MUỐN BIẾT PHẢI HỎI, MUỐN GIỎI PHẢI HỌC

album-art

00:00

TẢI MP3 – TRƯƠNG THU HUYỀN
TẢI MP3 – QUẢNG BẢO TÂM
TẢI MP3 – QUẢNG BẢO TÂM (HUẾ)

Bạn Thân Mến,

Ai trong chúng ta cũng không xa lạ gì với câu ca dao này: “Muốn biết phải hỏi, muốn giỏi phải học”. Nhưng hỏi ra sao, và học ra sao lại là những vấn đề.

Nếu chúng ta không cẩn thận trong việc đặt đúng câu hỏi thì không những chúng ta không thể đạt được kết quả, mà lắm khi, còn tạo ra rất nhiều hậu quả.

Có một người vừa mới chia tay người yêu, và trong lòng đầy những muộn phiền, oán trách. Nếu người này muốn giải quyết được những muộn phiền này, thì người đó phải biết cách đặt đúng câu hỏi để tìm ra gốc rễ của vấn đề. Nếu không, thì người đó sẽ chỉ làm tăng thêm sự oán trách, và có thể dẫn đến sự thù hận dai dẳng cả cuộc đời.

Thay vì, người đó hỏi Tại Sao tôi buồn, thì người đó hỏi làm sao tôi giải quyết sự buồn phiền này.

Chúng ta hãy dùng thí dụ để minh họa.

Làm sao tôi có thể quên đi được nỗi buồn này?

Khi Ý Thức của chúng ta nhận được câu hỏi này thì ít nhất chúng ta cũng có ba đến năm câu trả lời:

  • Mượn rượu giải sầu
  • Dùng chất khích thích để không suy nghĩ
  • Đi bôi nhọ, nói xấu người đó cho họ đau khổ

Qua những câu trả lời này, chúng ta sẽ thấy gì?

Rõ ràng, không có cách giải quyết nào mang đến cho chúng ta được cái chúng ta muốn là quên được. Cho dù, chúng ta có làm cả ba cách giải quyết cùng một lúc thì cũng bằng không. Ngược lại, chúng ta càng dùng chung nhiều cách thức thì chúng ta càng tạo ra nhiều hậu quả mà chúng ta phải gánh chịu sau này.

Nếu mượn rượu giải sầu, mà nếu sầu kia không giải được, thì chúng ta dần trở thành con sâu rượu, chúng ta bị nghiện rượu, và cuối cùng, chúng ta làm cho gan của chúng ta bị sơ cứng. Chúng ta không phải chỉ khổ về Tâm, mà chúng ta còn khổ về thân nữa.

Tệ hại hơn, nếu chúng ta dùng những chất khích thích để “phê” đi Ý Thức, thì chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, chúng ta sẽ thành con nghiện. Khi đã thành con nghiện thì sự đòi hỏi về thuốc càng lúc càng gia tăng, vì cơ thể của chúng ta đã quen với những “đô” trước đó. Cho dù, chúng ta có núi vàng cũng không thể cung phụng cho những cơn nghiện này, huống chi, tài chính của mỗi cá nhân thường có giới hạn.

Cuối cùng, vì không đủ tài chính cung phụng cho cơn nghiện, chúng ta sẽ đi ăn trộm, hay ăn cướp, để cung phụng cho cơn nghiện, và cuối cùng, cuộc đời của chúng ta sẽ gắn liền với những song sắt trong nhà tù.

Đó là chưa kể, khi sử dụng qúa nhiều chất khích thích thì hệ thống thần kinh và các cơ quan nội tạng sẽ bị ảnh hưởng trầm trọng, khiến cho những suy nghĩ của chúng ta sẽ mông lung, không thực tế; hay sự xáo trộn của các tế bào và cơ quan tạo ra những chứng bịnh nan y.

Nếu như đi bôi nhọ, nói xấu người kia, cho họ khổ, thì có chắc gì là họ khổ không? Hay đôi khi, người kia còn coi thường, và càng giúp họ khẳng định lý do họ bỏ chúng ta là chính xác. Không những họ không đau khổ, mà còn vui mừng vì họ vừa thoát được “món nợ”, khi phải dính với chúng ta cả đời.

Đi bôi nhọ và nói xấu người kia, không những làm hạ phẩm giá con người của mình, mà còn tiếp tục khích thích những nguồn năng lượng tiêu cực trong Ngã Thức trở nên mạnh mẽ hơn. Khi những nguồn năng lượng này kết hợp với nhau thành nguồn năng lượng “không tên” thì những nguồn năng lượng này sẽ làm tê liệt Ngã Thức, và lúc đó, càng muốn quên lại thành càng nhớ.

Tai hại nhất là, khi nguồn năng lượng “không tên” này có mặt, thì luôn sử dụng những ý niệm tàn ác, độc hại, không những gây ra nguy hiểm đến tính mạng cho người và cho mình.

Qua thí dụ nêu trên, chúng ta thấy được sự nguy hiểm, khi chúng ta không biết đặt câu hỏi một cách chính xác, hay rõ ràng.

Vậy thì chúng ta phải đặt câu hỏi như thế nào mới đúng cách?

Muốn tìm ra nguyên nhân giải quyết một vấn đề thì chỉ có câu hỏi Tại Sao mới giúp chúng ta tìm ra được gốc rễ. Nếu chúng ta chưa, hay ít sử dụng câu hỏi Tại Sao, thì chúng ta cũng nên suy nghĩ lại.

Hãy dùng câu hỏi trong thí dụ nêu trên làm minh họa.

Tại sao tôi buồn?

Tôi buồn vì tôi mới bị người yêu bỏ

Tại sao người yêu lại bỏ?

Vì người đó nói không hợp với tôi

Tại sao lại không hợp?

Vì tôi hay nổi giận khi người kia không làm theo ý tôi

Tại sao lại nổi giận khi người kia không làm theo ý?

Vì nếu không làm theo ý tôi thì tôi sẽ trở nên yếu đuối trong mắt người đó

Vậy thì yếu đuối trên lĩnh vực nào?

Trên lĩnh vực tài chính vì tôi không làm ra nhiều tiền

Tại sao lại không làm ra nhiều tiền?

Vì tôi không có tài năng

Tại sao không có tài năng?

Vì tôi lười biếng.

Nếu chúng ta dừng lại ở đây, thì chúng ta thấy gốc rễ từ nỗi buồn, không phải vì chia tay người yêu, mà bắt nguồn từ sự lười biếng.

Khi biết được gốc rễ rồi, thì mới hỏi Làm Sao giải quyết được sự lười biếng này, và đi giải quyết.

Như vậy, qua cách đặt câu hỏi Tại Sao, chúng ta không những có thể tìm ra được nguyên nhân gây ra nỗi buồn, mà chúng ta còn hiểu được chúng ta một cách sâu sắc hơn.

Qua câu hỏi tại sao, chúng ta thấy hoàn toàn không liên quan gì đến việc người yêu bỏ chúng ta mà chúng ta buồn, nguyên nhân chính là sự lười biếng của chúng ta khiến cho chúng ta không chịu học hỏi, nên không có khả năng tạo ra tài chính, rồi sinh ra tự ty, và muốn che dấu sự tự ty, nên hay nổi giận với người yêu, khiến người đó không chịu được nữa, mới chia tay.

Như vậy, người yêu chia tay không phải là tác nhân chính, mà sự lười biếng mới là tác nhân chính. Cho nên, hình ảnh người yêu không cần phải quên cũng tự động không xuất hiện; vì đó không phải là đối tượng tạo ra nỗi buồn, mà nỗi buồn là hậu quả của sự lười biếng.

Qua hai thí dụ trên, chúng ta thấy được sự khác biệt trong cách đặt câu hỏi như thế nào để giải quyết vấn đề. Nếu chúng ta đặt sai câu hỏi, thì đó chính là lỗi của chúng ta, chứ không phải của ai khác.

Nhân tiện đây chúng ta cũng nên tìm hiểu hai chữ hiểu và biết khác nhau như thế nào? Nếu bạn để ý kỹ hơn, bạn sẽ thấy, ở đây, ông cha chúng ta đã rất tinh tế khi diễn tả về những trải nghiệm của các cụ. Trong câu này, chúng ta không thấy ông cha chúng ta dùng từ “muốn hiểu” mà lại dùng là “muốn biết”. Vậy hiểu là gì, và biết là gì?

Phần đông chúng ta hay lầm lẫn giữa hai chữ này. Chữ Hiểu có nghĩa là, khi chúng ta nghe một điều gì mà chưa có kinh nghiệm trải qua thì gọi là hiểu. Còn chữ Biết là chúng ta đã nghe qua và cũng đã trải qua, chúng ta có kinh nghiệm về việc đó rồi thì gọi là biết.

Như vậy, khi ông cha chúng ta dùng từ “muốn biết” có nghĩa là khuyên chúng ta phải trải qua, phải thực hành và phải có kinh nghiệm (biết) đặt câu hỏi cho đúng cách thì mới giải quyết được vấn đề, chứ không phải chỉ nghe, hiểu, rồi không làm gì hết với cái hiểu của mình.

Nếu như chúng ta chưa thực hành được, hay chưa có kinh nghiệm thì phải đi tìm những người có kinh nghiệm, họ đã trải qua rồi, hỏi họ, và nhờ họ dùng kinh nghiệm của họ để giúp cho mình, chứ đừng nên đi tìm người không có kinh nghiệm đã trải qua, hay chỉ mới nghe, hiểu, rồi đưa ra lời khuyên mà tin theo và làm theo.

Đó chính là ý nghĩa của câu “muốn biết thì hỏi”. 

Vậy còn “muốn giỏi thì học” có ý nghĩa gì?

Đơn giản, ai trong chúng ta cũng có thể nghĩ ra là chúng ta muốn giỏi thì chúng ta phải học hỏi nhiều. Nhưng học nhiều cũng chưa chắc là giỏi, vì trong học có cả ngàn cách học.

Có cách học thuộc lòng, có cách học suy luận, có cách học trải nghiệm.v.v. vậy cách học nào mới giúp cho chúng ta giỏi?

Muốn học giỏi thì chúng ta cần phải có phương pháp.

Chúng tôi còn nhớ thời khi đi học đại học. Ngày khai giảng, vị giảng sư cho chúng tôi biết loại sách giáo khoa nào chúng tôi cần.

Với những ngày đầu, hầu như tất cả các sách giáo khoa sẽ là phần giới thiệu. Hơn nữa, vị giảng sư vì muốn làm quen với học sinh, nên cũng không quá đi sâu vào chi tiết, cho nên, đa số những ngày đầu này với sinh viên là sướng nhất, vì ít phải học bài.

Nhưng với chúng tôi thì lại hoàn toàn khác. Chúng tôi lại rất “bận rộn” trong việc đọc trước một chương (chapter). Chúng tôi bắt đầu đọc lướt qua xem có thể hiểu được bao nhiêu, và những chỗ không hiểu thì ghi lại những câu hỏi.

Đến khi vào lớp và khi giảng sư giảng bài, trong khi, các bạn khác chăm chú nghe và ghi chép, thì chúng tôi vì đã có kinh nghiệm đọc qua, nên chỉ chú trọng vào những câu hỏi mà chúng tôi ghi lại, và hỏi vị giảng sư. Nhờ vậy, chúng tôi luôn hiểu được bài một cách trọn vẹn nhất.

Phương pháp mà chúng tôi áp dụng vô cùng đơn giản. Nghĩa là, khi có được sách giáo khoa thì chúng tôi bỏ chút thời gian ra đọc ngay chương đầu. Vì không bị thời gian “thúc hối” nên Ý Thức của chúng tôi có thể thoải mái phân tích và đào sâu vào vấn đề.

Nếu vấn đề đó chúng tôi đã có kinh nghiệm thì không phí thời gian vào đó, ngược lại, chúng tôi sẽ chú trọng vào những vấn đề chưa hiểu được, và chọn ra những câu hỏi chính xác để tìm ra đáp an cho câu hỏi. Sau đó thì ghi lại những câu hỏi đó trong một cuốn sổ.

Chính vì nhờ có sự chuẩn bị trước, nên tất cả những chủ đề được giảng sư giảng, chúng tôi như được “ôn lại” trong khi các bạn khác thì mới học. Cho nên, chúng tôi hiểu rõ hơn, và những phần chưa hiểu rõ, chúng tôi cũng đã có sẵn những câu hỏi chọn lọc để hỏi vào chi tiết.

Nhiều giảng sư cũng rất ngạc nhiên và cho rằng chúng tôi thông minh, vì thường đặt những câu hỏi khó cho họ, nhưng họ lại rất hứng thú vì chủ đề của họ có đứa học trò biết “thưởng thức”, nên thường, họ có những “cảm tình” đặc biệt với chúng tôi. Nhưng bạn biết, chúng tôi chẳng có thông minh gì cả, mà chỉ biết dùng phương pháp học đúng đắn mà thôi.

Sau khi đặt những câu hỏi và được giảng giải xong thì chúng tôi ghi lại những lời giảng giải đó dưới phần các câu hỏi.

Đến kỳ thi giữa khóa hay cuối mùa thì chỉ cần đọc lại những câu trả lời đã được giảng sư giải thích mà không cần phải đọc lại cả một cuốn sách dầy, với cả lô chữ với thời gian thúc bách.

Y như rằng, hầu như hơn 90% những đề thi thường “lọt” vào trong những cuốn sổ mà chúng tôi ghi lại.

Với phương pháp học này, chúng tôi chỉ tốn thời gian lúc ban đầu đọc lướt qua chương đầu, và sau đó, đặt ra những câu hỏi. Và khi các bạn bắt đầu học chương đầu thì chúng tôi lại đọc lướt chương hai và đặt câu hỏi.

Chính nhờ cách học có phương pháp này, giúp chúng tôi rút ngắn được thời gian ôn thi, chủ động trong việc học, và quan trọng nhất là, chúng tôi sử dụng Ý Thức để đào sâu và hiểu trọn vẹn được những gì chúng tôi đang học một cách rõ ràng.

Dĩ nhiên, mỗi người trong chúng ta ai cũng có cách học riêng. Nhưng muốn giỏi thì sự học hỏi của chúng ta phải hướng về chiều sâu và cần có sự kiểm nghiệm và thực nghiệm để hiểu đúng sự thật.

Nếu không, chúng ta sẽ không thể ứng dụng những gì chúng ta học được một cách tinh tế nhất.

GIỚI ĐỊNH TUỆ

album-art

00:00

TẢI MP3 – TRƯƠNG THU HUYỀN
TẢI MP3 – TÂM TỪ

Chiều nay, chỉ có mình Nhật Minh đến thăm ông chú. Sau khi lễ phép chào ông chú, Nhật Minh ngồi xuống đối diện, rồi nói:

Thưa chú, kể từ ngày gặp chú, cháu càng ngày càng hiểu về cháu nhiều hơn. Sau những buổi nói chuyện với chú về, cháu đã quyết định, dừng lại tất cả việc sử dụng kinh nghiệm của người khác, và bắt đầu bằng sự trải nghiệm của chính mình.

Trong qúa trình tự trải nghiệm này, cháu cảm nhận được rất nhiều điều mới lạ. Chiều nay, cháu muốn đem những điều trải nghiệm mới lạ này để chia xẻ cùng chú, không biết có được không?

Dĩ nhiên là được. Tôi xin ngồi lặng yên để lắng nghe sự trải nghiệm của bạn. Ông chú nói.

Thưa chú, khi nói đến Thiền, từ xưa cho nay, từ sách vở cho đến người thực tập, đều nhấn mạnh đến 3 từ: Giới, Định, Tuệ.

Nhiều người định nghĩa rằng: Giới là Giới luật, Định là ngừng sự suy nghĩ, và Tuệ là ánh sáng; và họ đã dùng những định nghĩa này để đi tìm về Bản Thể.

Cháu cũng là một trong những người như họ. Cháu cũng đã dùng những định nghĩa đó, và đã trải qua gần 10 năm, nhưng cháu vẫn cứ loay hoay, vướng mắc.

May nhờ nói chuyện với chú, cháu mới nhận ra, khi chúng ta không biết được chính xác định nghĩa của một điều gì đó thì chúng ta sẽ dễ dàng tạo ra sự nhận thức sai lầm. Chính sự nhận thức sai lầm này, mới gây ra sự vướng mắc, ràng buộc, và tạo ra sự khổ đau cho con người.

Thế nên, cháu đã tự hỏi lại chính mình, Giới là gì? Định là gì? và Tuệ là gì? và dùng sự quan sát, phân tích và nhìn sâu để nhìn vào định nghĩa của Giới, Định, và Tuệ.

Khi quan sát và nhìn sâu vào Giới, cháu nhận ra, Giới không chỉ có nghĩa là giới hạn, hay khoanh vùng hẹp lại, mà Giới còn có nghĩa là Những Điều Kiện Cần Có và Sự Chấp Nhận để đạt được một điều gì đó.

Cũng như Định, có nghĩa là duy trì, không xao động, không thay đổi, chứ không phải là ngừng lại sự suy nghĩ. Ngừng lại sự suy nghĩ chỉ là ứng dụng của Định chứ không phải định nghĩa của Định.

Và định nghĩa của Tuệ, cũng không phải là ánh sáng mà là khả năng quan sát, phân tích, tổng hợp, và quan trọng nhất là Nhìn Sâu. Cũng từ sự quan sát nhìn sâu này, cháu cũng phát giác ra một sự sai lầm lớn nhất của cháu từ trước tới nay, đó là cháu nghĩ Trí cũng là Tuệ.

