cũng như, không có qúa khứ và tương lai.

Thời gian hoạt động mạnh nhất của Tiềm thức, là khi Ngã Thức và Ý Thức ngưng hoạt động.

Thí dụ: Khi cá thể ngủ, thì Ý Thức và Ngã Thức đều tạm ngừng hoạt động, và chỉ có Tiềm Thức hoạt động. Những giấc mơ đến với cá thể, chính là qúa trình sắp xếp, kết nối các thông tin, và dữ liệu thu thập trong ngày. Khi Ý thức hay Ngã Thức hoạt động thì Tiềm Thức lại ẩn vào trong, và nhường quyền hoạt động lại cho Ý Thức hay Ngã Thức.

Chức năng của Ngã Thức: hay Thức về cái tôi, hay Bản Ngã, là thức được ẩn sâu bên trong.

Chức năng quan trọng nhất của Ngã Thức, đó là:

  • Thành trì trú ngụ và phát sinh cảm xúc/giác
  • Đạo đức
  • Danh dự
  • Niềm tin qua kinh nghiệm tích lũy v.v.

Khi Cảm Xúc/Giác, hay Đạo Đức, hay Niềm Tin, v.v của cá thể, bị tác động từ những dữ liệu của 5 giác quan gởi về kho Tiềm Thức, hay từ Thân Thể Thức, hay do những vấn đề tích tụ dưới kho Tiềm Thức chưa được giải quyết một cách triệt để, trồi lên trên Ý Thức đòi giải quyết, thì Cảm Xúc/Giác tiêu cực bị tác động mạnh, gây ra khổ đau, phiền muộn cho cá thể. Lập tức, Ngã Thức sẽ khích hoạt cơ chế tự bảo vệ, và sử dụng Ý Thức để phân tích, tổng hợp, tính toán, các cách thức chống trả, hay trốn chạy.

Trong Ngã Thức, vì có chức năng Đạo Đức, nên trong Ngã Thức được chia làm ba phần, gồm các cặp đối lập như: Thiện-Ác; Tích Cực-Tiêu Cực, v.v., và phần thứ ba, Trung Tính – không Thiện, không Ác… Vì có sự đối lập của chức năng Đạo Đức trong Ngã Thức, nên cá thể khó có thể duy trì được sự quân bình liên tục. Vì vậy, hay tạo ra sự xáo trộn (bất An) trong Ngã Thức.

Thật ra, Ý Thức và Tiềm Thức của một cá thể, được phân chia, nhằm giúp cho chúng ta hiểu được các chức năng, và hoạt động của mỗi thức khác nhau như thế nào. Nhưng trên thực tế, Ngã Thức mới chính là chủ nhân ông của các thức; còn Ý thức và Tiềm Thức, chỉ là công cụ cho Ngã Thức sử dụng. Cho nên, trong Ý Thức và Tiềm Thức đều không có cảm xúc như: vui sướng, buồn phiền, khổ đau, an lạc. Tất cả những cảm xúc/giác đó đều nằm gọn trong Ngã Thức.

Nếu Ngã thức của cá thể nghiêng về phần thiện, tích cực nhiều hơn thì cá thể đó sống hạnh phúc, an lạc nhiều hơn. Nếu ngược lại, thì đau khổ nhiều hơn.

Dĩ nhiên, đề tài liên quan đến Ý Thức, Tiềm Thức, và Ngã Thức là một đề tài lớn, chúng ta cần phải có rất nhiều thời gian mới có thể hiểu sâu sắc, và biết ứng dụng về ba Thức một cách linh hoạt và chính xác được.

Nhưng ở đây, chúng ta chỉ cần nắm những chức năng căn bản của ba Thức nêu trên, thì chúng ta đã có thể ứng dụng cho Phương Pháp Bốn Bước Giải Quyết Một Vấn Đề một cách triệt để.

Nào, chúng ta hãy trở lại Bước 1: Xác Định Mình Có Vấn Đề.

Tại sao lại phải xác định mình có vấn đề?

Đơn giản, là vì, khi chúng ta không xác định chúng ta có vấn đề thì làm gì chúng ta có vấn đề để giải quyết. Vấn đề chỉ trở thành vấn đề, khi vấn đề đó, tác động lên vùng cảm xúc/giác. Và vùng cảm xúc/giác bị tác động nhiều nhất là vùng cảm xúc/giác tiêu cực.

Khi vùng cảm xúc/giác tiêu cực bị khích hoạt thì những cảm xúc/giác tiêu cực như: giận dữ, bực tức, khó chịu, chán nản, thù ghét, v.v, sẽ đại diện cho Ngã Thức và sai sử Ý Thức tìm cách chống trả để làm dịu đi những cảm xúc/giác tiêu cực đó.

Ý Thức khi nhận lệnh từ những cảm xúc/giác tiêu cực sẽ sử dụng kho dữ liệu từ Tiềm Thức, để phân tích, tính toán, so sánh những kinh nghiệm, hay kiến thức trong qúa khứ, để tìm ra cách thức, hay phương pháp chống trả làm sao có thể thỏa mãn cho những cảm xúc/ giác tiêu cực.

Nếu trong qúa trình chống trả, mà những phương pháp, hay cách thức của Ý Thức bị thua kém đối thủ, hay bị đối thủ tấn công ngược lại (trong trường hợp có chủ thể và đối tượng), thì cảm xúc/giác lại tiếp tục thúc đẩy Ý Thức tiếp tục tìm ra những giải pháp khác.

Nếu như Ý Thức đã sử dụng hết những kinh nghiệm, hay kiến thức có được trong Tiềm thức rồi mà vẫn không thể tìm ra cách thức chống trả, và bỏ cuộc, thì Ngã Thức bị đuối lý.

Khi bị đuối lý, Ngã Thức sẽ rơi vào trong hai trạng thái: một là chấp nhận thua cuộc, hai là không chấp nhận thua cuộc.

Khi Ngã thức chấp nhận thua cuộc, cộng thêm với những cảm xúc/giác tiêu cực liên tục đang có, và việc thua cuộc xẩy ra rất nhiều lần thì khích hoạt cảm giác tự ty mặc cảm.

Nếu như Ngã thức không chấp nhận thua cuộc thì sẽ gia tăng cảm xúc/giác tiêu cực với đối thủ, bắt đầu từ nhẹ đến nặng như: ganh, ghét, thù, hận, v.v bắt đầu được nâng cấp.

Tất cả những hậu quả, dù là chấp nhận hay không của Ngã Thức đều được đưa trở lại trong kho dữ liệu của Tiềm Thức để gìn giữ trong phần kinh nghiệm, và hình thành cá tính của cá nhân.

Ngã thức sẽ sử dụng những kinh nghiệm hay cá tính chọn lọc này để tiếp tục sinh hoạt với chính mình, hay đối với người khác.

Như vậy, qua sự quan sát nhìn sâu vào căn bản của ba Thức, chúng ta thấy rằng: đứng trên góc độ có chủ thể và đối tượng thì sự hoạt động của cả ba Thức, đều dựa trên những cảm xúc/giác của cá thể để đưa ra cách ứng xử, phản ứng với đối tượng như thế nào.

Nhưng nếu đứng trên góc độ của cá nhân, khi có chủ thể là chính mình, và đối tượng là các cảm xúc/giác của mình thì sự vận hành của ba Thức sẽ khác. Vì sao?

Vì có đối tượng là các cảm xúc/giác của chính mình mà không phải từ người khác, nên đứng trên góc độ của cá nhân thì đa phần lại từ Ngã Thức, Thân Thể Thức, và Tiềm Thức của người đó, chứ không phải từ một người nào đó tạo tác.

Như chúng ta đã biết, một trong những chức năng của Tiềm Thức là sắp xếp, và liên kết các thông tin và dữ liệu.

Trong quá trình thu thập, sắp xếp, và liên kết các thông tin dữ liệu trong một ngày, bao gồm: từ năm giác quan, Ý Thức và Ngã Thức, thì Tiềm Thức có thể sẽ đem những vấn đề mà cá nhân đã cố gắng đè nén, trốn tránh, không chịu giải quyết một cách triệt để, lên trên Ý Thức, và sử dụng khả năng phân tích, tổng hợp của Ý Thức để giải quyết.

Vì đã là những vấn đề không được giải quyết, có nghĩa là, trong qúa khứ, Ý Thức của cá nhân đó đã tận dụng hết khả năng nhưng vẫn không giải quyết được; nên Ngã Thức mới  phải dùng đến khả năng đè nén, trốn chạy để không phải suy nghĩ đến nữa.

Nay, Tiềm Thức lại cũng đem những vấn đề đó lên, cộng thêm những vấn đề mới, và đòi Ngã Thức phải giải quyết, khiến cho cảm xúc/giác tiêu cực của Ngã Thức luôn bị khích hoạt, và khiến cho Ngã Thức luôn rơi vào trong trạng thái bất An, đau khổ.

Khi con người của chúng ta cô đơn, đó là lúc mà Ý và Ngã Thức của chúng ta ít hoạt động nhất; đó cũng chính là cơ hội cho Tiềm Thức hoạt động. Nhưng trong những trường hợp đặc biệt, có liên quan đến sự sống còn của cá thể, thì cho dù, ngay cả khi Ý và Ngã Thức đang hoạt động, Tiềm Thức cũng sẽ lấn quyền Ý và Ngã Thức, và đòi hỏi Ý và Ngã Thức phải giải quyết các vấn đề do Tiềm Thức đòi hỏi một cách nhanh nhất, hay cho đến khi nào có giải đáp thích đáng.

Đa phần, Tiềm Thức ít khi sử dụng quyền này, và thường nhượng bộ Ý và Ngã Thức, cho đến khi, cá thể đó rơi vào trạng thái cô đơn thì Tiềm Thức mới bắt đầu hoạt động.

Thế nên, khi con người cô đơn thì những vấn đề chưa được giải quyết, hay giải quyết chỉ mang tính cách tạm thời sẽ liên tục xuất hiện trên bề mặt của Ý Thức, và bắt Ý Thức phải hoạt động để tìm ra giải pháp.

Chính vì thiếu hiểu biết, nên chúng ta thường “coi” cô đơn như là một “kẻ thù” luôn “gieo rắc” những khổ đau cho chúng ta; mà chúng ta không biết được, công dụng đặc biệt của cô đơn, chính là đang cho chúng ta những cơ hội để sửa sai, chấn chỉnh, hay đi tìm ra gốc rễ của vấn đề và đi giải quyết vấn đề một cách triệt để.

Cuộc đời của chúng ta đã không biết bao nhiêu lần, Ngã Thức của chúng ta đã lựa chọn trốn chạy, hay tự đánh lừa bản thân mình rằng: mình không có vấn đề.

Ngã Thức của chúng ta đã không biết bao nhiêu lần dùng sự đè nén, hay chồng chất những vấn đề khác lên trên nhau để ngụy biện, hay tự đánh lừa chính mình rằng: mình không có vấn đề.

Nhưng với sự hoạt động độc lập, không chịu sự khống chế của Ngã Thức, thì Tiềm Thức của chúng ta cũng sẽ lại lôi các vấn đề đó trở lại, nếu như, trong những thông tin hay dữ liệu thu thập trong ngày có liên quan đến các vấn đề mà chúng ta đã tìm cách đè nén, hay đã trốn chạy, hay chưa giải quyết.

Nếu chúng ta có sự hiểu biết đúng đắn về các chức năng của ba Thức, chúng ta thấy rằng, cho dù, Ngã Thức của chúng ta có là chủ nhân ông, có khả năng tự chọn, có khả năng đè nén, trốn chạy, thì Ngã thức của chúng ta vẫn không có thể khống chế được sự hoạt động độc lập của Tiềm Thức.

Ngã Thức của chúng ta có thể khống chế 100% Ý Thức, nhưng Ngã Thức của chúng ta lại không có thể khống chế 100% Tiềm Thức hay Thân Thể Thức. Hay nói đúng hơn, Ngã Thức của chúng ta chỉ có thể lợi dụng các chức năng của Tiềm Thức để phục vụ cho Ngã Thức mà Thôi.

Thí dụ: Ngã thức muốn tạo cho mình một thói quen tốt, đi ngủ đúng giờ. Ngã thức có thể ra lệnh cho Ý Thức phân tích lợi hại của việc đi ngủ đúng giờ ra sao, thiết lập sự giới hạn, kỷ luật thế nào. Sau đó, Ý Thức đưa lập trình này vào trong Tiềm Thức. Tiềm Thức sẽ ghi nhớ cách chọn lựa này, và chờ sự quyết định, sắp xếp thứ tự quan trọng do Ngã Thức quy định. Khi Ngã Thức đã quyết định xong thì đưa trở ngược lại kho Tiềm Thức.

Sau khi nhận được dữ liệu từ Ngã Thức, Tiềm Thức sẽ theo qui định riêng của mình để tạo thành một thói quen.

Tiến trình tạo thành một thói quen theo Tiềm Thức là, bất cứ một việc gì muốn trở thành một thói quen phải trải qua một qúa trình lập đi lập lại liên tục, ít nhất trong 21 ngày, và lâu nhất trong 3 tháng.