Cháu đồng ý rằng, muốn giải quyết bất cứ mọi vấn đề nào trong cuộc sống của chúng ta, chúng ta cũng phải có đầy đủ Giới, Định, Tuệ. Đó là 3 yếu tố cốt lõi không thể thiếu được. Chỉ cần thiếu một trong ba thì sẽ rơi vào bế tắc và vướng mắc.

Nhưng nếu chúng ta sắp xếp sai lệch cách vận hành, thay vì được kết qủa thì chúng ta lại phải gánh hậu quả. Chính vì vậy, mà cuộc sống của chúng ta mang nhiều dấu ấn của khổ đau hơn An Lạc.

Bản thân cháu, khi mới bắt đầu thực tập Thiền đã bị hướng dẫn lệch lạc về định nghĩa, sai về thứ tự, về cách vận hành. Thí dụ như:

Các diễn giả dậy rằng, nếu muốn thực hành Thiền thành công, việc đầu tiên, người thực tập, cần phải giữ Giới một cách nghiêm chỉnh. Nghĩa là phải đặt ra những kỷ luật và ép mình vào khuôn khổ.

Chẳng hạn như: mỗi ngày phải dành ra một tiếng để ngồi Thiền, và khi ngồi Thiền, phải giữ lưng cho thẳng; có nơi, phải ngồi theo thế kiết già hoặc bán già; có nơi, cho phép ngồi trên gối hay ghế v.v.

Trong khoảng thời gian ngồi thiền một tiếng đó, nếu có tê chân, mỏi vai, đau lưng, cũng ráng chịu, và không nên động đậy. Bởi vì, theo nhận thức của họ, đó là phương pháp điều Thân trước khi điều Tâm. Họ quan niệm rằng, khi chúng ta có thể làm chủ được Thân, thì chúng ta sẽ có thể làm chủ được Tâm, vì Thân với Tâm là một.

Trong qúa trình giữ Giới bằng cách ngồi Thiền bắt buộc đó, người thực tập bắt đầu một qúa trình gọi là Định. Và cái Giới trong Định là phải tìm mọi cách để giữ cho Tâm Không Suy Nghĩ Gì Cả.

Nếu chẳng may, trong lúc đang tìm cách duy trì Tâm không suy nghĩ mà có một ý niệm nào đó phát sinh, người thực tập phải tìm cách đè nén nó xuống, hay tìm cách diệt nó đi.

Nếu không đủ khả năng để diệt, hay đè nén nó thì dùng hình thức “trốn chạy” như: chú tâm vào một việc khác: nghe tiếng chim, tiếng suối, tiếng nhạc êm dịu, v.v. Và họ, cho đó là cách làm hợp lý.

Rõ ràng, mục đích của việc thực tập Thiền là đi giải quyết các vấn đề Một Cách Rốt Ráo, dù vấn đề đó là vấn đề gì. Vấn đề đó có thể liên quan đến cảm tình, cảm giác, cảm thọ, cảm thân, hay đi tìm về Bản Thể, v.v.

Vậy tại sao, khi ý niệm hay cảm giác nẩy sinh trên bề mặt của ý thức, chúng ta lại không trực tiếp đi giải quyết mà lại tìm cách đè nén, tìm cách tiêu diệt; và khi không thể thì lại trốn chạy qua cách chú tâm vào việc khác.

Điều này, khi nghĩ kỹ lại, cháu thấy nó mâu thuẫn và nghịch lý qúa, phải không chú? Nhưng cũng tức cười, cháu đã tin, và đã làm theo trong một thời gian khá dài.

Không ít người, trong đó cũng có cháu, đã lý luận rằng: khi chúng ta chú tâm vào nghe tiếng chim hót hay nhạc êm dịu, v.v thì ý niệm, hay cảm giác phiền não, hay khổ đau kia sẽ không có mặt; và nếu nó không có mặt thì chúng ta đâu có khổ đau.

Từ lý luận đó, chúng ta tin rằng, nếu chúng ta cứ tiếp tục đánh lừa chính chúng ta, bằng cách trụ càng lâu trong cái mà chúng ta đang thích hướng về đó sẽ giải quyết được sự khổ đau, phiền não đến tận gốc rễ.

Hoặc trong qúa trình Thiền Định, chúng ta đặt ra một cái Giới Không Tưởng, đó là Giữ Cho Tâm Không Suy Nghĩ. Và chúng ta tin rằng, nếu làm như vậy, chúng ta sẽ chấm dứt được sự phiền não, khổ đau. Bởi vì, Tâm Chúng Ta Không Suy Nghĩ Gì Hết. Có nghĩa là, chúng ta không có khổ đau.

Sự thật đã chúng minh rất rõ ràng, cho dù, chúng ta có cố gắng giữ cho Tâm Chúng Ta Không Suy Nghĩ, hay chúng ta đè nén chúng, hay chúng ta trốn chạy theo cách chú Tâm vào một điểm khác và cố trụ trong đó càng lâu càng tốt, cuối cùng, chúng ta cũng phải trực tiếp đối diện và đương đầu với phiền não và khổ đau đang xẩy ra.

Vì sao? vì trong thực tế, sự khổ đau không phải chỉ nẩy sinh từ trong nội tâm của chúng ta, mà còn đến trùng trùng từ ngoại cảnh.

Nếu sự khổ đau đến từ trong nội tâm của chúng ta thì cách đổi hướng, hay đánh lừa suy nghĩ, có thể áp dụng. Nhưng nếu đến từ ngoại cảnh thì cách ứng dụng này gần như không có hiệu quả. Và sự thật cũng rất rõ ràng, chúng ta bị ảnh hưởng bởi ngoại cảnh liên tục. Không nói đâu xa, bản thân cháu chính là nạn nhân trong cách lý luận, và thực hành này.

Qua quan sát, cháu nhận thấy, khi một cảm giác phiền não hay khổ đau mới trồi lên trên bề mặt của ý thức thì sự tàn phá của nó nhẹ hơn; nhưng nếu chúng ta cứ tiếp tục dùng sai phương pháp, chúng ta cứ tiếp tục đè nén nó, việc làm đó, giống như, chúng ta đang ép lò xo vậy, khi nó bật dậy thì sức tàn phá của nó mạnh gấp trăm lần.

Thật tuyệt vời! Vậy còn Tuệ, định nghĩa theo cách cũ là gì, và làm sao dùng Tuệ? Ông chú hỏi.

Nếu lúc trước, mà chú hỏi câu này, cháu sẽ trả lời, nếu có thể duy trì được Cái Tâm Không Suy Nghĩ, hay chú tâm vào hơi thở thì ánh sáng của tuệ sẽ phát sinh. Khi có ánh sáng của Tuệ thì sẽ giải quyết được phiền não khổ đau.

Nhưng bây giờ thì cháu sẽ trả lời khác.

Định nghĩa của Tuệ cũng không phải là ánh sáng, mà là khả năng quan sát, phân tích, tổng hợp và quan trọng nhất là Nhìn Sâu. Như lần trước chú đã nhắc nhở, chúng ta đã có sự nhầm lẫn khi xem phương tiện là cứu cánh.

Qua quan sát, cháu cũng thấy đúng như vậy. Rõ ràng, sự An Lạc chỉ có thể có, khi chúng ta biết sử dụng khả năng quan sát, phân tích, tổng hợp, nhìn sâu, để tìm ra cách giải quyết vấn đề liên quan đến khổ đau.

Khi vấn đề đó được giải quyết thì sự khổ đau biến mất và chúng ta có được sự An Lạc. Nếu như chúng ta cũng quan sát, phân tích, tổng hợp nhưng với cái nhìn Nông (Trí) thì sự khổ đau có thể biến mất trong một giai đoạn ngắn, rồi sau đó trở lại, và có thể sẽ mạnh mẽ hơn khiến chúng ta khổ đau dài hơn.

Hay nói một cách rõ ràng hơn, cách giải quyết của Trí là cách giải quyết mang tính tạm thời và thường mang đến hậu quả.

Ngược lại, với cách giải quyết của Tuệ, qua sự quan sát và nhìn sâu, có thể tìm được nguyên nhân đích thực gây ra sự khổ đau, và khi chấm dứt ngay tại cái nhân đó thì An sẽ có mặt.

Hay có thể nói rằng, cách giải quyết của Tuệ là cách giải quyết mang tính cách rốt ráo, và thường đem đến Kết Quả.

Qua sự trải nghiệm mới này của cháu, thì cháu lại dùng Định trước Giới, nghĩa là, khi có một ý niệm bắt đầu xuất hiện trên bề mặt của ý thức, thì trước tiên, cháu Xác Định ý niệm đó đang có mặt trên ý thức là gì, sau đó, cháu dùng Giới để tìm ra những điều kiện gì cần có để giải quyết ý niệm đó.

Chính nhờ đặt ra những điều kiện, cho nên. khi sử dụng Tuệ, cháu mới nương theo những điều kiện đó để quan sát, phân tích, tổng hợp, nhìn sâu, vào trong ý niệm.

Thí dụ, Cháu đang ngồi một mình, và cháu có cảm giác Chán. Thay vì, tìm cách trốn tránh như: tìm cách đè nén cảm giác Chán. Cháu bắt đầu xác ĐỊNH sự có mặt của cảm giác Chán, và bắt đầu đi tìm những điều kiện cần có (Giới) để giải quyết cái Chán.

Tuệ khi tiếp nhận câu hỏi của Giới như: mình cần có những điều kiện nào để giải quyết triệt để nỗi Chán này? Và bắt đầu nương theo câu hỏi từ Giới, bằng sự quan sát, hay phân tích, hay nhìn sâu v.v.

Đôi khi Tuệ chỉ dùng một phần trong khả năng, cũng có khi, lại kết hợp với nhiều khả năng, tùy thuộc vào sự nặng hay nhẹ của Chán.

Nếu Tuệ lựa chọn bằng sự quan sát, thì Tuệ sẽ chú tâm theo dõi xem Chán sẽ ảnh hưởng như thế nào, và ảnh hưởng đến phần nào trong cơ thể v.v. Hễ Chán đi tới đâu thì sự quan sát dõi theo đến đó.

Nếu đó là cơn Chán nhẹ thì dưới sự quan sát của Tuệ, cơn Chán sẽ tự tan biến, và không bao giờ trở lại. Nếu cơn Chán nặng hơn, mà sự quan sát không thể giải quyết được thì sự quan sát bắt đầu kết hợp với sự Nhìn Sâu. Khi Nhìn Sâu có mặt thì lập tức đặt câu hỏi Tại sao.

Thí dụ:

Tại sao bạn Chán?

Tôi Chán vì Tôi không có việc gì làm.

Tại sao Bạn không có gì làm?

Tôi không có gì làm, vì tôi không biết làm gì cả.

Tại sao Bạn không biết làm gì cả?

Vì tôi sống không có mục đích.

Vậy mục đích của bạn là gì?

Mục đích của tôi là sống An vui.

Vậy việc làm gì sẽ khiến bạn vui?

Đi nhậu nhẹt với bạn bè.

Nếu như khi đi nhậu nhẹt, chẳng may có cuộc ẩu đả khiến cho bạn bị tàn tật, bạn có vui không?

Không, không những không vui mà còn đau khổ nữa.

Tại sao bạn đau khổ?

Vì tôi đang lành lặn mà lại trở nên tàn tật.

Vậy, nếu cho bạn lựa chọn giữa lành lặn và tàn tật thì bạn chọn cái nào?

Dĩ nhiên là lành lặn.

Tại sao bạn lại không chọn tàn tật?

Vì khi tôi bị tàn tật, tôi sẽ tự ty mặc cảm, mà khi tôi tự ty mặc cảm thì tôi rất đau khổ.

Như vậy, nguyên nhân gây ra đau khổ cho bạn là từ sự tự ty, mà sự tự ty có trong bạn là từ sự tàn tật, và sự tàn tật thì bắt nguồn từ sự đi nhậu nhẹt. Nếu bạn không muốn sau này bạn khổ dài dài thì bạn sẽ làm sao?

Thì tôi sẽ không bao giờ đi nhậu nhẹt nữa.

Bạn có chắc không? Biết đâu sau này bạn đổi ý thì sao?

Tôi chắc chắn.

Bạn dựa trên điều gì để bạn chắc chắn?

Tôi dựa vào quyền lợi của tôi. Nếu chỉ vì một bữa nhậu nhẹt, và nếu chẳng may tai nạn xẩy ra khiến tôi bị tàn tật cả đời thì chả dại gì mà tôi đi nhậu cả.

Ngoài nhậu nhẹt ra, bạn thích làm gì nữa?

Tôi thích đọc sách.

Đọc sách có lợi gì cho bạn?

Cho tôi, mở mang kiến thức.

Vậy kiến thức nào, bạn đang thiếu mà bạn cần mở mang?

Kinh nghiệm sống…

Thưa chú, nếu cứ tiếp tục, thì không biết đến bao giờ dừng. Nhưng Cháu có thể khẳng định một điều, khi cảm giác Chán bị “cuốn” vào trong nhìn sâu bằng những câu hỏi Tại Sao thì Chán không còn là một ý niệm xấu cần phải loại trừ hay loại bỏ.

Mà cảm giác Chán đã được chuyển hóa thành một công cụ sắc bén, giúp cho cháu có thể nhìn sâu hơn vào chính mình, có thể xác định được mục đích của mình là gì. Có thể nhìn sâu để nhìn ra những hậu qủa, hệ lụy từ một việc mà mình vẫn xem như là sở thích, nhưng không biết rằng, sở thích đó lợi hại như thế nào.

Trong những khả năng của Tuệ, thì khả năng Nhìn Sâu với sự bắt đầu bằng câu hỏi Tại Sao, thật là lợi hại. Hầu như tất cả những sự khổ đau trên cuộc đời này, nếu biết Nhìn Sâu thì đều có thể giải quyết một cách triệt để mà không cần phải dùng đến sự cố gắng đè nén hay tiêu diệt.

Này người bạn trẻ, đúng vậy.

Khi chúng ta biết ứng dụng Nhìn Sâu và biết cách đặt câu hỏi Tại Sao một cách sâu sắc, thì khả năng này của Tuệ sẽ giúp chúng ta giải quyết tất cả những sự khổ đau của một kiếp người.

Nếu bạn nhìn sâu và kỹ hơn, bạn sẽ thấy, hễ là con người, dù là trẻ sơ sinh cho đến ông bà cụ sắp mãn phần, không ai trong chúng ta không đi tìm sự An Vui cả. An Vui có thể nói, đó là mục đích lâu dài nhất, không hề bị đứt đoạn của một đời người.

Dĩ nhiên, trong đời người, chúng ta có nhiều mục đích cần phải thực hiện. Nhưng cho dù mục đích đó có là gì đi chăng nữa; cho dù, chúng ta có hoàn thành bao nhiêu mục đích đi chăng nữa; thì ngay sau khi chúng ta chấp nhận đã hoàn thành mục đích đó, nếu chúng ta tinh ý, chúng ta sẽ nhận ra cái cảm giác lúc đó cũng chỉ là sự thỏa mãn, An Vui.

Cho nên, cách hay nhất là chúng ta nên xác định lại mục đích của chúng ta cho rõ ràng; sau đó, chúng ta sẽ dùng Giới để duy trì mục đích đó, và sử dụng Tuệ để đi giải quyết vấn đề.

Thí dụ, An Vui là sự khao khát của con người bất kể tuổi tác. Cho dù, chúng ta có làm gì thì điều chúng ta đạt được khi thành công cũng là An Vui.

Cho nên, mục đích mà chúng ta nên xác Định chính là An Vui. Khi chúng ta có một vấn đề cần giải quyết thì chúng ta dùng Giới để xác định lại mục đích của chúng ta là gì, và vấn đề mà chúng ta đang gặp phải, có thay đổi mục đích của chúng ta không? Nếu có thay đổi, chúng ta dùng giới để duy trì thời gian giải quyết vấn đề. Sau đó, dùng Tuệ đặt những câu hỏi Tại Sao để tìm ra nguyên nhân tạo ra vấn đề, kế tiếp là giải quyết vấn đề bằng những câu hỏi Làm sao, và cuối cùng, chọn thời gian thích hợp để giải quyết vấn đề.

Nếu chúng ta làm được như vậy và thực tập thành một thói quen thì chúng ta sẽ có nhiều An Lạc hơn trong cuộc sống.

Hay quá chú ơi, chú đã rút gọn lại thành một phương pháp đơn giản, dễ hiểu và dễ thực hành hơn nhiều. Cám ơn Chú rất nhiều.

Tôi cũng cám ơn bạn rất nhiều.

Sao chú lại cám ơn cháu, cháu đâu có làm gì đâu?

Bạn thật khiêm tốn.

Này người bạn trẻ, bạn có biết không, chính nhờ sự nhìn sâu của bạn, mà bạn đã đưa định nghĩa của Giới, Định, Tuệ về đúng với ý nghĩa của nó.

Đây có thể được coi là một nền tảng vững chắc cho những ai muốn tự mình chuyển hóa khổ đau thành An Lạc.

Dĩ nhiên, trong quá trình đi tới Bản Thể của mỗi người, chúng ta đều có quyền lựa chọn phương tiện nào thích hợp nhất với mình, nhưng đừng bao giờ lầm tưởng: phương tiện là cứu cánh.

Tất nhiên, phương pháp Định, Giới, Tuệ của bạn có thể ứng dụng trong hành trình đi từ Bản Ngã tới Bản Thể, và sẽ giúp cho người đi tìm tới Bản Thể tránh được nhiều sai lầm trong nhận thức.

Nhưng nếu trong qúa trình đi từ Bản Thể về Bản Ngã thì sự ứng dụng sẽ vô cùng. Bạn có thể biến Định, Giới, Tuệ, thành Tuệ, Định, Giới, hay Tuệ, Giới, Định, hay Giới, Tuệ, Định v.v. tùy theo môi trường hoàn cảnh.

Tôi tin rằng, với khả năng của bạn, bạn sẽ biết cách ứng dụng này trong một tương lai rất gần.

Chú có thể cho cháu một thí dụ về cách dùng Tuệ, Định, Giới không?

Thí dụ, bạn đang đi trên đường và bạn chứng khiến một cảnh đụng xe giữa ngã tư đường do một người cố vượt đèn đỏ đụng vào một người đang chạy đèn xanh.

Nếu bạn bắt đầu dùng sự quan sát, phân tích, bạn có thể biết được nguyên nhân gây ra tai nạn phát xuất từ sự bất an đến từ một người, hoặc cả hai người. Và từ sự bất an của một người hay cả hai đã gây ra một hậu quả, tạo ra thương tật và đau khổ cho người. Nếu bạn dừng lại ở đây, và không tiếp tục quan sát và nhìn sâu thì bạn đang dùng Trí.

Nếu bạn tiếp tục nhìn sâu nữa, bạn sẽ thay thế người đang bị thương tích kia là bạn. Bạn sẽ cảm được nỗi đau mà bạn phải trải qua và chịu đựng nỗi đau trong tương lai nếu là thương tật vĩnh viễn.

Dĩ nhiên, trên thực tế, cơ thể bạn không trải qua sự đớn đau, thương tật. Nhưng qua sự quan sát và nhìn sâu, bạn đang trải nghiệm sự đớn đau từ cơ thể bạn.

Chính vì có sự trải nghiệm sự đớn đau trong thân xác bạn, và bạn không muốn điều đó xẩy ra. Cho nên, bạn quyết ĐỊNH đặt ra một kỷ luật (Giới) mà bạn phải tuân theo, đó là, bạn chỉ lái xe trong trạng thái bạn An. Nếu khi bạn có bất an thì bạn sẽ dừng việc lái xe lại. Vì sao? Vì nếu không giữ Giới, thì bạn sẽ là người gánh lấy sự khổ đau do sự bất An gây ra.

Cho nên, một người khi sử dụng đến Tuệ, họ luôn luôn kết hợp giữa Giới và Định một cách chặt chẽ. Vì vậy, tại sao họ có thể kéo dài được trạng thái An.

Ngược Lại, vì Trí tuy cũng có sự quan sát, phân tích nhưng thiếu sự nhìn sâu để đặt mình vào. Vì vậy, không dùng Định và Giới. Cho nên, tuy thấy người ta bị thương tật trong tai nạn, nhưng lại không biết ứng dụng điều đó cho mình.

Hoặc đôi khi, còn cười mỉa mai cho rằng, người kia lái xe quá kém mới gây ra tai nạn, chứ mình lái xe cừ hơn sức mấy mà có chuyện đó xẩy ra.

Thực tế, trên đời này, chưa ai lái xe mà chưa từng xẩy ra tai nạn cả. Có chăng, nó Chưa Xẩy Ra cho mình, chứ không phải Không Xẩy Ra.  Diễn dịch định nghĩa “Chưa Xẩy Ra” thành “Không Xẩy Ra” đó là một sự mê lầm lớn. Và ai trong chúng ta có nhận thức mê lầm này, chúng ta phải trả giá cho sự mê lầm đó thôi.

Thật vô cùng thú vị. Cháu cám ơn chú. Giờ thì cháu biết cháu sẽ làm gì. Nhật Minh nói.

Xa xa vọng về, tiếng của những đứa trẻ đang nô đùa, tiếng cười dòn tan, rộn rã. Chàng thanh niên đứng dậy, kiếu từ, và hẹn gặp lại ông chú chiều mai.

TỰ TIN (NIỀM TIN)

album-art

00:00

TẢI MP3 – TRƯƠNG THU HUYỀN

Chiều nay, Nhật Minh bận đi họp, nên chỉ có Diệu Hiền và Hoàng Trang đến thăm ông chú. Vừa đến chỗ ông chú ngồi, cả hai, Diệu Hiền và Hoàng Trang đã tự động phân ra ngồi hai bên cạnh ông chú. Hoàng Trang lên tiếng:

Chú ơi, ai trong chúng ta cũng cần có tự tin, vì khi có tự tin, chúng ta mới có thể làm được những điều chúng ta mong muốn.

Nhà Tâm Lý học, Albert Bandura, đã xác định tính tự tin vào năng lực bản thân là niềm tin của một người trong khả năng thành công trong những tình huống cụ thể hoặc hoàn thành một nhiệm vụ. Cảm giác tự tin vào năng lực bản thân của một người đóng một vai trò quan trọng trong việc tiếp cận các mục tiêu, nhiệm vụ hay thách thức.

Vậy theo như sự quan sát và nhìn sâu của chú thì có phương pháp nào giúp cho chúng ta có thể đạt được tự tin không chú?

Trước khi chúng ta nói đến những phương pháp về Tự Tin thì chúng ta cũng nên tìm hiểu về định nghĩa hai chữ Tự Tin là gì?

Tự là chính mình, Tin là nguồn năng lượng có trong Ngã Thức, diễn tả một trạng thái chấp nhận một điều gì, hay vật gì, hay người nào đó. Như vậy, Tự Tin có nghĩa là chính mình chấp nhận một điều gì, vật gì, hay người nào đó qua sự quan sát, phân tích, so sánh, v.v. từ Ý Thức.

Phần đông chúng ta hay “đánh đồng” hai chữ “tự tin” là để đánh giá về khả năng của chúng ta, hơn là hiểu đúng với định nghĩa.

Nếu cần phải đặt lại danh từ cho hai chữ “tự tin” mà chúng ta “đánh đồng”, thì chúng ta nên gọi là Khả Tin, nghĩa là lòng tin vào khả năng của mình; và trả lại định nghĩa cho hai chữ Tự Tin, khi chúng ta lại “đánh đồng” bằng hai chữ niềm tin. Như vậy mới đúng nghĩa.

Nhưng vì tôn trọng quyền diễn dịch của mọi người, chúng ta vẫn sử dụng hai chữ tự tin tức là khả năng, và niềm tin thay cho định nghĩa của tự tin.

Theo định nghĩa phổ thông, thì tự tin là khả năng của một cá thể, và niềm tin, có nghĩa là, sự chấp nhận một điều gì hay vật, người nào, theo ý chúng ta muốn. Hay ngắn gọn thì tự tin là ngọn, và niềm tin là gốc.

Nếu chúng ta là người có kinh nghiệm, chúng ta biết, muốn phát triển ngọn thì chúng ta nên bắt đầu từ gốc. Bởi vì, nếu gốc mà tróc rễ thì ngọn cũng không còn.

Vậy làm sao chúng ta có thể phát triển được niềm tin? Nếu muốn phát triển được niềm tin, chúng ta phải sử dụng đến sự vận hành của các thức để hiểu được niềm tin được tạo ra như thế nào, và tại sao Ngã Thức của chúng ta lại hay sử dụng niềm tin.

Trong chín thức, chúng ta đã phân chia rạch ròi những chức năng khác nhau của các thức. Trong đó, Ngã Thức làm chủ Ý Thức, và sử dụng Ý Thức để quan sát, phân tích, tổng hợp, nhìn nông hay sâu. Trong Ý Thức, vì có qúa trình quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp, nên chúng ta có sự chọn lọc.

Nhưng trong Ngã Thức, chúng ta chỉ có sự Lựa Chọn. Có nghĩa là, Ngã Thức của chúng ta chỉ có thể lựa những kết quả do Ý Thức phân tích, rồi chọn trong những kết quả đó cái nào tốt nhất, có lợi nhất cho Ngã Thức của chúng ta, và tin vào điều đó để ứng xử trong cuộc đời.

Chính vì vậy, niềm tin mà chúng ta có được bắt đầu từ Ý Thức, là nguồn cung cấp những dữ liệu cho Ngã Thức lựa chọn. Như vậy, nếu muốn chỉnh lại niềm tin có đúng với sự thật hay không thì chúng ta phải quan sát về Ý Thức.

Trong chín thức, chúng ta biết, chức năng của Ý Thức có phần nhìn nông và nhìn sâu. Khi nhìn nông thì chúng ta không biết được kết quả, nên phải dùng sự phỏng đoán hay tưởng tượng, và khi nhìn sâu, chúng ta cần sự kiểm chứng và thực chứng.

Thí dụ, nếu tôi hỏi bạn có biết ăn Igwava không? Nếu bạn không biết tiếng Xhosa thì có ba trường hợp sẽ xẩy ra.

Trường hợp một: bạn không biết định nghĩa chữ Igwava là gì, nên bạn không thể khởi được ý niệm về trái đó là gì, nên bạn sẽ không có hành động, ăn ra làm sao?

Trường hợp hai: tuy bạn không biết định nghĩa của Igwava là gì, nhưng bạn lại sử dụng sự phỏng đoán và tưởng tượng ra Igwava là trái vả hay trái vải (vì có âm cuối là wava).

Nếu như qua sự phỏng đoán và tưởng tượng của Ý Thức đưa ra kết quả, rồi đưa về kho của Ngã Thức, và Ngã Thức sau khi lựa chọn và tin vào điều đó. Đến sau này, có người nói với bạn, định nghĩa của Igwava là trái ổi thì bạn có thể vì tự ái, hay vì sự tự tôn, mà quyết định cãi đến cùng, vì đó là niềm tin của bạn, và bạn tin là bạn đã tin đúng.

Trường hợp ba: với một người có sự quan sát và nhìn sâu, họ không làm như trường hợp hai, mà họ sẽ đi tra cứu, tìm tòi, cho đến khi, họ biết đúng được định nghĩa Igwava là gì thì họ mới tin.

Với họ, tất cả cái gì khi qua sự quan sát, phân tích, so sánh, v.v của Ý Thức, đó chỉ là những thông tin và dữ liệu cần phải kiểm chứng và thực nghiệm, cho tới khi có kết quả rõ ràng. Họ chỉ tin vào kết quả qua sự kiểm nghiệm, chứ họ không tin vào thông tin và dữ liệu hay sự phỏng đoán hay tưởng tượng.

Sự khác biệt giữa trường hợp thứ hai và thứ ba, trong phần chín thức, chúng ta đã phân trường hợp thứ hai là Trí, và trường hợp thứ ba là Tuệ.

Như vậy, trong Ý Thức có hai phần cho Ngã Thức của chúng ta lựa chọn. Chúng ta có thể sử dụng Trí hay sử dụng Tuệ tùy theo Ý muốn của Ngã Thức của mỗi cá thể.

Tiếc thay, đa số chúng ta lại thích sử dụng Trí hơn Tuệ; cho nên, Ngã Thức của chúng ta thường rơi vào những niềm tin trên sự phỏng đoán hay tưởng tượng, mà không đúng sự thật.

Sự khổ đau hay những hậu quả mà chúng ta phải gánh chịu là chuyện tất nhiên. Vì khi tiếp xúc với sự thật, chúng ta không thể dùng được niềm tin của chúng ta nữa, hay cái gốc của chúng ta đã tróc gốc thì sự thiếu tự tin nơi bản thân cũng là chuyện không cần nghĩ bàn.

Như vậy, muốn đạt được sự tự tin (khả năng) ở phần ngọn thì chúng ta phải đi xuống gốc là niềm tin (tự tin). Xuống đến gốc của niềm tin, thì chúng ta lại phải tìm nơi Ý Thức. Khi nhìn sâu vào Ý Thức, chúng ta mới phát hiện ra nguyên nhân chính, đó chính là định nghĩa.

Hãy lấy thí dụ về hai chữ Tự Do khi chúng ta nhìn dưới dạng nông về định nghĩa như thế nào?

Tự Do theo định nghĩa có nghĩa là mình (tự) có thể nghĩ theo ý mình (do).

Phần lớn chúng ta đều hiểu gần đúng hai chữ Tự Do như định nghĩa trên, nhưng lại thay chữ “nghĩ” bằng chữ “làm”. Cho nên, đã gây ra sự hiểu lầm trong sự phân tích và cách ứng dụng. Từ đó, mới gây ra rất nhiều tranh cãi và không ai chịu chấp nhận ai.

Nếu chúng ta chịu khó quan sát kỹ và nhìn sâu, chúng ta thấy, trong định nghĩa của Tự Do nhấn mạnh đến chữ Ý. Chữ Ý ở đây phải hiểu là chỉ liên quan đến tư tưởng mà không hề nói đến hành động.

Nếu đứng trên góc độ ứng dụng về Tự Do, theo định nghĩa diễn dịch chung của chúng ta là: “mình muốn làm gì thì làm”, và nếu không muốn gây ra sự hiểu lầm, chúng ta phải thêm vào bốn chữ sau Tự Do, đó là: Tư Tưởng và Hành Động.

Tự Do Tư Tưởng là mình có quyền nghĩ theo ý mình, có quyền phỏng đoán, tưởng tượng theo ý mình, mà không ai có quyền can thiệp hay bắt buộc chúng ta phải thay đổi.

Đừng nói là người nào đó có đủ uy quyền như: người đang ở cõi trời hay cõi người, có thể khống chế, hay đưa ra quy định nào để áp đặt Tự Do trong tư tưởng của chúng ta, mà ngay cả Ngã Thức của chúng ta, nơi trực tiếp xẩy ra các hoạt động của khởi niệm, cảm xúc/giác, cũng không đủ khả năng để khống chế được sự hoạt động tự do tư tưởng của chúng ta (thuộc về Ý Thức qua tác động của nguồn năng lượng).

Thí dụ, chúng ta có một tư tưởng tiêu cực về một vấn đề nào đó, nếu chúng ta quan sát kỹ, chúng ta thấy, tư tưởng tiêu cực đó luôn sử dụng quyền tự do để diễn dịch những hiện tượng, tình trạng, hay định nghĩa theo cách tiêu cực mà tư tưởng đó chọn lựa.

Cho dù, Ngã Thức là chủ nhân của Ý Thức, nhưng Ngã Thức của chúng ta cũng khó có thể làm được gì với những tư tưởng tiêu cực đang sử dụng quyền tự do suy diễn này.

Cho nên, ngoài sự chịu đựng, chờ đợi cho những tư tưởng tiêu cực không còn sử dụng đến quyền tư do ra (do nguồn năng lượng tiêu cực khống chế Ngã Thức và sử dụng Ý Thức để phân tích, so sánh,v.v.), thì Ngã Thức cũng đành bó tay, chịu trận.

Phần đông, qua lâm sàng, các nhà tâm lý khi gặp những bịnh nhân có tư tưởng tiêu cực thì các nhà tâm lý trị liệu thường hay tìm mọi cách để thay đổi trạng thái hay góc độ nhìn của bịnh nhân, từ những tư tưởng tiêu cực sang tích cực.

Đứng trên góc độ về phương pháp thì đây là cách thức chuẩn không cần chỉnh. Vì sao? Vì muốn chữa tiêu cực thì dùng sự đối lập của tiêu cực là tích cực, là đúng cách.

Nhưng vấn đề ở đây là, các nhà tâm lý đã không để ý đến Tự Do và Quyền Tự Do (Ý Thức không bị giới hạn, trong quan sát, phân tích, v.v.) mà tư tưởng tiêu cực đang sử dụng.

Cho nên, tuy phương pháp là chuẩn nhưng đứng trên góc độ của kết quả thì cần chỉnh. Vì các nhà tâm lý đã không biết ứng dụng làm sao để chấm dứt quyền tự do mà tư tưởng tiêu cực đang sử dụng, nên kết quả thường không mấy khả quan.

Ở đây, chúng ta sẽ không đào sâu vào phương pháp làm sao chấm dứt quyền tự do tiêu cực của các nhà tâm lý, mà chúng ta chỉ quan sát và nhìn sâu để nhận dạng được Tự Do Tư Tưởng hoạt động như thế nào, và qua sự quan sát đó, chúng ta có thể hiểu được đúng sự thật về Tự Do Tư Tưởng.

Có nghĩa là, đứng trên góc độ của Tư Tưởng thì chúng ta có quyền tự do tuyệt đối. Không ai có thể ngăn cấm hay bắt buộc, áp chế chúng ta được.

Thí dụ, trong Tự Do Tư Tưởng, chúng ta có toàn quyền muốn hại ai thì hại, muốn tiêu diệt ai thì tiêu diệt, mà không có thần thánh, chính quyền, hay luật pháp nào dù thuộc về Tư Bản chủ nghĩa,  hay Xã Hội chủ nghĩa, có thể trừng phạt, bắt bớ, hay giam cầm chúng ta.

Chúng ta có toàn quyền tự do làm nổ tung trái đất, vỡ toang vũ trụ, tiêu diệt thần thánh, cũng không có ai có thể ngăn cấm hay tước đoạt đi Quyền Tự Do Tư Tưởng Tuyệt Đối này của chúng ta. Đó chính là sự thật.