Sau khi trở thành một thói quen rồi, Tiềm Thức mới sắp xếp lại thứ tự theo yêu cầu của Ngã Thức. Nếu việc của Ngã Thức yêu cầu chỉ ở trong gia đoạn đang cấu thành thói quen, Tiềm Thức sẽ không tuân theo, hay chịu bất cứ một sự khống chế, hay đe dọa nào từ Ngã Thức để thỏa mãn theo mong muốn của Ngã Thức.

Đó chính là lý do tại sao, có những lúc Ngã Thức muốn việc đó xẩy ra liền, hay trong một giai đoạn ngắn thì Tiềm Thức lại luôn từ chối; vì việc đó, chưa đủ thời gian lập đi lập lại liên tục để trở thành một thói quen.

Từ đó, dẫn đến việc Ngã Thức mất niềm Tin, trở nên bi quan, tiêu cực, phát sinh tự ty mặc cảm v.v.

Cho nên, việc trốn chạy hay đè nén một vấn đề, theo thói quen thông thường của chúng ta, không phải là cách tối ưu để giải quyết vấn đề. Bởi vì, chúng ta không thể trốn chạy vấn đề.

Vì sao? Vì trước hay sau gì, chúng ta cũng phải đương đầu với vấn đề, và đi giải quyết nó. Sự thật là, hễ chúng ta càng trốn chạy, hay đè nén vấn đề càng sâu chừng nào, thì khi Tiềm Thức liên kết vấn đề cũ với những vấn đề khác, vấn đề cũ và mới này sẽ trở nên nặng nề và càng khó giải quyết hơn.

Thế nên, xác định mình có vấn đề là việc làm vô cùng cần thiết. Bởi vì, khi đó, chúng ta đã chấp nhận chúng ta sẽ đương đầu để giải quyết vấn đề. Khi Ngã Thức của chúng ta đã chấp Nhận đi giải quyết vấn đề thì Ngã Thức chúng ta mới không sử dụng những khả năng như: đè nén, hay tự đánh lừa mình. Và nhờ đó, Ngã Thức của chúng ta sẽ cho chính mình những cơ hội sử dụng khả năng của Ý Thức, nhìn sâu hơn.

Chính vì, nhờ khả năng nhìn sâu hơn nên chúng ta mới có thể tiếp cận đúng với sự thật của vấn đề hơn. Và khi tiếp xúc được với sự thật, hay gốc rễ của vấn đề một cách chính xác, rõ ràng, thì lúc đó, Ngã Thức của chúng ta mới có thể giải quyết vấn đề đó một cách triệt để.

Cách thức hay nhất khi áp dụng bước thứ nhất: Xác Định Mình Có Vấn Đề, đó là, nên tìm một nơi chốn chỉ có một mình, hay cô đơn thì chúng ta sẽ có nhiều cơ hội tiếp cận với sự thật của vấn đề đúng hơn.

Cháu cám ơn chú nhiều lắm. Tuy cháu đã từng học về ba Thức theo khoa Tâm Lý học phương Tây, nhưng cháu vẫn cảm thấy bất ổn, nhất là trong cách họ phân tích các chức năng của ba Thức, vô cùng lộn xộn, lệch lạc, không được rõ ràng và chi tiết như chú đã trình bầy.

Bây giờ, cháu đã hiểu, tại sao những bịnh nhân của cháu muốn có một thân hình cân đối, lại cứ tiếp tục béo phì. Hoặc họ có thể đạt được trong một thời gian ngắn, rồi sau đó, họ lại béo phì trở lại. Nguyên nhân phát sinh là do Tiềm Thức chưa biến thành thói quen, và cách Ngã Thức sắp xếp thứ tự quan trọng bị thay đổi liên tục. Chính vì vậy, mà tại sao kết quả không được lâu bền như mong muốn.

Vậy, còn Bước thứ 2: Nguyên Nhân Tạo Ra Vấn Đề thì sao hả chú?

Ai trong chúng ta cũng biết, cho dù chúng ta đang sinh hoạt trong bất cứ một lĩnh vực nào, khi có một vấn đề phát sinh, nếu chúng ta không biết được nguyên nhân tạo ra vấn đề thì chúng ta không thể tìm ra cách thức giải quyết vấn đề.

Thông thường, khi chúng ta Chấp Nhận chúng ta có vấn đề thì ai trong chúng ta cũng sẽ đi tìm nguyên nhân. Nhưng tìm nguyên nhân như thế nào thì lại là một vấn đề.

Theo cách thức phổ thông, khi chúng ta đi giải quyết một vấn đề, chúng ta sẽ đặt vấn đề bằng câu hỏi, thí dụ như:

Tháng này tôi không đủ tiền trả tiền nhà, vậy tôi phải Làm Sao để giải quyết được việc này?

Vì câu hỏi của chúng ta là Làm Sao? Cho nên, cách thức giải quyết của Ý thức của chúng ta sẽ hướng đến cách phân tích, tổng hợp, những cách thức giải quyết liên quan đến làm sao như: gọi điện thoại mượn tiền bạn; lấy tiền từ thẻ tín dụng; về nhà xin tiền bố mẹ, anh, chị, em; gọi điện thoại xin khất trả tiền nhà, v.v.

Với những cách thức này, giả sử như, chúng ta thành công thì coi như vấn đề đó được giải quyết, và chúng ta tạm có An; vì sự lo âu không có tiền trả tiền nhà đã được giải quyết.

Nhưng sự thật, vấn đề thiếu tiền để trả tiền nhà có được giải quyết một cách triệt để chưa? Chắc chắn là chưa. Vì sao?

Vì sự thật, chúng ta đang tạo ra thêm những vấn đề mới: chúng ta sẽ làm gì có tiền, để trả lại số tiền, mà chúng ta đã vay mượn. Nếu chúng ta cứ “chai mặt” ra, và quỵt nợ thì chúng ta sẽ tạo ra vô số các hậu quả khác như: mất uy tín, không ai tin tưởng, không ai muốn chơi với mình, và khi gặp khó khăn trong tương lai sẽ không có ai giúp đỡ, v.v.

Còn nếu như chúng ta có lòng tự trọng, muốn đi kiếm tiền ra để trả nợ thì chúng ta sẽ làm gì để kiếm ra tiền? Nếu không có tiền để trả nợ thì lương tâm của chúng ta sẽ cắn rứt bao lâu? Hoặc người cho mượn, vì nguyên nhân nào đó phát sinh mà họ cần chúng ta phải trả lại số tiền đó cho họ, để họ giải quyết vấn đề của họ, mà chúng ta lại không có tiền để trả thì lương tâm của chúng ta sẽ như thế nào?

Nếu như chúng ta không giải quyết được, và tình trạng thiếu trả tiền nhà lại kéo dài qua tháng sau, thì sao? Có thể nói, chúng ta đang tạo ra một chuỗi những phiền toái, lo âu; cái này chưa dứt thì cái kia đã khởi đầu.

Và nếu như, Ngã Thức của chúng ta bị cuốn hút vào trong những hậu quả tác động liên tục như thế thì sự tự ty mặc cảm của chúng ta sẽ bị khích hoạt liên tục. Khi đã được khích hoạt liên tục và biến thành thói quen, thì lúc đó, hình thành cá tính của chúng ta. Và khi đã biến thành cá tính tự ty mặc cảm rồi thì muốn thay đổi lại cũng cực kỳ là khó khăn.

Tệ hại hơn, khi chúng ta đã hình thành cá tính tự ty rồi, và khi chúng ta làm được một việc nhỏ nhoi nào đó, chúng ta lại tự phóng đại và tôn sùng nó lên cao để rồi cá tính tự tôn được hình thành nhằm khỏa lấp đi gốc rễ của sự tự ty.

Khi đã có mặt của tự tôn thì Ngã Thức sẽ vận dụng tối đa Ý Thức để ngụy biện, hay bào chữa cho tính tự tôn này. Và cơ hội để nhìn ra sự thật, hay tiếp cận với sự thật sẽ trở nên cực kỳ khó khăn.

Trong khoa Tâm Lý học, chữa trị cho bịnh tự ty thì dễ gấp trăm lần so với bịnh tự tôn.

Đây lại là một đề tài khác, nếu chúng ta có duyên, chúng ta sẽ quan sát vào chi tiết sâu hơn.

Trở lại vấn đề ở đây, đó là, cách thức mà chúng ta đặt câu hỏi cho vấn đề của mình. Đây chính là Then Chốt, là Tinh Hoa, hay Gốc Rễ của Bốn Bước Giải Quyết vấn đề. Nếu trong phần này, chúng ta không nắm được tinh hoa của Bước thứ Hai này, thì cả Ba Bước kia, cũng sẽ thành vô dụng. Vì sao? Vì chúng ta sẽ không đạt được Kết Quả như chúng ta mong muốn. Điều này, cũng đúng với phương pháp của Tứ Diệu Đế.

Phương pháp Tứ Diệu Đế, hay phương pháp Bốn Bước thì khác với phương pháp của phương Tây, đó là: chú trọng vào câu hỏi Tại Sao? Dĩ nhiên, trong phương pháp ứng dụng của phương Tây, cũng có lúc họ hỏi Tại Sao? Nhưng khi họ hỏi Tại Sao thì họ chỉ hỏi có một lần. Ngược lại, phương pháp của Tứ Diệu Đế, hay Bốn Bước, lại hỏi Tại Sao rất nhiều lần.

Công thức là: Câu hỏi Tại Sao tiếp theo sẽ lấy câu trả lời trước, rồi cộng thêm chữ Tại Sao vào đầu câu. Cách thức này, có thể ứng dụng cho tất cả các câu hỏi Tại Sao, cho đến khi tìm ra nguyên nhân gốc.

Để cho dễ hiểu, chúng ta có thể lấy thí dụ sau đây để minh họa:

  • Tại sao bạn lại thiếu tiền trả tiền nhà tháng này?
  • Vì tôi thấy có một cái ví Gucci đẹp qúa, nên đã dùng tiền, trả tiền nhà để mua ví.
  • Tại sao bạn lại phải mua ví Gucci, trong khi, bạn có thể mua các loại ví rẻ tiền khác, mà bạn không phải dùng đến tiền trả tiền nhà?
  • Bởi vì tôi không muốn bạn bè của tôi coi thường tôi.
  • Tại sao bạn bè của bạn lại coi thường bạn?
  • Bởi vì tôi không giầu có như họ, tôi không đẹp bằng họ, tôi thua thiệt họ đủ điều, nên tôi muốn chứng minh với họ, cái gì họ có, tôi cũng có.
  • Tại sao bạn lại muốn chứng minh với họ, trong khi bạn không giầu có như họ?
  • Vì tôi tự ty mặc cảm.

Qua thí dụ trên, chúng ta thấy, cũng cùng một vấn đề, nhưng cách thức đặt câu hỏi khác nhau thì cho ra kết qủa khác nhau.

Với cách thức đặt câu hỏi của Bước thứ Hai, chúng ta có thể tìm ra được gốc rễ gây ra sự thiếu tiền trả tiền nhà, bắt nguồn từ sự tự ty mặc cảm, chứ không phải bắt đầu bằng việc thích chiếc ví Gucci.

Nếu như, chúng ta không áp dụng phương pháp hỏi Tại Sao nhiều lần, và chỉ một lần; và cho đó chính là nguồn gốc gây ra sự thiếu tiền thì nguồn gốc đó chưa đúng sự thật.

Và nếu như chúng ta lại lầm lẫn, khi cho rằng, vì mua cái ví Gucci là sự thật, và chúng ta đi tìm cách giải quyết, bằng cách thuyết phục bản ngã của chúng ta sẽ không chọn ví Gucci nữa; vì ví đó, gây ra cho chúng ta phiền não, lo âu. Vậy thì, có thể tháng sau, chúng ta cũng sẵn sàng phạm vào cái lỗi thiếu tiền trả tiền nhà tiếp theo.

Vì sao? Vì chúng ta có thể chọn mua cái ví Chanel chẳng hạn. Nguyên do, chúng ta sẽ chọn cái ví Chanel là vì, những người bạn mà chúng ta có cảm giác tự ty đã đổi sang dùng Chanel, thay vì Gucci.

Như vậy, khi chúng ta không tìm ra gốc rễ thực sự của vấn đề, và chỉ đi giải quyết phần ngọn, thì cho dù, Ngã Thức của chúng ta có răn đe, biết lỗi, không muốn tái phạm, hay đặt cho mình những giới hạn, hay kỷ luật hay đến bao nhiêu, thì điều đó cũng trở nên vô dụng. Bởi vì, khi gốc rễ được khích hoạt thì sự nẩy nở của nhánh cành trên ngọn vẫn tiếp tục phát sinh.

Các nhà Thực Vật học kinh nghiệm đều cho rằng, khi càng cắt tỉa những cành nhánh bao nhiêu thì sự tăng trưởng và sinh sôi của cành nhánh đó càng mạnh bấy nhiêu. Tương tự như cách giải quyết vấn đề, Bước thứ Hai. Nếu chúng ta không chấm dứt từ gốc rễ của vấn đề mà chỉ giải quyết bằng cách cắt tỉa phần ngọn, thì vấn đề đó, càng ngày càng trở nên mạnh mẽ hơn, và khó chuyển hóa hơn.