Cho nên, trong định nghĩa Tự Do là mình muốn nghĩ gì theo Ý mình là hoàn toàn chính xác, khi chúng ta thêm vào hai chữ Tư Tưởng theo sau. Hay nói đúng hơn phải là Tự Do trong Tư Tưởng mới rõ nghĩa.

Nhưng khi ứng dụng Tự Do và Quyền Tự Do trong Hành Động thì lại hoàn toàn khác.

Khác ở chỗ nào vậy chú? Diệu Hiền hỏi.

Này bạn trẻ, ai trong chúng ta cũng biết, hành động bao giờ cũng phải đến sau sự tư duy, hay cảm xúc/giác. Nếu không có sự tư duy hay cảm xúc/giác khởi đầu thì chúng ta không thể hành động.

Trong hành động, luôn bao gồm hai trường hợp: một là trực tiếp, và hai là gián tiếp. Hành động trực tiếp là hành động có sự tham gia của sự tư duy và cảm giác.

Còn hành động gián tiếp thì có sự tham gia của cảm xúc với những nguồn năng lượng “không tên”. Cho nên, có những khi, chúng ta cứ hành động một cách “tự nhiên” theo thói quen của Tiềm Thức mà không hề có sự tham gia của cảm giác hay suy nghĩ.

Qua quan sát, chúng ta thấy, Tự Do Hành Động có thể bắt đầu từ Tự Do Tư Tưởng trực tiếp, hay Tự Do Tư Tưởng gián tiếp, tùy theo môi trường, hoàn cảnh, tình trạng v.v.

Nếu như Ngã Thức của chúng ta có sự tư duy hay cảm giác tích cực thì chúng ta sẽ có những hành động tích cực. Nếu như chúng ta có những tư duy, hay cảm xúc tiêu cực thì chúng ta có những hành động tiêu cực.

Đó là đứng trên góc độ về nhân quả, khi tư tưởng hay cảm xúc/giác là Nhân và hành động là Quả.

Nhưng nếu đứng trên góc độ về: kinh tế, xã hội, chính trị, thì Tư Tưởng Hành Động, tuy được bắt đầu bằng quyền tự do trong tư tưởng, nhưng Tự Do trong Hành Động lại phải phụ thuộc vào môi trường, và hoàn cảnh chung quanh và có hai trường hợp sẽ xẩy ra.

Trường hợp một: Nếu Tự Do Hành Động của một cá thể nào đó, mà hành động đó chỉ ảnh hưởng đến cá thể đó, hay riêng cho cá thể đó thì Tự Do Hành Động của cá thể đó là tuyệt đối.

Trường hợp hai: Nhưng nếu như, Tự Do Hành Động của cá thể đó lại liên quan đến tập thể thì Tự Do Hành Động của cá thể đó sẽ bị giới hạn, từ tuyệt đối biến thành tương đối, và cá thể đó phải tuân theo quyền tự do chung của tập thể đã quy định.

Quyền tự do chung của tập thể là quyền tự do mà những cá thể, khi đã chịu chấp nhận sống chung, hay sinh hoạt chung, đòi hỏi mỗi cá nhân phải hy sinh một số quyền tự do tư tưởng (tuyệt đối) của cá nhân, và phải chấp nhận hành động theo quy định về tự do chung (tương đối) để tạo ra an ninh, hay an toàn chung cho tập thể.

Nếu cá nhân đó không tuân theo những quy định do tập thể quy định thì cá nhân đó có thể bị tập thể khống chế hay bắt buộc.

Thí dụ, nếu đứng trên góc độ Tự Do về Tư Tưởng thì cá nhân nào đó, có thể coi hại người là niềm vui, và có thể hại bất cứ một ai mà người đó không thích trong tư tưởng, mà không hề bị sự trừng phạt, bắt bớ, hay giam cầm từ bất cứ ai.

Nhưng nếu cá nhân đó đem tự do trong tư tưởng của mình,  và áp dụng Tự Do trong Hành Động liên quan đến tập thể, và gây thiệt hại cho tập thể thì cá nhân đó sẽ bị tập thể khống chế, trừng phạt, bắt bớ, giam cầm, hay tiêu diệt.

Vì sao? Vì Quyền Tự Do Hành Động của cá nhân đó đã vi phạm vào quyền tự do chung, vi phạm vào an ninh, hay an toàn chung của tập thể.

Đây chính là vấn đề mà chúng ta gây ra tranh cãi nhiều nhất. Bởi vì, chúng ta đã có sự hiểu lầm giữa Tự Do trong Tư Tưởng và Tự Do trong Hành Động.

Ở các nước có nền Dân Chủ cao, luật pháp được đặt ra để bảo vệ sự an ninh, an toàn, và quyền lợi của mỗi cá thể theo đa số. Luật pháp sẽ dựa trên đa số để quy định ra những quyền tự do hành động cho tập thể và bắt buộc mỗi cá thể trong tập thể đó phải tuân theo.

Vì chỉ dựa trên đa số, cho nên, tự do trong hành động của mỗi cá thể trong tập thể sẽ luôn có sự chống đối hay không hài lòng của thiểu số về những quy định do luật pháp của đa số đặt ra.

Với những người thuộc phe thiểu số, họ hay lý luận rằng, họ có quyền tự do hành động theo những gì họ muốn để biện minh cho những việc họ làm trái, hay sai, với những quy định về quyền tự do hành động chung của tập thể đã quy định.

Họ cho rằng, những quy định đó vi phạm vào quyền tự do hành động của họ và họ cảm thấy bất công, cho nên, họ phải tranh đấu để được quyền tự do hành động.

Nhưng thật ra, họ đã lầm lẫn giữa Tự Do và Quyền Tự Do giữa Tư Tưởng và Hành Động.

Nếu họ thêm vào bốn chữ sau Tự Do là, Tư Tưởng hay Hành Động, thì họ sẽ không rơi vào sự mơ hồ hay biện minh cho cái quyền tự do mà họ có thể sử dụng.

Thí dụ, họ có thể đạt được quyền tự do trong hành động một cách tuyệt đối khi họ chọn lựa sống một mình, không sinh hoạt hay va chạm gì đến tập thể. Lúc đó, họ có toàn quyền tự do hành động theo đúng ý họ muốn mà tập thể không thể áp đặt hay trừng phạt họ.

Vấn đề rắc rối ở đây là, họ lại không muốn sống một mình, họ muốn sống chung với mọi người nhưng họ lại muốn có cái quyền tự do hành động tuyệt đối theo ý họ. Và họ bắt mọi người phải chiều theo ý muốn của họ. Nếu không, họ coi như quyền tự do hành động của họ bị xâm phạm, bị cấm đoán.

Trong khi, họ không bao giờ nghĩ, nếu như, người ta thuộc đa số lại phải chiều họ, thì họ thuộc về thiểu số, họ có chịu chiều người ta không? Nếu họ đòi có quyền tự do hành động tuyệt đối, thì những người khác, cũng có quyền tự do hành động tuyệt đối, tại sao người khác lại phải nhường quyền đó cho họ?

Rõ ràng, chúng ta đang sống trong thế giới của nhị nguyên, thế giới của đúng sai, thế giới của tương đối, thế giới của đa số và thiểu số, chứ không phải chúng ta đang sống trong thế giới của nhất nguyên, của tuyệt đối. Cho nên, nếu chúng ta cứ đòi hỏi tất cả các sự việc phải xẩy ra theo tuyệt đối thì đó chỉ là ảo tưởng, không thật, và mãi mãi không bao giờ xẩy ra.

Hãy lấy thí dụ về quyền Tự Do Ngôn Luận, đứng trên góc độ về chính trị, phần lớn chúng ta vẫn hay có sự hiểu lầm và gây ra biết bao tranh cãi.

Theo định nghĩa, quyền tự do ngôn luận là quyền của mỗi một công dân, có quyền nói nên những ý kiến đóng góp cho chính quyền, khi chính quyền đó có những luật lệ gây ra ảnh hưởng đến quyền lợi, an ninh, hay an toàn của tập thể chung; và quyền tự do ngôn luận là quyền tự do thuộc về hành động chứ không phải là quyền tự do thuộc về tư tưởng.

Khi đã nói đến chính quyền, đến tập thể chung, có nghĩa là, quyền tự do đó sẽ chỉ là tương đối chứ không phải tuyệt đối (muốn nói, hay muốn làm gì thì làm), và phải theo sự lựa chọn của đa số chứ không phải là thiểu số.

Thế nên, khi những phản đối hay ý kiến đòi hỏi của nhóm thiểu số đưa ra mà không được chính quyền thay đổi, hay thi hành, thì những người thuộc về thiểu số sinh ra bất mãn và cảm thấy quyền tự do ngôn luận bị vi phạm, khống chế, hay bị kiềm kẹp. Thế là, họ đứng lên kêu gọi biểu tình, gây loạn lạc, chiến tranh, gây ra tang thương, đau khổ cho những người khác.

Để tránh những tình trạng bất ổn, và bảo đảm an ninh, an toàn cho đa số, chính quyền phải bắt giam hay trừng phạt những người thiểu số này. Khi bị bắt giam, những người thiểu số này lại cho rằng, chính quyền đó đã vi phạm vào quyền tự do ngôn luận hay tự do hành động của họ. Đây chính là chuẩn nhưng cần chỉnh. Vì sao?

Vì Quyền Tự Do Ngôn Luận, không phải là quyền tự do tuyệt đối theo tư tưởng của cá nhân, mà là quyền tự do hành động tương đối theo tập thể.

Nếu tập thể muốn thay đổi thì đa số trong tập thể phải lên tiếng. Và chỉ khi đa số trong tập thể muốn thay đổi thì chính quyền mới thay đổi. Còn nếu như đa số vẫn chấp nhận và chỉ có thiểu số muốn thay đổi thì chính quyền sẽ không vì quyền tự do ngôn luận của thiểu số mà thay đổi, rồi sau đó, bắt đa số phải chấp nhận. Đây chính là cách sinh hoạt của thế giới tương đối, hay thể chế dân chủ.

Chúng ta, ai cũng có quyền lựa chọn. Chúng ta có thể lựa chọn sống trong thế giới tương đối hay tuyệt đối. Nhưng chúng ta chỉ có quyền, chọn một trong hai, chứ không thể nào chọn cả hai cùng một lúc được.

Tệ hại hơn, không ít người trong chúng ta lại diễn dịch quyền tự do ngôn luận, vốn chỉ dành trong lĩnh vực chính trị, lấn qua xã hội và kinh tế v.v. 

Chúng ta cho rằng, chúng ta có quyền tự do tuyệt đối, muốn nói gì thì nói, chúng ta có thể nói về bất cứ ai, và nói bất cứ đề tài nào, về người nào đó, ngay cả đặt điều, hay nói không đúng sự thật, mà không cần phải chịu trách nhiệm là chúng ta có gây ra tổn thương cho người khác hay không, hay có làm tổn hại đến công ty của người khác hay không? Bởi vì, theo lý luận và diễn dịch của chúng ta, chúng ta có quyền tự do ngôn luận.

Nếu như chính quyền hay luật pháp vì bảo vệ quyền tự do chung của mọi cá nhân trong tập thể, và trừng phạt cái quyền tự do hành động hay ngôn ngữ gây ra tổn thương và tổn hại cho người khác của chúng ta, thì chúng ta cho rằng, chính quyền hay luật pháp đó bất công đã vi phạm vào quyền tự do hành động hay tự do ngôn luận tuyệt đối của chúng ta. Và chúng ta nổi loạn, chống đối lại chính quyền hay đa số.

Rõ ràng, quyền tự do ngôn luận chỉ được áp dụng cho chính trị, chứ không hề áp dụng cho xã hội hay kinh tế. Nhưng chúng ta lại thích diễn dịch theo ý mình, nên đã gây ra những nhận thức sai lầm, những tư tưởng lệch lạc, những phỏng đoán thiếu chính xác.

Rồi chúng ta dựa trên sự tư duy đó để hành động, và tạo ra vô vàn hậu quả mà chúng ta phải gánh chịu, bao gồm: sự bạo loạn, đấu tranh, loạn lạc, chết chóc, đau thương, và khốn khổ cho tất cả mọi người.

Với những nước có nền dân chủ cao, những luật lệ được đặt ra, dựa trên quyền tự do chung, thì trong luật lệ, luôn có một phần đặt biệt dành cho những cá nhân thuộc về thiểu số.

Với những người thiểu số, họ có thể dành được quyền tự do chung của tập thể, theo ý họ, mà không cần phải gây ra bạo động, nổi loạn, gây ra chiến tranh, tàn hủy con người, đó là, luật lệ hay chính quyền luôn cho phép những người thuộc phe thiểu số có quyền kêu gọi, thỉnh cầu, thuyết phục những cá nhân khác, qua diễn thuyết, hay dự luật bầu cử, để thay đổi luật lệ, luật pháp, hay chính quyền, khi nhóm thiểu số biến thành đa số.

Tiếc rằng, phần lớn chúng ta lại thích sử dụng đến bạo động, nổi loạn, đấu tranh, lật đổ, hơn là sử dụng những quyền mà luật pháp cho phép, trong cách giải quyết ôn hòa, êm thắm.

Dĩ nhiên, trên thực tế, cái quyền tự do chung của luật pháp, cho phép những người thiểu số có thể thay đổi cái quyền tự do hành động, theo ý họ, tùy thuộc vào mỗi quốc gia, hay các thể chế. Có nơi có, nơi không.

Nhưng trên căn bản, ai trong chúng ta cũng đều có Tự Do và Quyền Tự Do. Vấn đề ở đây là, Tự Do và Quyền Tự Do đó, chúng ta sẽ sử dụng vào lĩnh vực nào. Vì mỗi lĩnh vực khác nhau thì Tự Do và Quyền Tự Do sẽ có sự ứng dụng, giới hạn, cũng như kết quả hay hậu quả sẽ khác nhau.

Cho nên, khi chúng ta nói đến tự do và quyền tự do thì chúng ta cần phải hiểu rất rõ ràng, đó là tự do và quyền tự do đang thuộc về tư tưởng hay hành động.

Tóm lại, Tự Do trong Tư Tưởng là sự tự do tuyệt đối của cá nhân. Không ai có quyền cấm, bắt, giam, hay trừng phạt cá nhân đó, nếu như cá nhân đó dùng quyền tự do tuyệt đối trong tư tưởng của cá nhân đó mà thôi.

Ngược lại, Tự Do trong Hành Động là sự tư do tương đối, khi cá nhân đã chấp nhận sống chung với tập thể, và phải chấp nhận thay đổi một số quyền tự do tuyệt đối của họ theo quyền tự do chung tương đối của tập thể đã quy định.

Cá nhân đó, có quyền sử dụng quyền tự do hành động một cách tuyệt đối theo ý mình, khi cá nhân đó chỉ sinh hoạt một mình, và không có sự liên hệ hay va chạm đến tập thể.

Nếu cá nhân đó, vì sợ sống cô đơn, hay vì lý do gì khác, muốn sống chung với tập thể, thì cá nhân đó phải chấp nhận lệ thuộc vào quyền tự do chung của tập thể, và phải tuân thủ theo đúng với những luật lệ quy định mà tập thể đó đặt ra.

Nếu cá nhân nào vi phạm vào quyền tự do chung của tập thể thì sẽ bị luật pháp hay luật lệ của tập thể đặt ra, trừng phạt, bắt ép, giam cầm v.v.

Qua thí dụ về định nghĩa hai chữ Tự Do, chúng ta thấy, chỉ cần chúng ta diễn dịch lệch lạc là chúng ta sẽ tạo ra biết bao khổ đau cho con người.

Chính vì vậy, chúng ta phải rất cẩn thận khi diễn dịch định nghĩa của chúng ta, nếu không, chính chúng ta cũng đang biến chúng ta thành nạn nhân của chính mình.

Trở lại niềm tin, nơi mà Ngã Thức của chúng ta nương tựa vào đó để xây dựng cá tính và cách ứng xử của chúng ta. Chúng ta thấy, niềm tin của chúng ta là cái quả từ cái nhân là định nghĩa. Nếu muốn thay đổi cái quả, chúng ta chỉ cần bắt đầu từ nhân.

Và đây là một số phương pháp mà chúng ta có thể ứng dụng trong đời sống hàng ngày để tạo ra một niềm tin vững chãi.

Khi bắt đầu một câu chuyện thì chúng ta nên luôn luôn xác định chúng ta đang đứng trên góc độ nào để nói. Việc xác định góc độ sẽ giúp cho chính chúng ta và người nghe có thể nhìn về cùng một hướng.

Khi chúng ta dùng những từ ngữ liên quan đến cảm xúc/giác, chúng ta cũng nên nói rõ định nghĩa của chúng ta là gì. Không có định nghĩa đúng hay sai. Chỉ là, mỗi người chúng ta đều có quyền diễn dịch theo ý của mình. Vì vậy, trong giao tiếp, chúng ta cần nên nói rõ định nghĩa của chúng ta để tránh gây ra những hiểu lầm về định nghĩa.

Khi nghe những từ ngữ liên quan đến cảm xúc/giác, chúng ta cũng nên xác định và hỏi lại đối tượng định nghĩa của họ là gì. Hỏi để chúng ta biết về định nghĩa và góc độ nhìn hay sự diễn dịch định nghĩa của họ, chứ không phải để lên án hay chỉ trích định nghĩa của đối tượng là đúng hay sai. Hay áp lực người đó phải thay đổi định nghĩa của họ theo mình.

Không nên sử dụng tiêu chuẩn kép, dù trong bất cứ trường hợp nào. Chỉ nên dùng một tiêu chuẩn: hễ đúng với mình thì đúng với người, mà sai với mình thì sai với người.

Muốn xác định được niềm tin của chúng ta như thế nào thì trước khi tin, nên hỏi những câu hỏi như sau: “có thật không”, “đã hỏi hay hiểu được định nghĩa của họ chưa?” Nếu là thông tin, thì “nguồn đó ở đâu?”, “có đáng tin cậy không?”, “Có bao nhiêu thông tin trái ngược với thông tin này?”, v.v.

Khi đã tin, và trong hành xử, thì dùng kết quả hay hậu quả để biết được niềm tin đó đúng hay sai. Nếu ra kết quả là đúng, nếu ra hậu quả là sai. Khi sai thì thay đổi lại định nghĩa, chứ không cần chèn ép hay áp bức phải thay đổi trong cách hành xử.

Đó là vài nét về cách ứng dụng để chỉnh lại niềm tin.

Khi niềm tin được kiểm chứng, có hiểu biết rõ ràng những góc độ, thì niềm tin đó sẽ đem đến cho chúng ta nhiều kết quả hay An Lạc nhiều hơn.

Khi có được sự An Lạc, và chúng ta chia xẻ trong chính những sự trải nghiệm, kiểm nghiệm của chúng ta thì khi nói hay làm việc gì, chúng ta sẽ tự tin. Vì sao? Vì chúng ta dựa vào kết quả và sự trải nghiệm của chính chúng ta.

Ngày nay, một số các diễn giả hay hướng dẫn các cách thức, hay phương pháp để gia tăng sự tự tin (tin vào khả năng của mình) của cá thể. Nhưng sự thật, sự tư tin chỉ xuất hiện khi chúng ta có niềm tin vững chãi, đúng với sự thật.

Khi niềm tin của chúng ta chỉ dựa trên sự phỏng đoán hay tưởng tượng thì khi tiếp xúc với sự thật chúng ta sẽ dễ bị “vỡ mộng”.

Chính vì vậy, không ít người trong chúng ta đã vô cùng thất vọng về những niềm tin của mình, và cuối cùng rơi vào trạng thái tự ty, tự tôn.

Tóm lại, muốn có được tự tin (tin vào khả năng của mình) thì nên phát triển từ niềm tin. Niềm tin chính là gốc rễ của tự tin. Khi gốc rễ phát triển mạnh thì tự tin sẽ có mặt, hay nở hoa trái là chuyện tất nhiên.

Thí dụ: chúng ta chỉ có thể tự tin khi chúng ta có kinh nghiệm hay trải qua những vấn đề nào đó. Nếu chúng ta không có kinh nghiệm thì chúng ta không thể tự tin được. Nếu có chăng, đó cũng là sự đánh lừa hay “tự trấn an”, chứ đó không phải là tự tin.

Chúng ta phải hiểu, khi nói tự tin là khả năng, có nghĩa là, chúng ta đã phải làm qua, trải qua, mới xác định được chúng ta có khả năng hay không. Chứ không thể nào, chưa làm qua, mà chúng ta có thể khẳng định là chúng ta có khả năng được; trừ khi, chúng ta dùng sự tượng tượng và phỏng đoán để đưa ra kết quả.

Và muốn trải qua, hay có kinh nghiệm thì chúng ta phải có niềm tin trước, rồi mới bắt đầu thực hành quá trình trải nghiệm hay tích lũy kinh nghiệm.

Nếu chúng ta không bắt đầu từ niềm tin, và cứ tìm đủ mọi phương pháp để gia tăng sự tự tin, thì cũng giống như chúng ta đang “mò trăng dưới nước” vậy.

Thay vì, tốn nhiều thời gian cho việc phát triển cái ngọn tự tin, chúng ta nên dành thời gian đó để kiểm chứng và thay đổi lại những niềm tin mà chúng ta đã tích lũy trong qúa khứ.

Nếu niềm tin nào đúng thì chúng ta giữ lại, và niềm tin nào sai thì chúng ta đi thay lại định nghĩa mới cho niềm tin đó.

Việc làm này, xem ra hợp lý, thiết thực, và hữu ích hơn. Vì sao? Vì chúng ta đang có vô vàn niềm tin vẫn chưa được kiểm chứng.

Cứ càng nghe chia xẻ của chú thì cháu càng thấy chúng ta thích dùng Trí hơn dùng Tuệ chú nhỉ.

Chẳng trách sao, cuộc đời của chúng ta cứ đau khổ, vì chúng ta cứ lo tập trung để phát triển về phần ngọn mà lại quên đi phần gốc. Thật đáng tiếc làm sao. Hoàng Trang nói.

Những đứa trẻ từ đâu kéo đến gần chỗ ba chú cháu đang ngồi, và bầy trò chơi “bịt mắt bắt dê”. Chúng vui đùa, cười nắc nẻ. Ba chú cháu cùng hướng mắt về đám trẻ và vui lây với sự hồn nhiên tươi mát của trẻ thơ.

ĐÓA HOA VÔ THƯỜNG

album-art

00:00

TẢI MP3 – TRƯƠNG THU HUYỀN – VINH ĐOÀN

TẢI NHẠC MP3 – CA SĨ VINH ĐOÀN

Chiều nay, cả ba, Diệu Hiền, Hoàng Trang và Nhật Minh cùng đến thăm ông chú.

Diệu Hiền vừa gặp ông chú đã tíu tít cười nói:

Chú ơi, chúng ta đã chia xẻ rất nhiều về tôn giáo và tâm lý, chiều nay, chúng cháu muốn nghe chú chia xẻ về âm nhạc được không chú.

Xin chiều lòng các bạn, vậy bạn muốn chúng ta sẽ chia xẻ về tác giả nào. Ông chú nói.

Trịnh Công Sơn đi chú. Chúng cháu rất mê nhạc của chú Trịnh, nhưng đôi khi nghe xong vẫn chưa hiểu được trọn vẹn ý nghĩa của mỗi bài hát, hay là chú chia xẻ với chúng cháu về bài Đóa Hoa Vô Thường nghe chú.

Trịnh Công Sơn có thể nói là một nhạc sĩ lớn trong nền âm nhạc Việt Nam. Cuộc đời của ông đã để lại rất nhiều những tác phẩm có giá trị vượt không gian và thời gian.

Không ai có thể phủ nhận tài hoa của ông khi ông sử dụng những từ ngữ “siêu việt” trong những bài nhạc của ông. Nhưng cách ứng xử của ông, cũng có rất nhiều người không mấy hài lòng, nhất là đứng trên góc độ về chính trị.

Ở đây, chúng ta sẽ không đánh giá về cách ứng xử của Trịnh Công Sơn là Đúng hay Sai. Vì Đúng hay Sai, không phải dùng để đánh giá người khác, mà dùng để hoàn chỉnh lại chính mình.

Cho nên, chúng ta chỉ nên quan sát Nhạc của Trịnh Công Sơn dưới góc nhìn của Tuệ Giác.

Nói đến nhạc của Trịnh Công Sơn là phải nói đến tính vô thường của vạn pháp. Nếu chúng ta lấy đi tính vô thường trong nhạc Trịnh, thì nhạc của Trịnh Công Sơn cũng không còn những nét đẹp như hiện tại.

Trong hầu hết các nhạc phẩm của Trịnh Công Sơn, chúng ta luôn gặp những cặp đối đãi dính liền với nhau. Ông vừa đưa ra điều vui trong câu trước, thì ngay trong câu sau, đã dính liền với nỗi buồn.

Cái hay trong nhạc Trịnh về nỗi buồn, không phải là một sự oán hờn, tránh móc, hay thù hận, mà nỗi buồn đi theo, để nhấn mạnh đến tính vô thường luôn có mặt trong cuộc sống của chúng ta trong từng mỗi phút giây.

Chúng ta vì đã qúa quen sử dụng Tiềm Thức, nên chúng ta không Ý Thức được sự vô thường đang xẩy ra chung quanh chúng ta; cho nên, chúng ta hay quá ỷ y rằng, cuộc sống hay tình cảm của chúng ta rất bền bỉ và lâu dài.

Có thể nói, nhạc Trịnh như một tiếng chuông “cảnh tỉnh”, giúp chúng ta sử dụng Ý Thức nhiều hơn để nhận diện được thực tại đang xẩy ra trong vô thường.

Cái hay của nhạc Trịnh chính là, khi Ý Thức được sự vô thường, thay vì sợ hãi, thì Trịnh Công Sơn lại chia xẻ cho chúng ta một góc nhìn mới. Góc độ đẹp của vô Thường.

Đóa Hoa Vô Thường là một bài nhạc rất lạ của Trịnh Công Sơn. Trong vài trăm bài nhạc của ông, có những bài nhạc ông diễn tả về Bản Thể, có những bài nhạc ông diễn tả về Ứng Dụng, nhưng hiếm có bài nào, ông lại diễn tả cả một qúa trình đi từ Bản Ngã đến Bản Thể, và đi từ Bản Thể về lại Bản Ngã, như bài Đóa Hoa Vô Thường này.

Ngay phần mở đầu, chúng ta đã thấy “bóng dáng của mười bức tranh chăn trâu” qua việc xác định mục đích của một người đi từ Bản Ngã đến Bản Thể.

Trong bốn câu đầu tiên, nếu chúng ta chỉ hiểu theo nghĩa đen, thì đó có thể diễn tả trạng thái của một người con trai đi tìm một người con gái đẹp, nhưng người con gái này, không phải đẹp về hình tướng, mà đẹp về tinh thần.

Tìm em tôi tìm mình hạc xương mai

Theo định nghĩa của Huỳnh Tịnh Của, “Mình hạc xương mai”, có nghĩa là, người có xương nhỏ ốm yếu, thanh cảnh, cốt cách lịch sự, hay sự duyên dáng của người phụ nữ.

Trong ngôn ngữ học của phương Đông, Hạc là con vật tượng trưng cho sự tinh tuý, thanh tịnh, thần tiên thoát tục hay còn gọi là Tiên Hạc.

Chim Hạc là loài đứng đầu trong họ lông vũ còn gọi là đại điểu, hay nhất phẩm điểu, có tính cách của một người quân tử, là con chim của vũ trụ, của tầng cao, báo hiệu sự chuyển mùa, đại diện cho thế lực thiên nhiên từ trời xanh.

Hạc loại linh vật được cho là bất tử của loài chim, là loài chim có phẩm chất cao quý, mạnh mẽ, đối đầu với khó khăn, mang lại nhiều may mắn.

Tìm trên non ngàn một cành hoa khôi

Câu kế tiếp, Trịnh Công Sơn vẫn tiếp tục khẳng định cái đẹp như hoa khôi – đứng đầu các loại hoa.

Nụ cười mong manh, một hồn yếu đuối

Trong câu này, nếu hiểu theo nghĩa đen, thì sẽ thấy vô cùng khó hiểu, vì nếu hai câu đầu đang xác định về cái đẹp rất rõ ràng, thì qua “câu nụ cười mong manh, một hồn yếu đuối”, lại diễn tả về cái gì đó không được đẹp mấy. Vậy thì ý nghĩa của câu này, nếu phải hiểu, thì nên hiểu là, trong một tâm hồn yếu đuối luôn khổ đau, khi có thể nở được nụ cười, thì nụ cười đó cũng là một nét đẹp, mặc dù, nét đẹp đó rất mong manh, dễ biến mất.

Một bờ môi thơm, một hồn giấy mới

Trong câu này Trịnh Công Sơn cũng lại đưa về hình ảnh đẹp.

Nếu tóm lại, trong bốn câu trên, chúng ta thấy ông đang diễn tả về những nét đẹp đang có mặt trong cuộc đời.

Nếu hiểu theo nghĩa đi tìm người yêu, thì đây chính là mẫu người yêu lý tưởng mà ông đi tìm, người yêu này, không phải là người yêu có những nét kiều diễm về hình tướng, mà người yêu của ông, lại có những nét đẹp về tinh thần. Nét đẹp công, dung, ngôn, hạnh của người phụ nữ, tuy cuộc đời có đầy những khó khăn khổ cực, nhưng vẫn dịu dàng, chịu đựng, hy sinh, với một tâm hồn bao dung, độ lượng.

Nhưng nếu đứng trên góc độ về nghĩa bóng, thì nhạc phẩm Đóa Hoa Vô Thường lại đang diễn tả về qúa trình trải nghiệm của ông/hành giả đi từ Bản Ngã đến Bản Thể.

Trong bốn câu trên, chúng ta thấy “bóng dáng” của bức tranh thứ nhất: Tìm Trâu, đang được ông dựng lại qua ngôn ngữ mới.

Hình ảnh “Mình Hạc xương mai, hoa khôi, nụ cười, một hồn giấy mới” là biểu hiện của sự An và Lạc khi đối diện được với sự thật mà ông mong muốn đạt được.

Tìm em tôi tìm, nhủ lòng tôi ơi

Về nghĩa đen, trong câu này, diễn tả một sự quyết tâm của một người khi đã xác định được mẫu người yêu lý tưởng, thay vì, chỉ lưu lại trong Tiềm Thức thì lại bắt đầu thực hiện ý định đi tìm của mình. Hai chữ “nhủ lòng” như một sự nhắc nhở, không được quên mục đích mình muốn đi tìm. 

Tìm đêm chưa từng, tìm ngày tinh khôi

Và hành động đi tìm này, không dừng lại, dù là ngày hay đêm.

Tìm chim trong đàn ngậm hạt sương bay

Ngay cả những nơi chốn khó tìm, hay cả những sự việc tưởng chừng như hoang tưởng: “ngậm hạt sương bay–hạt sương đã bay, làm sao ngậm được”, nhưng vẫn đi tìm.

Tìm lại trên sông những dấu hài

Dù tìm nơi xa xăm, hay hoang tưởng vẫn không thể gặp, nên ông lại quyết định trở về, tìm lại những nơi quanh mình, xem có gặp được không.

Tìm em xa gần, đất trời rộn ràng

Và sự quyết tâm đi tìm này, không hề buông bỏ, vẫn tiếp tục đi tìm từ gần đến xa. Trong câu này, hai chữ “rộn ràng” diễn tả cảm giác như, sắp tìm ra được người yêu lý tưởng của mình trong một thời gian rất gần.

Tìm trong sương hồng, trong chiều bạc mệnh

Câu này, cũng diễn tả sự đi tìm chưa hề dừng lại dù ngày hay đêm. Sương hồng là những giọt sương buổi sang; bạc mệnh có nghĩa là sắp chấm dứt số mệnh của buổi chiều, hay sắp tối.

Trăng tàn nguyệt tận chưa từng tuyệt vọng đâu em

Có thể nói, cùng một ý nghĩa diễn tả về cuộc đi tìm của ông từ sáng đến tối, nhưng qua ngôn ngữ của ông, ông đã dùng đến ba hình ảnh khác nhau như: Tìm đêm chưa từng, tìm ngày tinh khôi, Tìm trong sương hồng, trong chiều bạc mệnh, Trăng tàn nguyệt tận. Mỗi câu đều có những nét đẹp riêng, nhưng vẫn mang một ý nghĩa chung: từ sáng đến tối.

Trong câu này, ông vẫn tiếp tục khẳng định mục đích đi tìm của ông rất rõ ràng, không lùi bước, không hề tuyệt vọng.

Về nghĩa bóng, trong bẩy câu trên, chúng ta thấy được bóng dáng của bức tranh thứ hai và ba: Thấy Dấu, qua bốn câu trước, và Thấy Trâu, trong ba câu sau.

Trong qúa trình Thấy Dấu, chúng ta thấy, ông đã diễn tả những dấu mà ông đi tìm qua, những chữ như: nhủ lòng, tìm đêm, tìm ngày, tìm chim, tìm lại trên sông v.v.

Trong qúa trình Thấy Trâu, ông dùng những từ như: rộn ràng, chưa từng tuyệt vọng. Nếu diễn rộng hơn, chúng ta có thể thấy trong 11 câu khởi đầu thì bốn câu đầu tiên là ông xác định ông có vấn đề là những khổ đau, và ông muốn đi giải quyết những khổ đau đó.

Ông biết đằng sau những khổ đau đó là sự An Lạc và Hạnh Phúc, và ông quyết tâm đi giải quyết vấn đề. Bẩy câu sau, diễn tả ông đi tìm những nguyên nhân tạo ra vấn đề. Ông luôn vui vẻ (rộn ràng) tin tưởng (chưa từng tuyệt vọng) khi ông tìm ra được gốc rễ của vấn đề và giải quyết, ông sẽ có được sự An Lạc, Hạnh Phúc. Và câu kế tiếp ông đã dẫn chứng rất rõ ràng.

Tìm trong vô thường có đôi dòng kinh, sấm bay rền vang

Bỗng tôi thấy em dưới chân cội nguồn

Tới đây, bài nhạc không còn có thể giảng giải theo nghĩa đen được, mà phải dựa hoàn toàn vào nghĩa thực của bài nhạc là diễn ta về quá trình trải nghiệm của một người đi từ Bản Ngã về Bản Thể, và qúa trình đi từ Bản Thể về lại Bản Ngã.