Chính vì vậy, hỏi Tại Sao nhiều lần, giúp cho chúng ta có dịp nhìn sâu hơn, và hiểu chúng ta sâu sắc hơn. Khi chúng ta có thể hiểu chúng ta sâu sắc hơn, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra được sự thật rõ ràng. Vì vậy, chúng ta sẽ ít phạm lỗi hơn, và có nhiều cơ hội làm chủ được chính mình. Cho nên, cuộc sống của chúng ta sống có ý nghĩa và An Lạc hơn.

Nếu như chúng ta đem so sánh cách đặt câu hỏi của Tập Đế (Tại Sao), và cách đặt câu hỏi theo Đạo Đế (Làm Sao) của phương Tây, thì chúng ta thấy, cách giải quyết bằng Làm Sao, luôn sẽ tạo ra những hậu quả kế tiếp, cũng như phát sinh ra những vấn đề kế tiếp, khiến đời sống của chúng ta luôn vây quanh bởi những vấn đề.

Ngược lại, khi chúng ta hỏi Tại Sao, chúng ta có cơ hội tìm ra được gốc rễ của vấn đề., Cho nên khi chúng ta áp dụng phương pháp Bước thứ Ba để tìm giải pháp, chúng ta sẽ chú trọng vào gốc rễ, thay vì phần ngọn.

Khi gốc rễ đã được chúng ta giải quyết thì chúng ta sẽ không còn tái phạm những sai lầm. Hay có thể nói, chúng ta không những giải quyết được vấn đề chúng ta đang có một cách triệt để, mà chúng ta còn có thêm một lợi ích khác, tránh không tạo ra những lỗi lầm tương tự, từ vấn đề chúng ta gặp phải. Nhờ vậy, chúng ta sống sẽ có hạnh phúc, và an lạc hơn.

Thật là một phương pháp qúa tuyệt vời, và cũng vô cùng đơn giản, nếu như chúng ta có sự hiểu biết và biết cách ứng dụng đúng đắn, phải không chú?

Cháu sẽ nghiêm túc nghiên cứu về Bước thứ Hai này. Cháu biết, khi thực hành đúng những điều như chú trình bầy sẽ giúp ích cho bản thân cháu và các bịnh nhân của cháu rất nhiều.

Vậy, còn Bước thứ Ba: Phương Pháp Giải Quyết Vấn Đề sẽ ứng dụng như thế nào, thưa chú? Diệu Hiền hỏi.

Như lúc đầu tôi đã chia xẻ với bạn, nếu trong phương pháp của phương Tây thiếu Bước thứ Hai là Tập Đế, thì trong Bước thứ Ba này, phương pháp của Tứ Diệu Đế lại không đề cập đến phương pháp này.

Bước thứ Ba là bước sẽ sử dụng câu hỏi Làm Sao để có thể giải quyết vấn đề một cách tối ưu nhất.

Nếu bạn để ý chữ tôi dùng, bạn có thấy, tôi nhấn mạnh đến hai chữ “Tối Ưu” không? Theo bạn, tại sao tôi lại dùng thêm hai chữ “Tối Ưu”?

Thưa chú, sở dĩ chú dùng thêm hai chữ Tối Ưu, vì, trong quá trình tìm những con đường hay phương pháp giải quyết thì chúng ta có rất nhiều cách hay nhiều con đường. Và trong những cách hay con đường đó, chúng ta phải sàng lọc để chọn ra những giải pháp tốt nhất cho vấn đề. Cho nên, ý nghĩa của hai chữ Tối Ưu là như vậy, có phải không, thưa chú?

Đúng vậy, bạn rất thông minh. Nhưng ngoài ý nghĩa đó ra, hai chữ Tối Ưu, còn có một ý nghĩa khác, bạn có nhận ra không?

Diệu Hiền im lặng suy nghĩ một lúc, mỉm cười, nói:

Thưa chú, đó chính là cách sắp xếp thứ tự quan trọng của các giải pháp. Bởi vì, nếu không biết sắp xếp thứ tự thì chúng ta sẽ không phân biệt được giải pháp nào là tốt nhất hay thích hợp nhất.

Đúng vậy, đây chính là những vấn đề mà nhiều người trong chúng ta khi ứng dụng Bước thứ Ba, luôn vấp phải trong việc lựa chọn cách giải quyết nào sẽ là tối ưu.

Bạn có biết không? Cái khuyết điểm của một nhân cho ra nhiều quả này, hay, có một vấn đề mà có quá nhiều cách giải quyết, lại khiến cho chúng ta bị rơi vào sự mơ hồ, và hoang mang, vì không biết lựa chọn cách nào.

Hãy lấy thí dụ trước đây làm minh họa:

Khi chúng ta có một vấn đề: thiếu tiền trả tiền nhà, và chúng ta hỏi: Làm Sao để có tiền để trả tiền nhà? Chúng ta cũng đã có ít nhất từ ba đến năm giải pháp khác nhau như:

  • Gọi điện thoại mượn tiền bạn
  • Lấy tiền từ thẻ tín dụng
  • Về nhà xin tiền bố mẹ, anh, chị, em
  • Gọi điện thoại xin khất trả tiền nhà
  • Bán đồ đạc dư dùng v.v.

Vậy làm sao chúng ta có thể biết giải pháp nào sẽ là giải pháp tối ưu hay tốt nhất?

Muốn biết giải pháp nào tối ưu, hay tốt nhất thì chúng ta lại phải Biết ứng dụng một số những quá trình như sau:

Đầu tiên là quá trình So Sánh. Trong quá trình so sánh này, chúng ta sẽ bắt đầu bằng cách, phân chia thành hai phần, gọi là ưu và khuyết điểm của mỗi đáp án, hay giải pháp.

Sau đó, chúng ta sẽ liệt kê ra tất cả các ưu và khuyết điểm của mỗi giải pháp. Hoàn tất việc này xong thì đến tiến trình thứ hai là Phân Tích.

Trong quá trình phân tích này, chúng ta sẽ phải phân tích lợi và hại, hậu quả hay kết quả của từng ưu và khuyết điểm theo nhiều góc độ khác nhau, và liệt kê tất cả các góc độ đó xuống.

Sau khi có đầy đủ những thông tin và dữ liệu từ hai quá trình So Sánh và Phân Tích rồi, chúng ta mới sử dụng đến tiến trình thứ ba, Sắp Xếp Thứ Tự các giải pháp, hay đáp án.

Cách Sắp Xếp Thứ Tự Quan Trọng của các giải pháp hay đáp án như sau:

Giải pháp hay đáp án nào có lợi nhiều nhất, và có hại ít nhất được xếp đứng đầu, và cứ thế tuần tự sắp xếp cho đến hết các giải pháp hay đáp án.

Chính nhờ sự So Sánh, Phân Tích, và Sắp Xếp Thứ Tự Quan Trọng này sẽ giúp chúng ta có thể nắm rõ được từng ưu và khuyết điểm, cũng như lợi và hại, hậu quả hay kết quả trên nhiều góc độ.

Sau đó, qua sự sắp xếp sẽ giúp cho chúng ta biết, phải sử dụng giải pháp nào trước, giải pháp nào sau. Nếu trong qúa trình ứng dụng các giải pháp mà có xẩy ra các sự cố, thì ít nhất, chúng ta cũng biết những hậu quả, hay kết quả nào mà chúng ta sẽ phải đối mặt.

Con người của chúng ta, chỉ phát sinh sự lo âu hay sợ hãi khi chúng ta không biết được kết quả. Nếu như chúng ta đã biết trước, hay lường trước được những hậu quả hay kết quả sẽ phát sinh thì chúng ta sẽ không còn sự lo âu hay sợ hãi nữa. Chúng ta sẽ bình tĩnh hơn, và có thể đưa ra những quyết định sáng suốt hơn để tránh gây ra nhiều lỗi lầm, hay khổ đau trong cuộc sống hiện tại, hoặc sau này.

Thật rất tuyệt vời, rất rõ ràng và đầy đủ mọi chi tiết.

Cháu thiết nghĩ, với “công thức” đơn giản này, nếu ai trong chúng ta cũng sử dụng để giải quyết vấn đề thì cơ hội để giải quyết vấn đề tận gốc rễ không phải chỉ dành cho các chuyên gia, mà ai trong chúng ta cũng có thể làm được.

Vậy thưa chú, còn Bước thứ Tư tại sao lại phải là xác định thời gian?

Này bạn, mục đích của Bước thứ Tư là, giúp cho chúng ta đạt đến cái An nhanh nhất có thể. Nếu chúng ta không có Bước thứ Tư này, chúng ta sẽ không chịu tiến hành đi giải quyết vấn đề. Nếu như chúng ta không tiến hành đi giải quyết vần đề, thì cho dù, chúng ta đã sử dụng đúng cách cả Ba Bước trên, cũng bằng không.

Sự Thật là, khi chúng ta càng cố kéo thời gian giải quyết vấn đề dài bao nhiêu thì chúng ta càng kéo dài sự bất An trong chúng ta nhiều bấy nhiêu.

Thêm vào đó, nếu chúng ta kéo dài qúa lâu thì chúng ta sẽ sinh ra sự do dự, hay lưỡng lự, khi đưa ra quyết định. Khi sự do dự hay lưỡng lự có mặt thì lập tức ảnh hưởng đến niềm tin của chúng ta vào phương pháp. Khi niềm tin vào phương pháp của chúng ta bị lung lay thì chúng ta sẽ lại tiếp tục trì hoãn. Và thế là, sự bất An trong chúng ta lại tăng dần.

Chính vì vậy, Chúng ta cần phải xác định rõ ràng thời gian nào là thích hợp nhất để ứng dụng. Nếu không có sự xác định này thì tất cả những gì chúng ta đã làm trong Ba Bước sẽ không còn giá trị. Và vấn đề của chúng ta sẽ không được giải quyết.

Khi những vấn đề liên tục không được giải quyết, và chồng chất lên nhau thì cuộc đời của chúng ta sẽ chìm trong đau khổ lâu dài.

Cháu xin cảm ơn chú rất nhiều. Nếu không có duyên gặp được chú hôm nay, cháu sẽ vẫn mãi mơ hồ về Tứ Diệu Đế, và cháu cũng không thể nào hiểu được sâu sắc sự tương tác và ứng dụng của ba Thức như thế nào.

Phương pháp Bốn Bước của chú chia xẻ, thật rất chi ly, tỉ mỉ, và vô cùng hợp lý.

Với Phương pháp Bốn Bước này, cháu chắc chắn sẽ giúp ích rất nhiều cho cháu và các bịnh nhân của cháu có thể đạt được kết quả tốt nhất trong việc giải quyết những vấn đề trong cuộc sống một cách triệt để.

Nắng vàng vừa tắt, một vài người với nét mặt đăm chiêu, cúi đầu, bước đi vội vã.

Ba chú cháu nhìn nhau, cùng mỉm cười.

AN RIÊNG VÀ AN CHUNG

album-art

00:00

TẢI MP3 – DIỆU LIÊN
TẢI MP3- VIÊN NGUYỆT

Chàng thanh niên bước đi những bước chân thong thả, trên con đường đến gốc cây nơi ông chú đang ngồi. Khi đến gần chỗ ông chú, chàng lễ phép cúi đầu chào, ngồi xuống, rồi nói:

Chú ơi, chiều qua, chúng ta đã có dịp nói đến An Riêng và An Chung. Vậy chiều nay, chúng ta có thể mở rộng đề tài này để cho cháu có thể học hỏi thêm một số kinh nghiệm được không ạ?

Không thành vấn đề. Vậy chúng ta hãy cùng nhau quan sát nhé.

Này người bạn trẻ, trong quá trình đi từ Bản Ngã tới Bản Thể, phần đông chúng ta đều hay có thói quen thích sử dụng kinh nghiệm của người khác, và lầm tưởng rằng, đó chính là kinh nghiệm của mình. Điều này, cũng giống như chúng ta đang đói bụng, rồi đi tìm những người, họ có kinh nghiệm họ ăn no bụng, rồi họ trình bầy cách thức họ ăn như thế nào, rồi chúng ta tin rằng, chúng ta đã có kinh nghiệm của người no bụng.

Thật ra, kinh nghiệm của người ăn no là kinh nghiệm của bụng no/không đói, chứ không phải là kinh nghiệm người khác chỉ cách ăn no, rồi chúng ta không ăn gì mà có kinh nghiệm no được.

Trên thực tế, khi cơ thể của chúng ta đói, chúng ta phải tự ăn mới có thể giải quyết vấn đề đói của chúng ta một cách triệt để. Ngoài cách này ra, cho dù chúng ta có trích dẫn bao nhiêu kinh nghiệm của người khác, hay còn tệ hơn, đi so sánh cách ăn của người này no hơn cách ăn của người khác, thì trước hay sau gì chúng ta sẽ trở thành ma đói.

Chúng ta sẽ chết vì thiếu thực phẩm. Dù rằng, chúng ta có đầy đủ kiến thức của người biết ăn no, thì sao? Tất cả đều vô dụng.

Tương tự như vậy, người Thể Nghiệm là người phải tự mình đi tới Bản Thể của mình và không hề nương tựa vào bất cứ kinh nghiệm của một ai. Ngày nào, trong suy nghĩ của chúng ta còn dính đến khái niệm của bất cứ một ai, thì lúc đó, chúng ta không còn là chúng ta nữa, mà chúng ta đã trở thành khái niệm của người khác.

Giá trị kinh nghiệm của người khác, không phải để chúng ta noi theo, mà để chúng ta dùng làm kiểm chứng kết qủa cuối cùng mà chúng ta có được khi chúng ta đã tiếp cận được với Bản Thể.

Tiếc thay, chúng ta lại làm ngược lại. Cho nên, trong quá trình đi tới Bản Thể của nhiều người đã và đang gặp vô vàn khó khăn. Rồi khi sự khó khăn chồng chất vì những nhận thức lệch lạc, chúng ta lại tự phong cho những người Thể Nghiệm là: có trí tuệ cao siêu, không thể nghĩ bàn, v.v.

Thật ra, đối với người Thể Nghiệm thì chẳng có gì là cao siêu hay không thể nghĩ bàn cả. Các vị Tổ của Thiền đã chẳng phải nói rất rõ ràng: đói ăn, khát uống, đó sao.

Cách giải quyết rốt ráo khi mình đói là mình phải tự ăn, chứ không phải nhờ người khác ăn dùm, rồi mình no. Hay khi mình khát thì tự mình phải uống, chứ không thể nhờ ai uống dùm mà mình hết khát được.

Cho nên, chúng ta ngày nay, đều vấp phải một số lỗi lầm chung, đó là: thích đi thâu lượm tất cả kinh nghiệm của người khác, rồi cho đó là kinh nghiệm của mình. Chúng ta không biết rằng, đó không phải là kinh nghiệm hay trải nghiệm, mà đó chỉ là mớ kiến thức mà chúng ta học được của người khác, và hoàn toàn không có dính líu chút nào đến kinh nghiệm của chúng ta cả.

Cái nguy hiểm nhất, đó là, chúng ta coi những mớ kiến thức đó là chân lý, đó là sự thật. Trong khi, chúng ta lại hoàn toàn chưa hề có khả năng tiếp xúc được với sự thật. Sự nguy hiểm này còn gia tăng, khi chúng ta bắt đầu dựa dẫm vào mớ kiến thức đó để đi giảng giải cho những người khác, khiến cho họ tin theo một cách mù quáng, mê lầm.

Quá trình đi từ Bản Ngã tới Bản Thể của mỗi một cá nhân đều khác nhau, tùy theo kinh nghiệm mà người đó đã tích lũy. Cho nên, không ai có thể giống ai. Vì vậy, không có sách vở nào có thể viết ra đầy đủ mọi chi tiết được.

Thí dụ: Có hai người, cùng có chung một câu hỏi khi đi tìm tới Bản Thể: Tôi là ai?

Nếu trong qúa trình đi từ Bản Ngã tới Bản thể, một người có kiến thức và kinh nghiệm về Cơ Học Lượng Tử, và một người nghiên cứu về đạo Phật. Tuy họ có cùng chung một câu hỏi đi tìm tới Bản Thể của họ, nhưng qúa trình trải nghiệm của họ lại hoàn toàn khác nhau.

Với người chuyên nghiên cứu về đạo Phật, họ có thể dùng Vô Ngã, Vô Thường v.v. để quan sát. Nhưng với người có kiến thức về Cơ Học Lượng Tử, người đó có thể dùng chính thân thể của họ để quan sát.

Người đó, có thể quan sát từ thân tướng, rồi kết hợp với sự nhìn sâu hơn để có thể nhận thấy, thân thể của họ được cấu tạo bởi các phân tử. Rồi từ phân tử, họ lại tiếp tục quan sát và nhìn sâu hơn để nhận thấy, sự kết hợp của phân tử bắt nguồn từ nguyên tử, v.v.

Như vậy, nếu phải đặt một sự so sánh về qúa trình đi từ Bản Ngã tới Bản thể, người có kinh nghiệm về Cơ Học Lượng Tử sẽ đi nhanh hơn. Vì người này, có thể nhận thấy “tôi chính là những hạt nguyên tử”.

Và nếu họ tiếp tục quan sát và nhìn sâu, người đó sẽ nhận thấy, tất cả các pháp, mọi vật, đều bắt nguồn từ hạt nguyên tử. Từ đó, người đó có thể nhận thấy được sự tương tức, hay bản chất gốc của vạn pháp một cách rõ ràng, không có sự lệch lạc.

Nếu người đó là người Tĩnh Thức thì người đó sẽ dừng lại ở đây và chấp nhận đây là sự thật. Khi người đó chấp nhận và nhận biết đó là sự thật, thì người đó sẽ có được một trạng thái Bình An.

Khi có được Bình An, và từ trạng thái An đó, người đó cũng có thêm một trạng thái khác đi kèm theo, đó là Lạc. Lạc là niềm vui lâng lâng nhẹ nhàng, khác với Hỉ là niềm vui sướng cao độ.

Nhưng nếu người đó là nhà khoa học, thì người đó sẽ không chấp nhận sự khởi nguồn của vật chất là từ hạt nguyên tử, mà người đó sẽ tiếp tục phân tích, nhìn sâu để tìm ra những hạt như proton, neutron, electron, rồi trong những hạt đó, họ lại tìm ra những hạt nhỏ xíu khác như: Quark, Higgs v.v.

Và nếu là Triết Gia thì người đó sẽ không chấp nhận, tất cả mọi vật có trong vũ trụ này đều được cấu tạo từ hạt nguyên tử. Điều mà Triết gia luôn muốn đi tìm đáp án, đó là: Hạt nguyên tử từ đâu sinh ra? Cũng giống như nhà khoa học, họ muốn biết hạt đó từ đâu ra, và từ cái gì tạo ra hạt đó.

Hãy tưởng tượng, giả sử, các Triết gia và Khoa Học gia, biết được các hạt từ đâu sinh ra, thì sao? Với các Triết gia, kết quả cuối cùng mà họ đạt đến, cũng chỉ sự thỏa mãn, An Lạc mà thôi. Còn với các nhà Khoa Học, họ cũng chỉ chế thêm ra được những loại vật chất khác, và cái cuối cùng họ đạt được cũng chỉ là sự thỏa mãn, An Lạc, không có gì khác so với người Tĩnh Thức.

Sự khác biệt giữa người Tĩnh Thức với Triết gia và Khoa Học gia, đó là, với Người Tĩnh Thức, cái họ đi tìm là Sự Thật chứ họ không đi tìm nguồn gốc nguyên thủy tạo ra sự vật.

Trong khi, các Triết gia và Khoa Học gia, vẫn còn luôn đang sống trong những sự suy tư, băn khoăn, bức bối, bực dọc, vì chưa tìm ra đáp án mà họ mong muốn; thì người Tĩnh Thức, họ chấp nhận sự thật là: tất cả mọi vật trên vũ trụ này, đều có chung nguồn từ hạt nguyên tử, chủ thể là nguyên tử Hydrogen, họ dừng lại và đạt được trạng thái An Lạc.

Dĩ nhiên, nếu người Tĩnh Thức muốn tiếp tục nhìn sâu hơn, người đó có thể nhận thấy, từ nguyên tử Hydrogen này, khi kết hợp với khoảng Không Co Giãn giữa các nguyên tử sẽ tạo ra vũ trụ và vật chất. Chính khoảng Không Co hay Giãn này, khi bị tác động sẽ tạo ra năng lượng khác biệt giữa những loại vật chất khác nhau và tạo ra những vật thể khác nhau, trong đó có con người.

Chẳng hạn như, nếu để 2 nguyên tử Hydrogen có một khoảng Không vừa đủ thì chúng ta sẽ có hai hạt sinh hoạt hoàn toàn độc lập. Nhưng nếu chúng ta rút hết khoảng Không của hai nguyên tử ở các chiều thì hai nguyên tử của Hydrogen sẽ trở thành một. Như vậy, nếu không có khoảng Không Co hay Giãn thì không có vũ trụ và vạn vật, kể cả con người.

Nếu nhìn sâu hơn vào con người, chúng ta cũng nhận thấy, nếu không có khoảng Không Co hay Giãn thì chúng ta không thể lớn lên được. Điều này, khi quan sát và nhìn sâu vào tất cả mọi vật trên vũ trụ, chúng ta cũng đều thấy giống nhau.

Đó gọi là Chân Lý. Chân lý là lý lẽ chân thật mà không hề bị thay đổi theo không gian và thời gian.

Chính vì vậy, Chân Lý trở thành Sự Thật. Tiếp xúc được với Sự Thật, và chấp nhận đó là Sự Thật. Đó chính là hành trình đi từ Bản Ngã tới Bản Thể của người Tĩnh Thức, hay người Kiến Ngộ.

Sở dĩ, người Thể Nghiệm đạt được trạng thái An, vì người đó biết chấp nhận Sự Thật qua chính những sự trải nghiệm của mình. Cũng qua quá trình trải nghiệm này, người Thể Nghiệm, mới biết được, lúc xưa, người đó đã sống trong những trạng thái mơ hồ, phân vân, lo âu, phiền muộn. Chính những trạng thái này khiến cho sự An Thường Hằng không xuất hiện.  

Thế cho nên, người đó luôn sống trong trạng thái mất Quân Bình. An chỉ có thể xuất hiện khi Tâm Thức của người đó phải ở trong trạng thái Quân Bình, không xáo trộn, trồi lên sụt xuống.

Chính vì vậy, với những người Thể Nghiệm, họ luôn luôn nói Bình An. Vì Khi có Bình thì mới có An, và khi có An thì mới có Lạc.

Cái An của người Tĩnh Thức, hay người Thể Nghiệm có được, không phải là cái An từ trên trời rơi xuống, hay từ ở một cõi nào ban phát cho. Mà cái An đó, vốn vẫn Thường Hằng trong mỗi con người.

Nhưng vì trong cuộc sống, chúng ta đã có những nhận thức sai lầm. Chúng ta đã có những định nghĩa sai lầm. Cho nên, chúng ta tạo ra những lo âu, phiền não. Khi những lo âu và phiền não qúa nhiều, và chúng ta lại phải bận lòng đi giải quyết chúng. Cho nên, chúng ta đã không nhận diện được cái An đang có trong ta.

Khi người Thể Nghiệm đã tiếp xúc được với Sự Thật. Nhận ra và chấp nhận Sự Thật, thì lúc đó, tất cả những lo âu, phiền não, lầm tưởng, đều tan biến. Khi Tâm Thức không còn lại những phiền não, lo âu, thì lúc đó, sự có mặt của An là chuyện tất nhiên, và sau An là Lạc cũng là điều tất yếu.

Chính vì trạng thái An đó đến từ quá trình trải nghiệm của một cá nhân, mà không hề có sự tham gia của những người, hay vật thể khác. Cho nên, cái An đó, gọi là cái An Tuyệt Đối (không có ai để so sánh), hay còn gọi là An Riêng, có nghĩa là: cái An chỉ Riêng cho người đó.

Thật ra, muốn đạt được cái An Riêng, cũng chẳng khó gì. Muốn đạt được cái An Riêng thì người đó phải hiểu được giá trị của sự cô đơn. Nếu không có cô đơn thì không có một Cá Thể nào có thể tiếp xúc được với Bản Thể của chính họ được.

Nhưng tiếc thay, ngày nay, con người của chúng ta lại rất sợ cô đơn. Vì khi một người cô đơn thì Tiềm Thức của người đó sẽ trồi lên trên mặt của Ý Thức những vấn đề mà họ đã trốn chạy trước đây để đòi một cách giải quyết triệt để. Vì vậy, con người của ngày nay đã “đánh đồng”, hay “định nghĩa” cô đơn là đau khổ.

Họ đau khổ, vì những vấn đề họ chưa giải quyết triệt để, hay họ không muốn giải quyết, hay họ không biết cách giải quyết, luôn chiếm hữu Ý Thức của họ, khiến họ phải suy tư. Chính những sự suy tư đó, khiến cho họ cảm thấy khổ đau, và phiền muộn chồng chất.

Và khi khổ đau và phiền muộn chồng chất, họ đã chọn lựa giải pháp tiêu cực như: tham dự các khóa tu học, bận rộn tham gia các mạng xã hội, để khen chê, lên án hay chỉ trích người này, hay người khác, v.v.

Với mục đích, họ muốn trốn chạy các vấn đề của họ, hay họ khiến cho Ý Thức của họ luôn bận rộn, không có những khoảng trống cho Tiềm Thức của họ có dịp khơi dậy lại những vấn đề mà họ cần phải giải quyết. Hay tệ hại hơn, họ sử dụng rượu, cần sa, ma túy, hay những chất khích thích để “ru ngủ” Ý Thức của họ, để họ không phải đương đầu với các vấn đề của chính họ.

Chính vì vậy, so với ngày xưa thì những người Thể Nghiệm ngày nay càng ngày càng ít đi, và cuộc sống của con người hôm nay, cũng mang đậm dấu ấn của khổ đau và phiền muộn hơn nhiều.

Đúng vậy, đấy chú. Cháu cũng là nạn nhân từ việc sợ hãi cô đơn và luôn trốn chạy việc giải quyết vấn đề.

Qủa thật, khi cháu thay đổi định nghĩa của sự cô đơn, và cháu nhận thức được, sự cô đơn là chất liệu qúy giá trong quá trình tìm tới Bản Thể, cháu đã không còn sợ hãi nữa.

Khi mà cháu không còn sợ hãi và biết sử dụng sự quan sát, phân tích tổng hợp và nhìn sâu vào vấn đề, cháu thấy, cũng không khó như những gì cháu tưởng tượng trước đây.