Trong hai câu này, Trịnh Công Sơn đang giới thiệu về phương pháp mà ông ứng dụng trong sự trải nghiệm, đó là: Vô Thường.

Qua sự quan sát và nhìn sâu vào vô thường, ông đã tiếp xúc được với Bản Thể. Hình ảnh “sấm bay rền vang” diễn tả một sự chấn động tận tâm can, làm thay đổi tất cả những nhận thức sai lầm của ông hay hành giả. Khi những nhận thức sai lầm không còn tồn tại, ông tiếp xúc được với Bản Thể.

Cái hay trong ngôn từ của ông là dùng chữ Bỗng. Ý nghĩa của chữ bỗng là một điều gì đó chợt xẩy ra mà không có dự liệu trước.

Vậy ông đã không dự liệu được điều gì? Điều mà ông không dự liệu được, đó là, khi có sự quan sát và nhìn sâu, chúng ta có thể tiếp xúc được với sự thật ngay tức thì, mà không cần phải tích lũy, học hỏi, hay chờ đợi cả ngàn kiếp.

Trong Thiền tông, trạng thái này gọi là Đốn Ngộ – Hiểu ra, nhận ra ngay tức thì; hay Trực Ngộ – Hiểu ra, nhận ra trực tiếp mà không qua sự suy luận.

Ba chữ “Chân Cội Nguồn” được sử dụng rất hay. Cội nguồn tức là nguồn từ gốc, và Chân là Chân Thật. Hay nói rộng hơn là Bản Thể vốn Chân Thật Như Vậy.

Nếu luận theo 10 bức tranh chăn trâu thì đây là bức tranh thứ tư: Được Trâu

Tôi mời em về đêm gội mưa trong

Có thể nói, hay nhất trong câu này là “đêm gội mưa trong”. Đêm trong Phật học thường ví với vô minh. Khi vô minh được tắm gội sạch sẽ, không còn những vướng bận thì vô minh trở thành Minh, có nghĩa là trong sáng.  Chỉ với bốn chữ, ông có thể diễn tả cả một qúa trình của ông/hành giả đi từ vô minh đến minh, một cách thần kỳ.

Chữ Em ở đây, không phải là một đối tượng, mà chính là Ngã Thức của ông/hành giả, sau những năm tháng sống trong tăm tối mê mờ đã gội rửa sạch những nhận thức sai lầm gây ra khổ đau qua sự quan sát và nhìn sâu vào vô thường.

Em ngồi bốn bề thơm ngát hương trầm

Khi những nhận thức sai lầm gây ra khổ đau không còn tồn tại trong Tâm Thức thì Tâm Thức/Ngã Thức này chính là Tâm Phật. Bốn bề nghĩa là tứ phương đều thơm hương thanh tịnh, giải thoát, không còn bị ràng buộc.

Trong vườn mưa tạnh, tiếng nhạc hân hoan

“Vườn mưa tạnh” diễn tả Ngã Thức không còn những khổ đau. Thiền sư Nhất Hạnh, trong bài Sám Nguyện có câu: “Vườn Tâm gieo hạt giống xấu, Tham Sân Tự Ái dẫy đầy” là nói về Ngã Thức đang chất chứa những nhận thức sai lầm gây ra khổ đau. Hai chữ “mưa tạnh” có nghĩa là những giọt nước mắt khổ đau đã ngừng rơi hay chấm dứt (tạnh).

Chính vì những sự khổ đau đã tận diệt, nên có những tiếng nhạc hân hoan, An Lạc. Đây là hình ảnh của bức tranh thứ năm: Chăn Trâu, khi đang Trụ trong An của Bản Thể và có sự vui vẻ (Lạc)

Trăng vàng khai hội một đóa hoa quỳnh

Trăng trong đạo Phật được ví như Chân lý. Chân lý của đạo Phật là giải thoát khỏi những tri kiến sai lầm gây ra sự khổ đau. Nguyên nhân gây ra những nhận thức sai lầm chính là vì chúng ta đã lầm lẫn “vô thường” chính là “thường”.

Chính vì vậy, chúng ta luôn ham muốn và chiếm hữu, từ đó mới gây ra khổ đau. Nếu chúng ta luôn Ý Thức được vô thường thì chúng ta sẽ không còn ham muốn và chiếm hữu nữa. Như vậy, chúng ta có được sự giải thoát.

Hoa Quỳnh là một loại hoa nở vào ban đêm, và sẽ tàn vào buổi sáng. Trong khoảng 4-6 tiếng, hoa quỳnh sẽ “phô diễn” cả một qúa trình sinh diệt, từ nụ bắt đầu nở cánh hoa, và cuối cùng, lại khép lại những cánh hoa, khi tàn. Có thể nói, dùng hoa quỳnh để biểu tượng cho vô thường là hình ảnh đẹp và vô cùng sinh động.

Về 10 bức tranh Chăn Trâu thì đây là bức thứ sáu: Cỡi Trâu Về Nhà.

Từ nay tôi đã có người

Có em đi đứng bên đời líu lo

Từ nay tôi đã có tình

Có em yêu dấu lẫy lừng nói thưa

Từ em tôi đã đắp bồi

Có tôi trong dáng em ngồi trước sân

Trong 6 câu này, chúng ta thấy ông dùng hai chữ rất hay, đó là: “tôi” và “người”. Nếu chúng ta đã có kinh nghiệm về 10 bức tranh Chăn Trâu, chúng ta biết, ông đang diễn tả về bức tranh thứ bẩy: Quên Trâu Còn Người.

Trong qúa trình đi từ Bản Thể về lại Bản Ngã, ông đã có được sự An Lạc Tuyệt Đối của mình, hay An Riêng, thì đây là quá trình ông đang muốn thiết lập được cái An Chung giữa cá thể và tập thể.

Từ câu “Có em … cho tới trước sân”, ông diễn tả về trạng thái An Lạc Tuyệt đối hay An Riêng của ông như thế nào. Nhưng hay nhất là hai chữ “đắp bồi”, có nghĩa là, trong cái An Riêng của ông, ông đang cộng thêm cái An Chung của mọi người vào.

Mùa đông cho em nỗi buồn

Chiều em ra đứng hát kinh đầu sông

Tàn đông con nước kéo lên

Chút tình mới chớm đã viên thành

Trong bốn câu này, chúng ta thấy ông đang diễn tả về “người” hay tập thể sinh hoạt như thế nào. Những khổ đau của họ khi đang đánh mất đi sự An Lạc Thường Hằng vốn có sẵn trong mỗi một con người. Có những lúc khi tiếp xúc với tập thể, ông không thể thiết lập được cái An Chung, mà ở đó, chỉ có cái An Riêng của chính mình.

Sự độc đáo trong cách diễn đạt của ông, chính là hai chữ “chút tình”, có nghĩa là, cái tình không nhiều lắm này, chỉ muốn được sống chung với mọi người để hưởng An Chung, nhưng xem ra, cũng chẳng thể nào. Hai chữ “viên thành” ở đây, nên hiểu theo nghĩa ngược lại, có nghĩa là, không phải là sự thành đạt một cách đầy đủ, tròn đầy, mà phải hiểu là sự mong muốn sống chung với mọi người bình an đã không thể thực hiện được, và đã bị kết thúc ngay từ khi trong trứng nước (mới chớm)

Từ nay anh đã có nàng

Biết ơn sông núi đáp đền tiếng ca

Mùa xuân trên những mái nhà

Có con chim hót tên là ái – ân

Bốn câu này, diễn tả trạng thái khi ông thiết lập được cái An Chung cho cá nhân ông và tập thể. Hai chữ Ái Ân ở đây, không nên hiểu theo nghĩa của vợ chồng, mà nên hiểu là có sự yêu thương (ái) và những ân tình (ân) được thiết lập giữa người với người.

Hình ảnh mùa xuân nói đến sự sự hạnh phúc, ấm êm, an vui đang có trong mọi người (mái nhà). Mọi người cư xử với nhau và trao cho nhau những yêu thương và hiểu biết. Đây là bóng dáng của bức tranh thứ tám: Người Trâu Đều Quên.

 Sen hồng một nụ, em ngồi một thuở

Một thuở yêu nhau có vui cùng sầu

Từ rạng đông cao đến đêm ngọt ngào

Sen hồng một độ, em hồng một thuở xuân xanh

Sen buồn một mình

Em buồn đền trọn mối tình

Trong sáu câu này, chúng ta lại được chứng kiến qúa trình phát triển giữa An Riêng và An Chung, giữa cá nhân ông với tập thể, không phải lúc nào cũng có thể được thiết lập. Trong 6 câu này, hai chữ Sen Hồng biểu hiện cho sự An Lạc của ông, vẫn luôn khao khát được hòa chung vào trong An Chung với mọi người.

Nhưng trên thực tế, ông không thể đạt được. “Sen Buồn một mình”, có nghĩa là, nhiều lúc ông buồn, nhưng nỗi buồn này, không phải buồn vì ông không thiết lập được An Chung, mà ông buồn, vì tập thể vẫn còn đang quay cuồng sống trong những đau khổ, mà không nhận diện được cái An đang Thường hằng trong mỗi người. Cho nên, con người đã phải gánh chịu những hậu quả từ những sự khổ đau đó.

Một từ ngữ rất hay để diễn tả cho sự gánh chịu khổ đau đó là chữ “đền”. Có nghĩa là bồi thường lại, hay trả lại. Nhưng mọi người trả lại cái gì? Trả lại cái An Chung giữa người và người (trọn mối tình) đã không còn nữa, mà chỉ còn lại là những khổ đau, và bất an.

Một chiều em đứng cuối sông

Gió mùa Thu rất ân cần

Chở lời kinh đến núi non

Những lời tình em trối trăn

Một thời yêu dấu đã qua

Gót hồng em muốn quay về

Dù trần gian có xót xa

Cũng đành về với quê nhà

Trong tám câu này, ông diễn tả cả một quá trình đầy cố gắng để thiết lập An chung giữa ông với mọi người, nhưng cuối cùng thì ông vẫn không thể. Cho dù, lòng ông đầy từ bi, thương xót cho người đời, nhưng ông cũng đành phải chấp nhận hiện thực là đã vượt qúa tầm tay của ông, và ông cũng đành phải trở về sống trong cái An Riêng Tuyệt Đối của ông. Đây chính là hình ảnh của bức tranh thứ chín: Trở Về Nguồn Cội.

Từ đó trong vườn khuya

Ôi áo xưa em là

Một chút mây phù du

Đã thoáng qua đời ta

Từ đó trong hồn ta

Ôi tiếng chuông não nề

Ngựa hí vang rừng xa

Vọng suốt đất trời kia

Trong tám câu này, chúng ta lại có dịp để nhìn suốt tâm tư của ông, hay nói đúng hơn, lòng từ bi của ông lại bị rung động khi tiếp xúc với mọi người đang quay cuồng sống trong đau khổ.

Hình ảnh của “phù du, thoáng qua, hồn ta”, gợi nhớ trong ông những khi thiết lập được cái An Chung với người. Nhưng cái An Chung đó rất bạc mệnh, chỉ có thể tồn tại được trong một khoảng thời gian rất ngắn như tên gọi Phù Du (là tên một loài côn trùng nhỏ, có cánh, chỉ sống được vài giờ đồng hồ).

Có thể nói, ông đã tận hết sức của mình, bằng tất cả những gì ông có thể, từ thơ văn cho đến âm nhạc, hội họa, để cảnh tỉnh mọi người. Nhưng, những tiếng chuông cảnh tỉnh đó, vốn “vô cảm” với con người. Trong khi, những tiếng chuông đó có thể vang vọng lay chuyển cả trời đất.

Từ đó ta ngồi mê

Để thấy trên đường xa

Một chuyến xe tựa như

Vừa đến nơi chia lìa

Từ đó ta nằm đau

Ôi núi cũng như đèo

Một chút vô thường theo

Từng phút cao giờ sâu

Trong tám câu này, chúng ta thấy được những tâm trạng xao động của ông, và ông đang đánh mất đi cái An Riêng Tuyệt đối của chính mình. Nguyên do là vì, ông qúa thương người, muốn họ có thể sống được An Vui, nhưng ông không thể làm được. Ông đã không còn sống trong Bản Thể của chính ông để có được An Lạc, và ông lại bắt đầu mê mờ vì hai chữ “yêu thương”.

Hai chữ này đã lôi kéo ông, mà trong bài “Một Cõi Đi Về”, ông đã gọi sự yêu thương là con tinh, có nghĩa là, một loại chúng sanh có tánh linh, rất qủy quyệt, và có sự biến hóa.

Tình yêu thương, khi sử dụng mà không có sự hiểu biết, thì chính sự yêu thương cũng có thể gây ra sự khổ đau như thường.

Từ đó hoa là em

Một sớm kia rất hồng

Nở hết trong hoàng hôn

Đợi gió vô thường lên

Từ đó em là sương

Rụng mát trong bình minh

Từ đó ta là đêm

Nở đóa hoa vô thường

Nếu tám câu trên diễn tả trạng thái mê mờ vì hai chữ yêu thương con người, và muốn giúp họ, thì tám câu này, lại diễn tả hình ảnh ông trở về sống trong sự An Lạc Tuyệt đối của ông. Ông chấp nhận hiện thực, và không còn mong đợi. Ông chấp nhận, dù rằng, người đời đang sống trong đau khổ đó, nhưng khi họ có dịp tiếp xúc với vô thường, họ sẽ Ý Thức ra, và quay về sống với An Thường Hằng họ đang có.

Trong các câu: “một sớm kia rất hồng, hay rụng mát trong bình minh”, nhấn mạnh đến sự hy vọng của ông với mọi người. Ông hy vọng, họ sẽ Ý Thức được sự vô thường đang hiện hữu, và thay đổi cách sống hay ứng xử để đạt được cái An cho mình.

Trong toàn bộ bài nhạc này, chúng ta thấy, thiếu bức tranh thứ mười: Thỏng Tay Vào Chợ, nơi ông có thể thiết lập được cái An Chung và sống trong cái An chung với mọi người. Có lẽ, đó là điều ông hối tiếc nhất.

Chúng ta thấy trong hai câu cuối ông đã khẳng định, “từ đó ta là đêm” diễn tả một tâm tư u hoài của ông với con người.

Trong cuộc đời của Trịnh Công Sơn, chúng ta có thể thấy sự “thất bại” của ông trong việc thiết lập cái An Chung với mọi người.

Trong khá nhiều nhạc phẩm như bài Phôi Pha có đoạn:

“Thôi về đi, đường trần đâu có gì

Tóc xanh mấy mùa

Có nhiều khi từ vườn xưa bước về

 Bàn chân ai rất nhẹ

Tựa hồn những năm xưa”

Trong câu đầu, ông đã xác định, dù ông đã cố gắng bao nhiêu, có yêu thương bao nhiêu, có từ bi bao nhiêu để giúp con người, thì con người, họ vẫn sống quay cuồng trong khổ đau của họ, mà ông không thể nào làm thay đổi được họ, hay thiết lập được cái An Chung với họ.

“Thôi về đi” diễn tả một trạng thái đành phải chấp nhận, và cuối cùng, ông đành phải trở về để sống với cái An Riêng của mình, qua câu “tựa hồn những năm xưa”.

Hay trong nhạc phẩm “Tôi Ơi Đừng Tuyệt Vọng” có đoạn:

Tôi là ai mà còn ghi dấu lệ

Tôi là ai mà còn trần gian thế

………………………………..

Có đường xa và nắng chiều quạnh quẽ

Có hồn ai đang nhè nhẹ sầu đêm.

Những câu này, như tự an ủi chính mình, khi ông không thể thiết lập được cái An Chung, những khát khao mong mỏi giúp người, nhưng không thực hiện được, cuối cùng, ông cũng phải Chấp Nhận.

Chấp nhận sự thật chỉ còn cái An Riêng của ông, theo cùng ông, mà không thể nào có cái An Chung với mọi người. Nỗi u hoài tiếc nuối đó, được cô đọng trong câu “có hồn ai đang nhè nhẹ sầu đêm”.

Có thể nói, nhạc của Trịnh Công Sơn là nhạc phát xuất từ tấm lòng yêu thương nhân hậu, muốn đem cái An của mình đang có để hiến tặng cho cuộc đời.

Cái khao khát lớn nhất trong cuộc đời của nhạc sĩ họ Trịnh là muốn thiết lập được cái An Chung, cái An mà mọi người có thể yêu thương nhau, trao cho nhau những hiểu biết và những ân tình nên gìn giữ.

Trong âm nhạc của ông, mỗi từ, mỗi chữ, đều mang một nguồn năng lượng chữa lành những vết thương. Dù vết thương đó được gây ra bởi con người, chiến tranh, hay những nhận thức sai lầm.

Chính vì vậy, khi nghe nhạc Trịnh, cho dù, vết thương của chúng ta có đau đến đâu, chúng ta cũng đều cảm nhận được một sự xoa dịu, một sự cảm thông, đồng cảm.

Chính những nguồn năng lượng này giúp cho những vết thương của chúng ta, tuy vẫn còn đau, nhưng không đau một cách dữ dội, tàn phá, mà những cơn đau này bắt đầu lắng dịu, nhẹ nhàng hơn.

Cháu hoàn toàn đồng ý với chú. Cứ mỗi lần cháu có niềm đau nào, khi nghe nhạc Trịnh, cháu đều có cảm nhận được sự lắng dịu, nhẹ nhàng.