Đúng như chú nói, khi các vấn đề được giải quyết trọn vẹn thì lúc đó An mới có mặt. Theo cháu nghĩ, ai trong chúng ta cũng đều có khả năng để thể nghiệm việc này cả.

Đúng vậy, ai trong chúng ta cũng đều có khả năng để giải quyết những vấn đề của mình một cách rốt ráo và đạt được cái An cho Riêng mình.

Nhưng vấn đề ở đây, chúng ta có dám đặt ra những câu hỏi, có dám đương đầu với các vấn đề, và quan trọng nhất là, có dám cô đơn không? Nếu chúng ta không có được những điều đó thì chúng ta không thể trải nghiệm.

Khi mà chúng ta không có trải nghiệm thì cho dù chúng ta có tích lũy được bao nhiêu kiến thức từ những người trải nghiệm khác, cũng trở thành vô dụng. Vì sao? Vì đó chỉ là những trải nghiệm của ai đó chứ không phải trải nghiệm của chính mình.

Giờ thì cháu đã hiểu rõ ràng tại sao chú lại dùng hai chữ An Riêng. Vậy thưa chú, còn An Tương Đối, hay An Chung, thì sao?

Như lần trước tôi đã chia xẻ với bạn, có nhiều người trong chúng ta đã có dịp tiếp xúc với Bản Thể, nhưng vì không có kinh nghiệm nên chính chúng ta cũng không biết.

Có nhiều người, lướt qua Bản Thể trong một gia đoạn ngắn. Lúc đó, họ cảm nhận được sự An Lạc. Nhưng sau đó, vì những tác động từ bên ngoài hay vì cuộc sống, họ dần quên đi sự có mặt của An Lạc, và họ lại trở về sống trong sự phiền muộn và khổ đau.

Có những người, vì quá khát khao đi tìm sự thật, và sự khát khao của họ càng lớn bao nhiêu thì sự phiền muộn và khổ đau của họ càng nhiều bấy nhiêu. Điều này, cũng có thể dùng để lý giải nguyên do tại sao những người có khát khao lớn trong cuộc sống của họ luôn gặp những trắc trở, phiền muộn, khổ đau. Bởi vì, lòng khao khát của họ muốn đi tìm Sự Thật, chứ không hề liên quan gì đến trả Nghiệp trong kiếp trước.

Chính vì vậy, khi họ được tiếp xúc được với Sự Thật và chấp nhận Sự Thật, họ cảm nhận được An và họ nhận thức được giá trị của An. Cho nên, họ Trụ trong cái An đó được một khoảng thời gian.

Thời gian dài hay ngắn, phụ thuộc vào sự khát khao của họ trong quá trình đi tới Bản Thể của họ như thế nào.

Có người thì Trụ được khoảng một tháng. Có người có thể kéo dài được 3 tháng. Nhưng ít có ai có thể sống mãi trong cái An đó bất tận.

Vì sao? Vì cái An đó, vốn là Thường Hằng và luôn sẵn có trong mỗi người. Cho nên, dù họ có muốn Trụ lâu hơn, cũng không được. Có ba nguyên do:

  • Sự tác động của tập thể lên cá thể khiến cho cá thể đó, không thể sống trong cái An Riêng đó suốt đời.
  • Họ biết được, cái An mà họ đã nhận ra, vốn đã có sẵn trong họ chứ không phải từ ai ban phát, hay cõi nào ban tặng. Chính vì vậy, họ không cần phải Trụ ở đó cả đời.
  • Họ nhận thức được rất rõ ràng về sự tương tức (cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia không), giữa cá thể và tập thể. Cho nên, họ muốn đem những sự trải nghiệm của chính họ để chia xẻ lại với mọi người.

Chính vì vậy, nên thường, ít ai chịu Trụ lâu trong Cái An Riêng. Thời gian dài nhất chỉ kéo dài khoảng 6 tháng. Sau đó, người Thể Nghiệm sẽ đi từ Bản Thể trở về lại Bản Ngã, và người đó sẽ bắt đầu cuộc sống bình thường với một nhận thức mới.

Trước khi chúng ta quan sát sâu hơn về quá trình ứng dụng An Riêng của Cá Thể vào trong cái An Chung của Tập Thể, có một điều vô cùng quan trọng mà chúng ta cần chú ý đến, đó là: sự khác biệt về thời gian An Trú của mỗi cá thể sẽ ảnh hưởng như thế nào khi ứng dụng cái An Riêng vào An Chung.

Nếu đứng trên góc độ của An Riêng, thì bất cứ người trải nghiệm nào, khi đã tiếp xúc và chấp nhận “Sự Thật Như Nó Đang Là”, thì cái An của người đó, nếu đem so với những cá thể trải nghiệm khác, đều không có sự khác biệt, bất kể thời gian họ An Trú là bao lâu.

Nhưng nếu đứng trên góc độ ứng dụng An Riêng vào An Chung thì thời gian Trụ trong cái An Riêng của mỗi cá thể lại vô cùng quan trọng.

Vì sao? Vì thời gian người đó Trụ trong An Riêng càng lâu bao nhiêu thì người đó càng có nhiều cơ hội để tập thành một thói quen, nhận diện An, hay trở về với An Riêng bất cứ lúc nào họ muốn một cách nhanh chóng và dễ dàng bấy nhiêu.

Nếu không có thói quen này, và chỉ Trụ trong một khoảng thời gian ngắn khi chưa tạo thành một thói quen, Nhận Diện An, thì khi trở về với Bản Ngã, người đó sẽ dễ quên đi cái An mà mình đã trải nghiệm. Và người đó lại sống một cuộc sống như lúc trước khi trải nghiệm. Đó là cuộc sống vây quanh bởi những phiền muộn và khổ đau.

Cho nên, không phải cứ có trải nghiệm là sẽ có An Vĩnh Viễn. Trừ khi, ngay lúc người đó đang Trụ trong cái An Riêng và chết trong cái An đó, thì người đó mới đạt được cái An Riêng Tuyệt Đối Vĩnh Viễn.

Trong thực tế, vốn không có An Vĩnh Viễn, mà chỉ có An Kéo Dài. An được kéo dài bao lâu, lệ thuộc vào sự ứng dụng linh hoạt của người Dụng Nghiệm thực hành liên tục ra sao.

Hay qúa chú ạ. Chưa bao giờ cháu được nghe ai hay đọc bất cứ sách vở nào trình bầy một cách dễ hiểu và rõ ràng như chú chia xẻ.

Phần đông, những sách hay kinh nghiệm chia xẻ của những người Trải Nghiệm ngày nay, chỉ hướng về cách dậy làm sao đi tới Bản Thể. Nhưng khi tới Bản thể rồi, chẳng thấy ai chia xẻ phải làm gì sau đó.

Chẳng hạn như, nếu chú không chia xẻ về sự khác biệt giữa Trụ lâu và mau ra sao, thì với một người mới trải nghiệm như cháu, sẽ không biết thời gian Trụ lâu sẽ được gì, và Trụ mau sẽ ra sao? Cháu xin cám ơn chú rất nhiều.

Xin chú hãy tiếp tục chia xẻ với cháu về sự ứng dụng giữa An Riêng và An Chung.

Như tôi vừa chia xẻ với bạn, nếu đứng trên góc độ của An Riêng thì cái An đó là cái An Tuyệt Đối. Vì cái An đó có được là nhờ người đó đã tiếp xúc được với Sự Thật, hay Bản Thể, và người đó đã chấm dứt những phiền muộn, khổ đau, hay những vấn đề liên quan đến cá nhân đó. Hay nói một cách rõ hơn, ở đó, không có đối tượng cần phải giải quyết. Mà lúc đó, chỉ có chủ thể, chính là cá thể đó mà thôi.

Ngược lại, khi nói về cái An Chung lại bao gồm hai yếu tố: có chủ thể và đối tượng, có cá thể và có tập thể. Cho nên, dù người đó có trải nghiệm, có nhận diện được An, nhưng chưa chắc, đối tượng của người đó có chung nhận thức hay định nghĩa về An giống như người Thể Nghiệm.

Nếu như người Thể Nghiệm không thể thiết lập được cái An Chung thì cách sống của người Thể Nghiệm sẽ gây ra rất nhiều khổ đau cho người khác.

Hoặc giả như, nếu người Thể Nghiệm vẫn tiếp tục đem cái An Tuyệt Đối của mình để ứng xử với mọi người; với cách ứng dụng không chuẩn đó sẽ khiến cho nhiều người tìm cách xa rời người đó.

Nếu người đó không vững chãi duy trì được cái An Riêng, người Thể Nghiệm đó sẽ vì “áp lực” chung quanh mà bỏ cái An Riêng của họ. Hay, họ sẽ rơi vào cảnh, sống cô độc trọn đời nếu họ muốn tiếp tục duy trì được cái An Riêng.

Nguyên nhân chính là, đứng trên góc độ của An Chung, An chỉ là Tương Đối chứ không bao giờ có Tuyệt Đối như An Riêng.

Hãy dùng thuyết Nhân Quả để chúng ta có thể thấy được sự khác biệt như thế nào?

Giả sử, nếu chúng ta đứng trên góc độ đi từ Bản Ngã tới Bản Thể, hễ gieo Nhân nào thì gặt Quả đó. Nhưng nếu chúng ta đứng trên góc độ đi từ Bản Thể về lại Bản Ngã thì gieo Nhân này, chưa chắc đã cho ra Quả kia.

Thí dụ: Ngày nay, người ta có thể dùng gốc từ Nhân Cam mà ghép thành ra Qủa Quýt. Như vậy, nếu chúng ta đang trong qúa trình Thể Nghiệm, chúng ta sẽ không thể chấp nhận việc gieo Nhân này mà ra Quả kia. Vì sao?

Vì trong qúa trình Thể Nghiệm, nếu chúng ta có một nhân là giận mình đã làm sai điều gì đó thì cái Qủa mà chúng ta nhận, đó là: phiền não, và khổ đau cho chính chúng ta. Nhưng trong qúa trình Dụng Nghiệm, vì có chủ thể và đối tượng, nếu chúng ta giận người khác vì họ đi nói xấu chúng ta, thì chỉ có chúng ta đau khổ vì giận, còn người khác chưa chắc họ đau khổ. Có khi họ còn vui là khác.

Hay nói một cách ngắn gọn hơn, dù khởi đầu bằng một cái Nhân, nhưng trong qúa trình tư duy khác nhau thì cái Quả có thể là Hậu Quả hay Kết Quả.

Chẳng hạn như, “Cá không ăn muối, cá ươn”, ở đây, nếu Cá Không Ăn Muối thuộc về Nhân, thì Cá Ươn, thuộc về Quả. Hay đúng hơn, là Hậu Quả. Nhưng với sự tiến bộ ngày nay, người ta có thể dùng máy xấy khô cá, hoàn toàn không dùng đến muối mà cá cũng đâu có ươn.

Như vậy, nếu nhìn theo thuyết Nhân Quả của câu trên, từ một Nhân “Cá Không Ăn Muối” sẽ đưa ra một Hậu Quả là “Cá Ươn”. Nhưng trong qúa trình chế biến ngày nay, “Cá không ăn muối” “Cá vẫn không Ươn”. Hay nói rõ hơn, từ một Nhân “Cá Không Ăn Muối”, Cá vẫn đưa ra một Kết Quả tốt, không bị Ươn, nhờ qúa trình xấy khô cá.

Thế nên, nếu ứng dụng thuyết Nhân Quả trong thực tế, hoàn toàn khác biệt. Và An dùng trong An Chung cũng sẽ khác biệt với cái An Riêng.

Hay nói về Giới, Định, Tuệ theo quan niệm phổ thông thời nay thì Giới luôn là điều phải có trước tiên, vì không có Giới thì không có Định, và không có Định thì không có Tuệ. Điều này, chỉ đúng với những ai muốn đi từ Bản Ngã tới Bản Thể.

Nhưng nếu đi từ Bản Thể về Bản Ngã thì Tuệ lại là lựa chọn mà người Thực Nghiệm phải sử dụng đầu tiên, sau đó, tùy theo môi trường, và hoàn cảnh, mới đến Định, Giới, hay Giới, Định.

Vì sao? Vì người Thể Nghiệm, lúc đó, chưa biết sử dụng Tuệ. Nhưng với người Dụng Nghiệm, họ đã biết sử dụng Tuệ rồi. Cho nên, trong cách ứng xử với người khác, họ sẽ sử dụng Tuệ trước. Vì chỉ có Tuệ mới giúp họ thiết lập được cái An Chung.

Chính vì vậy, có thể nói, vì hai quá trình Đi và Về khác nhau, nên cách ứng dụng từ lý thuyết đến thực hành cũng hoàn toàn khác nhau. Có nhiều môi trường, hoàn cảnh, có thể đối nghịch nhau.

Với những người Thể Nghiệm, khi chưa có đủ kinh nghiệm về Dụng Nghiệm, sẽ trở nên “choáng ngợp” trước cách tạo ra An Chung và An Riêng. Nếu lúc đó, họ không biết sử dụng Tuệ Giác của họ một cách linh hoạt thì họ sẽ rơi vào hai trạng thái:

  • Thấy sự trải nghiệm của họ vô dụng. Họ dần quên An Riêng, và họ trở lại sống quay cuồng trong khổ đau và phiền não.
  • Họ sẽ xa lìa thế gian và con người, quy ẩn về một nơi chốn, không có ai, để sống với cái An Riêng của họ.

Vậy thưa chú, giữa An Chung và An Riêng có những điểm tương đồng, và dị biệt nào, có thể giúp cho chúng ta tránh được những lỗi lầm khi ứng dụng?

Giữa An Chung và An Riêng có ba điểm tương đồng, đó là: Trạng thái An, tiếp xúc với Sự Thật, và Chấp Nhận. Còn những điểm dị biệt thì vô số như: ứng dụng Nhân Quả, thái độ ứng xử, qúa trình tiến hành, diễn đạt định nghĩa, niềm tin khác biệt, tương đối, tuyệt đối,v.v.

Hay có thể nói đơn giản hơn, An Riêng thuộc về thế giới của Nhất Nguyên, còn An Chung thuộc về thế giới của Nhị Nguyên.

Thế giới của Nhất Nguyên là thế giới “qui về một mối”, ĐI từ quan sát, phân tích, nhìn sâu, và VỀ Tổng Thể; còn thế giới của Nhị Nguyên, là thế giới của đối đãi phân nghành, Bắt Đầu từ Tổng Thể, rồi đến sự Quan Sát và Nhìn Sâu qua nhiều góc độ.

Chính vì vậy, trong thế giới Nhị Nguyên, Tuệ Giác luôn được sử dụng liên tục. Vì sao? Vì mỗi hoàn cảnh xẩy ra luôn chịu sự tác động của đối tượng. Cùng một sự việc xẩy ra, nhưng cách ứng xử với mỗi người lại khác nhau, tùy theo niềm tin, kinh nghiệm, môi trường, cách sống, văn hóa vùng miền v.v., của mỗi người khác nhau.

Cho nên, khó có thể nào chỉ dậy hay đặt ra một phương pháp có thể ứng dụng cho tất mọi người; mà ở đây, đòi hỏi mỗi người Dụng Nghiệm phải dùng Tuệ Giác của mình, tùy nghi ứng xử, để thiết lập được cái An Chung cho cả chủ thể và đối tượng, hay giữa cá thể với cá thể, hay giữa cá thể với tập thể.

Đây là một đề tài vô tận, không bao giờ bàn cho hết được. Đó là đứng trên góc độ của “ngọn”. Nhưng nếu đứng trên góc độ của “gốc”, nghĩa là, dựa trên căn bản của nền tảng Nhân Quả, thì An Chung vẫn có thể dựa trên năm nguyên tắc sau đây để thiết lập:

  • Phải nhận diện được cái Nhân trước khi gieo trồng.
  • Khi không muốn cái Qủa xẩy ra, thì nên chấm dứt từ cái Nhân chứ không nên tốn kém thời gian đi sửa chữa lại cái Quả.
  • Thuyết Nhân Quả của An chung là Tương Đối chứ không phải Tuyệt Đối, nên trong An Chung sẽ luôn có hai Quả. Một là Hậu Quả, hai là Kết Quả. Hậu Quả là cái Quả tạo ra Nhân mới, và tiếp tục tạo ra Hậu Quả mới. Kết Qủa là Quả không tạo ra Nhân mới.
  • Mặc dù khi nhận diện được Đúng Nhân trước khi gieo trồng, nhưng trong qúa trình phát triển thành Quả, quá trình này sẽ bị ảnh hưởng bởi môi trường, hoàn cảnh, kinh nghiệm sống, niềm tin của mỗi cá thể, sẽ ảnh hưởng đến sự hình thành Quả. Qủa có thể là Hậu Quả, chứ không phải là Kết Quả, cho dù đã chọn Đúng Nhân.

Thí dụ như, kêu gọi giúp người trong hoạn nạn là một Nhân Đúng, nhưng nếu trong quá trình thu góp và phân phối số tiền cứu trợ, lại không đúng người, đúng việc, đúng thời gian, v.v. thì lại tạo ra Hậu Quả, chứ không phải là Kết Quả.

  • Khi mà đã ra Quả là Hậu Quả, nếu không chọn cách thay Nhân mới, thì Chấp Nhận Hậu Quả sẽ thay đổi Hậu Quả thành Kết Quả.

Nếu như bất cứ một người Thể Nghiệm nào, muốn trở thành người Dụng Nghiệm, đều có thể dựa trên năm nền tảng Nhân Quả trên, kết hợp với Tuệ Giác của người đó, thì người đó sẽ tránh được rất nhiều sự “choáng ngợp” trong qúa trình Dụng Nghiệm. Nếu không, người đó sẽ rơi vào những “bế tắc”, và tệ hại hơn, họ sẽ sống đau khổ hơn, vì họ đã mất đi niềm tin vào cái An của chính họ.

Thế nên, đừng cứ tưởng rằng, khi đã là người Thể Nghiệm thì sẽ không còn đau khổ nữa, hay chỉ cần tu để “đạt đạo” một lần là sẽ không bao giờ khổ đau. Đây là một quan niệm hết sức lệch lạc cần phải chỉnh.

Sự Thật đã chứng minh, đức Phật và các bậc Thiền Tổ, sau khi Thể Nghiệm và bắt đầu quá trình Dụng Nghiệm với con người, các Ngài vẫn phải tiếp tục tu tập cách ứng dụng giữa An Riêng, và thiết lập An Chung. Tăng đoàn của đức Phật là một minh chứng cho việc ứng dụng An Riêng và An Chung khác biệt như thế nào.

Thật tuyệt vời qúa chú ạ. Nếu không có sự chia xẻ của chú chiều nay thì cháu không thể nào hiểu được thế nào là An Chung và An Riêng. Cũng như, cháu cũng sẽ không hiểu được, sự khác biệt trong ứng dụng giữa An Chung và An Riêng như thế nào.

Giờ thì cháu đã hiểu, tại sao có những người Thể Nghiệm lại hay tạo ra mâu thuẫn khi hướng dẫn cho những người khác.

Vì họ đã không phân biệt được sự khác nhau trong ứng dụng giữa An Chung và An Riêng.

Có những câu hỏi được đặt ra để tìm cái An Chung thì diễn giả lại hướng dẫn đi tìm cái An Riêng. Có những câu hỏi được đặt ra để tìm cái An Riêng thì diễn giả lại hướng dẫn cách tạo ra An Chung.

Cuối cùng, người hỏi vẫn không biết làm cách nào để giải quyết vấn đề của mình một cách rốt ráo. Và diễn giả cũng đang “mơ hồ” với chính mình.

Cháu thấy cái nguy hiểm ở đây là, khi một diễn giả muốn hướng dẫn cho một ai đó, thì người đó phải chắc chắn biết đúng sự thật bằng sự trải nghiệm của chính người đó. Nếu như chưa tỏ rõ thì không nên chia xẻ, và hướng dẫn. Vì nếu không sẽ tạo ra những kiến chấp cho những người đã tin tưởng vào diễn giả.

Khi niềm tin vào một điều gì đó đã hình thành, nếu niềm tin đó không đúng với sự thật, thì diễn giả đó, đang làm hại cho những người họ đang hướng dẫn, biết bao nhiêu.

Cháu chính là nạn nhân của các diễn giả trong biết bao năm trời. May chiều nay được chú chia xẻ cháu mới có thể hiểu rõ được ngọn nghành.

Cháu cám ơn chú rất nhiều.

Không có chi. Mỗi người chúng ta, ai cũng có những thuận duyên và nghịch duyên. Có đôi khi, thuận duyên chưa chắc đã tốt, hay nghịch duyên đã xấu. Mà đôi khi, ngược lại. Đó chính là sự mầu nhiệm của cuộc đời. Quan trọng nhất là, chúng ta có Chấp Nhận hay không mà thôi.

Khi có mặt của sự Chấp Nhận thì thuận hay nghịch duyên đều không còn tồn tại, mà chỉ còn lại là Duyên. Cũng tương tự như An Riêng hay Chung, khi có mặt của sự Chấp Nhận thì dù An Riêng hay Chung, cũng chỉ còn lại là An.

Nếu mỗi người chúng ta chỉ cần đặt mục đích của chúng ta là An Lạc, và khi chúng ta có bất cứ vấn đề nào xẩy ra với chúng ta, nếu những vấn đề đó có ảnh hưởng, hay làm thay đổi mục đích An Lạc của chúng ta, thì chúng ta đừng trốn chạy, và phải tìm cách giải quyết vấn đề đó, bằng cách: dùng Tuệ Giác, dùng khả năng quan sát, phân tích, tổng hợp, nhìn sâu để tìm ra nguyên nhân tạo ra vấn đề đó.

Sau đó, chúng ta chấm dứt cái Nhân đó, thì chúng ta không tạo ra những hậu quả liên tiếp sẽ xẩy ra trong cuộc đời của chúng ta. Từ đó, chúng ta sẽ có sự An Lạc Kéo Dài từ ngày này sang ngày khác, từ năm này sang năm khác, cho đến khi mãn phần.

Nếu ai trong chúng ta cũng có thể làm được như vậy, chúng ta chẳng cần phải phân biệt An Chung và An Riêng, cách ứng xử thế nào cho thích hợp. Vì An nào thì cũng là An.

Đúng vậy, thưa chú. Sự thật thì vô cùng đơn giản. Sự thật chỉ trở nên phức tạp và mơ hồ khi kết hợp với những nhận thức lệch lạc và sự hoang tưởng của con người.

Mặt trời đã khuất núi, trong công viên, những ngọn đèn đã tỏ. Những tiếng cười nắc nẻ của những đứa trẻ đang vui đùa bên bố mẹ, vọng về. Chàng thanh niên và ông chú ngồi yên, thưởng thức cái An Chung và An Riêng của chính mình.

10 BỨC TRANH CHĂN TRÂU

album-art

00:00

TẢI MP3 – TRẦN THIỆN TÍCH
TẢI MP3- BÍCH HÀ
TẢI MP3 – VIÊN NGUYỆT

Ngày hôm sau, chàng thanh niên trở lại hội trường để tìm ông chú với một tâm trạng háo hức. Ông không còn ngồi ở đó, khiến chàng hơi hụt hẫng. Đối diện với hội trường là một công viên có nhiều người đang sinh hoạt. Thay vì, quyết định quay về, chàng thanh niên lại đổi ý, rảo bước hướng về công viên.

Chàng bước đi mà trong đầu vẫn đang miên man suy nghĩ về 10 Bức Tranh Chăn Trâu.

Tiếng cười lớn của 2 đứa bé đi bên cạnh làm chàng giật mình, thoát ra khỏi sự miên man trong suy nghĩ. Ánh mắt chàng hướng về phía trước, và bắt gặp hình ảnh ông chú đang ngồi. Chàng vui vẻ, bước về hướng ông, lễ phép chào, rồi ngồi xuống.

Ông chú hướng ánh mắt về chàng trai trẻ, mỉm cười, nói:

Chào anh bạn trẻ, chiều nay nhìn bạn tươi tắn hơn nhỉ.

Dạ cám ơn chú. Thưa chú, chiều nay, cháu có một số vấn đề muốn xin chú chia xẻ, không biết cháu có làm phiền chú không?

Không đâu, bạn muốn tôi chia xẻ về vấn đề gì? Ông chú nói.

Chàng thanh niên liền móc trong cặp ra một xấp giấy và trao cho ông chú, trong đó, có 10 bức tranh chăn Trâu của Thiền Tông, rồi nói:

Thưa chú, bàn về Thiền Tông thì 10 bức tranh Chăn Trâu được ví như một la bàn, giúp cho người thực tập có thể nương theo đó để tìm đến đích mà không bị lạc hướng. Cho đến nay, đã có muôn ngàn lời giải thích về ý nghĩa của 10 bức tranh này, và mỗi người, mỗi ý. Vậy đâu là ý nghĩa thật sự của 10 bức tranh Chăn Trâu, chú có thể giải thích cho cháu không?

Này anh bạn trẻ, trước khi chúng ta đi tìm ý nghĩa thật sự về 10 bức tranh Chăn Trâu, tôi có thể hỏi bạn một câu được không?

Xin chú cứ hỏi.

Tại sao lại Chăn Trâu mà không phải Chăn Bò, hay Chăn Ngựa?

Ừ nhỉ, tại sao lại Chăn Trâu mà lại Không Chăn những con khác?

Chàng thanh niên nhắm mắt, im lặng… ông chú cũng ngồi yên, không nói tiếng nào.

Một lúc sau, chàng thanh niên mở mắt, ánh mắt sáng rực, rồi nói:

Thưa chú, thời xưa, con người ta sống được là nhờ lúa gạo. Muốn làm ra lúa gạo, người ta cần phải cày bừa để gieo hạt. Trong qúa trình cày bừa, đòi hỏi phải mất rất nhiều công sức. Để giải quyết vấn đề công sức này, người nông dân đã biết sử dụng con Trâu là con vật mạnh nhất nếu đem so với tất cả các loại gia súc khác.

Chính vì vậy, thời xưa, con Trâu được xem như một báu vật đối với nhà nông. Đó là đứng trên góc độ về giá trị vật chất. Nhưng, nếu đứng trên góc độ về tinh thần, rõ ràng, sự đóng góp công sức của con Trâu đã đem đến sự No Ấm, An Vui, cho con người. Cho nên, các vị Thiền Tổ đã dùng hình ảnh con Trâu để biểu tượng cho sự An Lạc mà không dùng những con khác.