Tiếc thay, ngôn từ trong nhạc Trịnh thì lại vô cùng khó hiểu, nên ít ai có thể hiểu được những tâm tư mà ông muốn gởi gấm cho mọi người. Diệu hiền nói.

Tôi thì lại tiếc cho Trịnh Công Sơn không giống như bạn. Ông chú nói.

Vậy, chú tiếc gì vậy chú?

Từ ngày có luật bản quyền, thì nhạc Trịnh đã không còn được nhiều ca sĩ hát nữa, cũng đồng nghĩa với việc, tấm lòng muốn đem những nguồn năng lượng chữa lành giúp mọi người của Trịnh Công Sơn sẽ dần chìm vào quên lãng. Trong khi, ông đã sống cả một đời đầy yêu thương nhân hậu và muốn hiến tặng những chất liệu qúy giá này cho con người, nhưng cuối cùng, cũng là không.

Có lẽ, ông đã nhận ra điều đó, nên trong hai câu kết của bài Đóa Hoa Vô Thường ông đã viết:

Từ đó ta là đêm

Nở đóa hoa Vô Thường.

Phải chăng, ông đã nhìn thấy với những nhận thức lệch lạc (từ đó ta là đêm) sau khi ông mất đi, cũng là dấu chấm hết cho tấm lòng yêu thương con người của ông, và đó cũng là định luật của vô thường chăng?

Tiếng nhạc “Đóa Hoa Vô Thường” phát ra từ chiếc điện thoại của Hoàng Trang vang lên. Cả bốn chú cháu cùng ngồi im lặng thưởng thức.

HẠNH PHÚC

album-art

00:00


TẢI MP3 – VIÊN NGUYỆT

Chiều nay, Hoàng Trang và Diệu hiền đến thăm ông chú. Như mọi lần, Diệu Hiền xà xuống ngồi bên cạnh ông chú. Không như những lần trước ngồi đối diện, lần này, Hoàng Trang cũng ngồi xuống bên cạnh ông chú, rồi nói:

Chú ơi, chiều nay chú có thể chia xẻ về hạnh phúc không chú? Nếu cháu nhớ không lầm, cháu có đọc được về định nghĩa của hạnh phúc trên một trang web nào đó, và họ cho rằng, có 10 định nghĩa về hạnh phúc là chuẩn, như sau:

  1. Hạnh phúc là một trạng thái cảm xúc của con người khi được thỏa mãn một nhu cầu nào đó mang tính trừu tượng. Hạnh phúc là một cảm xúc bậc cao. Ở loài người, nó mang nhân bản sâu sắc và thường chịu tác động của lý trí.
  2. Những người tìm kiếm hạnh phúc trên chính đôi chân của mình, chứ không phải dựa vào sự giúp đỡ của người khác, luôn là những người hạnh phúc nhất.
  3. Hạnh phúc là khi con người muốn đạt được những thứ nằm trong tầm với của mình. Hãy mơ những gì có thể đạt được và từ bỏ những thứ ở xa tầm với.
  4. Hạnh phúc giống như một con bướm, bạn càng rượt đuổi, nó càng bay xa hơn. Nhưng nếu bạn không để ý đến nó, nó sẽ tự bay đến gần bạn.
  5. Khi nghĩ đến những điều tốt đẹp, con người sẽ sống hạnh phúc hơn.
  6. Không có con đường nào dẫn đến hạnh phúc, bởi hạnh phúc chính là một con đường.
  7. Hạnh phúc là khi quyền lực tăng lên và bạn có thể kiểm soát mọi thứ.
  8. Hạnh phúc là niềm vui thích chúng ta cảm thấy khi chúng ta phấn đấu đạt tới tiềm năng của chính mình.
  9. Chỉ khi nào chúng ta thỏa mãn được nhu cầu của riêng mình và cảm thấy hài lòng từ bên trong thì chúng ta mới có thể thực sự hạnh phúc.
  10. Ai đó từng hỏi tôi rằng rằng với tôi ba điều gì là quan trọng nhất để có được hạnh phúc. Câu trả lời của tôi là: một cảm giác chân thật bạn có với chính bản thân và những ai ở quanh bạn; một cảm giác bạn đã làm điều tốt nhất bạn có thể cả trong cuộc sống cá nhân và trong công việc; và có khả năng yêu thương người khác.

Thú thật, ngay bản thân cháu, cháu cũng chưa hiểu rõ ràng về định nghĩa của hai chữ này, và cháu cũng chưa biết ứng dụng làm sao cho có hiệu quả.

Này hai bạn trẻ, hai chữ hạnh phúc nếu nói theo định nghĩa của Hán Việt thì Hạnh là may mắn, nhiều an lành, thuộc về danh từ, và động từ là mừng, thích; còn Phúc là đầy tràn, đầy đủ, những sự tốt lành.

Hai chữ hạnh phúc khi ghép lại với nhau, diễn đạt sự mong chờ được hưởng những sự tốt lành, hay trong đời sống và cảnh ngộ làm cho tâm tình dễ chịu vui sướng, vừa lòng toại ý.

Nếu diễn tả trên góc độ năng lượng thì hạnh phúc là một nguồn năng lượng tích cực, có tần số rung động thanh nhẹ đem đến cảm giác thỏa mãn, dễ chịu.

Trước khi chúng ta quan sát và nhìn sâu vào hai chữ hạnh phúc, chúng ta cũng nên xem lại định nghĩa của hai chữ “định nghĩa” là gì?

Định có nghĩa là trụ lại, không xê dịch, không dời đổi, đã đúng, không sửa đổi nữa; và Nghĩa là nội dung của từ ngữ. Hai chữ định nghĩa là nội dung của từ ngữ đã đúng, không cần chỉnh sửa.

Như vậy định nghĩa của hạnh phúc có nghĩa là một nguồn năng lượng diễn tả một tâm trạng thỏa mãn, dễ chịu khi đạt được ý muốn của một cá thể.

Thông thường, khi nói về định nghĩa là chúng ta đang nói về cái nhân, còn mười định nghĩa mà bạn đưa ra đó, chỉ là quả từ cái nhân được thỏa mãn và có cảm giác dễ chịu.

Phần đông chúng ta vì ít chịu đi tìm hiểu gốc rễ của định nghĩa nên chúng ta hay diễn dịch bằng cách lấy cái quả rồi gọi đó là nhân.

Thí dụ: Trong câu “Hạnh phúc là khi con người muốn đạt được những thứ nằm trong tầm với của mình. Hãy mơ những gì có thể đạt được và từ bỏ những thứ ở xa tầm với”

Nếu chúng ta quan sát kỹ câu này, thì đây chỉ là kết quả từ cái nhân là muốn được thỏa mãn cái chúng ta đang muốn. Chứ đó không phải là định nghĩa của hạnh phúc. Chúng ta đang đi định nghĩa cái chúng ta muốn đạt được trong tầm tay của chúng ta, và cái quả mà chúng ta đạt được từ “định nghĩa diễn dịch” này sẽ dẫn đến những khổ đau thất vọng khi chúng ta không đạt được những ước mơ đó.

Trong chủ đề yêu và thương, chúng ta đã biết, khi chúng ta diễn dịch định nghĩa không đúng với “định nghĩa” thì chúng ta sẽ rơi vào những phiền lụy liên tục sau này.

Nếu chúng ta quan sát kỹ, chúng ta thấy cả mười định nghĩa được gọi là chuẩn đó, đều chỉ là cái quả từ định nghĩa là sự thỏa mãn dễ chịu đúng ý muốn mà ra.

Chính vì vậy, chúng ta ít thấy “bóng dáng” của hạnh phúc đến trong cuộc đời của chúng ta, đâu phải vì hạnh phúc không có, mà nó đã có rồi nhưng chúng ta không nhận ra.

Sự thật, không có nguồn năng lượng nào không có trong chúng ta, dù tiêu cực hay tích cực. Nếu chúng ta muốn có hạnh phúc an vui thuộc về tích cực, chúng ta chỉ cần đặt mục đích cho rõ ràng, rồi chúng ta thực tập mỗi ngày cho thành một thói quen.

Trong qúa trình tập thành thói quen, khi có bất cứ sự phiền não bất an nào đến, chúng ta phải luôn đem mục đích của mình lên để làm “lá chắn”. Chúng ta nương tựa nơi lá chắn để sự dụng ý thức nhìn sâu và giải quyết vấn đề đó.

Nếu không có “lá chắn” của mục đích thì chúng ta sẽ bị chao đảo, chúng ta sẽ bị cuốn hút vào trong vòng xoáy của những lo âu, phiền não, khiến cho chúng ta dễ dàng bỏ cuộc, hay đè nén, hay tìm cách trốn chạy vấn đề.

Dĩ nhiên sự bắt đầu bao giờ cũng khó cả, vì chúng ta chưa có kinh nghiệm. Nhưng muốn có kinh nghiệm thì chúng ta phải làm, phải thực hành; nếu không, chúng ta chỉ có một mớ kiến thức suông, chẳng giúp ích gì cho chúng ta, ngoài sự khoát lác.

Trở lại hai chữ hạnh phúc, khi chúng ta nói chúng ta đang hạnh phúc, có nghĩa là, những gì chúng ta muốn, đều được hoàn thành như ý chúng ta mong cầu, tạo cho chúng ta một cảm giác thỏa mãn vui vẻ.

Đúng trên góc độ của Ngã Thức, hạnh phúc là một nguồn năng lượng thuộc về Ngã Thức. Vì Ngã Thức ở ẩn bên trong, cho nên, chúng ta gọi nguồn năng lượng đó là hạnh phúc nội tại (hạnh phúc ở bên trong). Khác với nguồn năng lượng do tác động từ bên ngoài đem đến, hay gọi là hạnh phúc ngoại tại.

Đứng trên góc độ của tần số rung động của năng lượng thì sự rung động do tác động bên trong (hạnh phúc nội tại) hay từ bên ngoài (hạnh phúc ngoại tại) cũng không có sự khác biệt.

Nhưng nếu đứng trên góc độ ứng dụng để đạt được hạnh phúc, thì hạnh phúc nội tại dễ thực hiện hơn, và kéo dài hơn, khi đem so với hạnh phúc ngoại tại. Vì sao?

Vì hạnh phúc nội tại đang nằm trong tầm tay của chúng ta, chúng ta có quyền quyết định. Ngược lại, hạnh phúc ngoại tại thì lệ thuộc vào đối tượng. Khi đối tượng chỉ có khổ đau thì họ chỉ có thể hiến tặng khổ đau cho chúng ta mà không thể là hạnh phúc.

Chính vì vậy, nếu chúng ta cứ đi tìm hạnh phúc ngoại tại hay hạnh phúc ở bên ngoài, sẽ khó hơn khi tìm ở một người, nên chúng ta thường đi tìm ở nhiều người. Điều nghịch lý ở đây là, khi chúng ta càng tìm hạnh phúc nơi nhiều người thì nhiều người lại tạo ra những mâu thuẫn xung đột lẫn nhau, khiến cho “bóng dáng” của hạnh phúc lại càng trở nên mông lung, không hiện thực.

Nếu chúng ta có may mắn thì cũng chỉ gặp được hạnh phúc ở bên ngoài của một hay vài ai đó, trong một khoảng thời gian ngắn, rồi họ cũng sẽ rơi vào khổ đau hay phiền muộn của chính họ. Cuối cùng, điều họ hiến tặng cho chúng ta cũng là sự khổ đau, phiền não của họ.

Đây chính là lý do tại sao các diễn giả cho rằng hạnh phúc của chúng sanh là giả tạm, không thật, còn hạnh phúc của các bậc Bồ Tát Thánh Hiền thì Chân Thật. Nhưng các diễn giả lại không giải thích được sự khác biệt, tại sao của chúng sanh là giả tạm và của Bồ Tát là Chân Thật.

Nguyên do, bởi vì, về định nghĩa thì hạnh phúc nội tại hay ngoại tại đều giống nhau, nhưng về ứng dụng thì khác nhau.

Thí dụ: khi chúng ta mong muốn gặp lại người yêu, và khi chúng ta gặp được, thì sự thỏa mãn và vui mừng khi gặp được, dù là nội tại hay ngoại tại, đều giống nhau.

Với người ngoại tại, sau khi gặp gỡ, hàn huyên, người yêu đi về, khiến cho ý muốn gặp được người yêu lâu hơn không đạt được; từ đó, tạo ra cảm giác thất vọng. Khi cảm giác thất vọng có mặt lấn chiếm cảm giác hạnh phúc, khiến chúng ta rơi vào trạng thái tiêu cực. Khi Ngã Thức trong trạng thái tiêu cực, chúng ta gọi chung đó là cảm giác khó chịu.

Với người nội tại, ở đó không có sự mong cầu muốn gặp người yêu, vì với họ, hạnh phúc khi có người yêu hiểu và yêu họ, luôn có trong bộ nhớ của Tiềm Thức. Cho dù, họ có gặp hay không gặp người yêu thì người đó vẫn luôn có mặt mỗi khi Ngã Thức muốn tiếp xúc. Cho nên, dù có gặp hay không gặp người yêu, thì hạnh phúc bên cạnh người yêu của họ vẫn có trong sẵn kho của Ngã Thức.

Vì vậy, nếu có gặp mặt hay không, thì hạnh phúc đó vẫn có đó. Nếu có khác chăng là gặp thật hay gặp trong Tiềm Thức. Nhưng dù gặp như thế nào cũng không quan trọng, điều quan trọng là sự tác động tạo ra cảm giác nơi Ngã Thức.

Trong Ngã Thức chúng ta có nhiều nguồn tác động. Có sự tác động từ ngoại cảnh, có sự tác động của nội tâm, có sự tác động của Thân Thể Thức, v.v nhưng dù sự tác động nào, điểm cuối cùng, chính là cảm giác nào sẽ có mặt trên Ngã Thức, mới là điều quan trọng.

Nếu chúng ta thực tập một cách nghiêm chỉnh, chúng ta đừng phí thời gian vào việc tranh luận là nguồn tác động nào quan trọng hơn nguồn nào, mà chúng ta nên chú trọng tới qúa trình phát triển, thì chúng ta có thể có hạnh phúc kéo dài.

Trong những lần chia xẻ về nhân quả, chúng ta đã quan sát rất kỹ về quá trình này, cho nên, nếu chúng ta muốn có hạnh phúc thì chúng ta nên sử dụng qúa trình này trong ứng dụng.

Thói quen của chúng ta, khi đi tìm hạnh phúc, thường hay chọn cách “nằm ngoài tầm với” hơn là làm những gi “trong tầm tay” của chúng ta.

Ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm, khi chúng ta làm việc gì ngoài tầm với thì cơ hội mà chúng ta té ngã khá nhiều. Dĩ nhiên, có đôi khi chúng ta cũng thành công, nhưng nếu chúng ta chỉ cầm kiểm nghiệm lại, chúng ta sẽ thấy cơ hội thành công rất ít so với cơ hội thất bại.

Ai trong chúng ta cũng biết rằng, khi làm việc gì đó trong tầm tay, chúng ta sẽ vững vàng hơn, tự tin hơn, và dễ đạt được kết quả mà chúng ta mong muốn hơn.

Tiếc thay, trong qúa trình đi tìm hạnh phúc, đa số chúng ta lại luôn chọn ứng dụng “nằm ngoài tầm với”.

Chúng ta tin và lý luận rằng, hạnh phúc vốn từ người khác ban phát cho chúng ta. Chính vì vậy, chúng ta luôn hướng ngoại để tìm hạnh phúc.

Thí dụ, một người buồn chán, thay vì ứng dụng phương pháp bốn bước để giải quyết sự buồn chán của mình, lại khởi ý niệm, đi tìm một người bạn đi chơi để giải quyết sự buồn chán này. Người đó nghĩ rằng, khi mình được đi chơi với người bạn này, mình sẽ có hạnh phúc.

Cho nên, người này quyết định đi gặp người bạn. Khi đến nhà bạn, người bạn đang có chuyện bực mình, nên cau có, khó chịu, trách mắng, và từ chối đi chơi cùng.

Người này rơi vào trạng thái hụt hẫng, khó chịu và tự ái. Khó chịu vì ý muốn giải quyết sự buồn chán không được thỏa mãn; tự ái vì bị người bạn “xem thường”, nên nẩy sinh cảm giác tức giận. Nguồn năng lượng “không tên” bao gồm: tức giận, tự ái, buồn chán cùng hiệp lực bùng nổ, khống chế Ngã Thức, khiến Ngã Thức bị “tê liệt”, đưa đến những hành động vụng dại, nói những lời nói khó nghe, hay dựng chuyện qua phỏng đoán, nói không đúng với sự thật.

Người bạn khi nghe xong đã tức giận, đuổi người đó ra khỏi nhà, và thề không muốn gặp lại người đó.

Ban đầu chỉ là sự buồn chán và muốn đi tìm hạnh phúc từ người bạn. Nhưng sau khi gặp người bạn xong, người này vừa đau khổ vì bị nguồn năng lượng không tên dẫn dắt, nay lại mất đi người bạn có thể cho người đó chút hạnh phúc.

Ngược lại, trong trường hợp khi đến nhà bạn, và người bạn vui vẻ đi chơi cùng, thì người đó đạt được hạnh phúc, vì người bạn giúp cho người đó giải quyết được nỗi buồn chán đang có trong lòng.