Này bạn trẻ, bạn nói hay lắm. Khả năng quan sát, phân tích, nhìn sâu, của bạn, thật tinh tế. Này bạn, hãy dùng sự quan sát, phân tích, và nhìn sâu của bạn để diễn giải ý nghĩa về 10 bước tranh này đi.

Nói xong, ông chú liền đưa xấp giấy lại cho chàng thanh niên. Cầm lại xấp giấy, chàng thanh niên bắt đầu quan sát, rồi nói:

Bức tranh thứ Nhất, Tìm Trâu: Ý nghĩa của bức tranh này, diễn tả một sự quyết định đi tìm lại một cái gì đó. Ở đây, diễn tả qúa trình của một người đã đánh mất đi sự An Lạc (Trâu) của mình, và quyết định muốn đi tìm lại sự An Lạc đó. Yếu tố quan trọng nhất trong bức tranh này, đó là, sự xác Định (tìm). Nếu không có sự xác Định này thì sẽ không có những bức tranh kế tiếp.

Bức tranh thứ Hai, Thấy Dấu: Ý nghĩa của bức tranh này, diễn tả những điều kiện cần phải có (Dấu), và sự chấp nhận để đạt (Thấy) được sự An Lạc.

Bức tranh thứ Ba, Thấy Trâu: Ý nghĩa của bức tranh này, diễn tả người đi tìm sự An Lạc đã tìm ra được nguyên nhân tạo ra sự mất An Lạc của mình và tìm ra giải pháp để giải quyết sự mất An Lạc của mình.

Bức tranh thứ Tư, Được Trâu: Ý nghĩa của bức tranh này, diễn tả trạng thái của người đó cảm nhận được sự An Lạc thật sự, hay là Chân An Lạc.

Thưa chú, cháu chỉ có thể giải được đến bức tranh thứ Tư thôi, còn những bức tranh kế tiếp, cháu chịu, không thể nào giải được.

Ông Chú nhận lại xấp giấy từ chàng thanh niên, mỉm cười, rồi nói:

Này anh bạn trẻ, khả năng quan sát, phân tích và nhìn sâu của bạn thật tuyệt vời.

Này bạn, nếu 3 bức tranh này, dùng để diễn tả qúa trình của một người đi tìm Bản Thể của chính người đó, thì bức thứ Tư, diễn tả về kết quả mà người đó đạt được sau khi tiếp xúc được với Bản Thể của chính họ, hay có thể rút gọn thành, Bản Cá Thể (dáng gốc của cá nhân). Khi người đó đã nhận diện được Bản Cá Thể rồi, người đó cũng có cơ hội để nhận ra được Bản Thể của Vạn Pháp.

Vì vậy, để gọi tên cho cả qúa trình của 4 bức tranh này, trong Thiền học, gọi là Kiến Ngộ (Kiến = sự gặp gỡ, Ngộ = sự hiểu biết thông suốt, không còn vướng mắc.)

4 bức tranh này, nếu tóm gọn lại, chính là la bàn cho qúa trình Kiến Ngộ.

Từ bức tranh thứ Năm cho đến bức tranh thứ Mười, dùng để diễn tả về quá trình đi từ Bản Thể Trở Về Bản Ngã. Qúa trình này, trong Thiền học gọi là Thực Ngộ (thực hành sự hiểu biết thông suốt, không vướng mắc), hay Dụng Ngộ (ứng dụng sự hiểu biết thông suốt, không vướng mắc).

Bởi vì, hai quá trình ĐI (Kiến Ngộ), và VỀ (Thực Ngộ), hoàn toàn khác nhau, nên sự ứng dụng cũng khác nhau. Tiếc rằng, vì nhiều người trong chúng ta thiếu sự trải nghiệm xuyên suốt, nên tưởng rằng, hai qúa trình này là một. Từ đó, gây ra sự lầm lẫn trong cách ứng dụng.

Nếu chúng ta chịu quan sát sâu hơn, chúng ta sẽ nhận thấy: Bốn bức tranh đầu tiên, diễn tả về qúa trình đi tìm An Lạc và đạt đến sự An Lạc. Nhưng từ bức tranh thứ Năm đến bức tranh thứ Mười, lại diễn tả về cách ứng dụng của sự An Lạc trong đời sống hằng ngày.

Nào, chúng ta hãy cùng bắt đầu sự quan sát bức tranh thứ Năm.

Bức tranh thứ Năm, Chăn Trâu: Chăn có nghĩa là nuôi dưỡng. Vì vậy, ý nghĩa của bức tranh này là nuôi dưỡng (Chăn) sự An LạcTuyệt Đối, hay gọi là An Riêng.

Chú ơi, Tại sao đã có An Lạc Tuyệt Đối hay An Riêng rồi, mà lại còn cần phải nuôi dưỡng?

Thực tế, trên đời này, có rất nhiều người đã có những trải nghiệm qua qúa trình  Kiến Ngộ. Có người, họ cũng không biết đó là Kiến Ngộ. Có người, họ An Trú (Chăn) trong đó vài ngày, rồi lại trở về Bản Ngã của họ và họ sống giống như xưa. Có người, họ có thể An Trú (Chăn) lâu hơn khoảng vài ba tháng. Chính nhờ sự An Trú lâu hơn này, họ có được cơ hội Nhận Ra được Bản Thể của Vạn Pháp.

Sở dĩ, thời gian An Trú của mỗi người khác nhau, tùy thuộc vào sự khao khát đi tìm Bản Thể lúc ban đầu của mỗi người khác nhau như thế nào. Người nào, càng khao khát mãnh liệt bao nhiêu, họ càng qúy trọng và gìn giữ sự An Lạc bấy nhiêu. Cho nên, họ có thể kéo dài thời gian An Trú.

Sự thật, sự An Lạc vốn Thường Hằng và luôn Có Mặt. Nhưng vì, những nhận thức sai lầm, khiến cho chúng ta không nhận ra sự Thường Hằng đó.

Chính vì vậy, không có người Kiến Ngộ nào có thể An Trú trường tồn trong trạng thái An Lạc đó. Vì sao? Vì sự An Lạc vốn đã có sẵn. Chỉ vì nhận thức sai lầm nên người đó không nhận ra. Khi người đó đã nhận ra rồi, thì người đó, trước hay sau gì cũng phải từ Bản Thể về lại Bản Ngã.

Thời gian lưu lại lâu trong Bản Thể, gọi là quá trình kéo dài thời gian An Trú, hay còn gọi là quá trình nuôi dưỡng, hay gọi là quá trình CHĂN.

Nhờ có quá trình Chăn này, người đó mới tạo thành một thói quen, nhận dạng được sự An Lạc. Chính thói quen này, giúp cho người đó, khi trở về sinh hoạt trong đời thường, dùng thói quen đó để ứng xử.

Thói quen này, giống như mỏ neo vậy, giúp cho người đó, dù có bị sóng gió bao nhiêu trong cuộc sống cũng không bị trôi dạt mất hướng. Cho nên, tại sao trong 10 bức tranh thì bức thứ Năm, được chọn làm đại diện cho tổng thể của 10 bức tranh là vậy.

Bức tranh thứ Sáu, Cỡi Trâu Về Nhà: Nếu bức Tranh thứ Năm là biểu hiện của qúa trình khởi đầu cho sự chuẩn bị Về Lại Bản Ngã, thì ý nghĩa của Bức tranh thứ Sáu dùng để diễn tả qúa trình đem sự cảm nhận về sự An Lạc Tuyệt Đối, hay An Riêng, từ Bản Thể về lại Bản Ngã để ứng dụng trong đời sống hằng ngày.

Chú ơi, chú có thể dừng lại một chút để giải thích An Lạc Tuyệt Đối, hay An Riêng là gì hay không, chú?

Này anh bạn trẻ, khi một người nào đó, đạt được trạng thái An Lạc cho chính họ, ngoài họ ra, không có ai khác, thì sự An Lạc đó có phải là Tuyệt Đối (một mình không có ai để so sánh) không?

Dĩ nhiên rồi. Cho nên, khi chúng ta nhập chung vào thì thành sự An Lạc Tuyệt Đối. Còn An Riêng cũng là sự An Lạc Tuyệt Đối, nhưng rút gọn hơn. Chính nhờ sự rút gọn này sẽ giúp cho người Dụng Nghiệm dễ dàng ứng dụng giữa cá thể với tập thể, và tránh gây ra sự hiểu lầm.

Trong ứng dụng của bức tranh thứ Sáu: Cỡi Trâu Về Nhà, chúng ta sẽ có thêm những tên gọi mới như: An Lạc Tương Đối và An Chung.

An Riêng hay An Chung sẽ là một chủ đề dài, nếu anh bạn trẻ muốn hiểu sâu sắc về chủ đề này, chúng ta sẽ có một buổi quan sát khác.

Trở lại bức tranh thứ Bẩy, Quên Trâu Còn Người: Nếu bức tranh thứ Năm, diễn tả về qúa trình nuôi dưỡng sự An Lạc Tuyệt Đối, và trong qúa trình nuôi dưỡng đó, thì người đó cũng tạo thành một thói quen về sự An Lạc Tuyệt Đối.

Khi một điều gì đó biến thành một thói quen thì sự vận hành của thói quen đó không cần sự có mặt của Ý Thức. Vì vậy, nên gọi là Quên Trâu.

Quên Trâu ở đây, không nên hiểu là quên đi sự An Lạc, mà nên hiểu là, thói quen An Lạc Tuyệt Đối được vận hành một cách tự nhiên, không cần sự có mặt (Quên) của Ý Thức. Còn 2 chữ: Còn Người; nhấn mạnh đến cách ứng xử giữa cá thể, có thói quen An Riêng, đối với người khác.

Chưa chắc thói quen An Riêng cho cá thể này đã thích hợp khi ứng dụng cho cả tập thể kia. Vì vậy, mới có thêm hai chữ, Còn Người, có nghĩa là, còn cái An của người khác nữa.

Ngắn ngọn hơn, ý nghĩa của bức tranh thứ Bẩy, diễn tả về cách ứng xử của một cá thể có thói quen An Riêng Tuyệt Đối đi tìm cái An Chung Tương Đối (Cái An mà cá nhân đó có thể đem ra ứng xử để tạo ra cái An cùng người khác).

Bức tranh thứ Tám, Người Trâu Đều Quên: Ý nghĩa của bức tranh thứ Tám này, diễn tả qúa trình tìm ra An Chung Tương Đối, rồi biến cách hành xử An Chung Tương đối thành thói quen trong cách ứng xử giữa cá thể với tập thể. Khi An Chung Tương Đối biến thành thói quen rồi thì qúa trình này được gọi là: Người Trâu Đều Quên. Vì lúc đó, An Riêng hay An Chung, cũng chỉ là An.

Bức tranh thứ Chín, Trở Về Nguồn Cội: Ý nghĩa của bức tranh thứ Chín này, diễn tả quá trình thực hành cái An Chung của cá thể trong tập thể. Nếu trong qúa trình thực hành cái An Chung này, cá thể không thể thiết lập được cái An Chung cho tập thể, thì cá thể này vẫn có thể sống chung với tập thể mà vẫn không hề bị ảnh hưởng bởi tập thể, nhờ sự trở về với cái An Riêng Tuyệt Đối của mình. Cho nên, gọi là Trở Về Nguồn Cội.

Bức tranh thứ Mười, Thõng Tay Vào Chợ: Ý nghĩa của bức tranh thứ Mười này, cũng diễn tả quá trình thực hành cái An Chung của cá thể trong tập thể. Nếu trong qúa trình thực hành cái An Chung này, cá thể có thể thiết lập được cái An Chung cho tập thể, thì cá thể này sẽ tiếp tục sống chung với tập thể và vẫn tiếp tục dùng Cái An Chung Tương Đối này. Cho nên, mới gọi là: Thõng Tay Vào Chợ.

Thì ra, ý nghĩa 10 bức tranh Chăn Trâu lại sâu sắc đến như vậy.

Ngày xưa, khi cháu nghe giảng giải về 10 bức tranh Chăn Trâu, hầu như, diễn giả nào cũng chỉ nhấn mạnh đến, đó là, qúa trình đi tìm lại Tâm. Bắt đầu từ bức thứ Nhất đến bức thứ Chín, và bức thứ Mười là đại diện cho vào đời hành đạo sau khi đắc đạo.

Lúc đó, cháu cứ thắc mắc, nếu 10 bức tranh Chăn Trâu, diễn đạt về qúa trình của sự thực chứng, thì bức tranh Trở Về Nguồn Cội mới là bức tranh phải đặt tên cho toàn bộ tác phẩm. Nhưng tại sao lại chọn bức thứ Năm là Chăn Trâu thì cháu thật không thể nào nghĩ ra.

Nhưng bây giờ, cháu đã hiểu, tại sao bức tranh thứ Năm Chăn Trâu lại quan trọng như vậy. Cho nên, chọn 2 chữ Chăn Trâu cho toàn bộ 10 bức tranh thật là tuyệt vời.

Một cơn gió mát thoảng qua, giữa buổi chiều oi bức, hai chú cháu cùng ngồi im lặng thưởng thức cơn gió vô tình.