Ở đây, chúng ta phải hiểu nỗi buồn chán này chỉ là những nỗi buồn chán vu vơ như nhà thơ Xuân Diệu “hôm nay trời nhẹ lên cao, tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Chứ không phải những nỗi buồn chán mang tính “hình sự” như vừa cãi nhau với người yêu.

Nếu nỗi buồn chán mang tính “hình sự” thì dù có đi chơi, có hạnh phúc được thõa mãn, nhưng khi về nhà một mình, sự buồn chán đó vẫn tiếp tục tồn tại và tiếp tục “ngự trị” trong Ngã Thức. Cho dù, lúc đi chơi đã tạm được thay thế bằng cảm giác hạnh phúc.

Hiện tượng này được gọi là cảm giác hạnh phúc tạm thời, hay còn gọi là giả tạm, vì vấn đề của nỗi buồn chán chưa được giải quyết một cách rốt ráo, nên chưa đạt được hạnh phúc lâu dài hay hạnh phúc chân thật.

Đúng ra, chúng ta không nên gọi là giả tạm hay chân thật, vì dễ gây ra sự hiểu lầm. Chữ chính xác nên dùng là hạnh phúc ngắn hạn và hành phúc kéo dài sẽ giúp chúng ta không rơi vào sự hiểu lầm về định nghĩa của hạnh phúc là có thật và có giả, mà là qua sự ứng dụng có ngắn hay dài, nhưng sự thật thì định nghĩa vẫn giống nhau, không có giả và không có thật.

Ngược lại, hạnh phúc nội tại sẽ có mặt khi chúng ta áp dụng phương pháp bốn bước để giải quyết vấn đề. Khi vấn đề được giải quyết triệt để, chúng ta đạt được cảm giác thỏa mãn ý muốn, và đạt được trạng thái hạnh phúc. Trạng thái hạnh phúc này sẽ khéo dài cho đến khi nào có một sự khởi niệm mới, hay một cảm giác tiêu cực khác thay thế. Nếu không có cảm giác tiêu cực thì lúc đó cảm giác thỏa mãn vẫn tiếp tục có mặt, hay hạnh phúc có mặt dài hơn, bất chấp là sự buồn chán đến từ buồn vu vơ hay buồn chán “hình sự”.

Với sự ứng dụng này, chúng ta hoàn toàn chủ động, chúng ta không bị lệ thuộc vào bất cứ một ai. Chúng ta đang giải quyết vấn đề trong tầm tay của chúng ta, và chúng ta có thể kéo dài hạnh phúc theo ý chúng ta muốn.

Muốn đạt được điều này, chúng ta có thể dùng mục đích làm Giới cho chúng ta. Có nghĩa là, chúng ta biến mục đích hay Giới làm “lá chắn” để che chở cho chúng ta, khi có những nguồn năng lượng tiêu cực nẩy sinh trong Ngã Thức.

Khi có một nguồn năng lượng tiêu cực nẩy sinh, Ngã Thức của chúng ta sẽ dùng mục đích để hướng Ý Thức của chúng ta đi tìm những giải pháp qua việc sử dụng Trí hay Tuệ.

Cách phân biệt giữa Trí và Tuệ khá đơn giản. Khi nào chúng ta thấy cách giải quyết chỉ qua nhìn nông cộng thêm phỏng đoán và tưởng tượng, thì chúng ta biết chúng ta đang dùng Trí.

Hay, chúng ta cũng có thể sử dụng cái quả mà chúng ta nhận, để biết được cái quả đó có biến thành nhân và tạo ra các hậu quả khác không. Nếu không, chúng ta biết chúng ta đang sử dụng Tuệ. Nghĩa là, ra đúng kết quả mà chúng ta muốn, mà không có những hậu quả khác theo sau.

Về mục đích thì chúng ta có thể có vô vàn mục đích. Chúng ta có thể chọn bất cứ mục đích nào. Nhưng cách dễ nhất vẫn là mục đích An hay Hạnh Phúc, vì hai mục đích đó luôn là khát khao mong ước của con người từ lúc mới sinh ra cho đến lúc mãn phần.

Còn những mục đích khác thì thường hay rơi vào thế ngắn hạn. Khi chúng ta đạt được hay không, thường rơi vào tình trạng không liên tục, nghĩa là, dù bỏ cuộc giữa chừng hay khi mục đích đó đã hoàn tất. Nếu như, ngay sau khi mục đích đó đã hoàn thành hay bỏ cuộc, mà chúng ta không có một mục đích nào khác tiếp nối, chúng ta sẽ rơi vào trạng thái không có mục đích.

Khi cuộc sống của chúng ta rơi vào trạng thái sống không có mục đích, hay không có sự ham muốn, thì lúc đó, Ngã Thức của chúng ta sẽ rơi vào trạng thái trung tính. Thông thường, sống trong trạng thái trung tính, mang tích cách bình bình, tạo ra cho chúng ta cảm giác buồn chán, và khơi dậy nguồn năng lượng tiêu cực.

Dĩ nhiên, đó là những hiện tượng dành cho những ai trong chúng ta đặt mục đích không phải là mục đích dài hạn. Đối với những người đặt mục đích dài hạn như An Lạc và Hạnh Phúc, thì ngoài mục đích dài hạn, họ vẫn có những mục đích ngắn hạn.

Nhưng khi thực hiện những mục đích ngắn hạn, trong qúa trình phát triển mục đích, họ vẫn sử dụng mục đích An hay Hạnh Phúc làm “la bàn”, hay định hướng cho những cách thức giải quyết.

Nếu trong qúa trình đó đi ngược lại mục đích An hay hạnh phúc, và tạo ra rất nhiều bất An hay không có hạnh phúc, họ sẽ dừng lại và tìm một mục đích khác. Vì sao? Vì họ biết, nếu trong qúa trình phát triển mà đã có bất An và không có hạnh phúc thì cái quả họ đạt được sẽ là hậu quả, sẽ đem đến rất nhiều hệ lụy.

Họ dừng lại không phải họ không có khả năng đạt được cái quả, mà bởi vì, họ không muốn phí thời gian. Thay vào đó, họ tìm mục đích khác mà mục đích đó, trong quá trình phát triển có An Lạc, Hạnh Phúc để thực hiện.

Chú ơi, chú có thể dùng một thí dụ để minh họa cho chúng cháu hiểu rõ về mục đích An ứng dụng chung với các mục đích khác không chú? Hoàng Trang nói.

Thí dụ: Mục đích của bạn muốn thành lập một trung tâm Tư Vấn Tâm Lý để giúp cho những bịnh nhân có xáo trộn về tâm lý, có thể có được An Lạc và Hạnh Phúc sau khi được bạn chữa trị hay cố vấn. Bạn muốn trung tâm của bạn thành công, nhưng bạn lại không có đặt mục đích An hay Hạnh Phúc làm nền.

Trong qúa trình phát triển để đạt được mục đích, bạn phải dùng tiếp thị để kiếm bịnh nhân. Thay vì, dùng tiếp thị, bạn lại dùng quảng cáo.

Có sự khác biệt giữa quảng cáo và tiếp thị, nhưng phần đông chúng ta lại lầm lẫn tiếp thị là quảng cáo, hay ngược lại.

Quảng có nghĩa là rộng rãi, Cáo có nghĩa là thông báo; hay quảng cáo là thông báo rộng rãi, nói rộng ra cho mọi người cùng biết, hay làm cho mọi người biết đến.

Còn Tiếp nghĩa là nối theo, nối tiếp, nối liền, liên tục, và Thị nghĩa là chợ, nơi có đông người mua bán (danh từ), thích, nghiện, ham (động từ). Tiếp Thị nghĩa là liên tục khơi dậy lòng ham muốn hay ưa thích của con người.

Thông thường, với một bịnh nhân mới, vì họ chưa biết đến sự phục vụ của bạn, nên họ chẳng ưa thích hay ham muốn sử dụng dịch vụ của bạn, cho nên, họ chẳng có tin tưởng gì về bạn cả.

Nhiệm vụ của tiếp thị là làm sao phải khiến cho bịnh nhân mới của bạn biết về dịch vụ của bạn như thế nào. Đây là vấn đề khó nhất của người làm tiếp thị.

Với những người giỏi về tiếp thị, họ phải biết đưa ra những khó khăn mà bịnh nhân của bạn đang gặp phải, và phải đưa ra những cách thức bạn sẽ giải quyết những vấn đề cho bịnh nhân ra sao, và phải chứng minh được kết quả đó là có thật.

Khi những bịnh nhân mới, chưa biết về dịch vụ của bạn, họ sẽ qua thông tin tiếp thị của bạn để biết được những lợi ích mà họ có được khi sử dụng dịch vụ của bạn. Sau đó, bạn mới tiếp nối những thông tin đó bằng những ngôn từ khích thích sự ham muốn sử dụng của họ.

Khi bạn đã thành công khích thích được sự ham muốn của họ rồi, và họ đã đến sử dụng dịch vụ của bạn, bạn mới bắt đầu sử dụng quảng cáo để tăng thêm sự tin tưởng của họ vào dịch vụ của bạn, và biến họ thành bịnh nhân trung thành với dịch vụ của bạn.

Đó chính là quy trình của tiếp thị và quảng cáo. Nhưng phần đông các doanh nghiệp, khi sử dụng tiếp thị và quảng cáo không hiểu rõ ràng, nên thay vì tiếp thị thì họ lại đi quảng cáo giảm giá, trong khi, bịnh nhân của họ chưa biết gì về dịch vụ của họ, cũng như. các khó khăn mà người bịnh đang có là gì, và làm sao dịch vụ có thể giúp họ giải quyết thì lại không nhắc đến. Cho nên, dù doanh nghiệp có giảm giá, họ cũng chẳng quan tâm, vì họ có biết gì về dịch vụ của doanh nghiệp đâu mà họ ưa thích hay ham muốn dùng dịch vụ.

Vì vậy, trung tâm của bạn sẽ rơi vào tình trạng thiếu bịnh nhân; trong khi, trung tâm của bạn cần phải có bịnh nhân mới có thể có đủ tiền để chi trả tiền mướn trung tâm, cũng như các chi phí cho cuộc sống của bạn.

Nếu tình trạng này cứ tiếp tục kéo dài, bạn sẽ rơi vào sự thất vọng, chán nản, lo âu và phiền muộn. Khi những vấn đề này cứ tiếp tục gia tăng, cuối cùng bạn phải đóng cửa trung tâm trong sự thất vọng, chán chường.

Nếu như bạn may mắn có được thành công, nhưng trong qúa trình thực hiện lại không có mục đích của An hay hạnh phúc, thì trong sự phục vụ của bạn, chỉ mang yếu tố phục vụ, chứ không phải là chia xẻ từ chính kinh nghiệm của bạn.

Vì bạn chẳng có An hay Hạnh Phúc, nên những gì bạn đưa ra phương pháp giải quyết, chỉ là những kinh nghiệm dựa trên sách vở. Cho nên, những gì bạn cố vấn hay chữa trị chỉ là phần ngọn, không đem đến sự giải quyết triệt để. Vì vậy, vấn đề đó sẽ “vắng mặt” trong một khoảng thời gian ngắn, rồi sau đó trở lại, khiến cho uy tín của bạn sẽ bị ảnh hưởng rất trầm trọng trong tương lai.

Khi điều đó xẩy ra, bạn sẽ rơi vào những “áp lực” vô hình từ những lời đồn thổi, khiến cho trung tâm của bạn càng lúc càng rơi vào tình trạng thiếu bịnh nhân; hay nguy hiểm hơn, bịnh nhân sẽ không tin tưởng vào bạn, nên không còn hợp tác với bạn để giải quyết vấn đề, mà còn tạo ra những thông tin giả, khiến cho phục vụ của bạn càng khó khăn hơn, và tạo ra cho bạn rất nhiều phiền muộn và khổ đau với họ.

Nếu như mục đích mở trung tâm của bạn kết hợp với dùng mục đích An hay hạnh phúc trong qúa trình phát triển thì khi dùng tiếp thị, bạn sẽ dùng chính những kinh nghiệm của bạn, khi bạn có vấn đề, bạn giải quyết ra sao để bạn có được An hay hạnh phúc kéo dài làm những thông tin trung thực của bạn. Khi họ biết được sự phục vụ của bạn, họ đến dùng dịch vụ của bạn, và đạt được kết qủa như họ muốn, họ sẽ tin tưởng bạn.

Khi họ đã tin tưởng bạn, họ sẽ giới thiệu những người quen của họ khi có vấn đề đến gặp bạn, lúc đó, có khi bạn không cần đến quảng cáo nữa, vì chính những bịnh nhân của bạn đã làm việc quảng cáo cho bạn miễn phí.

Trong qúa trình phát triển khi tiếp xúc với bịnh nhân, bạn không những, giúp cho bịnh nhân của bạn giải quyết được vấn đề của họ, mà ngay trong qúa trình đó, bạn cũng được học hỏi và trải nghiệm nhiều hơn. Điều này sẽ giúp ích cho bạn rất nhiều cho những lần chữa trị kế tiếp, hay cho những bịnh nhân có cùng bịnh chứng.

Quan trọng nhất, bạn sẽ không rơi vào trong trường hợp “ôm” những vấn đề của bịnh nhân vào bạn, và phải đi tìm một bác sĩ tâm lý khác để giúp bạn giải quyết.

À, cháu cũng có chút kinh nghiệm về việc đặt mục đích An hay hạnh phúc vào một vài mục đích khác của cháu, nhưng cháu lại không biết, chúng ta có thể áp dụng mục đích An hay hạnh phúc vào tất cả mọi mục đích. Nhưng nếu như trường hợp có mục đích An hay hạnh phúc mà thất bại thì sao chú?

Cũng đơn giản thôi, đâu phải chỉ có trung tâm tư vấn mới giúp được người, bạn vẫn có thể làm tư vấn cho từng cá nhân qua điện thoại, qua những trang web, trên diễn đàn có trả tiền hay trên Youtube, v.v.

Điều quan trọng là bạn phải có An và có Hạnh Phúc.

Muốn có An và hạnh phúc, bạn phải đặt những mục đích này làm mục đích của bạn. Sau đó, bạn thực hành trong đời sống hàng ngày của bạn. Khi bạn đã có trải nghiệm, bạn có phương pháp rõ ràng, và bạn dùng chính sự trải nghiệm và phương pháp để kiếm tiền, không những bạn có An Lạc và Hạnh Phúc cho chính bạn, mà những gì bạn tư vấn hay giúp cho người khác, cũng là chân thực, không phải qua những kinh nghiệm tích lũy từ sách vở.

Chúng ta phải nhớ rằng, kinh nghiệm của người khác, chúng ta chỉ nên dùng để kiểm chứng lại sau khi chúng ta có sự trải nghiệm thật sự, chứ đừng bao giờ lấy kinh nghiệm của họ làm của mình, mà chưa qua quá trình trải nghiệm và thực nghiệm.

Tóm lại, dù chúng ta muốn đặt mục đích là An hay Hạnh Phúc thì tùy mỗi người trong chúng ta lựa chọn. Chúng ta cũng có thể chọn vui, chọn hoan hỷ, v.v. Nhưng dù chúng ta chọn mục đích là gì thì điều kiện bắt buộc đó là mục đích đó phải liên tục. Có nghĩa là, mục đích đó phải là khát khao, mong muốn từ lúc mới sinh ra cho tới lúc mãn phần mà chúng ta luôn đi tìm kiếm.

Muốn đạt được trạng thái An hay Hạnh Phúc thì cách dùng đơn giản, nhanh nhất, và đạt hiệu qủa tối ưu là phương pháp bốn bước, gồm:

Bước một: Xác Định Có Vấn Đề

Bước hai: Đi Tìm Nguyên Nhân Tạo Ra Vấn Đề

Bước Ba: Phương Pháp Giải Quyết Vấn Đề

Bước Bốn: Thời Gian Giải Quyết Vấn Đề

Nếu chúng ta ứng dụng đúng cách và thực tập liên tục cho đến khi trở thành thói quen thì chắc chắc chung ta sẽ có được hạnh phúc lâu dài, hay An lâu dài, mà không cần lệ thuộc vào bất cứ một đối tượng ở bên ngoài “ban phát” cho chúng ta.

Dĩ nhiên, khi chúng ta sinh hoạt với các đối tượng bên ngoài, chúng ta cũng nhận được An hay hạnh phúc từ họ, nhưng An hay hạnh phúc đó chỉ là phần “tô điểm” chứ không phải là nguyên liệu chính.

Cho nên, có cũng tốt, mà không có cũng không sao. Vì vậy, chúng ta không cần phải “giãn cách”, “cách ly” hay “tránh né” đối tượng, mà chúng ta vẫn sinh hoạt hết sức bình thường với họ. Khác biệt chỉ là chúng ta chủ động tạo ra hạnh phúc của chúng ta, mà không bị động chờ họ ban phát.

Cháu thì rất hạnh phúc khi được đi mua sắm mà không có anh Nhật minh, và chỉ số hạnh phúc của cháu sẽ giảm dần khi anh Nhật Minh không chịu móc ví trả tiền.

Ba chú cháu cười vui vẻ trước câu nói đùa của Diệu Hiền.

Những con chim đậu trên cành cây hót vang những tiếng ríu rít, như đang chia xẻ hạnh phúc đến loài người.

We use cookies in order to give you the best possible experience on our website. By continuing to use this site, you agree to our use of cookies.
Accept