NGƯỜI TĨNH THỨC VÀ NGƯỜI TỈNH THỨC

album-art

00:00

TẢI MP3 – PHẠM PHÚ THỊNH     
TẢI MP3 – NGỌC YẾN – VIÊN NGUYỆT

Trong hội trường, diễn giả đang thao thao bất tuyệt chia xẻ những kiến thức cao siêu về người Tĩnh Thức. Những tiếng vỗ tay của khán thính giả vang lên không đều, lúc to lúc nhỏ.

Một chàng thanh niên lầm lũi bước ra khỏi hội trường. Trên con đường đi về, chàng thanh niên nhìn thấy một người đàn ông ăn xin đang ngồi trên bãi cỏ phía trước mặt. Chàng thanh niên bước đến chỗ ông ngồi, rồi đứng lại. Chàng móc trong túi ra một số tiền, cúi xuống, bỏ vào chiếc nón trước mặt người đàn ông. Mắt ông vẫn hướng về những đóa hoa dại mọc bên kia đường. Khi chàng thanh niên chuẩn bị bước đi, ông lên tiếng:

Này anh bạn trẻ, sao trong hội trường mọi người đang hào hứng để học trở thành người Tĩnh Thức, riêng anh lại ra về sớm thế?

Chàng thanh niên đáp:

Thưa chú, vì nể lời mời của người bạn nên cháu mới đến đây. Nhưng trong không gian đó cháu luôn cảm thấy cháu vô cùng cô đơn. Cháu thiết nghĩ, phương pháp mà diễn giả trình bầy có lẽ không thích hợp với cháu, nên cháu quyết định ra về.

Người đàn ông nở nụ cười thân thiện, nói:

Chúc mừng Bạn! Người Tĩnh Thức Tương Lai.

Chú nói sao, cháu là Người Tĩnh Thức Tương Lai? Làm Sao Chú Biết?

Này người bạn trẻ, trước khi tôi trả lời bạn làm sao tôi biết bạn là người Tĩnh Thức Tương Lai, có một vấn đề, mà tôi nghĩ, chúng ta cần phải thống nhất với nhau.

Này bạn, bạn có đồng ý với tôi: mỗi định nghĩa khác nhau sẽ dẫn đến suy nghĩ khác nhau; và những suy nghĩ khác nhau sẽ tạo ra cảm giác khác nhau. Khi cảm giác khác nhau sẽ dẫn đến hành động khác nhau; và khi hành động khác nhau sẽ tạo ra cái kết qủa khác nhau không?

Đó là sự thật hiển nhiên rồi chú, đâu cần phải bàn cãi.

Vậy, nếu như bạn sử dụng lầm lẫn giữa định nghĩa này sang một định nghĩa khác, bạn có ra kết qủa như bạn muốn không?

Không bao giờ.

Vậy theo như bạn, định nghĩa của Tĩnh Thức là gì? và Tỉnh Thức là gì?

Theo như những sách và tài liệu mà cháu đọc được, Tĩnh Thức là Ý Thức Yên Tĩnh, và Tỉnh thức là cái Thức Tỉnh dậy, không còn mê mờ.

Vậy, đó là những định nghĩa của “người ta” hay đó cũng là định nghĩa của bạn?

Thú thật, bản thân cháu vẫn chưa biết chính xác định nghĩa về 4 chữ đó, cho nên, cháu mới tạm  mượn định nghĩa của người khác để diễn giải. Nhưng cháu vẫn cảm thấy chưa chuẩn lắm, và cần chỉnh lại, nhưng cháu chưa biết chỉnh như thế nào?

Này anh bạn trẻ, 4 chữ Tĩnh Thức và Tỉnh Thức đều là chữ Hán Việt: Tĩnh nghĩa là Lắng Xuống, Lặng Xuống; Thức là Nhận Ra, hay Biết Ra; còn Tỉnh là Xem Xét, Kiểm Điểm Chính Mình, và Thức cũng là Nhận Ra, hay Biết Ra.

Hay diễn rộng ra, Người Tĩnh Thức là người, trong hành trình trải nghiệm đi từ Bản Ngã đến Bản Thể, có khả năng làm Lắng Đọng những sự lao xao, xáo trộn, mơ hồ trong suy nghĩ của người đó. Và khi những sự suy nghĩ này lắng đọng xuống, người đó nhận ra được Bản Thể của chính mình. Khi đã nhận diện được Bản Thể của chính mình, người đó sẽ cảm nhận được một trạng thái gọi là: sự An Lạc Tuyệt Đối, hay còn gọi là An Riêng.

Còn người Tỉnh Thức, là tên gọi, để diễn tả về một người trong hành trình trải nghiệm đi từ Bản Thể Về Lại Bản Ngã. Trong qúa trình này, vì người đó đã nhận ra được Bản Thể của mình rồi, và bắt đầu quay trở về để sống với tập thể cộng đồng. Cho nên, người đó phải Suy Xét, Kiểm Điểm Chính Mình và phải biết hành xử như thế nào để đạt được cái An Chung.

Hay có thể nói ngắn gọn, người Tĩnh Thức là người đi từ Bản Ngã Đến Bản Thể có khả năng làm lắng đọng những sự xáo trộn trong tư duy, và đạt đến trạng thái An Riêng Tuyệt Đối. Còn người Tỉnh Thức là người đi từ Bản Thể Về Lại Bản Ngã. Trong hành trình ĐI VỀ này, người Tỉnh Thức luôn suy xét, kiểm điểm chính mình, và phải biết hành xử ra sao để đem đến trạng thái An Chung Tương Đối.

Bởi vì, hành trình có khác nhau, nên cách ứng xử trong hai hành trình cũng khác nhau. Nếu trong định nghĩa, chúng ta diễn dịch không chuẩn, hay lệch lạc, thì đó cũng là nguyên nhân gây ra nhận thức sai lầm đưa đến cách ứng xử lệch lạc và tạo ra khổ đau. Đây chính là hậu quả mà chúng ta nhận lãnh từ những nhận thức sai lầm này.

Này người bạn trẻ, Cô Đơn là bước khởi đầu của một người đi từ Bản Ngã tới Bản Thể, nên tên gọi là Tĩnh Thức (sự nhận ra, biết ra, nhờ sự lắng đọng những suy nghĩ lao xao, xáo trộn). Còn Cô Đơn trong Tỉnh Thức lại là sự lựa chọn, chứ không phải là bước khởi đầu.

Thí dụ: người Tỉnh Thức có thể lựa chọn sống một mình (cô đơn) hay sống chung với mọi người, mà vẫn sống trong sự An Lạc. Ngược lại, đối với người Tĩnh Thức thì cô đơn lại là phương tiện để thể nghiệm về sự An Lạc.

Ồ, thì ra sự khác biệt giữa 2 định nghĩa và kết quả của hai cặp chữ này khác nhau một trời một vực, chú nhỉ. Cháu chưa đọc bất cứ tài liệu hay sách vở nào phân tích bốn chữ Tĩnh Thức và Tỉnh Thức rõ ràng như chú cả.

Nhưng chú ơi, chữ Tĩnh và Tỉnh có nhiều vùng miền khi nói ra có thể giống nhau. Từ đó, có thể gây ra những sự hiểu lầm. Vậy có cách nào để tránh gây ra sự nhầm lẫn này không?

Này anh bạn trẻ, thay vì gọi là người Tĩnh Thức, chúng ta có thể thay thế bằng: người Thể Nghiệm. Có nghĩa là, người trải nghiệm qua quá trình tiếp xúc với Bản Thể; và Người Tỉnh Thức là người Dụng Nghiệm, nghĩa là, người đem những kinh nghiệm đã tiếp xúc với Bản Thể để ứng dụng trong đời sống hàng ngày. Như vậy, chúng ta có thể tránh gây ra sự hiểu lầm trong ứng dụng.

Hay quá chú ơi! Rõ ràng, khi gọi tên là Thể Nghiệm và Dụng Nghiệm, thì rất dễ dàng để phân biệt mình đang ở đâu, và trạng thái mình cảm nhận được sẽ là gì. Rất khác với tên là Tĩnh Thức và Tỉnh Thức. Qủa thật, sẽ tránh gây ra sự hiểu lầm, chú ạ.

Thưa chú, trước khi nói chuyện với chú, cháu rất mơ hồ về định nghĩa của bốn chữ Tĩnh Thức và Tỉnh Thức; cho nên, cháu luôn rơi vào trạng thái ứng dụng lẫn lộn giữa Tĩnh Thức và Tỉnh Thức. Nhưng bây giờ, khi thay thế bốn chữ đó bằng: Thể Nghiệm và Dụng Nghiệm, cháu đã phân biệt được rất rõ ràng. Rất cảm ơn chú.

Thưa chú, lúc nẫy cháu có hỏi chú, làm sao chú biết cháu là người Tĩnh Thức. Nhưng bây giờ, cháu đã hiểu chú dựa trên tiêu chuẩn nào để chú biết. Nhưng cháu vẫn còn một chút thắc mắc, làm sao chú có thể biết cháu đang cô đơn trong dạng nào?

Trước khi tôi trả lời bạn, bạn có thể trả lời tôi một số câu hỏi không?

Vâng, xin chú cứ hỏi.

Này người bạn trẻ, khi bạn có một quyết định lớn, và quyết định lớn này có thể ảnh hưởng tới cả cuộc đời của bạn, bạn cần phải suy nghĩ chín chắn thì bạn làm sao?

Dạ, cháu sẽ tìm một nơi vắng vẻ, không có ai làm phiền tới cháu, rồi cháu sẽ suy nghĩ, tính toán xem, những quyết định nào sẽ đem đến cái lợi nhất cho cháu thì cháu sẽ chọn.

Bạn trả lời hay lắm. Vậy có ai dậy bạn, khi bạn có vấn đề thì đi tìm một chỗ vắng vẻ, không có người, để suy nghĩ và tìm ra giải pháp không?

Không, chẳng ai dậy cả, mà cháu thấy, hình như ai cũng có khả năng này. Hễ khi có vấn đề mà họ cần phải giải quyết thì họ cũng đều làm như cháu thôi.

Người đàn ông bật cười sảng khoái một hồi, nhìn chàng trai rồi nói:

Này người bạn trẻ, không phải bạn vừa mới nói với tôi, khi bạn có vấn đề, bạn đi tìm chỗ vắng vẻ, không có người, để suy nghĩ đó sao? Như vậy, không phải bạn đang xa rời tất cả, bạn chỉ có một mình bạn, bạn đang cô đơn sao?

Và cũng chính nhờ sự cô đơn đó, mà bạn mới tận dụng được khả năng quan sát, phân tích, tổng hợp, và nhìn sâu để tìm ra câu trả lời chính xác nhất sao?

Này anh bạn trẻ, trong qúa trình Thể Nghiệm cũng giống như vậy. Nếu như bạn không có sự cô đơn, bạn sẽ không có khả năng để chạm vào được Bản Thể.

Cô đơn được ví như bước chân đầu tiên, vô cùng quan trọng, trong hành trình bạn đi tìm tới Bản Thể của bạn. Nếu không có bước chân đầu tiên này, bạn vĩnh viễn không bao giờ biết được Bản thể của bạn là gì?

Này anh bạn trẻ, không phải chiều nay, bạn đến đây để nghe diễn giả trình bầy về qúa trình đi tìm đến Bản Thể hay sao?

Nếu như bạn đã biết về qúa trình đó, bạn có đi nghe không?

Chắc chắn là không. Vì sao? Vì bạn đã biết Bản Thể là gì, thì đường nào đi đến Bản Thể cũng không quan trọng. Cái quan trọng nhất đó chính là Bản Thể.

Cho nên, chẳng có con đường nào đúng nhất, cũng chẳng có con đường nào chánh nhất, cũng chẳng có con đường nào cao nhất. Tất cả mọi con đường, chỉ là phương tiện mà không phải là cứu cánh.

Vì vậy, chẳng có một lý do chính đáng nào, khiến bạn phải phí thời gian để đi tìm hiểu con đường đi đến Bản Thể của diễn giả là gì.  

Nếu có chăng, vì bạn chưa biết Bản Thể là gì; cho nên, bạn mới hy vọng, con đường của diễn giả đó, sẽ giúp bạn tìm tới Bản thể.

Sự hiện diện của bạn chiều này đã chứng minh, bạn chưa thực sự tiếp xúc với Bản Thể. Trong buổi diễn thuyết đông người, bạn lại cảm thấy cô đơn. Mà cô đơn là bước khởi đầu của người Tĩnh Thức.

Đó chính là lý do tại sao tôi chúc bạn là người Tĩnh Thức tương lai, mà không chúc mừng bạn là người Tỉnh Thức.

Chàng thanh niên nghe xong bật cười ha hả…

Ánh mắt chàng sáng ngời…lung linh như những giọt nắng chiều đang xuyên qua bóng dâm của đám lá cây thẫm mầu, dầy đặc.

Người Tĩnh Thức là người biết lắng
Biết lặng yên cay đắng trong lòng
Bổn nguyên một cõi thong dong
An nhiên tự tại ruỗi rong vui đùa

Người Tỉnh Thức là người áp dụng
Đem An Riêng loan phụng An Chung
Thong dong giữa chốn khốn cùng
Cùng người sánh bước bao dung hiền hòa

 

We use cookies in order to give you the best possible experience on our website. By continuing to use this site, you agree to our use of cookies.
Accept